C. KHUYÊN TIN SÂU NHÂN QUẢ
- 1. CHƯ PHẬT, BỒ TÁT GIÚP ĐỠ CHÚNG SANH ĐANG BỊ KHỔ NẠN NHƯ THẾ NÀO?
(Buổi sáng 14-11-98)
Lòng từ bi của Thế Tôn được biểu hiện trong cả đời của Ngài. Phật là Phước Huệ Nhị Túc Tôn, nghĩa là cả phước báo lẫn trí huệ đều viên mãn. Phước báo đã viên mãn thì tại sao chẳng thị hiện hưởng phước? Kinh Vô Lượng Thọ giảng người có phước báo lớn nhất trên thế gian này là Ðại Phạm Thiên Vương, nhưng phước báo của Ðại Phạm Thiên Vương còn chẳng sánh bằng phước báo của người vãng sanh về Cực Lạc hạ hạ phẩm. Từ đó chúng ta mới hiểu phước báo của Phật đích thật là chẳng ai trong thế gian và xuất thế gian có thể sánh bằng. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện ba chiếc y, một bình bát, ngày ăn một bữa, đêm ngủ dưới gốc cây, đây là sự thị hiện đại từ đại bi. Người giàu sang trong thế gian ít ỏi, người nghèo khổ nhiều, nếu Phật thị hiện thân phận người phú quý thì người nghèo khổ nhìn thấy Phật chỉ có ngưỡng mộ nhưng chẳng dám đến gần. Phật thị hiện bần tiện đến cùng cực, người bần tiện nhìn thấy Phật giống y như mình thì sẽ cảm thấy rất thân thiết nên tâm sẽ bình. Ðây là sự đại từ đại bi của Phật, chúng ta phải thể hội điểm này.
Nếu những người học Phật đều giàu sang, cao quý, chỗ ở đều giống hoàng cung, khi ra đường đều ngồi xe sang trọng, mắc tiền thì những người nghèo khổ nhìn thấy sẽ nghĩ ra sao? Ðặc biệt là tiền tài, sự hưởng thụ của người xuất gia là do mười phương cúng dường, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật cũng chẳng hưởng thụ như vậy. Cả đời đức Phật chẳng cầu người ta, mỗi ngày trì bát khất thực thì cũng chỉ đi trong vòng bảy nhà mà thôi, nếu đi cả bảy nhà không được hoặc chẳng đủ thì ngày hôm đó sẽ nhịn đói một ngày; khi khất thực nhà thứ nhất mà đủ rồi thì sẽ chẳng đi xin ở nhà thứ hai. Sự thị hiện này là nhằm dạy chúng ta phải biết đủ, thường vui, bịnh căn của người thế gian là chẳng biết đủ nên mới chiêu cảm đến vô lượng vô biên họa hại.
Học Phật tức là học tập theo Phật, bất luận là thân phận gì, bất luận làm ngành nghề gì, đều phải học tập tinh thần, quan niệm, từ bi của Phật, vả lại phải thực hiện trong đời sống. Sanh hoạt của chính mình phải giản dị, chất phác, phải biết đủ, có dư phải chia xẻ với hết thảy chúng sanh cùng hưởng, đây là chỗ khác nhau giữa quan niệm của chư Phật, Bồ Tát và người thế gian; Phật, Bồ Tát có phước thì mọi người cùng hưởng, phàm phu có phước thì một mình hưởng, chẳng chịu phân chia cho người. Phật chẳng những chỉ dùng ngôn ngữ dạy dỗ chúng sanh, Ngài nói được làm được. Ngài thực sự nhìn thấu, nhìn thấu nghĩa là thông suốt hết tất cả lý sự, nhân quả trong thế gian và xuất thế gian. Ngài thực sự nhìn thấu, chẳng quyến luyến bất cứ một pháp nào trong thế gian và xuất thế gian, danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần chẳng tiêm nhiễm một tí nào hết. Hiện nay có rất nhiều đồng tu cảm thấy nghiệp chướng của mình nặng nề, tai nạn quá nhiều, họ làm thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng, hóa giải tai nạn, thực ra đó chính là sự thị hiện trong suốt cả đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nếu chúng ta học được rồi, lợi ích vô lượng vô biên, chẳng những tai nạn trước mắt có thể tiêu trừ, nghiệp chướng tập khí từ vô thỉ cũng có thể đoạn dứt.
Do đó có thể biết chúng ta học Phật đích thật là quá sơ ý. Phật pháp chẳng có bí mật, bày trước mắt chúng ta vô cùng rõ ràng, nhưng chúng ta nhìn không thấy, và cũng chẳng cảm được, đây là vì chúng ta nghiệp chướng sâu nặng. Mặc dù chúng ta đọc kinh, nghe kinh nhưng vẫn chẳng hiểu ý nghĩa trong kinh, chẳng thể thực hiện những lời dạy này và áp dụng vào trong đời sống hiện thực hằng ngày, cho nên chẳng đạt được lợi ích chân thật. Chúng ta chẳng thể trách Phật, Bồ Tát chẳng từ bi, chẳng thể trách Phật, Bồ Tát không giúp đỡ chúng ta; Phật, Bồ Tát thực sự có giúp đỡ nhưng chúng ta chẳng thể hội được, lại còn đánh mất cơ hội nhân duyên, lỗi này là ở tại chúng ta. Thế nên tự mình phải phản tỉnh, phải sám hối, phải học tập từ trong sự phản tỉnh và sám hối.
Khắc phục phiền não và tập khí của mình chính là tiêu nghiệp chướng. Phương pháp khắc phục rất nhiều, nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp là phương pháp, môn là cửa vào; cánh cửa khắc phục phiền não và tiêu trừ nghiệp chướng thì vô lượng vô biên. Trong vô lượng pháp môn này đức Thế Tôn nói với chúng ta Pháp Môn Niệm Phật là phương tiện nhất, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, có hiệu quả nhất. Nhất định phải hiểu lý luận của sự niệm Phật thì sẽ chẳng hoài nghi, Phật hiệu có thể niệm đến có hiệu quả, có sức mạnh; sức mạnh tức là có thể tiêu trừ nghiệp chướng, đoạn phiền não. Niệm Phật có thể tiêu trừ nghiệp chướng, đoạn phiền não hay không then chốt ở chỗ niệm đúng như pháp hay không, biết cách niệm hay không. Người biết niệm đúng như lý như pháp thì hiệu quả sẽ vô cùng thù thắng.
Bởi vậy chẳng những phải hiểu ý kinh mà còn phải "thâm giải nghĩa thú", vì hiểu kinh giáo càng sâu, càng triệt để, thì lòng tin càng kiên định, lòng tin có thể chuyển cảnh giới. Kinh Kim Cang nói: "Tín tâm thanh tịnh ắt sanh thật tướng". Khi tín tâm thật sự thanh tịnh thì có thể chuyển thập pháp giới thành Nhất Chân pháp giới, Nhất Chân pháp giới chính là thật tướng. Có thể chuyển biến thập pháp giới thành Nhất Chân pháp giới chính là "cảnh chuyển tùy theo tâm". Thế nên Phật cứu độ hết thảy chúng sanh bằng cách dạy cho họ tự chuyển cảnh giới, vì cảnh giới là do chính mình tạo thành nên chỉ có mình có thể giải quyết, bất cứ người nào khác cũng chẳng giúp được gì cả, chư Phật, Bồ Tát cũng chẳng giúp được. Trong kinh Lăng Nghiêm [có ghi] khi tôn giả A Nan bị nạn, Phật cũng chẳng thể giúp ngài, Phật chỉ nói rõ tiền nhân hậu quả của sự gặp nạn này, sau đó dạy ngài làm sao hóa giải tai nạn, việc này vẫn phải do chính ngài hóa giải. Tự mình thông đạt hiểu rõ, chuyển tâm hạnh trở lại, tai nạn liền được tiêu trừ, cảnh giới liền chuyển biến.
Khởi một tâm niệm ác, cảnh giới thiện liền biến thành cảnh giới ác; khởi một tâm niệm thiện, cảnh giới ác liền biến thành cảnh giới thiện, rõ ràng nhất là thập pháp giới. Khởi một tâm niệm bình đẳng thì pháp giới Phật hiện tiền; khởi một tâm niệm lục độ thì pháp giới Bồ Tát hiện tiền; khởi một tâm niệm tham sân, một niệm thập ác, hoàn cảnh sinh hoạt sẽ là ngũ trược ác thế; khởi một tâm niệm thanh tịnh thì sẽ là thanh thái an ổn, chính là Cực Lạc thế giới. Phật thường nói: "Phàm những gì có tướng đều là hư vọn" (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng), vì tướng là hư vọng nên tâm niệm mới có thể chuyển cảnh giới, vả lại sự hư vọng này giống như "mộng, huyễn, bọt, bóng". Cho nên Phật nói: "Các thứ tâm sanh [nên] các thứ pháp sanh; các thứ pháp sanh, các thứ tâm sanh" (Chủng chủng tâm sanh, chủng chủng pháp sanh; chủng chủng pháp sanh, chủng chủng tâm sanh), câu này nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Lại nói: "Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh" (Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh), chân chánh có thể lý giải triệt để đạo lý này thì sẽ biết tâm chúng ta tưởng như thế nào thì hoàn cảnh thế giới sẽ biến đổi như thế ấy; hoàn cảnh lớn sẽ thay đổi, hoàn cảnh nhỏ cũng sẽ thay đổi; dung mạo của chúng ta cũng sẽ thay đổi, thể chất sẽ thay đổi, tất cả hoàn cảnh sanh hoạt sẽ đều thay đổi, đây tức là "cảnh chuyển theo tâm". Cho nên chẳng có cảnh giới nào không thể thay đổi, không thể thay đổi là vì chẳng thấu triệt lý luận, chẳng rõ phương pháp, thêm vào chẳng có nhẫn nại nên không được hiệu quả; nếu làm đúng như lý như pháp thì làm sao có chuyện không thay đổi được?
Chỗ thù thắng vi diệu của Phật pháp là hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian không thể nào so sánh nổi. Ðời này chúng ta may mắn được thân người, được nghe Phật pháp, nếu có thể hiểu một chút nghĩa lý, nghĩa thú thậm thâm [vi diệu] này thì thiệt là rất hy hữu, rất khó được. Cho nên chúng ta phải nỗ lực hết lòng hết sức để tu học. Tu học tức là thực hành, làm ra hình dáng cho hết thảy chúng sanh nhìn thấy, đây là thực sự giúp đỡ hết thảy chúng sanh giác ngộ. Hình dáng là chiêu bài (bảng hiệu), chiêu bài tốt làm cho người ta thấy liền sanh hoan hỷ. Tướng hảo của Phật chẳng ai có thể sánh bằng nên khi Phật thuyết pháp chúng sanh tin tưởng. Chỉ cần tu học y theo lời dạy của Phật thì sẽ đạt được tự tại, viên mãn giống như đức Phật, đây chính là hiện thân thuyết pháp.
- 2. NÓI VỀ NHÂN QUẢ VÀ CHUYỂN CẢNH GIỚI
(Buổi sáng 16-11-98)
- a. Nói về nhân quả:
"Vạn pháp đều không, nhân quả chẳng không", tại sao nhân quả chẳng không? Hãy lấy thí dụ trái đào, hột đào là nhân, hột đào trồng dưới đất sẽ lớn thành cây đào, lúc đó hột đào mất đi rồi; cây đào lớn lên lại kết quả thành trái đào, đây là nhân quả tuần hoàn. Thế nên "nhân quả chẳng không" là nói nhân quả tương tục - tiếp nối chẳng không, chuyển biến chẳng không. Phật, Bồ Tát dạy hết thảy chúng sanh là vì muốn chúng ta hiểu đạo lý này, nắm chắc chân tướng sự thật thì sẽ được đại tự tại. Trong kinh thường nói: "cảnh chuyển theo tâm". Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu chuyển được cảnh thì cũng đồng như Như Lai". Phật, Bồ Tát hiểu nhân quả chuyển biến chẳng không, tiếp nối chẳng không, vả lại vận dụng hết sức khéo léo nên các ngài có thể chuyển biến cảnh giới, chẳng bị cảnh giới chuyển, đây chính là việc chúng ta phải học.
Người hiện nay cứ mê mẩn chạy theo tiền tài, bạn tranh tôi đoạt, làm cho thiên hạ đại loạn. Tranh đoạt thiệt có thể kiếm được tiền tài hay chăng? Không thể nào! Chỉ có đau khổ thêm mà thôi, Phật pháp nói đó là tạo nghiệp. Giết người thì phạm giới sát sanh, đoạt lấy tài vật của người khác là phạm tội ăn cắp, cứ tạo ra những ác nghiệp giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, thì làm sao đem lại quả báo tốt lành cho được? Người thế gian ngu si nên tạo ra tội nghiệp cực nặng. Phật dạy chúng ta giàu sang là do bố thí tài vật mà ra, tiền tài của cư sĩ họ Thôi cũng là do bố thí tài vật mà có được. Ðời quá khứ tu bố thí tài vật thì đời này sẽ được giàu sang, được giàu sang mà còn tu bố thí tài vật tiếp tục thì tiền tài sẽ đến ào ạt. Cho dù trong thời gian kinh tế suy thoái, tiền tài vẫn không ngừng tăng thêm, chuyện này chứng minh cho lời Phật dạy chẳng sai.
Bố thí pháp được thông minh trí huệ, tôi có thể chứng minh cho mọi người. Lúc còn trẻ tôi chẳng phải là người thông minh, ngày nay đối với Phật pháp và thế pháp chỉ cần tiếp xúc thì tôi liền hiểu rõ, đây là quả báo có được do ngày nào cũng tu bố thí pháp trong suốt bốn mươi mấy năm học Phật.
Bố thí vô úy thì được khỏe mạnh sống lâu. Bố thí vô úy là gì? Ăn chay tức là bố thí vô úy, đây là vun trồng tâm từ bi và tâm thương yêu. Năm hai mươi sáu tuổi tôi bắt đầu học Phật, nửa năm sau bắt đầu ăn chay trường cho đến bây giờ. Hồi đó người coi bói nói tôi đoản mạng, tôi rất tin và nghĩ là tôi chẳng có lý do gì để sống lâu. Tư tưởng và hành vi của tôi hồi còn trẻ rất giống với ông Viên Liễu Phàm, khuyết điểm của ông ta tôi đều có đủ, ưu điểm của ổng tôi chẳng có, tôi chẳng bằng ổng, chẳng có phước lớn như ổng. Thế nên nhất định phải biết bố thí là nhân, giàu sang, trí huệ, khỏe mạnh sống lâu là quả báo.
Nói thực ra khỏe mạnh sống lâu chẳng cần thuốc men, tẩm bổ. Người thế gian cho rằng bảo dưỡng sức khỏe bằng thuốc men có thể làm cho một người được khỏe mạnh sống lâu, đây là mê hoặc điên đảo, nếu thiệt có hiệu quả thì định luật nhân quả chẳng phải đã bị lật đổ rồi sao? Ðáng sống lâu thì dù chẳng chú trọng dinh dưỡng vẫn sống lâu; đáng đoản mạng cho dù mỗi ngày đều tẩm bổ thì vẫn đoản mạng, đây mới là chân lý.
Nói đến đoàn thể thì Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba và Tịnh Tông Học Hội phát khởi việc xây dựng Làng Di Ðà, xây Phật Học Viện cần phải có thật nhiều tiền bạc, trong tình trạng kinh tế hiện nay quyên góp tiền bạc vô cùng khó khăn. Tại sao đoàn thể này trong thời gian rất ngắn có thể tích tụ lại một số tiền tương đối khả quan? Ðó là bố thí chẳng phải vì mình, vì hết thảy chúng sanh, vì xã hội an định hòa bình, vì Phật pháp an trụ lâu dài trong thế gian, tâm chánh hạnh chánh, phát tâm chân thành xây dựng đạo tràng thì có sẽ cảm ứng. Cũng giống như kinh Lăng Nghiêm có nói: "phát ý viên thành", khi vừa phát chân tâm liền viên mãn công đức, cảm ứng liền hiện tiền.
- b. Chuyển cảnh giới:
Có chẳng ít bạn đồng tu tu học rất gian khổ, càng khổ hơn lúc chưa học Phật trước kia, nguyên nhân là vì họ chẳng hiểu lý luận của việc tu học, tu chẳng đúng như lý, chẳng đúng như pháp. Tu học Phật pháp tức là chuyển biến cảnh giới, làm thế nào biến bần cùng thành phú quý, chuyển hỗn loạn thành an định, nếu chẳng hiểu đạo lý và phương pháp thì chẳng thể chuyển được. Nếu biết được đạo lý, biết phương pháp, tu học đúng như lý như pháp thì tự nhiên sẽ chuyển biến cảnh giới được. Phật pháp thường nói: "chuyển phiền não thành Bồ Ðề, chuyển sanh tử thành Niết Bàn", chúng ta ứng dụng trong đời sống, không có một cảnh giới nào chẳng thể chuyển được. Nguyên tắc chung, đạo lý lớn lao này chính là y báo, chánh báo trang nghiêm "duy tâm sở hiện, duy thức sở biến".
Phật cũng nói: "Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh", cho nên tâm phải tưởng đến chuyện thiện, đừng tưởng chuyện ác. Thiện là như thế nào? Ác ra làm sao? Lợi ích chúng sanh, lợi ích xã hội là thiện; lợi ích cho chính mình, gia đình mình, đoàn thể nhỏ của mình là ác. Tại sao vậy? Niệm niệm đều vì tự mình và cái vòng tròn vây quanh mình, đó là phân biệt chấp trước, đã biến Nhất Chân pháp giới vốn có thành thập pháp giới, biến thành lục đạo luân hồi, biến thành tình hình hiện nay. Chúng ta muốn thoát ra ngoài cảnh khốn khổ này thì chỉ có thể giải quyết nơi tâm lượng. Nếu chẳng nghĩ tưởng cho mình, gia đình mình, và chẳng tưởng cho cái đoàn thể nho nhỏ của mình thì chấp trước sẽ bị phá tan. Niệm niệm đều vì hư không pháp giới hết thảy chúng sanh thì phân biệt sẽ bị phá trừ. Khi hết chấp trước thì lục đạo sẽ chẳng còn nữa; hết phân biệt thì thập pháp giới sẽ chẳng còn nữa, sẽ khôi phục lại Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là vũ trụ sanh thái tự nhiên; sanh thái tự nhiên tốt đẹp nhất. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước phá hoại sanh thái tự nhiên. Ðến lúc phân biệt và chấp trước vô cùng nghiêm trọng thì hoàn cảnh sanh thái của địa cầu chúng ta sẽ bị phá hoại, cho nên khí hậu toàn thế giới sẽ chẳng bình thường, chúng sanh đều chẳng có cảm giác an toàn. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là căn nguyên của việc phá hoại sanh thái tự nhiên. Chỉ có Phật pháp Ðại thừa giải thích việc này rõ ràng, thấu triệt.
Các tầng lớp lãnh đạo trong chánh phủ Úc Châu đang tìm kiếm phương pháp làm cho xã hội an định, hòa mục nhân quần. Làm thế nào dung hòa các chủng tộc khác nhau, văn hóa khác nhau, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau thành một thể, làm cho những người cư trú ở Úc Châu tôn trọng, quan hoài, và hợp tác lẫn nhau, tạo nên xã hội phồn vinh, nhân sanh hạnh phúc. Cách suy nghĩ và mục tiêu này tức là truy tìm sự hòa hợp của đa nguyên văn hóa, hy vọng đạt đến xã hội an định, thế giới hòa bình, người người tôn trọng lẫn nhau.
Người ta ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm, nếu chúng ta có thể nhìn ưu điểm của người ta thì trong thế gian này ai cũng là người tốt; nếu chỉ nhìn khuyết điểm thì ngay cả Phật, Bồ Tát cũng chẳng phải là người tốt, thế nên tốt xấu đều tại nơi một niệm. Ngẫu Ích đại sư nói: "Cảnh duyên chẳng có tốt xấu, tốt xấu ở tại tâm". Hiểu được nguyên lý nguyên tắc này thì có thể chuyển cảnh giới. Chư Phật, Bồ Tát, chư thiên, thiện thần hiểu được đạo lý này cho nên cảnh giới của họ càng chuyển càng tốt thêm. Phàm phu chẳng hiểu đạo lý này, chuyên nhìn khuyết điểm của người khác, chuyên nói xấu người khác cho nên cảnh giới càng chuyển càng xấu, đời sống càng ngày càng khổ. Chúng ta đọc kinh Phật nên biết được những chân tướng sự thật này, quan sát kỹ càng hoàn cảnh của chúng ta mới biết câu nào của Phật nói đều là chân lý, câu nào cũng là lời chân thật. Chỉ cần chúng ta hết lòng nỗ lực tu học thì nhất định có thể sáng tạo tương lai tốt đẹp.