- 7. NÓI CHUYỆN VỚI ĐỒNG TU TẠI NIỆM PHẬT ĐƯỜNG
(Buổi sáng 06-12-98)
Từ lúc khai giảng đến nay Niệm Phật Ðường đã từ từ đi vào nề nếp, mọi người đều cảm nhận công đức thù thắng của sự niệm Phật một cách sâu sắc, sanh tâm hoan hỷ. Nhưng cũng có một số đồng tu nói với tôi rằng trong đại chúng còn một số ý kiến. Vấn đề này chúng ta không thể không để ý. Cổ đức thường nói lúc cùng nhau tu tập (cộng tu) nếu có nghi hoặc, xen tạp thì sẽ phá hoại công phu niệm Phật. Mục đích của sự niệm Phật là để đạt được "nhất tâm bất loạn", nhất tâm tuy không dễ đạt được, chỉ cần đạt đến cảnh giới này thì nhất định nắm chắc vãng sanh bất thoái thành Phật.
Công phu thành phiến tức là chẳng có nghi hoặc, xen tạp, bất luận là ở chỗ nào lúc nào, dù lúc nửa đêm nằm mộng cũng chẳng quên A Di Ðà Phật, đó tức là hình dáng của công phu thành phiến. Ngoại trừ A Di Ðà Phật ra, lúc tiếp xúc với hết thảy người, sự, vật phải luôn luôn cảnh giác cao độ, nhất định chẳng để ngoại cảnh dụ hoặc, lay động, đó tức là công phu. Chúng ta muốn đạt được công phu này nhưng tại sao niệm Phật mãi trong Niệm Phật Ðường cũng làm không được?
Có hai nguyên nhân:
Một là phiền não tập khí từ vô lượng kiếp đến nay quá nặng; tập khí tức là tri kiến, phần nhiều gọi là thành kiến, thành kiến rất nặng, ý kiến quá nhiều, đây là một chuyện rắc rối.
Hai là không thật thà, thật thà cũng chẳng dễ, người có thể làm được thật thà bất luận tu học pháp môn nào đều nhất định có thể thành tựu.
Phương pháp bổ khuyết, bù đắp là đọc kinh, nghe giảng. Ðọc kinh nghe giảng giúp cho chúng ta có thể nhìn thấu, buông xuống, giúp cho chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sanh. Nói một cách khác hiểu rõ chân tướng mình đến thế gian trong đời này. Nếu thực sự hiểu rõ triệt để sinh hoạt và hoàn cảnh xung quanh trong đời này thì tự nhiên sẽ buông xuống. Thế Tôn đã đau lòng mỏi miệng nói hết bốn mươi chín năm, luôn luôn nhắc nhở nhưng chúng ta thực sự đã mê quá sâu đậm. Không ngừng nhắc nhở là hy vọng có một ngày nào đó chúng ta có thể hoảng nhiên đại ngộ, biết được mình đến thế gian chỉ là để thọ báo mà thôi.
Nghiệp đã tạo trong những đời kiếp trước thì đời này đến để thọ nhận quả báo, đây là nhân quả tuần hoàn. Tạo thiện nghiệp nhiều thì đời này hưởng được một chút phước; tạo ác nghiệp nhiều thì đời này phải chịu rất nhiều đau khổ. Nhưng chẳng có người nào trong lúc thọ báo bèn cam chịu thọ báo, vẫn cứ tạo nghiệp y như cũ. Thọ báo rồi tạo nghiệp, tạo nghiệp xong lại thọ báo, vĩnh viễn cứ tuần hoàn. Hiện tượng tuần hoàn này chẳng nâng lên trên mà là từ từ đi xuống, đời này chẳng bằng đời trước, như vậy đau khổ biết bao! Tại sao lại có hiện tượng này? Tại chúng ta tạo ra những nghiệp chẳng thiện. Thế Tôn nói rõ cho chúng ta biết tạo thiện nghiệp thì đi cõi thiện siêu sanh, tạo ác nghiệp thì đi vào cõi ác đọa lạc, đây là chân tướng sự thật của nhân sanh. Thử suy nghĩ kỹ thì đích thực là như vậy. Phật từ bi thương xót những chúng sanh thọ khổ thọ nạn này vì ngu muội vô tri mê mất tự tánh, cho nên mới nói rõ chân tướng sự thật, hy vọng chúng sanh có thể vượt thoát tam giới, lục đạo luân hồi, cùng các Ngài làm Phật, làm Bồ Tát.
Vào Niệm Phật Ðường và muốn công phu được đắc lực thì phải buông xuống hết thảy thân tâm thế giới. Không buông xuống nổi là vì không hiểu giáo lý nên phải dùng phương pháp giảng kinh để bổ cứu. Thời xưa Niệm Phật Ðường chẳng có giảng kinh, nhưng mỗi cây hương lúc chỉ tịnh
(2) đều có giảng khai thị, dụng ý cũng giống với giảng kinh, là giúp mọi người đoạn nghi sanh tín, công phu đắc lực. Ðặc biệt là ngày nay thời gian chúng ta nghe kinh ngắn, chẳng đủ căn cơ, tuy là có duyên trụ tại Niệm Phật Ðường thù thắng như vầy mà vẫn sanh phiền não, vẫn còn nhiều ý kiến, vẫn gây chướng ngại cho công phu tu học của mình. Do đó có thể biết chẳng thể không đọc kinh, chẳng thể không nghe giảng, mọi người phải hết lòng nỗ lực dụng công.
Sau khi Làng Di Ðà xây xong, Niệm Phật Ðường có thể chứa từ một đến hai ngàn người. Ðồng tu trụ tại Làng Di Ðà đều là Phật, Bồ Tát vì những người đến chỗ này chỉ có một mục đích là làm Phật. "Niệm Phật là nhân, làm Phật là quả". Niệm Phật Ðường nhất định niệm Phật chẳng gián đoạn suốt hai mươi bốn giờ, ngày ngày đều như vậy, năm nào cũng đều như vậy. Chúng ta là phàm phu nghiệp chướng nặng nề muốn ngày đêm niệm Phật chẳng gián đoạn, nhưng thể lực có trở ngại, có trở ngại cũng phải khắc phục. Khi xưa Ðế Nhàn lão hòa thượng dạy phương pháp niệm Phật cho đồ đệ của Ngài - người làm thợ vá nồi: "Niệm mệt rồi thì nghỉ, nghỉ mệt xong liền niệm tiếp tục". Nhất định chẳng thể làm biếng, giải đãi, đây chính là vì mình mà cũng vì chúng sanh; bạn thành Phật rồi thì có thể phổ độ chúng sanh, đây là tự lợi, lợi tha. Hy vọng mọi người tự động, tự phát đừng để người ta phải đốc thúc. Trong Niệm Phật Ðường mặc áo hải thanh (áo tràng), lúc nghỉ mệt cũng đừng cởi áo hải thanh, khi cởi áo hải thanh thì sợ ngủ mê, làm ngưng trệ công phu niệm Phật; mặc luôn áo mà ngủ thì có thể đề cao cảnh giác, tận lực ngăn ngừa cho mình đừng làm biếng. Tu học trong đạo tràng như vậy thì làm sao chẳng thành Phật cho được!
Trụ ở Làng Di Ðà đều miễn phí, một đồng cũng chẳng nhận, vì các bạn là Phật, Bồ Tát, chúng tôi đương nhiên phải cúng dường. Một trong mười đức hiệu của Phật là ‘Ứng Cúng’, các bạn trú ở đây thì đương nhiên phải nhận sự cúng dường của hết thảy chúng sanh. Bạn sẽ làm Phật nên chúng tôi dùng tâm cúng dường chư Phật để cúng dường các bạn, giúp các bạn ngay trong một đời này viên thành Phật đạo, cái duyên này vô cùng thù thắng! Nơi đây xin chúc các bạn ngay trong một đời ngắn ngủi này nhất định sẽ thành tựu.
- 8. HỌC PHẬT TỨC LÀ HỌC LÀM NGƯỜI
(Buổi sáng 07-12-98)
Học Phật tức là học làm người, học làm một người tốt, học làm một người minh bạch. Nhà Nho nói: "Đạt đến mức tốt lành tột bậc" (Chỉ ư chí thiện), Phật pháp đích thật đã làm câu này được viên mãn. Chí thiện là thiện đến mức cùng cực, đạt đến cứu cánh viên mãn. Nhà Nho và nhà Phật đều có phương pháp đạt đến chí thiện, cơ sở của phương pháp này có thể nói là hoàn toàn tương đồng. Nhà Nho dạy học trước hết đề ra "Tam Cương, Bát Mục"
(3). Nhà Phật dạy học trước hết đề ra "Tứ Hoằng, Lục Ðộ", tinh thần và nội dung của hai thứ này rất giống nhau. Thế nên tư tưởng, kiến giải, giáo học, hành trì của Khổng Lão phu tử và Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng hẹn mà hợp với nhau, đúng là "Cái nhìn của anh hùng đại lược giống nhau".
Việc đầu tiên trong sự tu học là phải phát nguyện, nhà Nho nói phải lập chí, lập chí làm thánh hiền, làm đại sự, chẳng phải lập chí làm quan phát tài, hưởng vinh hoa phú quý. Ðại sự là gì? Nhà Phật nói: "Tử sanh đại sự", câu này nói rõ ý nghĩa của đại sự. Trong Phật pháp, đại sự nhân duyên nói đến chỗ cứu cánh viên mãn tức là phổ độ chúng sanh và cũng là nguyện thứ nhất trong Tứ hoằng thệ nguyện: "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ". Ðộ là ví dụ, độ qua biển khổ sanh tử, độ qua lục đạo luân hồi, đây mới là đại sự.
Vô lượng kiếp đến nay chúng sanh kẹt mãi trong sanh tử luân hồi đời này sang kiếp khác, vĩnh viễn chẳng thể thoát ly; trong kinh gọi chúng sanh trong lục đạo là "người đáng thương xót". Tình trạng trong lục đạo chỉ có Phật, Bồ Tát mới rõ ràng, phàm phu mê trong đó và chẳng hiểu rõ chân tướng sự thật. Chân tướng sự thật này tức là chân tướng của sanh tử và chân tướng của đời sống chúng ta.
Ðức Phật nói khi chúng ta ở trong luân hồi thì nhất định thời gian trong ba ác đạo dài, thời gian trong ba thiện đạo ngắn. Thọ mạng dài nhất trong tam thiện đạo là cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ở trời Vô Sắc Giới, thọ mạng là tám vạn đại kiếp; một đại kiếp bằng thời gian thế giới chúng ta trải qua "thành - trụ - hoại - không" một lần, tám vạn đại kiếp là thời gian thế giới chúng ta thành, trụ, hoại, không tám vạn lần, họ có thọ mạng dài như vậy. Thời gian dài trong ác đạo càng dễ sợ hơn. Kinh Ðịa Tạng dạy: "Thọ mạng trong địa ngục là vô số kiếp". Cho dù là trong cõi súc sanh tuy thọ mạng chẳng dài nhưng súc sanh ngu si, kiên cố chấp trước thân hình này là của mình cho nên rất khó thoát ra. Lúc Thế Tôn còn tại thế, tại Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên có một ổ kiến, Thế Tôn nói với đệ tử: "Ðã trải qua bảy vị Phật rồi, cả ổ kiến này cũng chưa thoát thân làm kiến, đời đời kiếp kiếp cứ làm kiến hoài". Thời gian này dài hơn thọ mạng của Phi Phi Tướng Xứ Thiên quá nhiều, quá nhiều!
Cho nên Phật, Bồ Tát thường nhắc nhở chúng ta, cảnh cáo chúng ta, tam ác đạo tuyệt đối chẳng thể đi vào, đọa tam ác đạo rất dễ dàng, thoát ly tam ác đạo thì quá khó. Tuy Phật, Bồ Tát từ bi ứng hóa trong ác đạo độ chúng sanh, nhưng ác đạo chúng sanh ngu si đến cùng cực, còn thêm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nặng nề, so với độ người còn khó gấp nhiều lần. Tuy vậy nhưng Phật, Bồ Tát cũng chẳng xả bỏ, các Ngài thực sự là từ bi đến cùng cực.
Trong lục đạo chúng sanh dễ độ nhất là loài người, thế nên Bồ Tát thị hiện thành Phật cũng ở tại cõi người. Nguyên nhân là gì? Phật, Bồ Tát thị hiện ở chỗ nào là do cảm ứng đạo giao với chúng sanh nơi đó, chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát liền có ứng. Do đó mới biết cõi người có sức cảm ứng rất lớn với chư Phật, Bồ Tát, thế nên quý Ngài ứng hóa trong cõi người, thị hiện làm Phật, làm Bồ Tát, đây là chân lý.
Ðời này chúng ta có thể sanh vào cõi người, cơ hội này vô cùng hiếm hoi và quý báu, quý ở chỗ cõi người dễ giác ngộ, dễ được độ, cho nên chúng ta nhất định phải nắm vững cơ duyên. Vả lại cơ duyên này chẳng lâu dài vì thọ mạng của cõi người rất ngắn, cho dù sống đến một trăm tuổi thì cũng như búng ngón tay, một sát na ngắn ngủi mà thôi. Thọ mạng ngắn nói lên cơ duyên này đặc biệt quý báu, vì vậy được thân người nếu chẳng nghe được Phật pháp thì rất đáng tiếc. Số người được thân người nhưng chẳng có cơ duyên nghe Phật pháp đích thật là chiếm đại đa số. Trong thời đại hiện nay Phật pháp nương vào khoa học kỹ thuật phổ biến truyền đến khắp thế giới, bất luận là tin hay không, chỉ vì "một phen lọt vào tai, vĩnh viễn là hạt giống đạo", đây là người thế gian có phước. Nếu ở trong đời này thiệt có thể thoát ly lục đạo luân hồi thì là thực sự thành tựu. Ngược lại đời này chẳng thể thoát ly lục đạo, đời sau không cách chi tránh khỏi luân hồi như cũ; một khi đã luân hồi thì chẳng biết phải trôi lăn đến kiếp nào mới có thể gặp được Phật pháp. Nhất định chẳng thể đời nào cũng gặp được Phật pháp, nếu đời nào cũng được gặp thì chúng ta đã thành Phật sớm rồi, bởi vậy mới biết việc này chẳng dễ.
Gặp được Phật pháp mọi người đều hy vọng ngay trong đời này được thành tựu, chuyện này cũng chẳng phải khó, đích thực mỗi người đều có thể làm được, mấu chốt là ở chỗ giác ngộ. Biết được khuyết điểm của mình chính là giác ngộ; sửa khuyết điểm cho đúng trở lại là tu hành. Nếu chẳng biết khuyết điểm của mình thì không biết bắt đầu sửa đổi từ đâu. Nhưng một người biết được khuyết điểm của mình rất khó, ai cũng tưởng là mình đúng hoàn toàn. Lý do phàm phu vẫn cứ là phàm phu vì họ chẳng biết lỗi lầm của mình, cứ cho rằng mình đúng. Bồ Tát khác với phàm phu là vì Bồ Tát chẳng có quan niệm mình đúng, chỉ biết rằng lỗi lầm của mình quá nhiều, mỗi ngày đều phản tỉnh, ngày ngày đều sửa lỗi, đây là người giác ngộ. Người mê thì cứ tưởng là mình đúng, cho dù phản tỉnh thì cũng nghĩ mình chẳng có lỗi, lỗi đều ở nơi người khác. Nhưng họ chẳng biết khi nhìn thấy lỗi người khác thì chính là lỗi của mình; khi nào chẳng nhìn thấy lỗi của người khác thì lỗi của mình cũng chẳng còn.
Huệ Năng đại sư dạy: "Nếu là người tu đạo chân thật chẳng thấy lỗi thế gian". Nhìn thấy người khác có lỗi tức là phiền não tập khí của mình hiện hành. Bên ngoài là duyên, duyên giúp cho phiền não tập khí của mình khởi lên, đây là lỗi lầm lớn. Cho nên người biết tu hành, hết thảy ngoại duyên đều là thiện tri thức, gặp người thiện chuyện thiện thì có thể học tập, gặp người ác chuyện ác giúp mình phản tỉnh sửa lỗi lầm, thuận hay nghịch đều là thiện tri thức. Trong lúc phản tỉnh "có lỗi thì sửa, không thì nhắc nhở để đừng phạm", lý do Bồ Tát tu hành có thể thành Phật là ở tại điểm này.
Nếu chẳng hiểu đạo lý và chân tướng sự thật, học Phật mà chẳng thực sự thay đổi trên tâm địa, tức là học Phật nhưng vẫn tạo tội nghiệp y như cũ thì đúng như lời người xưa nói "Trước cửa địa ngục có nhiều Tăng sĩ" (Ðịa ngục môn tiền Tăng đạo đa). Chữ Tăng này không nhất định chỉ người xuất gia, người tại gia cũng bao gồm trong đó; Tăng là đoàn thể, bất luận là xuất gia hay tại gia, đoàn thể học Phật đều xưng là Tăng đoàn.
Hiện nay tu học pháp môn Niệm Phật có thể giúp chúng ta đoạn phiền não, tăng trưởng trí huệ, thoát ly sanh tử luân hồi, viên thành Phật đạo. Trong vô lượng pháp môn đây là pháp môn hy hữu thù thắng hạng nhất, chẳng dễ gì gặp được. Ðặc biệt là đạo tràng có tổ chức tu tập chung như vầy chẳng phải do sức người tạo nên, mà là do chư Phật, Bồ Tát gia trì nên đạo tràng có chư Phật hộ niệm, Long thiên ủng hộ. Mọi người ở trong đạo tràng này tu học phải đặc biệt trân trọng cái nhân duyên hiếm có, khó gặp này, phải hết lòng nỗ lực, nhất định nội trong một đời này viên mãn thành tựu.
- 9. CẦU CẢM ỨNG
(Buổi sáng 08-12-98)
a. Học Phật tức là học giác ngộ:
Phật pháp quý ở chỗ giác ngộ, cổ thánh tiền hiền cũng nói: "chế ngự được niệm thì thành thánh" (khắc niệm tác thánh), thế nên thánh hay phàm chỉ ở tại một niệm giác hay mê mà thôi. Một niệm giác, ngay lúc đó tức là Nhất Chân pháp giới; một niệm mê thì đâu phải chỉ có mười pháp giới không thôi? Người giác ngộ thực sự có thể buông xuống, chỉ có người mê mới có chấp trước. Chư Phật, Bồ Tát là tấm gương tốt cho chúng ta, cho nên học Phật, Bồ Tát tức là học giác ngộ, học nhìn thấu, buông xuống, thực sự làm được "chẳng tranh với người, chẳng cầu với đời" thì tự nhiên thân tâm tự tại, trí huệ tăng trưởng.
Người học Phật chẳng thể khế nhập vào cảnh giới là vì một niệm tình chấp chưa tiêu trừ. Nếu muốn thành tựu thì chẳng thể không biết đạo lý này, chẳng thể không hết lòng học tập "chẳng tranh, chẳng cầu", học tập từ bi, nhiệt thành giúp người. Trong quá trình giúp người, nhất định chẳng thể chấp trước danh - văn - lợi - dưỡng, ngũ dục lục trần, phải vĩnh viễn bảo trì tâm thanh tịnh, bình đẳng; đây là Bồ Tát hạnh, Bồ Tát hạnh là hạnh giác ngộ.
Chúng ta phải quan sát kỹ và thể hội cả đời hành trì của đức Thế Tôn. Thế Tôn hoằng pháp lợi sanh giảng kinh thuyết pháp, chẳng có danh phận, cũng chẳng có chức vị, đối với chúng ta chỉ là quan hệ thầy trò. Quan hệ này vẫn còn là kiến giải phàm phu, Thế Tôn tuyệt chẳng có khái niệm này; nếu Ngài có khái niệm này thì chẳng thể thành thánh, thành Phật. Vì thầy trò là nhị pháp, nhị pháp chẳng phải là Phật pháp, đây là lời Lục Tổ Huệ Năng đại sư nói.
Thế Tôn cả đời giảng kinh thuyết pháp y cứ theo nguyên lý, nguyên tắc Nhị Ðế; mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai thuyết pháp cũng dựa trên Nhị Ðế. Nhị Ðế tức là Chân Ðế và Tục Ðế. Chân Ðế hoàn toàn nói về chư pháp thật tướng, chẳng có tơ hào phân biệt chấp trước, người thế gian khó hiểu việc này. Tục Ðế tức là thế gian pháp, y theo tri kiến và thường thức của chúng sanh, mọi người đều dễ hiểu. Nhưng trí huệ của Phật cao, thiện xảo phương tiện đạt đến cực điểm, nói Tục Ðế cũng bao gồm Chân Ðế, nói về Chân Ðế nhưng cũng chẳng lìa Tục Ðế, Chân và Tục viên dung, được đại tự tại. Người thế gian không những mê Chân Ðế mà cũng mê Tục Ðế. Phật có thể viên dung cả Chân lẫn Tục, tức là Chân Ðế nhìn thấu rồi, thì Tục Ðế cũng buông xuống. Nhìn thấu và buông xuống là một chứ chẳng phải hai, đây mới là trí huệ chân thật. "Trụ chân thật huệ" trong kinh Vô Lượng Thọ tức là cảnh giới này. Những việc làm cả đời của chư Phật, Bồ Tát chỉ có một mục đích là hoằng pháp lợi sanh, ban cho chúng sanh lợi ích chân thật. Dù ban lợi ích chân thật nhưng Ngài cũng chẳng cầu một cái gì, và cũng chẳng phân biệt chấp trước. Những chỗ này chúng ta phải rõ ràng, thấu hiểu triệt để, hết lòng học tập.
Sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh chẳng thể không cầu cảm ứng. Ðối với việc này, nếu có thể thể hội được Chân Tục viên dung thì sẽ có chánh tri, chánh kiến, chánh giải, và sẽ chẳng nghiêng lệch về một bên. Người thế gian chấp trước trên Tục Ðế, thực sự niệm niệm đều mong cầu, niệm niệm mong cầu thì liền lọt vào trong ý thức. Cầu mong chư Phật, Bồ Tát là làm một cách đúng lý, đúng pháp, có nguyện cầu nhưng chẳng có tâm mong cầu, như vậy mới viên dung, mới có cảm ứng.
Nhà Nho nói: "lập chí", nhà Phật nói "phát nguyện", hai thứ này có khác nhau không? Trong "chí" có mong cầu, có cầu thì sẽ lọt vào tình thức; trong "nguyện" chẳng có mong cầu. Nói một cách khác "lập chí" có mang theo cảm tình, "phát nguyện" thuần túy là trí huệ, chẳng có tình thức. Thực ra chúng ta chỉ cần làm đúng như lý, như pháp, chư Phật Như Lai sẽ tự nhiên hộ niệm, đây tức là "cầu", "cầu" như vậy thì có cảm ứng. Chúng ta cầu mà chẳng cầu, chư Phật, Bồ Tát ứng mà chẳng ứng, thế thì sẽ cảm ứng đạo giao chẳng thể nghĩ bàn, không những Phật, Bồ Tát hộ niệm, long thiên thiện thần cũng sẽ ủng hộ. Nếu có tâm mong cầu thì tuyệt đối sẽ chẳng có cảm ứng, tại vì tâm này là tình thức, gây trở ngại cho sự cảm ứng giữa chúng ta và chư Phật, Bồ Tát. Thế nên có nguyện nhưng chẳng có tâm mong cầu, chỉ cần hết lòng nỗ lực như lý như pháp mà làm thì tự nhiên sẽ có cảm ứng.
Tự mình tu tập phải đoạn phiền não tập khí, phải khai trí huệ, giúp đỡ người khác cũng có mục đích này, nhưng thủ đoạn phương pháp phải tùy cơ ứng biến, vì cơ duyên chẳng giống nhau, phương thức sẽ chẳng đồng, có câu "phương tiện có nhiều cửa, đường trở về chẳng hai". Tự mình thành tâm thành ý mà làm, chướng ngại của mình chẳng còn nữa nhưng chúng sanh còn chướng ngại, tức là duyên chưa chín muồi. Duyên chưa chín muồi thì tự mình phải dưỡng đạo, cũng tức là tiến tu, không ngừng nâng cao cảnh giới của mình, chờ đợi cơ duyên của chúng sanh chín muồi, việc này chẳng thể miễn cưỡng chút nào.
Nếu muốn dời cơ duyên độ chúng sanh đến sớm hơn thì tự mình phải hết lòng nỗ lực tu pháp sám hối, sửa lỗi đổi mới, hết thảy đều cầu về hướng tự tánh. Thế nên Phật pháp được gọi là Nội Học, hoàn toàn khác với thế gian pháp. Người thế gian hướng về bên ngoài mà mong cầu, Phật pháp thì hướng về tự tánh mà mong cầu, chẳng hướng ngoại. Cầu chư Phật, Bồ Tát gia trì thì cũng là từ tự tánh mà cầu. Nếu chúng ta thực sự cùng tâm, cùng nguyện, cùng đức, cùng hạnh với Phật, đây tức là "cầu", cầu như vậy chẳng hướng ngoại, hết thảy Như Lai làm sao chẳng gia trì? Như vậy cũng giống như tiếp nối đường điện, chẳng có chướng ngại, nhất định sẽ có cảm ứng đạo giao. Nếu có một tâm niệm riêng tư, đường điện sẽ đứt mất và sẽ chẳng có cảm ứng.
Nếu có tâm riêng tư, có tình [chấp] dục [vọng] mà cầu thì cũng có cảm ứng, đây là ma cảm ứng, trong xã hội ngày nay, những chuyện này rất nhiều. Yêu ma quỷ quái cũng có thể làm cho bạn có thần thông, làm cho bạn phát cuồng, cho bạn một số khả năng đặc biệt, bạn cũng có thể mê hoặc chúng sanh, nhưng đây đều là tạo nghiệp. Năm mươi loại Ấm Ma giảng trong kinh Lăng Nghiêm rất rõ ràng. Những thứ thần thông, đạo lực này là do ma nhập vào người, ma gia trì họ; sau khi ma rời khỏi thì hoàn toàn mất hết, sau cùng bản thân người đó cũng sẽ gặp nạn. Cho nên nhà Phật nói về đạo lý "cầu" chúng ta nhất định phải hiểu; pháp thế và xuất thế gian đều hướng về tâm tánh, như vậy mới đúng.
- d. Hoằng pháp và Hộ pháp:
Chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ, hiển thị tại đâu? Khắp xung quanh chúng ta sẽ có rất nhiều bạn tốt giúp đỡ, hộ trì, đây là hộ pháp. Hộ pháp gồm có nội hộ và ngoại hộ, nội hộ là do người xuất gia hộ trì, ngoại hộ do hai chúng tại gia hộ trì, được vậy chánh pháp mới được xây dựng, thường trụ tại thế gian. Tuy được hộ trì cả trong lẫn ngoài, tâm địa chúng ta vẫn phải thanh tịnh, vẫn phải mảy trần chẳng nhiễm y như cũ.
Giống như Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba và Tịnh Tông Học Hội đích thực có thiện hữu giúp đỡ mạnh mẽ, nhưng chúng ta đối với họ chẳng có tiếp đãi đặc biệt. Lúc ăn cơm ở Cư Sĩ Lâm, họ tự động lấy dĩa đi gắp thức ăn, tự kiếm chỗ ngồi, chẳng nhận một sự tiếp đãi đặc biệt nào cả, đây mới thật sự là thiện hữu chân thật. Có câu "Một vị Phật ra đời, ngàn Phật ủng hộ", những người này đều là Phật, Bồ Tát, cho nên đạo tràng này có thể thành lập, là mọi người có phước. Chúng ta rất may mắn gặp được nhân duyên này và cũng rất hoan hỷ dốc toàn tâm toàn lực để hợp tác, ủng hộ, cống hiến một chút sức hèn mọn. Vì giúp họ là giúp hết thảy chúng sanh, giúp họ tức là giúp chư Phật Như Lai.
Cho nên người xuất gia tốt nhất đừng quản lý sự vụ, đây là do Thế Tôn thị hiện cho chúng ta thấy. Người xuất gia quản lý sự vụ là bất đắc dĩ, là đã biến dạng rồi. Nếu người xuất gia quản lý sự vụ thì là hộ pháp, chẳng phải là hoằng pháp, vậy thì phải toàn tâm toàn lực bồi dưỡng những người đi sau (lớp đàn em), chiếu cố những pháp sư hoằng pháp. Quản lý sự vụ cũng giống như hiệu trưởng trong trường học, phải quản lý giáo vụ, tổng vụ, đây là [chức vụ] Chấp Sự, có tánh cách phục vụ. Hoằng pháp là giáo viên, chẳng đảm nhiệm Chấp Sự. Phía trong Chấp Sự là nội hộ, bên ngoài Chấp Sự là ngoại hộ.
Nếu chúng ta có thể hiểu rõ quan niệm này, mỗi người đều tận tâm làm tròn trách nhiệm của mình, Phật pháp nhất định sẽ hưng vượng, chúng sanh mới thực sự có phước. Nhất định chẳng tranh giành chức vị Chấp Sự, sau đó tác oai tác phước để hưởng thọ, chướng ngại cho pháp sư hoằng pháp, chẳng bồi dưỡng huấn luyện hậu học, đây là tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp, tạo tội nghiệp này phải đọa A Tỳ địa ngục. Chúng ta phải rõ ràng minh bạch, phải tu phước trong nhà Phật, đừng nên tạo nghiệp.
Chúng ta làm tròn nội hộ và ngoại hộ, tự nhiên sẽ có chư Phật Bồ Tát đến hoằng pháp lợi sanh. Nội hộ và ngoại hộ làm chẳng đúng như pháp, nhất định sẽ chẳng có Phật, Bồ Tát đến thuyết pháp vì duyên chưa chín muồi. Công tác hộ pháp làm được viên mãn thì là duyên chín muồi, tự nhiên sẽ cảm được chư Phật, Bồ Tát đến thị hiện giáo hóa chúng sanh.
- 10. LÀM ĐỆ TỬ PHẬT DI ĐÀ
(Buổi sáng 09-12-98)
a. Gặp duyên rất quan trọng:
Những năm đầu Dân quốc, Thái Hư pháp sư đề xướng "Bồ Tát Học Xứ", ý tưởng này rất tốt. Hiện nay chúng ta đề xướng làm "Ðệ Tử Di Ðà". Ðệ tử Di Ðà đương nhiên cũng là Bồ Tát. Như thế nào mới làm được? Ðây là vấn đề của giáo dục. Thánh nhân thế gian và xuất thế gian dạy: "Người ta ai cũng có thể làm thánh hiền, ai cũng có thể làm Nghiêu, Thuấn", mấu chốt là ở tại giáo học. Dùng Phật pháp mà nói, giáo học là trợ duyên, tăng thượng duyên, nếu gặp được tăng thượng duyên tốt, người có tài năng hạng trung cũng có thể làm thánh làm hiền, trong nhà Phật có chuyện này, trong các triều đại Trung Quốc cũng có. Ðặc biệt là trong Phật pháp, hạ hạ căn cũng có thể làm A La Hán, làm Bồ Tát, đây là chỗ cao minh của nền giáo học Phật pháp. Trong nhóm đệ tử của Thế Tôn, Châu Lợi Bàn Ðà Già là một thí dụ rất hay. Ngay cả người hạ hạ căn cũng có thể chứng quả vị A La Hán, có thể thành đại Bồ Tát, huống chi là người trung, thượng căn?
Phần đông người ta cả một đời chẳng thể thành tựu, pháp thế gian và xuất thế gian chẳng thành, hoặc có được chút ít thành tựu nhưng sau cùng lại thất bại đều là vì gặp duyên chẳng tốt. Phật thuyết pháp: "Hết thảy pháp do nhân duyên sanh" rất có đạo lý. Một duyên phần tốt thì chỉ có thể gặp mà chẳng thể cầu. Vậy thì đời này chúng ta có thể gặp duyên tốt chăng? Câu trả lời là khẳng định được tại vì "trong nhà Phật chẳng xả một người nào hết", vấn đề ở tại phát tâm. Nếu chúng ta phát tâm thuần chánh, chư Phật Bồ Tát nhất định sẽ đến làm tăng thượng duyên cho chúng ta, sẽ đến giúp đỡ chúng ta.
Nhà Phật nói chữ "thuyết pháp", cơ duyên chín muồi mà bạn chẳng thuyết pháp cho họ nghe thì đánh mất cơ hội, là mất đi thời tiết nhân duyên; nếu cơ duyên chẳng chín muồi mà thuyết pháp cho họ thì là không đúng lúc. Phật hiểu rõ thời tiết nhân duyên nên Phật thuyết pháp được ví như "hải triều âm". Hải triều chỉ thủy triều dâng (nước lên) và xuống có thời gian nhất định, nhất định chẳng bao giờ sai. Ðức Phật giáo hóa chúng sanh cũng vậy.
Ðây là nói rõ một sự thật: chúng sanh có Cảm thì Phật sẽ Ứng, cảm ứng đạo giao. Do đó có thể biết thành tựu hay không là thao túng trong tay của chính mình. Nếu mình hy vọng làm thánh làm hiền, làm Phật, làm Bồ Tát thì cái tâm này là Cảm, Phật, Bồ Tát nhất định sẽ có Ứng. Nếu niệm này chẳng sanh khởi thì là chẳng có Cảm; chẳng có Cảm thì đương nhiên Phật, Bồ Tát chẳng có Ứng, cho nên bạn sẽ chẳng gặp được cơ duyên. Nếu nguyện vọng của bạn là chân thật thì cảm ứng sẽ rất nhanh chóng; nếu nguyện vọng rất yếu ớt, khi có khi không, thì cảm ứng cũng sẽ yếu ớt. Cho nên một đời này của bạn có thành tựu hay không là do sự "phát tâm".
Nguyên nhân "Bồ Tát Học Xứ" của Thái Hư pháp sư chưa thực hiện thành công là vì người chân chánh phát tâm làm Phật, làm Bồ Tát quá ít. Chân chánh phát tâm làm Bồ Tát thì nhất định chẳng bị danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần trong thế gian dụ hoặc; nếu còn bị dụ hoặc thì sẽ chẳng làm Bồ Tát nổi. Chuyện này phải nhờ tự mình khắc phục phiền não tập khí thì mới có được cảm ứng, có được trợ duyên.
Hiện nay ngoại duyên ở Tân Gia Ba đã chín muồi, đây là cảm ứng của Phật, Bồ Tát. Chúng ta từ sự "ứng" của Phật, Bồ Tát thì có thể biết được trong nhóm đồng tu có Cảm; nếu chẳng có Cảm thì làm sao có Ứng được? Cho nên trong các vị đồng tu nhất định có người chân chánh phát tâm muốn làm Bồ Tát, muốn làm đệ tử Di Ðà nên duyên này mới chín muồi, chẳng có chút gì miễn cưỡng, đây là chân thật chẳng hư dối. Chúng ta gặp được thời tiết nhân duyên vô cùng thù thắng như vậy thì càng tăng thêm tín nguyện của chúng ta, và từ đó chúng ta cũng thành tựu theo. Ðúng như lời của cư sĩ Bành Tế Thanh "vô lượng kiếp đến nay hiếm có, khó gặp", chúng ta nhất định phải trân quý cái duyên phần này. Nếu trong nhân duyên thù thắng như vậy mà vẫn chẳng chống nổi phiền não tập khí, chẳng chống nổi danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần dụ hoặc, bỏ lỡ cơ duyên quý báu thì thiệt rất đáng tiếc!
Cư sĩ Lý Mộc Nguyên phát tâm chân thật, chẳng có một chút tâm riêng tư, cho nên làm việc hoằng pháp được thành công, làm tăng thượng duyên cho mọi người. Nếu ổng có một chút tâm riêng tư thì công chuyện sẽ nhất định thất bại, vì nếu có tâm riêng tư thì sẽ chẳng được Tam Bảo cảm ứng. Nếu vẫn có cảm ứng thì nhất định là ma đến ứng, chẳng phải Phật đến ứng. Ma và Phật khác nhau chẳng ở cảnh bên ngoài mà là ở nội tâm. Một niệm chân thành, Phật đến cảm ứng; một niệm tự tư tự lợi thì ma đến cảm ứng. Thế nên trong tâm chẳng có một chút tâm niệm ham muốn riêng tư mới cảm được chư Phật đến ứng.
- c. Tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi:
Trong đời sống hằng ngày lúc đối người, đối sự, đối vật chẳng thể có "tôi đúng anh sai", "tôi chánh anh tà". Nếu vẫn còn tâm niệm tự tư tự lợi, cứ cho là mình đúng thì đó là phiền não tập khí, tâm như vậy sẽ chẳng thanh tịnh, chẳng bình đẳng, đó là chướng ngại cho sự cảm ứng đạo giao với chư Phật, Bồ Tát. Chuyện tốt cuối cùng biến thành ma cảnh là ở tại một niệm sai trái này. Tâm Phật, Bồ Tát là tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, nhìn hết thảy chúng sanh đều bình đẳng, đối với hết thảy chúng sanh đều chân thành, cung kính. Chúng ta phải học tập những tâm này thì mới có được cảm ứng, có được trợ duyên. Có được trợ duyên rồi thì tự hành hóa tha sẽ rất thuận tiện.
Cứ thường nhìn thấy lỗi người khác, cứ cho là mình đúng, đây là lỗi lầm lớn nhất. Cho dù người khác tạo nên tội ngũ nghịch, thập ác, chúng ta vẫn phải học Phật, Bồ Tát dùng con mắt từ bi mà quán, họ chỉ vì một lúc mê hoặc nên tạo thành lỗi lầm, họ chẳng dùng chân tâm, trong chân tâm chẳng có lỗi lầm, họ dùng vọng tâm nên bị phiền não tập khí chi phối. Chư Phật Bồ Tát nhìn thấy những người này sẽ dùng tâm thương xót, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng để đối đãi; tại vì chân tâm Phật tánh của họ chẳng bị giảm mất chút nào, Phật, Bồ Tát đối với họ vẫn hoàn toàn cung kính. Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta "Lễ kính chư Phật", cho nên đối với những người làm ác đa đoan, lễ kính vẫn chẳng giảm bớt mảy may.
Chuyện này chúng ta có thể làm được hay không? Nếu có phân biệt, chấp trước thì sẽ làm không được. Làm không được thì là chúng sanh, chẳng phải Bồ Tát. Muốn học làm Bồ Tát thì phải bắt đầu học từ chỗ này, phải chân chánh làm được đối với người cực ác thì cũng hoan hỷ khen bề tốt, mặt thiện của họ, tuyệt đối chẳng đề cập đến bề ác, mặt xấu của họ. Không những không đề cập, trong tâm cũng chẳng lưu lại dấu vết, tâm như vậy mới thực sự thanh tịnh, tâm thanh tịnh sẽ được đại tự tại. Chúng ta xem họ cũng giống như một vị Phật, vì "hết thảy chúng sanh vốn thành Phật", Phật đối đãi với người như vậy đó. Chúng ta học Phật thì cũng phải đối đãi với người như vậy. Bây giờ họ làm ác chỉ bất quá là vì một lúc hồ đồ, hồ đồ rồi một ngày nào đó cũng sẽ minh bạch; chúng ta có nghĩa vụ giúp đỡ họ, làm cho họ sớm hiểu rõ; khi hiểu rõ rồi thì họ cũng sẽ phổ độ hết thảy chúng sanh, chúng sanh sẽ có phước.
Trong tâm đừng nên nghĩ về thị - phi, nhân - ngã, ân - ân, oán - oán, phải thường nghĩ đến lời dạy của Phật, thường nghĩ đến ý nghĩa của kinh. Dùng kinh Vô Lượng Thọ làm chánh thì phải thường nghĩ đến nghĩa lý của kinh Vô Lượng Thọ, đem nghĩa lý đó biến thành sự suy nghĩ chân chánh của mình, ứng dụng trong đời sống, dùng mắt Phật quán thế gian, chúng ta mới chân chánh thành đệ tử Di Ðà, chân chánh làm Bồ Tát, chuyển phàm thành thánh. Chuyển từ trong tâm, chuyển trên hành vi, đây là công đức chân thật, hy vọng mọi người cùng nhau khích lệ.
CHÚ THÍCH:
(2)
Chỉ tịnh là thời gian đại chúng ngồi xuống, yên lặng, niệm Phật thầm sau khi nhiễu Phật, hoặc sau khi niệm lớn tiếng.
(3)
Ðây là cương lĩnh tu thân của nhà Nho. Tam Cương gồm: Minh minh đức, Thân Dân, Chỉ ư chí thiện. (Chữ Thân này thời cổ đọc là Tân (mới), nên hiện thời tuy viết là Thân nhưng vẫn phải đọc là Tân)
(Nghĩa là: Làm sáng tỏ cái đức sáng, làm cho dân chúng hiểu biết được cái hay đẹp rồi sửa đổi thành con người mới tốt đẹp, nhắm đến sự tốt đẹp tột bực, làm cho được rồi giữ cho nó tồn tại mãi).
Bát Mục gồm: Cách Vật, Trí Tri, Thành Ý, Chánh Tâm, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ. Xin xem Phụ lục ở cuối Tập 2.