Đường về Cực Lạc

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

XUẤT XỨ CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ

Đức Đại Thông trí Thắng , khi còn ở ngôi quốc vương có mười sáu người con trai. Lúc quốc vương từ bỏ ngai vàng, xuất gia thành Phật thì mười sáu vị vương tử đồng vào pháp hội, xin xuất gia làm sa di. Trải qua một thời gian tu học, mười sáu vị sa di đều chứng ngộ, đều có thần thông, trí tuệ.
Sau khi giảng kinh Diêu Pháp Liên Hoa cho đại chúng trong pháp hội, đức Đại Thông Trí Thắng liền nhập tịnh thất, trụ trong đại định.
Trong thời gian đức Phật nhập thất, mười sáu vị sa di đều lên pháp tòa, giảng rộng nghĩa lý kinh Pháp Hoa cho đại chúng . Mỗi vị bồ tát sa di độ được sau trăm tám mươi muôn ức na do tha, hằng hà sa người.
Mười sáu vị sa di ấy hiện nay đều đã thành Phật , đang ngự trong đạo tràng ở mười phương thế giới. Vị sa di thứ mười sáu thành Phật ở cõi Ta Bà, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Vị sa di thứ chín thành Phật ở thế giới Cực Lạc, tức là đức A Di Đà Phật.
(trích kinh Pháp Hoa )



THÁI TỬ THẮNG CÔNG ĐỨC.

Về thủa quá khứ, có một vị thái tử tên là Bất Tư Nghị - Thắng Công Đức. Năm mười sáu tuổi thái tử được nghe kinh Pháp Bổn Đà La Ni nơi đức Phật Bảo- Công- Đức- Tinh- Tú- Kiếp- Vương Như Lai . Nghe kinh xong, Thái Tử tinh tấn tu tập trong bảy muôn năm không ngủ nghỉ, mà cũng không nằm dựa. Nhờ sức tinh tấn dõng mãnh ấy nên lần lần Thái Tử được gặp chín mươi ức trăm nghìn đức Phật. Bao nhiêu kinh pháp của chư Phật truyền dậy Thái Tử đều có thể thọ trì, tu tập cả. Về sau Thái Tử xuất gia làm sa môn, lại tu tập môn Pháp- Bổn Đà- La- Ni chín muôn năm. và giảng truyền chính pháp cho mọi người. Một đời cần mẫn tu hành và cần mẫn giáo hóa, Thái Tử độ được tám mươi ức na do tha người phát Bồ- Đề- Tâm, trụ bậc bất thoái chuyển.
Thái Tử Thắng- Công- Đức là tiền thân của đức Từ Phụ A Di Đà Phật.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

VUA VÔ TRÁNH NIỆM

Vô lượng hằng hà sa kiếp về trước, ở thế giới San- Đề- Lam, có con trai của quan phụ tướng Bảo- Hải xuất gia thành Phật hiệu là Bảo- Tạng Như- Lai
Bấy giờ vua Vô- Tránh- Niệm cùng với quan phụ tướng, các vị vương tử và thần dân đi đến đạo tràng cúng dường đức Phật Bảo- Tạng. Sau khi nghe đức Phật giảng dạy, vua cùng quan phụ tướng đồng phát Bồ- Đề- Tâm. Đức vua thì nguyện trang nghiêm tịnh độ để nhiếp thọ chúng sinh. Quan phụ tướng thì nguyện thành Phật ở cõi uế độ để điều phục mọi loài.
Đức Phật Bảo- Tạng phán rằng " Quá trăm nghìn muôn ức Phật độ về phương tây, có thế giới của Tôn- Âm- Vương Như- Lai. Một hằng hà sa A- tăng- kỳ kiếp sau thế giới đó sẽ đổi tên là Cực- Lạc, bấy giờ đức vua sẽ thành Phật ở nơi ấy , hiệu là Vô- Lượng- Thọ Như- Lai. Quan phụ tướng Bảo- Hải sẽ thành Phật hiệu là Thích- Ca Mâu- Ni ở thế giới Ta- Bà.
Quan phụ tướng là tiền thân của Bổn sư Thích- Ca Mâu- Ni Phật, vua Vô- Tránh- Niệm là tiền thân của Từ phụ A- Di- Đà Phật.

(01)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

48 ĐẠI NGUYỆN

Thuở xưa quá a tăng kỳ vô số đại kiếp có Phật xuất thế hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Lúc đó có một Quốc Vương nghe đức Phật thuyết pháp lòng rất vui đẹp phát tâm Vô thượng Bồ đề, từ bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ kheo hiệu là Pháp Tạng, đến chỗ đức Phật Thế Tự Tại Vương, cúi lạy chơn đức Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, quỳ dài chắp tay nói kệ tụng khen rằng ……………………………………………………………………….

Tỳ kheo Pháp Tạng nói kệ tụng xong bạch đức Phật Thế Tự Tại Vương rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã phát tâm Vô thượng Chánh giác, xin đức Thế Tôn rộng tuyên kinh pháp cho. Tôi sẽ tu hành nhiếp lấy Phật quốc thanh tịnh vô lượng trang nghiêm. Khiến tôi mau thành bực Chánh giác nhổ hết gốc rễ sanh tử khổ lụy.

Thế Tự Tại Vương Như Lai nói với Pháp Tạng Tỳ kheo rằng:
Công hạnh tu hành trang nghiêm Phật độ, ông tự biết lấy.
Tỳ kheo Pháp Tạng thưa:
Bạch đức Thế Tôn! Nghĩa ấy sâu rộng chẳng phải cảnh giới của tôi. Ngưỡng mong đức Thế Tôn chỉ dạy công hạnh Tịnh độ của chư Phật Như Lai. Tôi được nghe rồi sẽ y theo tu hành để hoàn thành sở nguyện.

Lúc ấy đức Phật Thế Tự Tại Vương biết Tỳ kheo Pháp Tạng cao minh chí nguyện sâu rộng liền giảng dạy rằng:
Ví như biển cả kia, có một người lấy đấu múc nước trải qua kiếp số còn có thể cạn đến đáy được châu báu vi diệu. Có người chí tâm tinh tiến cầu đạo chẳng thôi, tất sẽ kết quả, có nguyện gì mà chẳng được thành.

Rồi Đức Thế Tự Tại Vương Phật nói rộng hai trăm mười ức quốc độ chư Phật, những là sự thiện ác của hàng thiên nhơn, những sự xấu tốt của cõi nước, và ứng theo tâm nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng mà hiện rõ ra cho thấy cả. Nghe và thấy các quốc độ nghiêm tịnh, Tỳ kheo Pháp Tạng phát khởi thệ nguyện thù thắng Vô thượng, tâm Ngài tịch tịnh, trí Ngài rỗng rang, tất cả thế gian không có ai bằng. Trọn đủ năm kiếp, Ngài suy xét nhiếp lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật.”

Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai nói:
Nay ông nên trình bày, phải biết là đúng lúc, để phát khởi và làm vui đẹp tất cả đại chúng. Bồ tát tu hành pháp ấy thì sẽ đầy đủ vô lượng đại nguyện.

Tỳ kheo Pháp Tạng thưa:
Bạch đức Thế Tôn! Mong được xét soi, tôi sẽ trình rõ những điều nguyện mà tôi đã phát.
1) - Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
2) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
3) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều thân màu vàng ròng thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
4) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sắc thân chẳng đồng có kẻ xấu người đẹp thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
5) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng biết túc mạng, tối thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
6) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhãn, tối thiểu là thấy trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
7) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
8) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được tha tâm trí, tối thiểu là biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
9) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thần túc, tối thiểu là khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức na do tha nước Phật thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
10)- Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
11) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ quyết đến diệt độ thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
12) - Giả sử khi tôi thành Phật, quang minh có hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
13) - Giả sử khi tôi thành Phật, thọ mạng có hạn lượng, tối thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
14) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thanh văn trong nước tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến chúng sanh trong cõi Đại Thiên đều thành bực Duyên giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
15) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi thọ mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài ngắn tự tại. Nếu chẳng như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
16) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi mà còn nghe danh từ bất thiện thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
17) - Giả sử khi tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
18) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
19) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
20) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
21) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
(03)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

22) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất đến bực Nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi đạo chánh chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
23) - Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
24) - Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
25) - Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi chẳng thể diễn nói Nhứt thiết trí thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
26) - Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi chẳng được thân Kim Cương Na la diên thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
27) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn và tất cả vạn vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc đặc biệt lạ cùng vi tột diệu không ai lường biết được, dầu là có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
28) - Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi, nhẫn đến người công đức ít nhứt mà chẳng thấy biết đạo tràng thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
29) - Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát trong nước tôi nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
30) - Giả sử khi tôi thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
31) - Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
32) - Giả sử khi tôi thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương. Bồ tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh
giác.
33) - Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được quang minh tôi chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên nhơn. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
34) - Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi mà chẳng được Bồ tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
35) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng nữ nhơn của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
36) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
37) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ tát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
38) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợi tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
39) - Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ kheo thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
40) - Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ tát nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
41) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
42) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được thanh tịnh giải thoát tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
43) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
44) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
45) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được phổ đẳng tam muội, an trụ trong tam muội này đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
46) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát trong nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
47) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đến bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
48) - Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
(05)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

HAI VỊ VƯƠNG TỬ

Khi vua Vô- Tránh- Niệm phát nguyện và được thọ ký xong , thái tử Bất Huyền, trưởng tử của vua phát Bồ Đề tâm, đối trước Phật phát nguyện rằng " Sau này, khi tôi tu Bồ Tát hạnh, nếu có chúng sinh nào gặp phải các sự khổ não, khủng bố, .....sầu lo. Cô cùng không ai cứu hộ không chỗ cậy nương, nạn nhân ấy nhớ đến tôi, xưng danh hiệu của tôi, được thiên nhĩ tôi nghe đến, thiên nhãn tôi thấy đến nếu chúng sinh đó chẳng được thoát khỏi các sự khổ não, khủng bố thì tôi thề không thành bậc Chánh Giác. Và khi vua cha thành Phật ở thế giới Cực Lạc thì tôi thường ở thế giới đó thực hành Bồ Tát đạo và hộ trì chánh pháp".
Đức Bảo- Tạng Như- Lai bảo thái tử " Ông quan sát tất cả chúng sinh mà sanh lòng đại bi muốn dứt tất cả sự khổ não của chúng sinh và muốn cho chúng sinh đều được an lạc, nên nay ta đặt hiệu cho ông là Quán Thế Âm. Về sau lúc đức Vô- Lượng- Thọ nhập Niết- Bàn , cõi Cực Lạc đôi tên là Nhứt- Thiết- Trân- Bảo- Thành- Tựu Thế- Giới, ông sẽ thành Phật ở nơi ấy hiệu là Biến- Xuất- Nhất- Thiết- Quang- Minh- Công- Đức- Sơn- Vương Như- Lai ".
Bấy giờ vương tử Ni- Ma con thứ của vua , phát nguyện đem tất cả công- đức hồi hướng Vô- Thượng Bồ- Đề, và lúc thái tử Bất- Huyền thành Phật, người sẽ là vị Bồ- Tát thỉnh chuyển pháp- Luân trước nhứt, thường ở luôn một bên Sơn- Vương Như- Lai giúp Phật hoằng hóa.
Đức Bảo-Tạng Như- Lai thọ ký cho vương tử Ni- Ma sẽ được toại nguyện, lúc Sơn- Vuong Như- Lai nhập Niết- Bàn người sẽ hộ trì chánh pháp và sau cùng sẽ thành Phật nơi thế giới ấy hiệu là Thiện- Trụ Công- Đức Bảo- Vuong Như- Lai.
Thái Tử Bất- Huyền là tiền thân của Quan- Thế- Âm Bồ- Tát, vương tử Ni- Ma là tiền thân của Đại- Thế- Chí Bồ- Tát.
(Trích kinh Bi- Hoa )

(06)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

THÂN TƯỚNG PHẬT A DI ĐÀ

Thân của đức A Di Đà Phật như trăm ngàn muôn ức lần sắc vàng diêm- phù- đàn của cõi trời Dạ Ma , cao sáu mươi muôm ức hằng hà sa do- tuần . Lông trắng giữa chân mày uyển chuyển xoáy tròn về phía hữu như năm trái núi Tu- Di , đôi mắt trắng xanh biếc như bốn đại hải , các lỗ chân lông nơi thân đều phóng ánh hào quang như núi Tu- Di. Viên quang của dức Phật lớn như trăm ức cõi đại thiên. Trong viên quang có trăm muôn ức na do tha hằng hà sa vị hóa Phật, mỗi hóa Phật lại có vô số hóa Bồ Tát theo hầu.
Thân mình của đức Phật có tám mươi bốn ngàn tướng tốt, mỗi tướng có tám muôn bốn nghìn tùy hình hảo, mỗi hình hảo có tám muôn bốn nghìn tia sáng. Mỗi tia sáng chiếu khắp thập phương thế giới, nhiếp lấy chúng sinh niệm Phật không bỏ rơi. Sắc đẹp của những tia sáng cùng với hóa Phật không thể dùng lời tả xiết.
Muốn quán tướng hảo của Phật thì nên quán tướng lông trắng giữa chân mày trước. Nếu tướng lông trắng hiện rõ thì bao nhiêu tướng hảo khác tự lần lượt hiển hiện.
Trích kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật.

Ghi chú: Thân Phật cũng là thế giới của Phật.
(06)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

THÂN TƯỚNG CỦA BỒ TÁT QUAN -THẾ- ÂM.
Thân của Bồ Tát Quan-Thế-Âm cao tám mươi muôn ức na- do- tha do- tuần, da màu vàng tử kim, trên đỉnh đầu có nhục kế,cổ có vầng sáng tròn, mỗI phía rộng trăm ngàn do tuần trong vầng sáng tròn ấy có năm trăm vị hóa Phật , mỗi vị hóa Phật tướng tốt như Phật Thích- Ca Mâu- Ni và có năm trăm vị hóa Bồ-Tát làm thị giả.
Toàn thân ánh sáng chiếu suốt mười phương, hình tướng của chúng sinh trong lục đạo đều hiện rõ trong ánh sáng ấy.
Trên đầu Bồ Tát có thiên quan, trong thiên quan có một vị hóa Phật cao hai mươi lăm do tuần.
Mặt Bồ Tát sắc vàng diêm- phù- đàn.
Lông trắng giữa đôi mày đủ bảy màu báu đẹp, chiếu ra tám muôn bốn ngàn thứ tia sáng thấu khắp mười phương. Trong mỗI tia sáng có vô số vị hóa Phật và vô số vị hóa Bồ Tát.
Cánh tay Bồ Tát màu như hoa sen hồng, tám mươi ức tia sáng đẹp kết thành chuỗi ngọc, bàn tay năm trăm ức màu hoa sen hồng,đầu ngón tay có tám muôn bốn ngàn lằn chỉ mỗI lằn chỉ có tám muôn bốn ngàn màu, mỗI màu có tám muôn bốn ngàn tia sáng, tia sáng ấy dịu dàng chiếu khắp mười phương. Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát dùng tay báu này tiếp dẫn chúng sanh về nước Cực Lạc.
Lúc Bồ-Tát cất chân lên từ nơi ngàn xoáy chỉ ở lòng bàn chân tự nhiên hóa thành năm trăm ức quang minh đài. Lúc Bồ-Tát để chân xuống thì tự nhiên bông kim-cang như ý rướI khắp mọi nơi.
Muốn quán tướng hảo của Bồ-Tát thì nên bắt đầu quán thiên quan trước , rồI sẽ tuần tự quán các tướng khác.
(trích kinh Quán Vô-Lượng-Thọ Phật)



ĐẠI -THẾ - CHÍ BỒ - TÁT

THÂN TƯỚNG BỒ - TÁT ĐẠI - THẾ - CHÍ
Thân tướng của ĐạI -Thế - Chí Bồ - Tát đồng như thân tướng của Quan -Thế - Âm Bồ -Tát. Viên quang nơi cổ mỗI phía rộng một trăm hai mươi lăm do tuần , chiếu xa hai trăm năm mươi do tuần . Ánh sáng cuả toàn thân màu vàng tử kim chiếu thấu thập phương thế giớI, ngườI có duyên liền được thấy. Chỉ được thấy ánh sáng nơi một lỗ chân lông Bồ - Tát thì liền được thấy quang minh tịnh diệu của vô lượng chư Phật ở mười phương, vì thế Bồ - Tát có tên là Vô – Biên - Quang . Bồ - Tát dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp mọI loài làm cho chúng sanh thoát khỏI tam đồ thành vô – thượng – lực nên lạI có hiệu là Đại – Lực Đại – Thế - Chí
Thiên quan của Bồ - Tát có năm trăm bảo hoa , mỗI bảo hoa có năm trăm bảo đài , hình tướng những thế giới tịnh diệu của chư Phật mườI phương đều hiện rõ bóng trong mỗi bảo đài.Trên đỉnh đầu , nhục kế hình như hoa sen hồng. Trên nhục kế có cái bình báu đựng đầy ánh sáng. Ánh sáng trong bình chiếu ra hiện thành những Phật sự . Ngoài ra những tướng hảo khác đều đồng như đức Quán – Thế - Âm Bồ - Tát.
Lúc Đại – Thế - Chí Bồ - Tát đi thì chấn động cả mười phương thế giới . Chính chỗ động đất ấy có năm trăm ức bảo hoa, mỗi bảo hoa cao đẹp trang nghiêm như Cực - Lạc thế giớI Lúc Bồ - Tát ngồi thì toàn cõi Cực – Lạc đồng thời lay động , từ thế giới của đức Kim – Cang Phật ở hạ phương đến thế giớI của đức Quang – Minh – Vuong Phật ở thượng phương trong đó có vô lượng trần số phân thân của Vô – Lượng – Thọ Phật, phân thân của Quán – Thế - Âm Bồ -Tát cùng phân thân của Đại -Thế - Chí Bồ -Tát , tất cả đều vân tập nơi Cực - Lạc thế giới đông chật cả hư không. MỗI phân thân đều ngồi tòa sen báu đồng diễn nói diệu pháp cứu khổ chúng sanh.
(Trích kinh Quán Vô – Lương – Thọ Phật)
(07)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Đường về Cực Lạc (20/12/2016)

NHÂN DÂN CỰC - LẠC

Nhân dân cõi Cực – Lạc thế giới , thân kim cang từ hoa báu sinh ra , da màu huỳnh kim, tất cả mọI người đều đủ ba mươi hai tướng tốt, đồng xinh đẹp như nhau.
Đức Bổn Sư từng hỏI tôn giả A – Nan : Gã ăn mày đứng bên vị đế vương , hình dung của hai người có giống nhau không?
Tôn giả đáp : Bạch Thế - Tôn, gã ăn mày hình dung xấu xí, nhớp nhúa, đâu sánh với vị đế vương được.
Đức Bổn sư phán : Vị đế vương dầu là sang đẹp nhưng sánh với vị Chuyển Luân Thánh Vương thì cũng như gã ăn mày .Trăn ngàn muôn lần quí đẹp của Chuyển- luân thánh- vương cũng không bằng thiên Đế Thích.Trăm ngàn muôn lần quí đẹp của thiên Đế - Thích cũng không bằng Tự- Tại Thiên- Vương. Trăn ngàn muôn lấn quí đẹp của Tự Tại Thiên Vương cũng không sánh bằng các vị thượng thiện nhân nơi Cực – Lạc thế- giới, nhân dân của đức Phật A – Di – Đà.
Trích kinh Vô – Lượng - Thọ Phật.


BẢO ĐỊA

Toàn cõi Cực - Lạc , đất lưu ly trong suốt.Phía dưới có tràng kim cang nâng đỡ. Tràng kim cang ấy tám góc đều đặn , mỗi mặt có trăm thứ bảo châu, mỗI bảo châu phóng ra ngàn tia sáng, mỗI tia sáng có tám muôn bốn ngàn màu, chói đất lưu ly sáng như ngàn ức mặt trời. Mặt lưu ly bằng phẳng có dây bằng vàng ròng, và dây thất bảo giăng phân khu vực đường xá. Mỗi dây báu phóng tia sáng trăm màu, tia sáng ấy hình như hoa, như trăng, như sao chiếu lên kết thành đài sáng chói ở giữa chừng không. Bên những đài sáng áy có trăm ức tràng hoa cùng vô số nhạc khí. Từ trong đài sáng thổi ra tám thứ gió nhẹ mát làm rung động những thứ nhạc khí ấy, làm reo lên tiếng diễn nói các pháp : Khổ, không, vô thường, vô ngã, từ- bi –hỷ- xả , và các môn Ba- La – Mật .
( trích kinh Thập lục quán)

BẢO THỌ

Trên bảo địa này có vô số cây chiên - đàn - hương , vô số cây kiết - tường - quả ngay hàng thẳng lối, nhánh lá, bông trái đều đặn chỉnh tề. Mỗi cây cao tám muôn do tuần. Thân lá, bông trái đều làm bằng thất bảo. Hoặc có cây thuần vàng, thuần bạc, thuần lưu ly, thuần pha lê, thuần xà cừ, thuần mã não, thuần trân châu.Hoặc thứ cây gốc vàng, thân bạc, nhánh lá, bông trái cũng phân vàng bạc. đây là cây hai chất báu.Có thứ cây gốc vàng thân bạc, nhánh lưu ly, lá, bông, trái cũng phân vàng, bạc, lưu ly, đây là cây ba chất báu. Hoặc thứ cây thì bốn chất báu, thứ cây năm chất báu, thứ cây sáu chất báu, thứ cây bảy chất báu cũng xen nhau hợp thành.
Tất cả Phật sự trong cõi Cực – Lạc đều hiện rõ bóng trong cây, và thập phương thế giới cũng hiện bóng rõ trong cây.như trong gương sáng.
Mỗi lá rộng, dài hai mươi lăm do tuần , một ngàn màu đồng phóng ánh sáng đẹp, làn gân trên lá như chuỗi ngọc.
Những bông xinh đẹp sắc vàng diêm phù đàn xen trong kẽ lá sáng rỡ như những vòng lửa. Trên bông tự nhiên có trái thất bảo hình như chiếc bình quí của thiên đế. Nơi trái phóng ra ánh sáng lớn tụ thành vô lượng tràng phan bảo cái . Trong bảo cái ấy chói hiện tất cả Phật sự trong cõi nước Cực Lạc cùng cả thập phương thế giới.
Bẩy lớp lưới kết bằng diệu trân châu giăng trên mỗi bảo thọ. Mỗi khoản lưới có cung điện xinh đẹp như cung trời Phạm Thiên Vương. Trong cung điện tự nhiên có các thiên đồng. Mỗi thiên đồng đeo chuỗi năm trăm hột ngọc ma ni. Mỗi hột ma ni chiếu sáng trăm do tuần làm cho trên cây chiếu sáng như trăm ức mặt trời , mặt trăng hiệp lại.
(Trích kinh Thập Lục Quán)
**
BẢO TRÌ

Cực - Lạc thế giớI nơi nơi đều có ao tắm. Thành ao băng thất bảo. Đáy ao trải cát kim cang nhiều mầu. Mỗi ao rộng trăm ngàn do tuần, xem như biển cả.
Trong mỗI ao có sáu mươi ức hoa sen thất bảo. Mỗi bông tròn lớn mười hai do tuần, đủ các mầu đẹp, màu nào chiếu ánh sáng nấy.
Trong ao nước bát công đức thủy từ như ý châu vương sanh, nước màu thất bảo lên xuống theo cộng sen chảy lòn vào cánh bông. Tiếng nước chảy thanh tao diễn nói pháp màu: Khổ, không, vô thường, vô ngã, các môn ba – la - mật.
Nơi như ý châu vương phóng ánh sáng sắc vàng. Trong ánh sáng hóa thành các thứ chim đẹp đủ màu : Bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mạng …bay lượn kêu hót hòa nhã diễn nói những pháp : Ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề, bát chánh đạo…, cùng ca ngợi: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Mặt nước làn sóng gợn lăn tăn nổi lên nhiều tiếng dịu dàng: tiếng Phật, Pháp, Tăng tiếng không vô ngã đại từ bi, tiếng ba la mật, tiếng thập lực vô úy, bất cộng, tiếng thần thông trí tuệ, tiếng vô tạo tác bất sanh diệt, vô sanh nhẫn, cho đến diễn nói tiếng cam lồ quán đảnh, cùng vô biên diệu pháp. Người nghe những tiếng ấy tâm liền thanh tịnh, thiện căn thành thục, trọn không thối chuyển nơi đạo vô thượng Bồ Đề.
Người nước Cực - Lạc, các thượng thiện nhân, lúc vào ao để tắm, nếu ý muốn ngập chân thì nước chỉ ngập chân, nếu ý muôn nước ngang bụng thì nước liền đến bụng, cho đến ý muốn nước đến cổ thì mặt nước liền lên cao đến cổ. Nước ao theo ý muốn mỗi người mà sâu cạn, ấm mát, điều hòa rất thuận thích. Người tắm thân thể nhẹ nhàng, khoan khoái , tâm thần yên vui tịch tịnh sáng suốt.
( trích các kinh A – Di – Đà, Thập Lục Quán, Vô Lượng Thọ)

(09)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

BẢO LÂU

Bốn phía ao báu , những thềm, bực, đường xá do vàng, bạc, pha lê, lưu ly v v… hiệp thành, trên có vô số cung điện nhiều từng .
Những tòa lâu đài này đều bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê v v …nhẫn đến vô lượng chất báu xây thành.
Giảng đường, tịnh xá, lầu các cung điện của Phật A Di Đà, của chúng Bồ Tát, của nhân dân, trăm nghìn muôn lần đẹp, quí hơn cung điện của Tự Tại Thiên Vương nơi cõi Sa - Bà này.
Những đền đài ấy, có thứ nổi lên giữa chừng không như mây, cao lớn tùy theo ý muốn của người ở. Có hạng không tùy theo ý muốn mà trụ trên bảo địa . Đó là do công hạnh sâu dầy hay kém ít, nên chỗ ở khác nhau như thế. Nhưng những sự hưởng dụng như ăn, mặc v v …đều bình đẳng .
Bốn phía đền đài đều trang nghiêm với những hoa tràng cùng vô lượng nhạc khí . Gió mát nhẹ rung những nhạc khí ấy hòa reo thành tiếng Pháp: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, Từ - Bi, Hỉ - Xả, các môn Ba – La – Mật.
(Trích kinh Thập Lục Quán)

BẢO TỌA

Cực Lạc thế giới, đức Phật, cư Bồ Tát, nhân dân đều ngồi trên tòa sen báu. Nững tòa sen ấy , từ một chất báu, hai chất báu, nhẫn đến vô lượng chất báu hợp thành, màu sắc đẹp lạ, quang minh sáng chói, lớn nhỏ xứng theo thân người ngồi.
Dưới đây là tòa sen báu của đức Phật ngự:
Tòa sen này có 84.000 cánh mỗi cánh rộng 250 do tuần, 100 màu. Trên mỗi cánh sen có 84.000 đường gân, phóng ra 84.000 tia sáng. Xen vào mỗi cánh sen có cả trăm ức hạt châu mani. Mỗi hột châu mani phóng ra nghìn tia sáng. Các tia sáng này kết tụ lại như hình cây lọng.
Đài sen bằng chất Thích ca tỳ lăng già bảo, trang nghiêm với tám muôn thứ ngọc kim cương, ngọc mani cùng mành lưới kết bằng trân châu.
Trên đài sen có bốn trụ báu. Mỗi trụ báu cao đẹp như trăm nghìn muôn ức núi Tu Di. Trên đầu bốn trụ báu, mành lưới báu trùm giăng rộng lớn như cõi trời Dạ Ma. Mành lưới báu ấy có năm trăm ức hạt bảo châu. Mỗi bảo châu chiếu ra 84.000 tia sáng. Mỗi tia sáng ấy có 84.000 kim sắc Các sắc vàng ấy sáng chói khắp mặt bảo địa, nơi nơi biến thành những tướng trạng khác nhau: hoặc hóa ra đài kim cương, hoặc hóa ra lưới trân châu, hoặc hóa làm những lùm mây hoa đẹp sáng v.v… hiện thành Phật sự ở khắp các nơi trong cõi Cực Lạc. ..
Khi giảng xong sự lớn đẹp, vi diệu của tòa sen báu. Đức bổn sư kết luận rằng Tòa sen báu đó có là do nguyện lực của tiền thân Phật A Di Đà, là Pháp Tạng Bồ Tát.

(11)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NHÂN DÂN
1 – Liên Hoa Hóa Sanh
Phàm thân mình có ra, ban sơ đều do thần thức gá vào một nơi để thành. Khác hẳn với người cõi Ta Bà gá nơi bụng bà mẹ, người tu tịnh nghiệp lúc vãng sanh Cực Lạc thế giới, thời thân thể gá trong hoa sen báu nơi bảo trì mà hóa sanh. Tịnh Ðộ Luận nói: “Nhơn dân thanh tịnh của đức Phật A Di Ðà từ hoa báu trí giác hóa sanh”.
Lúc thần thức được Phật và Bồ Tát rước về Cực Lạc liền hóa vào hoa sen, khi hoa còn búp thời gọi là “ở thai sen”. Dầu thân hình chưa ra khỏi búp hoa, nhưng cảnh tượng và những sự hưởng thọ ở trong hoa đã vui đẹp hơn ở các cõi ở Ta Bà.
Những hoa báu để thác sanh, sự quý đẹp có khác nhau, và thời gian hoa nở cũng chậm mau không đồng. Ðó là vì công đức và trí tuệ của mỗi thần thức thác sanh có hậu bạc cùng sâu cạn không đồng nhau.
Do sự không đồng nầy nên Cực Lạc thế giới có chín phẩm liên hoa: ba phẩm thượng, ba phẩm trung, ba phẩm hạ.
Ba phẩm bực thượng thời liên hoa bằng chất kim cương, bằng vàng tử kim, hay huỳnh kim. Thời gian hoa nở thời vừa thác sanh liền nở, hay cách đêm, hoặc một ngày đêm. Ðây là phần của những vị trước khi vãng sanh, tu hạnh đại thừa, phát Bồ Ðề tâm, thâm ngộ diệu lý vô sanh, tự hành hóa tha, công đức dày, trí huệ sâu mà hồi hướng nguyện sanh về Cực Lạc thế giới.
Sáu phẩm dưới thời liên hoa bằng chất thất bảo. Thời gian hoa nở: hoặc nở liền, hoặc bảy ngày đêm, hoặc hai mươi mốt ngày hoặc bốn mươi chín ngày v.v…
Ba phẩm liên hoa bực trung là phần của những người trai giới tinh nghiêm, cùng người hiếu thảo, những nhà từ thiện, mà dốc lòng cầu về Cực Lạc thế giới.
Ba phẩm bực hạ là phần của những người không biết tu tập, không biết làm lành, cho đến những kẻ ở đời gian ác, đến khi sắp chết, lúc hấp hối, mà biết ăn năn tội lỗi rồi chí tâm xưng niệm “Nam mô A Di Ðà Phật” thiết tha cầu sanh Cực Lạc thế giới.
Cứ nơi chín phẩm liên hoa đây, thời thấy rằng: Cực Lạc thế giới là chỗ đồng về của tất cả Thánh và Phàm ở mười phương. Chẳng những là đạo tràng của các vị đại thừa Bồ Tát, của những bực đại tâm Thanh Văn, Duyên Giác, của những người tinh tấn tu trì, của các nhà từ thiện làm lành tránh dữ, mà Cực Lạc thế giới cũng là gia hương của những kẻ tội ác; nhẫn đến mọi loài. Nếu ai tin chắc chí tâm niệm Phật rồi hồi hướng cầu sanh thời đều được về cả, vì nhờ sức nhiếp thọ tiếp dẫn của đức Từ Phụ và chư Bồ Tát. Chỉ trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp. Sau khi được vãng sanh Cực Lạc thời thành bực Thượng Thiện, trụ bực Bất Thối, đồng dự hải hội.
Nơi Cực Lạc, người từ liên hoa hóa sanh. Phật Bồ Tát và nhơn dân đều ngồi tòa sen báu. Vì thế nên Cổ Ðức kêu Cực Lạc thế giới là “Liên Bang” (cõi sen), gọi Thánh Chúng là “Liên Trì Hải Hội”, đặt tông Tịnh Ðộ là “Liên Tông”, gọi hội niệm Phật là “Liên Xã”, kêu bạn niệm Phật là “Liên Hữu” (bạn sen).

2 – Thân Thể
Nhơn dân nơi Cực Lạc thế giới, thân kim cương từ hoa sen báu sanh ra, da màu huỳnh kim. Tất cả mọi người đều đủ 32 tướng hảo đại nhơn, đồng xinh đẹp như nhau.
Ðức Bổn Sư từng hỏi Tôn Giả A Nan: “Như gã ăn mày đứng bên vị Ðế Vương, thời hình dung của hai người có giống nhau không?”.
Tôn Giả đáp: “Bạch Thế Tôn! Gã ăn mày hình dung xấu xí nhớp nhúa, đâu sánh với vị Ðế Vương được”.
Ðức Bổn Sư phán: “Vị Ðế Vương dầu là sang đẹp, nhưng sánh với Chuyển Luân Thánh Vương thời cũng như gã ăn mày. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Chuyển Luân Thánh Vương cũng không bằng Thiên Ðế Thích. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Thiên Ðế Thích cũng không bằng Tự Tại Thiên Vương. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Tự Tại Thiên Vương sánh không bằng các vị Thượng Thiện Nhơn nơi Cực Lạc thế giới, nhơn dân của đức Phật A Di Ðà".

(12)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

3 - Thuần Vui Không Khổ
Nhơn dân nơi Cực Lạc thế giới không có tất cả sự khổ, chỉ hưởng thuần những sự vui thanh tịnh.
Phàm những sự thống khổ của muôn loài nhiều đến vô lượng. Tóm lại thời có 8 điều: 1.- Khổ khi sanh ra. 2.- Khổ khi già yếu. 3.- Khổ lúc bịnh. 4.- Khổ về sự chết. 5.- Khổ vì phải ly biệt người thân mến. 6.- Khổ vì gặp phải kẻ oan thù. 7.- Khổ vì không được toại vọng. 8.- Khổ vì thân tâm đòi hỏi phóng túng.
Nơi Cực Lạc thế giới, người từ hoa sen báu hóa sanh, thời là không “sanh khổ". Thâm kim cương luôn khương kiện, trẻ đẹp, thời không là “lão khổ” và không “bịnh khổ”. Thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp mãi đến bổ xứ thành Phật, thời là không “tử khổ”. Không cha mẹ, vợ con, thời là không “ái biệt ly khổ". Chư Thượng Thiện Nhơn thường chung cùng hội hiệp, thời là không “oán tắng hội khổ". Cầu muốn điều chi hay vật chi đều liền được toại ý, thời là không “cầu bất đắc khổ”. Không thân kiến mà tâm luôn thanh tịnh, thời không “ngũ ấm xí thạnh khổ".
Khổ gì có được ở thế giới, mà nơi ấy sự trang nghiêm thanh tịnh đã đến tuyệt đích!
Cực Lạc thế giới, ngoài các sự vui đẹp về vật chất như ăn mặc, ao tắm, nhà ở v.v…, người Cực Lạc đồng được hưởng những điều vui cao quý hy hữu: 1.- Thường được thấy Phật gần Phật. 2.- Chư đại Bồ Tát là thầy là bạn cùng chung hội hiệp. 3.- Luôn được nghe tiếng diễn nói pháp mầu, không luận chỗ nào và lúc nào, nếu muốn nghe. 4.- Thường được chư Phật hộ niệm. 5.- Sống lâu vô lượng kiếp đồng với Phật. 6.- Không còn lo bị đọa vào ác đạo. Ở Cực Lạc, danh từ ác đạo còn không có thay huống là sự thật! 7.- Vĩnh viễn thoát ly luân hồi. 8.- Thọ dụng tự nhiên, khỏi bận rộn bê trễ công phu hành đạo. 9.- Ðược vào bực chánh định không còn thối thất đạo vô thượng. 10.- Hiện một đời thành Phật.

4 - Thọ Dụng Tự Nhiên
Cực Lạc thế giới từ cung điện đền đài, bảo trì, bảo thọ cho đến tất cả vật dụng, đều bằng thất bảo tự nhiên hiện thành, không phải xây dựng tạo tác.
Người Cực Lạc lúc muốn mặc thời y phục đúng pháp tự nhiên ở trên thân.
Ðến giờ ăn nếu là người muốn bát dĩa vàng, thời bát dĩa vàng liền hiện ra trước mặt. Người muốn bát dĩa bạc, hay bát dĩa lưu ly, thủy tinh, minh nguyệt châu, như ý châu v.v… thời bát dĩa đúng như ý muốn hiện ra trước mặt. Thức ăn thức uống thơm ngon đựng sẵn trong dĩa bát, vừa theo lượng người ăn không dư, không thiếu. Ăn xong, bát dĩa tự ẩn đi, đến giờ ăn lại hiện đến, khỏi dọn khỏi cất. Vật thực vào thân tự nhiên tiêu tan lần, hóa thành hơi thơm theo lỗ chưn lông tiết ra ngoài, không còn cặn bã, tẩm bổ thân thể thêm sự khỏe mạnh, tâm được an vui như bực vô lậu.
(13)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Đường về Cực Lạc

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

5 – Tâm Tánh Và Thần Thông
Cực Lạc thế giới, người đều trí huệ sáng suốt, biện tài vô ngại. Không một ai dung ngu. Lúc nghĩ tưởng, thời đều thuần là quan niệm đạo đức. Vì thế nên lời nói ra thuần là đúng chánh pháp. Mọi người đều yêu kính nhau. Không tham, không sân, không si, không thân kiến. Các căn tịch tịnh, không phóng dật, không vọng duyên.
Người người đều đủ 5 thứ thần thông:
1.- Thiên nhãn thông, thấy suốt mười phương, người kém nhứt cũng thấy được trăm nghìn ức na do tha thế giới.
2.- Thiên nhĩ thông, nghe thấu mười phương. Người kém nhứt cũng nghe được tiếng thuyết pháp của trăm nghìn ức na do tha đức Phật. Nghe rồi đều nhớ hiểu được cả.
3.- Tha tâm không, rõ biết tâm niệm của người khác, người kém nhứt cũng biết được những tâm niệm của các loài chúng sanh trong trăm nghìn ức na do tha thế giới.
4.- Túc mạng thông, nhớ rõ những đời trước. Người kém nhứt cũng biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na do tha kiếp về quá khứ và vị lai.
5.- Thần túc không, trong khoảng thời gian một niệm đi khắp mười phương, người kém nhứt cũng đi được trăm nghìn ức na do tha thế giới.

6 – Công Việc Thường Ngày
Nhân dân Cực Lạc, mỗi sáng sớm, đem bông báu đẹp cúng dường Bổn Phật (A Di Ðà) và vô lượng chư Phật ở thế giới khác. Nếu muốn cúng dường hoa hương, kỹ nhạc, hoặc muốn cúng dường y phục, bảo cái, tràng phan v.v… đương lúc ở trước chư Phật nơi thế giới khác, do oai thần nguyện lực của Bổn Phật A Di Ðà, đồ cúng dường quý đẹp đúng theo ý muốn, liền hiện trên không nhóm lại như mây, rồi uyển chuyển nhẹ nhàng rơi xuống đạo tràng thành cúng dường. Lại còn dùng âm thanh vi diệu ca tụng công đức của chư Phật, kính nghe kinh pháp của chư Phật dạy. Cúng dường nghe pháp xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về, đến bổn quốc (Cực Lạc) vẫn còn trước giờ ăn.
Người Cực Lạc sau khi dùng bữa xong đi kinh hành tư duy diệu pháp, hoặc niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Người Cực Lạc, sau khi tắm nơi bảo trì, rồi ngồi trên hoa sen báu tu tập đạo pháp.
Nơi Cực Lạc thế giới, người thời ở trên hư không mà giảng kinh, người thời tụng kinh, người thời tự thuyết kinh, người thời dạy kinh, người thời nghe kinh, người thời tư duy diệu nghĩa, người thời tọa thiền nhập định, người thời đi kinh hành v.v…
Hoặc có những người ở trên bảo địa mà giảng kinh, tụng kinh, thuyết kinh, dạy kinh, nghe kinh hay là tư duy diệu pháp, tọa thiền nhập định cùng đi kinh hành v.v…
Do sự hành đạo nầy, người chưa chứng tứ quả thời chứng tứ quả, người chưa nhập bất thối địa thời nhập bực bất thối…

(14)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.21 khách