Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức...

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức...

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Ngày thứ năm:
GIẢI THÍCH SƠ LƯỢC VỀ GIÁO NGHĨA LỤC TỨC CỦA TÔNG THIÊN THAI
(Trích sách: "Ấn Quang Đại Sư Khai Thị Tại Pháp Hội
Hộ Quốc Tức Tai Ở Thượng Hải", trang 63-73)
Pháp môn Tịnh Ðộ thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp lợi căn lẫn độn căn, khế lý, khế cơ, chí viên, chí đốn, đúng là pháp môn lợi lạc chúng sanh duy nhất vô thượng. Nhưng con người hiện tại, có kẻ tự cao, tự đại bảo: "Chúng sanh tức là Phật thì ta chính là Phật, sao lại phải niệm Phật?", kẻ thì lại cho rằng: "Ta đã là phàm phu khổ não, làm sao có thể liễu thoát sanh tử, chỉ cầu kiếp sau chẳng mất thân người mà thôi!" Hai hạng người này đều vì chẳng hiểu rõ nhân quả mà thành ra như thế ấy. Bởi vậy, hôm nay tôi vẫn giảng về nhân quả.

Phải biết "chúng sanh tức là Phật" [chỉ cho] cái nhân chân thật là Phật tánh sẵn có đủ. Nếu chẳng tu hạnh Niệm Phật mầu nhiệm, Phật tánh chẳng do đâu hiển hiện được thì làm sao đạt được thật quả "giải thoát sanh tử, thành tựu Phật đạo" đây? Ví như gương báu đóng bụi, quang minh chẳng hiện, chứ thật ra chẳng mất! Nếu chịu ra sức lau chùi, mài giũa thì gương sẽ tự có thể chiếu trời soi đất. Nếu nói: "Ta là phàm phu khổ não, chẳng thể vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, cho đến thành Phật" thì lại chính là lời lẽ của kẻ nghiệp chướng sâu nặng, tự cam chịu đọa lạc. Vả nữa, người đời nay có kẻ đánh cờ, xoa mạt chược đến nỗi mệt quá rồi chết, chẳng biết là bao nhiêu! Nếu họ có thể vận dụng sự khổ nhọc ấy vào chuyện tu hành niệm Phật thì lo gì chẳng vãng sanh Tây Phương, chứng lên đến Phật quả ư? Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một chúng sanh tu trì, chứng đắc Phật quả mà thôi.

Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư đời Tùy soạn cuốn Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, đã lập ra giáo nghĩa Lục Tức Phật để đối trị căn bệnh lớn "cam chịu đọa lạc" và bệnh "tự tôn, tự đại sai lầm". Lục Tức Phật là:
  • - Một là Lý Tức Phật,
    - Hai là Danh Tự Tức Phật,
    - Ba là Quán Hạnh Tức Phật,
    - Bốn là Tương Tự Tức Phật,
    - Năm là Phần Chứng Tức Phật,
    - Sáu là Cứu Cánh Tức Phật.
"Lục": Minh thị thứ lớp sâu - cạn; "Tức": Chỉ rõ ngay nơi Thể chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh hình thể chẳng khác gì cha mẹ, nhưng sức lực, khả năng khác biệt rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo đứa bé con ấy chẳng phải là người, nhưng cũng chẳng thể sai nó gánh vác chuyện của người đã trưởng thành được. Nếu biết rõ "tuy sáu mà thường tức" thì sẽ chẳng sanh lui sụt. Nếu hiểu "tuy tức mà thường sáu" sẽ chẳng sanh lòng tăng thượng mạn. Từ đó, nỗ lực tu trì, sẽ từ phàm phu mà viên chứng Phật quả, do Lý Tức Phật mà thành Cứu Cánh Tức Phật vậy.

1. Lý Tức Phật là hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Tuy trái phản Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi trong Tam Ðồ, Lục Ðạo, nhưng công đức của Phật Tánh vẫn tự đầy đủ, cho nên gọi là Lý Tức Phật, coi Lý Thể của tâm chính là Phật vậy. Vô Cơ Tử làm bài tụng rằng:
  • Ðộng, tịnh lý toàn thị
    Hành, tàng sự tận phi,
    Minh minh tùy vật khứ,
    Yểu yểu bất tri quy.

    (Ðộng, tịnh toàn là lý,
    Hành, tàng chẳng trúng gì,
    Tối tăm theo đuổi vật,
    Mờ mịt chẳng biết về).
Do hết thảy chúng sanh chưa nghe Phật pháp, chẳng biết tu trì, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống như Phật. Vì thế mới bảo là: "Ðộng, tịnh toàn là lý". Do mê lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp nên mới bảo Hành, tàng chẳng trúng gì" (Hành là hoạt động, tàng là ở yên), vì mọi việc làm đều chẳng tương ứng Phật Tánh. Suốt ngày, suốt năm, tối tăm, mờ mịt ruổi theo vật dục (lòng ham muốn vật chất) phiền não, vọng tưởng, từ sống đến chết chẳng hề biết hồi quang phản chiếu (xoay trở lại xét soi cái tâm), nên bảo là: "Tối tăm theo đuổi vật, mờ mịt chẳng biết về".

2. Danh Tự Tức Phật là hoặc do từ thiện tri thức, hoặc từ kinh điển mà biết rằng tâm vốn sẵn đủ Phật Tánh tịch - chiếu viên dung, bất sanh, bất diệt. Thông suốt hiểu rõ nơi danh tự, biết hết thảy pháp đều là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðó gọi là "nghe danh tự Phật tánh liền hiểu rõ, thấu suốt Phật pháp". Kệ tụng rằng:
  • Phương thính vô sanh khúc,
    Thỉ văn bất tử ca,
    Kim tri đương thể thị
    Phiên hận tự tha đà.

    (Vừa nghe khúc vô sanh,
    Mới nghe bài bất tử,
    Liền biết ngay đương thể,
    Tiếc đã trót lần khân).
[Ý nói]: Từ trước đến nay chỉ biết sanh tử luân hồi không lúc nào kết thúc; nay biết Phật Tánh chân thường, bất sanh, bất diệt, đã biết đương thể (ngay nơi bản thể) chính là cái nhân chân chánh để thành Phật liền gấp gáp tu trì, còn hận từ trước đến nay mình bỏ uổng quang âm (thời gian) đến nỗi chưa thể thật sự chứng đắc!

3. Quán Hạnh Tức Phật là nương theo Giáo tu Quán, tức là địa vị Ngoại Phàm Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ Phẩm là:
  • a. Tùy Hỷ Phẩm: Nghe pháp Thật Tướng, tin hiểu, tùy hỷ.

    b. Ðộc Tụng Phẩm: Đọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh điển Ðại Thừa để hỗ trợ quán hạnh và sự hiểu biết.

    c. Giảng Thuyết Phẩm: Tự nói những điều mình tự chứng hiểu (nội giải) để chỉ dạy, dắt dẫn làm lợi cho người khác.

    d. Kiêm Hành Lục Ðộ Phẩm: Kiêm tu Lục Ðộ để giúp cho quán tâm.

    e. Chánh Hành Lục Ðộ Phẩm: Lấy việc hành Lục Ðộ làm hạnh chánh yếu, tự mình hành, dạy người khác hành, Lý - Sự đầy đủ.
Quán Hạnh càng thêm thù thắng. Kệ tụng rằng:
  • Niệm niệm chiếu thường lý
    Tâm tâm tức huyễn trần
    Biến quán chư pháp tánh
    Vô giả diệc vô chân.

    (Niệm niệm chiếu thường lý,
    Tâm tâm bặt huyễn trần
    Quán khắp các pháp tánh,
    Không giả cũng không chân).
Ðã viên ngộ (ngộ trọn vẹn) Phật tánh, nương theo Giáo tu Quán, đối trị phiền não tập khí nên bảo là: "Niệm niệm chiếu thường lý, tâm tâm bặt huyễn trần". Hiểu rõ một sắc, một hương không thứ gì chẳng phải là Trung Ðạo; hết thảy các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật, cho nên nói: "Quán khắp các pháp tánh, không giả cũng không chân".

4. Tương Tự Tức Phật là tương tự giải phát (gần giống như đã giải ngộ, phát khởi), tức là địa vị Nội Phàm thuộc Thập Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc; Bát, Cửu, Thập, Tín đoạn Trần Sa Hoặc. Kệ tụng rằng:
  • Tứ Trụ tuy tiên thoát,
    Lục trần vị tận không
    Nhãn trung do hữu ế
    Không lý kiến hoa hồng.

    (Trước đã thoát Tứ Trụ,
    Nhưng sáu trần chửa không,
    Mắt vẫn còn màng mộng
    Thấy hoa đốm trên không)
Tứ Trụ là:
  • a. Kiến Nhất Thiết Trụ Ðịa chính là Kiến Hoặc trong Tam Giới.

    b. Dục Ái Trụ Ðịa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới.

    c. Sắc Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới.

    d. Hữu Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới.
Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc nên bảo là: "Trước đã thoát Tứ Trụ". Nhưng do tập khí sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp chưa hết, nên bảo là: "Nhưng sáu trần chửa không". Ở đây chỉ luận về địa vị Thất Tín, chứ Bát, Cửu, Thập Tín đã phá được Trần Sa Hoặc nên tập khí đã hoàn toàn rỗng không. Tập khí là những dư âm của các Chánh Hoặc (các phiền não chánh yếu). Giống như cái mâm đựng thịt dù đã rửa sạch, vẫn còn có mùi hôi; bình đựng rượu tuy đã súc kỹ vẫn còn có mùi rượu. "Mắt vẫn còn màng mộng, thấy hoa đốm trên không" là: Vì chưa phá Vô Minh nên chưa thể thấy được bản thể của Chân Không Pháp Giới.

5. Phần Chứng Tức Phật là ở [giai đoạn] Thập Tín hậu tâm(49), phá một phần Vô Minh, chứng một phần Tam Ðức, liền bước vào Sơ Trụ, chứng Pháp Thân, là Pháp Thân Đại Sĩ. Từ Sơ Trụ đến Đẳng Giác, tổng cộng là bốn mươi mốt địa vị, mỗi địa vị đều phá được một phần vô minh, chứng một phần Tam Đức, nên gọi là Phần Chứng Tức Phật. Do vô minh chia làm bốn mươi hai phẩm, Sơ Trụ phá một phần, cho đến Thập Trụ phá được mười phần. Trải qua [các địa vị] Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa cho đến Ðẳng Giác [lần lượt] phá được bốn mươi mốt phần. Bậc Sơ Trụ có thể hiện thân làm Phật trong thế giới không có Phật, lại còn tùy loại hiện thân độ thoát chúng sanh. Thần thông đạo lực của bậc này chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ là càng lên mỗi địa vị trên càng thù thắng hơn nữa, nhất là địa vị thứ bốn mươi mốt là Ðẳng Giác Bồ Tát ư? Kệ tụng rằng:
  • Hoát nhĩ tâm khai ngộ
    Trạm nhiên nhất thiết thông
    Cùng nguyên do vị tận
    Thường kiến nguyệt mông lung.

    (Ðột nhiên tâm khai ngộ,
    Lặng trong hết thảy thông,
    Vẫn chưa thông tận gốc
    Trăng thường thấy mông lung).
"Ðột nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông" là nói về cảnh tượng phá được vô minh đôi phần, chứng ngộ đôi phần. "Vẫn chưa thông tận gốc, trăng thường thấy mông lung" ý nói còn có mây vô minh [che lấp] nên chưa thể thấy thấu tột ánh sáng của vần trăng thiên chân trong tự tánh.

6. Cứu Cánh Tức Phật là từ Ðẳng Giác lại phá một phần Vô Minh nên [thấu đạt] tột cùng Chân Tánh, hết sạch Hoặc, phước huệ viên mãn, chứng ngộ triệt để Chân Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm mình, đạt địa vị Diệu Giác, thành đạo Vô Thượng Bồ Ðề. Kệ tụng rằng:
  • Tùng lai chân thị vọng
    Kim nhật vọng giai chân
    Ðản phục bản thời tánh
    Cánh vô nhất pháp tân.

    (Từ trước, chân là vọng
    Hôm nay, vọng đều chân,
    Chỉ khôi phục bản tánh
    Có pháp nào mới đâu?)
"Từ trước chân là vọng" là trước khi ngộ thì cũng chỉ "Ngũ Uẩn đều là không" này mà lầm sanh chấp trước [khiến cho] Sắc Pháp, Tâm Pháp nương theo nhau thành lập, khổ ách theo đó sanh ra. Sau khi đã ngộ rồi, tuy vẫn chỉ là Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đều là một Chân Như, trọn chẳng có tướng Sắc, Tâm, Ngũ Uẩn để được. Vì thế, bảo là: "Từ trước chân là vọng. Hôm nay, vọng đều chân". Nhưng cái Chân được chứng ấy nào phải là điều gì mới đạt được, chẳng qua là phục hồi lại Chân Như Phật Tánh sẵn có đó thôi, vì thế bảo: "Chỉ khôi phục bản tánh, có pháp nào mới đâu?"

Lại nữa, chúng sanh còn mê thì thấy Phật, Bồ Tát và hết thảy chúng sanh đều là chúng sanh, cho nên hủy báng Phật pháp, sát hại chúng sanh, chẳng biết là tội lỗi; trái lại còn coi đó là vui. Ðức Phật đã triệt ngộ cái tâm "tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt", thấy hết thảy chúng sanh hoàn toàn là Phật. Vì thế đều vì kẻ oán, người thân thuyết pháp khiến cho họ được độ thoát; dẫu là kẻ cực kỳ ác nghịch không tin, tâm [Phật] cũng không hề có một niệm buông bỏ vì Phật thấy thấu suốt kẻ đó chính là một vị Phật chưa thành vậy.

CHÚ THÍCH:

(49) Đã viên mãn mười Tín tâm thì gọi là Thập Tín hậu tâm, tức là đã chuẩn bị tiến vào địa vị Sơ Trụ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức...

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

42 địa vị của Bồ tát gồm:
Thập Tín, Thập Trụ, Thập hồi hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác (tức Phật)
Cảm ơn đ/h Battinh.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
chuchuyen
Bài viết: 49
Ngày: 08/04/10 00:24
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Đồng Nai

Re: Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức...

Bài viết chưa xem gửi bởi chuchuyen »

binh đã viết:42 địa vị của Bồ tát gồm:
Thập Tín, Thập Trụ, Thập hồi hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác (tức Phật)
Cảm ơn đ/h Battinh.
ĐH Binh nói thiếu, phải là 52 địa vị ; Thập Tín , thập trụ , Thập Hạnh , Thập Hồi Hướng , Thập Địa , Đẳng Giác và Diệu Giác


"Chúng sanh, tức phi chúng sanh,thị danh chúng sanh".

- Kinh Kim Cang -

Lục Tổ : Nay ta gượng nói ra, khiến ngươi bỏ tà kiến, chớ chấp theo lời nói, mới cho biết ít phần”.
Hình đại diện của người dùng
Tây Phương Tịnh Sỹ
Bài viết: 509
Ngày: 22/12/13 08:53
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tây Đức
Nghề nghiệp: Cư Sĩ tại gia
Được cảm ơn: 2 time

Re: Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức...

Bài viết chưa xem gửi bởi Tây Phương Tịnh Sỹ »

A Di Đà Phật,
Sửa lần cuối bởi Tây Phương Tịnh Sỹ vào ngày 28/03/19 15:22 với 2 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức...

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

chuchuyen đã viết:
binh đã viết:42 địa vị của Bồ tát gồm:
Thập Tín, Thập Trụ, Thập hồi hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác (tức Phật)
Cảm ơn đ/h Battinh.
ĐH Binh nói thiếu, phải là 52 địa vị ; Thập Tín , thập trụ , Thập Hạnh , Thập Hồi Hướng , Thập Địa , Đẳng Giác và Diệu Giác
Đ/h Chuchuyen, Thập hạnh tức thập hồi hướng.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức...

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THẬP TÍN, THẬP TRỤ, THẬP HẠNH, THẬP HỒI HƯỚNG, THẬP ĐỊA
(Trích sách: Đại Thừa Yếu Lược, Liên Hoa Tịnh Huệ, trang 85-92)

I. THẬP TÍN
Khi suối ái dục đã khô cạn, sáu căn không còn duyên theo sáu trần nữa, hành giả được một thứ trí huệ sơ khởi chưa thấm nhuần vị giải thoát, thứ trí huệ khô cạn ấy (Càn huệ địa) cần phải được phát triển qua sự tu học và thực hành các pháp thiện. Đẳng vị đầu tiên của Bồ tát là Thập Tín, mười điều kiện căn bản có thể thúc đẩy Bồ tát tiến tu. Đó là:
  1. Tín tâm: Hoàn toàn tin nơi Tam Bảo.
  2. Niệm tâm: Luôn luôn tưởng nhớ các pháp môn đã được học.
  3. Tinh tấn tâm: Siêng năng thực hành các pháp môn ấy.
  4. Huệ tâm: Sáng suốt nhận định các lầm chấp của mình để dứt trừ.
  5. Định tâm: Tích cực dứt trừ vọng tâm để được sự vắng lặng, thanh tịnh trong tâm.
  6. Bất thối tâm: Kiên trì tu tập, dũng mãnh vượt qua các chướng ngại không thối chuyển.
  7. Hộ pháp tâm: Hộ trì chánh pháp.
  8. Hồi hướng tâm: Mọi công đức của mình đều hồi hướng vô thượng Bồ đề và pháp giới chúng sanh.
  9. Giới tâm: Thọ trị tịnh giới, bốn giới trọng của Bồ tát đạo.
  10. Nguyện tâm: Phát đại thệ nguyện, ngũ hoằng thệ nguyện.
II. THẬP TRỤ
Là đẳng vị kế tiếp của Bồ tát khi vượt qua Thập Tín:
  1. Sơ pháp tâm trụ: Bồ tát phát Bồ đề tâm, cầu nhất thiết trí.
  2. Trị địa trụ: Đối trị tâm địa của mình, giữ tâm thanh tịnh.
  3. Tu hành trụ: Tập tập các pháp môn dịnh, quán.
  4. Sanh quý trụ: Do ở chồ Bồ tát tu tập có kết quả, nên tâm quý trọng Phật pháp.
  5. Chánh tâm: Tâm đã vượt qua các pháp đối đãi, thuận nghịch.
  6. Cụ túc phương tiện trụ: Có đủ phương tiện để tạo công đức.
  7. Bất thối trụ: Thấu rõ pháp tánh bình đẳng viên dung, tương tục.
  8. Đồng chân trụ: Tam nghiệp thanh tịnh, tự tại.
  9. Pháp vương tử trụ: Bồ tát là con của Phật vốn là Pháp vương nên nói pháp đệ nhất nghĩa.
  10. Quán đảnh trụ: Bồ tát phát triển trí huệ.
III. THẬP HẠNH
  1. Hoan hỷ hạnh: Bồ tát thực hành Hạnh Bố thí khiến chúng sanh được hoan hỷ.
  2. Nhiêu ích hạnh: Do ở chỗ độ tha, Bồ tát đem lại nhiều lợi ích cho chúng sanh.
  3. Vô vi nghịch hạnh: Hạnh không làm gì nghịch, não hại chúng sanh vì thương xót họ.
  4. Vô khuất nhiễu hạnh: Bồ tát vì chúng sanh chịu khổ mà tâm không bị nhiễu loạn, không bị khuất phục.
  5. Vô si loạn hạnh: Bồ tát lìa mê loạn, không làm não hại chúng sanh.
  6. Thiện hiện hạnh: Hạnh thị hiện các pháp lành.
  7. Vô trước hạnh: Bồ tát không chấp trước, bất cứ pháp thiện hay ác.
  8. Nan đắc hạnh: Bồ tát thành tựu căn lành khó được, bất khả tư nghì.
  9. Thiện pháp hạnh: Nhiếp trì chánh pháp Bồ tát sẽ là bực thầy dìu dắt chúng sanh.
  10. Chân thật hạnh: Chơn thật trong lời nói, trong việc làm Bồ tát được trí huệ Phật.
IV. THẬP HỒI HƯỚNG
  1. Cứu độ tất cả chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng: Bồ tát nhiếp thọ tất cả chúng sanh mà chẳng cầu danh, chẳng chấp tướng chúng sanh.
  2. Bất hoại hồi hướng: Bồ tát có đức tin kiên cố, bất hoại nơi Tam Bảo, không thối chuyển.
  3. Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng: Bồ tát học hạnh hồi hướng của tam thế chư Phật, quy hướng về các công đức của chư Phật, an trụ nơi đại nguyện Bồ đề, tự độ, độ tha.
  4. Chí nhất thiết xứ hồi hướng: Đến khắp nơi, Bồ tát nguyện sẽ đi đến khắp nơi, khắp chỗ của chư Phật để cúng dường tam thế chư Phật
  5. Vô tận công đức tạng hồi hướng: Do hồi hướng công đức giáo hóa, điều phục chúng sanh nên Bồ tát được đầy đủ công đức, thành tựu tạng công đức như ý.
  6. Nhập nhất thiết bình đẳng thiện căn hồi hướng: Bồ tát bố thí Ba la mật, thường gia hộ chúng sanh mà không có ý niệm được đền đáp, do đó thiện căn của Bồ tát bình đẳng, đồng với chư Phật.
  7. Đẳng tùy thuận nhất thiết chúng sanh hồi hướng: Bồ tát đem tất cả căn lành của mình hồi hướng, là tạng công đức cho tất cả chúng sanh, tùy thuận sở nguyện của họ, giúp họ được thành tựu viên mãn nhất thiết trí.
  8. Chơn như tướng hồi hướng: Bồ tát đem căn lành của mình hồi hướng tướng chơn như, nguyện được thân, khẩu, ý thanh tịnh, vô ngại, được mười trí lực viên mãn của Phật.
  9. Vô phược, vô trước, giải thoát hồi hướng: Bồ tát đem thiện căn của mình hồi hướng tâm vô trước, vô phược, giải thoát để thành tựu biển công hạnh Phổ Hiền Bồ tát.
  10. Nhập pháp giới vô lượng công đức: Bồ tát hồi hướng để nhập pháp giới vô lượng, để thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền, sức tự tại của chư Phật, tùy thời ứng hiện thuyết pháp ở tất cả pháp giới.
V. THẬP ĐỊA còn gọi là THẬP THÁNH
  1. Hoan hỷ địa: Bồ tát sanh tâm hoan hỷ vì đã xa lìa phàm phu, gần gũi chư Phật, nhập cảnh giới bình đẳng, thanh tịnh của Bồ tát, đã lìa kinh sợ như sợ tiếng chê, sợ chết, sợ sa vào ác đạo.
  2. Ly cấu địa: Bồ tát ở bực này đã lìa tâm cấu nhiễm, thực hành Thập thiện với tâm thanh tịnh, đầy bi mẫn, do đại nguyện hồi hướng Phật trí, nhằm cứu độ chúng sanh khỏi các nỗi thống khổ và các cảnh uế trược, cấu nhiễm.
  3. Pháp quang địa: Vì tâm đại từ bi, Bồ tát muốn cứu độ chúng sanh khỏi cảnh giới phiền não nên phải cầu đa văn, cầu pháp quang minh, nhờ đó mà Bồ tát được vô lượng thần thông, được trăm ngàn Tam muội, bao nhiêu thiện căn của Bồ tát đều được sáng tỏ.
  4. Diệm huệ địa: Bồ tát trụ ở địa này phải tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sử dụng huệ phương tiện để đem lợi ích và an lạc cho chúng sanh, do đó Bồ tát được trí huệ thù thắng.
  5. Nan thắng địa: Bồ tát hành Tứ nhiếp pháp để giáo hóa chúng sanh, sử dụng tâm bình đẳng thanh tịnh của mình đối với vạn pháp, vì thế Bồ tát phải thành tựu pháp "ngũ minh", học tập, biết nghề nghiệp, biết khoa học kỹ thuật của thế gian, thuận theo thế gian để làm lợi ích cho chúng sanh.
  6. Hiện tiền địa: Bồ tát quán sát và biết rõ sở dĩ chúng sanh luân hồi là vì chấp ngã, nếu lìa chấp ngã thì không thọ sanh nữa. Nhờ thường xuyên quán sát mười hai nhân duyên nên Bồ tát được "Không" giải thoát hiện tiền, "Vô tướng" giải thoát hiện tiền, "Vô nguyện" giải thoát hiện tiền và được "Bát nhã Ba la mật" hiện tiền.
  7. Viễn hành địa: Với tâm thanh tịnh, Bồ tát được tín giải sai biệt của chúng sanh, hạnh phương tiện của chư Bồ tát và môn trí huệ của Phật. Bồ tát đã hoàn mãn giai đoạn công dụng hạnh của mình, sắp vào trí huệ tự tại hạnh, còn gọi là siêu phiền não hạnh, vượt hẳn hàng Nhị thừa, được "vô sanh pháp nhẫn".
  8. Bất động địa: Các hạnh của Bồ tát ở bực này hoàn toàn vô sai biệt, vô công dụng, hoàn toàn xa lìa ngã tưởng, ngã tướng và chấp trước để chỉ còn trụ nơi báo hạnh Bồ tát nhập hội Đại thừa, được mười trí địa, đứng đầu là Bất động địa.
  9. Thiện huệ địa: Ở bực này, Bồ tát biết đúng như thật tất cả các pháp lành, các thứ tướng của mọi pháp, được tứ vô ngại trí, thành tựu "trí minh", nghĩa là trong khoảng một niệm có thể lãnh thọ tất cả pháp môn của chư Phật không hề quên sót.
  10. Pháp vân địa: Bồ tát được nhập bậc "Thọ chức địa", gọi là "Thọ nhất thiết tối thắng chức vị tam muội". Trong một niệm Bồ tát có thể nhiếp trì tạng bí mật đại pháp minh, đại pháp chiếu, đại pháp vũ, tam thể pháp tạng của một đức Phật và của vô đức Phật.
Ở trên là nói về năm mươi địa vị của bậc Bồ tát, còn hai địa vị Đẳng Giác, Diệu Giác là nói về đức Phật được nhắc đến trong Thập Phật Danh Hiệu, tức là nói về nghĩa của: Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc v.v....

Đọc lại bài viết của đại sư Ấn Quang, tôi bèn nhớ lại bài viết vừa đăng vào do tôi đánh máy lại trong cuốn sách đã nói ở trên. Tìm lại trong các dĩa CD lưu trữ tài liệu Phật pháp thì mất hết rồi và đã nhiều lần đăng bài viết này trên các trang mạng Phật pháp, do các trang ấy bị đánh sập nên không còn tìm lại được. Mong rằng đây là lần cuối cùng, nguyện cho trang diễn đàn "Đại Tạng Kinh Việt Nam" này được an lành để còn giữ gìn những công sức của các đạo hữu chuyên "gánh ngà voi" phát tâm vì Phật pháp, học và hành đạo Bồ tát, siêng tu Tịnh Độ, cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc, gặp Phật A Di Đà và thánh chúng trong pháp hội Liên Trì.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức...

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Cảm ơn đ/h battinh đã đăng đầy đủ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.43 khách