Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(23/7/2018) (169) T7

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh về nước tôi tự biết các việc thiện ác đã làm trong túc mạng đến vô lượng kiếp, đều trông thấy rõ ràng, nghe rành rẽ, biết được các việc trong quá khứ, hiện tại, vị lai suốt mười phương.
(nguyện thứ sáu: đắc túc mạng thông; nguyện thứ bảy: đắc thiên nhãn thông; nguyện thứ tám: đắc thiên nhĩ thông)

Giải:
Chương này nói rõ chúng sanh cõi ấy viên mãn nguyện thứ sáu ‘túc mạng thông', nguyện thứ bảy ‘thiên nhãn thông’ và nguyện thứ tám ‘thiên nhĩ thông’.
Thông là nói tắt chữ ‘thần thông’. Thần dị đến cùng cực, chẳng lường nổi công hạnh thì gọi là ‘thần’. Làm gì cũng chẳng bị úng tắc, tự tại vô ngại thì là ‘thông’. Có sáu thứ thần thông, thường gọi là lục thông, tức là: túc mạng thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông và lậu tận thông. Trong sáu loại thần thông này, loại thứ sáu chỉ bậc thánh (từ A La Hán trở lên) mới có, năm loại trước phàm phu, dị sanh (không phải loài người) cũng có thể đạt được. Chư thiên trong tam giới do quả báo nên đều tự nhiên cảm được năm thứ thần thông đầu (thậm chí quỷ thần cũng có chút thần thông), nhưng chẳng đắc lậu tận thông. Chỉ bậc thánh mới chứng nổi lậu tận thông vì phải đoạn sạch phiền não mới là lậu tận vậy. Cần chú ý một điều là chúng sanh nơi Cực Lạc chứng được những thần thông vượt xa những thứ thần thông do Thiền Ðịnh phát sanh như trong các kinh luận khác đã nói. Nêu một ví dụ: phàm phu đạt được túc mạng thông thì không thể biết việc quá khứ lâu hơn tám vạn kiếp được. Trong kinh này lại nói biết đến vô lượng kiếp là do chúng sanh nơi Cực Lạc nhờ vào sức bổn nguyện của Phật mà đạt được thần thông Ðại thừa bất cộng nên vượt xa phàm phu lẫn Tiểu thừa.
Sách Bình Giải bảo: ‘Tiểu thừa chỉ dựa vào bốn căn bản định để chứng đắc năm thứ thần thông đầu. Với lậu tận thông, họ còn ở mức tứ thiền chưa đạt đến trung gian và ba thứ vô sắc (chữ ‘vô sắc’ ở đây chỉ vô sắc định. Chữ ‘ba’ trong câu nói trên là lầm. Có tám thứ định là tứ thiền của Sắc giới và tứ vô sắc định của Vô Sắc giới). Ðại thừa nương vào hết thảy định nên đều đạt được cả sáu.
Những thần thông nói trong kinh này lại khác hẳn những loại thần thông nói trên, vì hết thảy trời người [cõi Cực Lạc] nương vào đại nguyện của Phật. Vì vậy, ta bảo: lấy sức bổn nguyện của Phật Di Ðà làm tăng thượng duyên như sách Sự Tán bảo: “Tam minh tự nhiên nương Phật nguyện; chắp tay giây lát đắc thần thông”, há nào phải dựa vào sức thiền hữu lậu?’ Như vậy, thần thông của trời, người cõi Cực Lạc chẳng do tu tập mà chứng đắc, chẳng đợi phải tu mới có, mà là tự nhiên được thành tựu. Thần thông ấy cũng chẳng giống với ngũ thông do quả báo mà có của chư thiên; chỉ là nương vào tu đức của Phật Di Ðà làm nhân, nương Như Lai nguyện lực mà thọ hưởng quả đức an lạc tự nhiên. Do đó, cảm được báo vượt xa lệ thường. Vì vậy, sách Yếu Tập nhận định: ‘Chẳng nương vào bốn thứ tịnh lự (thiền định) làm cái nhân tu tập thần thông, chỉ hễ sanh về đấy liền được quả báo tùy ý như vậy, há chẳng sung sướng lắm sao!’
Hơn nữa, thần thông của chư Phật, Bồ Tát và Nhị Thừa cũng có nhiều điểm sai khác. Sách Bình Giải dựa trên Ðại Thừa Nghĩa Chương nêu ra những điểm sau:

a).Rộng, hẹp chẳng giống nhau như kinh Ðịa Trì nói Thanh Văn thấu tỏ hai ngàn cõi nước, Duyên Giác thấu tỏ sáu ngàn cõi nước (kinh này bảo thấy trọn ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, đủ thấy khác biệt rất lớn).
b).Nhiều ít khác biệt: Trong một tâm niệm, Nhị Thừa chỉ có thể hóa hiện được một việc, chẳng làm nổi nhiều việc; chư Phật, Bồ Tát có thể hóa hiện ra hết thảy hình dạng trong khắp mười phương thế giới, cùng một lúc có thể hiện thân trong năm đường.
c).Lớn nhỏ sai khác: Nhị Thừa hóa ra thân lớn chẳng vào trong được thân nhỏ, hóa thân nhỏ chẳng dung nổi thân lớn. Chư Phật, Bồ Tát hiện thân to chật cả tam thiên thế giới, lại có thể đem thân ấy nhét trong một vi trần, hóa hiện thân nhỏ như mảy trần nhưng thân ấy chứa được hết thảy. Hơn nữa, với hết thảy sắc vật Bồ Tát có thể đem cái lớn bỏ trong cái nhỏ, dùng cái nhỏ đựng cái lớn. Nhị Thừa không làm nổi như thế.
d).Nhanh, chậm sai khác: Nhị Thừa muốn đến được chỗ xa xôi, phải mất một thời gian mới tới vì chẳng được như ý thông. Chư Phật, Bồ Tát trong một niệm đến khắp mười phương thế giới do đã chứng đắc như ý thông.
e).Thật, giả sai khác: Hết thảy thứ do Nhị Thừa hóa hiện chỉ là tương tự, chẳng thể thật sự dùng được. Chư Phật Bồ Tát hóa hiện ra thứ gì cũng đều có công dụng thật sự.
f).Việc làm sai khác: Chư Phật, Bồ Tát hóa ra vô lượng người khiến cho mỗi người đều có tâm, mỗi người làm một việc hoàn thành khác nhau. NhịThừa chẳng thể làm nổi như vậy.
g).Hóa hiện sai khác: Chư Phật, Bồ Tát chỉ hiện một thân mà mỗi người mỗi thấy khác nhau; chỉ nói ra một tiếng mà mỗi người nghe mỗi khác; an trụ một cõi mà hiện đủ mười phương. Nhị thừa không làm thế nổi.
h).Hóa các căn có công dụng sai khác như kinh Niết Bàn nói: ‘Chư Phật Bồ Tát dùng lẫn sáu căn’ (dùng căn này làm chuyện khác, như trong lỗ chân lông, tức là thân căn, vang ra các bài kệ. Như vậy, Bồ Tát đã dùng thân căn thay thế cho thiệt căn nói kệ). Nhị Thừa chẳng làm được vậy.
i).Tự tại sai khác: Như kinh Niết Bàn nói: ‘Chư Phật, Bồ Tát hễ làm điều gì thân tâm tự tại, chẳng vướng theo duyên. Dẫu thân hiện lớn, tâm chẳng lớn theo. Dẫu thân hiện nhỏ, tâm cũng chẳng nhỏ theo. Với hết thảy hỷ, ái v.v… đều như vậy’ (ý nói thân hiện vẻ vui mừng, tâm không vui mừng). Nhị thừa chẳng được như thế.

Thần thông của trời, người cõi Cực Lạc như sách Hợp Tán nói: ‘Nay đã là sức thần thông bất cộng của Ðại Thừa, lại thêm nhờ sức bổn nguyện (của Phật Di Ðà), nên há lại giống với thần thông của phàm phu, Tiểu Thừa!’


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Câu‘tự biết được việc thiện ác đã làm trong túc mạng đến vô lượng kiếp’ chính là nguyện thứ sáu ‘đắc túc mạng thông’. ‘Túc’ là đời quá khứ, tục gọi là đời trước, ‘mạng’ là sanh mạng. Như vậy, ‘túc mạng’ là nhiều kiếp sống trước trong quá khứ. Biết được các việc thiện ác trong nhiều kiếp sống quá khứ thì gọi là túc mạng thông. Sách Bình Giải giảng: ‘Việc đã đi vào quá khứ gọi là Túc, pháp quá khứ tiếp nối thì gọi là Mạng. Hiểu rõ những việc ấy không vướng mắc thì gọi là túc mạng thông’.
Sách Hội Sớ cũng nói: ‘Biết kiếp trước của thân mình từ một đời, hai đời, ba đời cho đến trăm ngàn vạn đời và các việc đã làm, cũng có thể biết kiếp trước của chúng sanh trong lục đạo và việc họ đã làm thì gọi là túc mạng thông’.
Nhị Thừa biết được nhiều lắm là đến tám vạn kiếp, Bồ Tát biết đến vô cực. Lời nguyện trong kinh này lại nói là túc mạng đến vô lượng kiếp thì chính là nói đến thần thông của Bồ Tát vậy. Nguyện này gồm hai ý nghĩa:

- Một là như sư Trừng Hiến người Nhật nói: ‘Do chẳng biết túc mạng nên chẳng sốt sắng làm lành, chẳng sợ điều ác. Với muôn điều thiện trở nên lười biếng, tạo tác các ác cũng chỉ do không biết túc nghiệp. Vị La Hán kia nhớ cái khổ trong
Nê Lê (địa ngục) mà toát mồ hôi lẫn máu (xưa có vị La Hán nhớ đến khi xưa ở trong địa ngục, chịu các sự thống khổ thảm thiết mà kinh sợ cùng cực, mồ hôi toát ra có lẫn cả máu). Ngài Phước Tằng thấy xương đời trước của mình liền chợt khai ngộ. Lại có kẻ chẳng biết kẻ ấy là mẹ đẻ trong đời trước nên lấy làm vợ, chẳng biết là oán gia đời trước nên nuôi như con, chẳng biết là cha đời trước nên đem nấu thành thức ăn ngon v.v... Ðấy đều do mê muội túc sự, ham đắm cái nỗi vui trong đời, nay chợt nghe bổn duyên đều sanh tâm nhàm chán vậy’. Như vậy, người cõi Cực Lạc cần phải có túc mạng trí thông là để biết được hạnh nghiệp của chúng sanh trong quá khứ để nhờ đó dẫn dụ họ, dùng đó làm phương tiện hóa độ chúng sanh.
- Hai là như ngài Tịnh Chiếu nói: ‘Nếu biết được túc mạng thì chẳng tự cao. Nhớ nghĩ đến vô số công đức trong quá khứ nên chỉ nương theo thệ nguyện của Phật được sanh về cõi kia’. Ngài Trừng Hiến cũng nói: ‘Vãng sanh cõi kia liền trước hết biết túc mạng, thật là thâm tạ Phật đức’. Như vậy, người cõi Cực Lạc do túc mạng trí nên hết lòng cảm ngưỡng ân đức của Phật vậy.

‘Thấy rõ ràng, nghe rành rẽ việc quá khứ, hiện tại, vị lai trong suốt mười phương’ (đỗng thị, triệt thính tri thập phương khứ, lai, hiện tại chi sự).
‘Ðỗng’ là sâu xa, thông suốt. ‘Triệt’ là thông, sáng tỏ. ‘Thập phương’ là không gian, ‘khứ, lai, hiện tại’ là thời gian, tức là quá khứ, vị lai, hiện tại. Trước chữ ‘khứ’ là câu thừa tiếp cái nguyện ‘đắc túc mạng thông’ ở phần trên: biết được việc thiện ác đã làm trong quá khứ trong vô lượng kiếp suốt cả mười phương, đều ‘thấy rành rẽ, nghe rõ ràng’ [các việc ấy]. Sau chữ ‘khứ’ là nguyện thứ bảy ‘đắc thiên nhãn thông’ và nguyện thứ tám ‘đắc thiên nhĩ thông’.
Thiên nhãn thông còn gọi là thiên nhãn trí thông hoặc sanh tử trí thông. Thiên nhãn là con mắt cõi trời, thấy được hết thảy hình sắc thô to, nhỏ nhặt, xa gần và tướng trạng sanh tử của chúng sanh trong tương lai. Trong quyển 5 của Trí Ðộ Luận có câu: ‘Thiên nhãn thấy được lục đạo chúng sanh và các vật trong tự địa và hạ địa (lấy người cõi trời mà nói thì tự địa là cõi trời, các chốn tu la, người, súc sanh, quỷ, địa ngục là hạ địa) dù xa hay gần, các sắc dù thô hay tế, không thứ gì chẳng thấy rõ’.
Thiên nhãn thông lại như sách Hội Sớ bảo: ‘‘Thiên nhãn thấy được lục đạo chúng sanh và các vật trong tự địa và hạ địa (lấy người cõi trời mà nói thì tự địa là cõi trời, các chốn tu la, người, súc sanh, quỷ, địa ngục là hạ địa) dù xa hay gần, các sắc dù thô hay tế, không thứ gì chẳng thấy rõ’.
Thiên nhãn của trời, người cõi Cực Lạc lại vượt xa thiên nhãn của Nhị Thừa và chư thiên. Ðại sĩ Long Thọ nói: ‘Bậc tiểu Thanh Văn trong hàng Nhị Thừa nếu chẳng tác ý liền thấy được một ngàn cõi. Nếu tác ý thì thấy hai ngàn quốc độ. Ðại Thanh Văn chẳng tác ý thấy được hai ngàn, tác ý thấy được ba ngàn. Bậc tiểu Duyên Giác chẳng tác ý thấy hai ngàn, tác ý thấy ba ngàn. Bậc đại Duyên Giác dù tác ý hay không cũng đều thấy được việc trong tam thiên đại thiên thế giới. Chư Phật, Bồ Tát thấy được sự việc trong vô lượng thế giới’. Chẳng cần biết là tác ý hay không, những điều mà trời người cõi Cực Lạc thấy được như: chúng sanh sanh tử lưu chuyển trong các thế giới và nhân duyên, hạnh nghiệp của chúng.... đều vượt xa Nhị Thừa. Bản Tống dịch chép lời nguyện thứ năm như sau: ‘Hết thảy đều được thiên nhãn thanh tịnh, thấy được trăm ngàn câu chi (trăm vạn) na do tha (ức) thế giới: sắc tướng thô, tế...’ Hội bản ghi là thấy rõ ‘việc quá khứ, hiện tại, vị lai trong mười phương’, ý nói: thấy được sự việc trong vô lượng thế giới, đủ thấy thần thông của người cõi Cực Lạc chính là thần thông của chư Phật, Bồ Tát. Với nguyện thứ bảy này, lại có hai thuyết:
- Một là như ngài Vọng Tây nói: ‘Do chúng sanh trong cõi nước chẳng thấy các quả khổ nên chẳng sợ cái nhân tạo khổ, cũng do chẳng thấy các quả vui nên chẳng tu cái nhân sanh vui. Ngài Pháp Tạng thương xót những bọn chúng sanh ấy nên chọn lựa cái nguyện này để nhiếp thủ chúng nó’. Sách Hội Sớ cũng bảo: ‘Mắt thịt mờ mịt, kém cỏi, chẳng thấy nổi vật bị che lấp bởi một tờ giấy. Chỉ tính cái trước mắt, chẳng thấy khổ dữ nơi địa ngục, nên chẳng dũng mãnh siêng tu; chẳng thấy được cái vui thù thắng nơi Tịnh Ðộ nên hờ hững tâm niệm ham cầu’. Ngài Trừng Hiến lại nói: ‘Ôi chao thương thay! Chẳng thấy quả khổ địa ngục, ngạ quỷ, chẳng thấy cha, mẹ, sư trưởng thọ báo nên hờ hững cái tâm nhàn chán, biếng nghĩ việc báo ân’. Vì vậy, ngài Vọng Tây bảo: ‘Việc trọng yếu thượng cầu hạ hóa, cái đạo chán khổ báo ân chỉ cốt ở thiên nhãn soi thấy mà thôi!’.
- Hai là như sách Trích Ký khai triển: “Các sách như Hội Sớ v.v... cho rằng Phật phát nguyện như thế là để diệt ác sanh thiện, chán khổ ham tịnh. Nếu như vậy thì hóa ra là chẳng phải để đạt lợi ích nơi cõi chơn độ (chỉ Cực Lạc). [Tôi cho rằng] nguyện này chính là để đạt lợi ích nơi cõi chơn thật.
Như có Tịnh Ðộ, tuy thánh chúng cõi ấy có thiên nhãn thấy được hai ngàn thế giới hoặc thấy ba ngàn thế giới, nhưng chẳng thấy trọn bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số cõi Phật (5). Hoặc có Tịnh Ðộ, Bồ Tát cõi ấy tuy được thiên nhãn, nhưng chẳng trọn đủ ngũ nhãn. Do vậy, Phật đặc biệt phát ra nguyện này. Cũng bởi thế, trong phần Nguyện Thành Tựu có nói: ‘Mắt thịt trong trẻo không gì chẳng thấy rõ. Thiên nhãn thông đạt vô lượng vô hạn.’ Như vậy,
được một thứ thiên nhãn thì sẽ trọn đủ ngũ nhãn. Bởi thế, thấy được cõi Phật nhiều như số vi trần, thấy rõ chúng sanh chết đây sanh kia, cứu giúp, lợi lạc chúng sanh, luôn làm Phật sự. Ðó chính là lợi ích thù thắng của nguyện này vậy’.
Ý của câu trên là: Nếu cho rằng nguyên khởi của lời nguyện này chỉ là để diệt điều ác, sanh điều lành và khiến chán khổ, thích vui, thì đó chưa phải là cái lợi ích thực tế cho người cõi Cực Lạc. Trời, người cõi Cực Lạc thấy được bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số cõi Phật, nhưng do đắc thiên nhãn, họ liền được đầy đủ trọn vẹn cả ngũ nhãn: huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn và nhục nhãn sẵn có. Do đó, họ thấy được cõi nước nhiều như vi trần, thấy rõ các tướng sống chết qua lại của chúng sanh, nên có thể cứu giúp quần sanh, lợi lạc vạn vật. Ðấy mới là lợi ích thù thắng của bổn nguyện. Trong hai thuyết trên, thuyết sau rất đạt bổn nguyện của Phật Di Ðà,

Câu ‘nghe rõ ràng chuyện vị lai, hiện tại trong mười phương’ chính là nguyện thứ tám ‘đắc thiên nhĩ thông’. Thiên nhĩ thông còn gọi là thiên nhĩ trí thông. ‘Thiên nhĩ’ là tai của chư thiên trong Sắc giới, nghe được tiếng nói của hết thảy chúng sanh trong lục đạo và hết thảy âm thanh xa, gần, lớn, nhỏ. Sách Hội Sớ bảo: ‘Thiên nhĩ thông là nghe được hết thảy tiếng nói, âm thanh: chướng nội, chướng ngoại, khổ, vui, lo, mừng... không úng trệ vậy’.
Nguyện này được bản Ngụy dịch ghi như sau: ‘Trời, người trong nước chẳng được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lời dạy của trăm ngàn ức na do tha Phật mà chẳng thọ trì hết cả thì chẳng lấy Chánh Giác’. Bản Ðường dịch ghi: ‘Hữu tình trong nước chẳng được thiên nhĩ, cho đến chẳng được nghe lời thuyết pháp cách xa ức na do tha trăm ngàn du thiện na thì chẳng lấy Chánh Giác’.
Theo đó, thiên nhĩ thông của trời, người cõi Cực Lạc vượt xa Nhị Thừa, chẳng những nghe được khắp tất cả âm thanh trong mười phương, mà còn có thể nghe được vô lượng chư Phật thuyết pháp.
Ngài Trừng Hiến bảo: ‘Thần thông này rất quan trọng. Nghe được tiếng các khổ nơi địa ngục, tiếng đói khát của loài ngạ quỷ liền thêm lớn bi tâm. Nghe tiếng nhạc Càn Thát Bà (Càn Thát Bà là nhạc thần của Thiên Ðế, gảy đàn lưu ly, tiếng vang vọng khắp tam thiên đại thiên thế giới), tiếng thần tiên tụng kinh. Nghe rồi thường thích chốn núi non tịch tĩnh; huống hồ nghe chư Phật thuyết pháp, nghe xong đều thọ trì, nghe Bồ Tát bàn bạc càng thêm khát ngưỡng!’
(171) T7


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đắc tha tâm trí thông. Nếu chẳng biết được hết tâm niệm của chúng sanh trong ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, chẳng giữ lấy Chánh Giác.
(nguyện thứ chín: tha tâm thông)


Giải:
Ðây là nguyện thứ chín ‘đắc tha tâm thông’. Tha tâm thông còn gọi là tha tâm trí thông. Tha tâm trí là cái trí biết được tâm niệm của người khác. Tha tâm trí thông là thấy rõ hết thảy chúng sanh trong tâm đang nghĩ gì như gương sáng hiện rõ muôn hình tượng.
Thâm ý của lời nguyện này là như ngài Trừng Hiển nói: ‘Thế tục còn coi việc hiểu lòng người khác là quan trọng, huống hồ bậc xuất thế lợi lạc chúng sanh’.
Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Vì vậy nguyện rằng: thánh chúng trong nước tôi chẳng cần phải tu trì mà tự hiểu tâm người khác, thuận theo ý thích tiếp độ, giáo hóa không trở ngại’.
Bản Ngụy dịch ghi lời nguyện này như sau: ‘Chẳng được thấy tâm trí người khác, tối thiểu là biết được tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật, chẳng lấy Chánh Giác’. Khi chú giải đoạn kinh này, hậu thế cũng có hai thuyết:
- Một là chữ ‘tối thiểu’ (hạ chí) ám chỉ ở mức độ thấp nhất, tha tâm thông đã biết được cả trăm ngàn ức na do tha cõi Phật. Với bậc thượng, ắt biết được bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số cõi Phật trong mười phương.
- Hai là chữ ‘hạ’ đó chỉ tâm niệm của chúng sanh, còn nếu bàn về bậc thượng thì sẽ biết được tâm niệm của chư Phật, Bồ Tát.
Sách Bình Giải bảo: ‘Nhị Thừa chỉ hiểu được thô tâm của phàm phu và tiểu thánh, chẳng biết được tế tâm. Chư Phật Bồ Tát thấu hiểu tâm vi tế, thậm chí biết được cả Phật tâm. Bồ Tát cõi An Dưỡng cũng giống như vậy’. An Dưỡng là tên khác của Cực Lạc thế giới. Trong số các Bồ Tát vãng sanh cõi Cực Lạc, đa số những vị Bồ Tát bậc thượng đã là Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, họ lại được Di Ðà hoằng nguyện gia trì nên biết được cả Phật tâm.
(172) T7


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(26/7/2018) (174) T7

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều được thần thông tự tại, ba la mật đa. Trong khoảng một niệm chẳng thể vượt qua ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, đến khắp tất cả [các cõi ấy] cúng dường chư Phật thì chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện thứ mười: thần túc thông, nguyện mười một: cúng dường khắp chư Phật)

Giải:
Chương này nói đến nguyện thứ mười ‘thần túc thông’ và nguyện mười một ‘cúng dường khắp chư Phật’. Lời kinh nói gộp hai nguyện. Trong câu ‘đến khắp tất cả cúng dường chư Phật’, chữ ‘đến khắp’ là nguyện thứ mười, ‘cúng dường’ là nguyện thứ mười một.

‘Ba la mật đa’ hoặc ‘ba la mật’ dịch là Sự Cứu Cánh, Ðáo Bỉ Ngạn, Ðộ Vô Cực, hoặc chỉ dịch gọn là Ðộ. Ðại hạnh của Bồ Tát có thể hoàn thành trọn vẹn hết thảy tự hạnh và sự nghiệp hóa độ người khác, nên gọi là Sự Cứu Cánh. Bồ Tát nương những đại hạnh ấy có thể từ bờ này sanh tử vượt đến được bờ kia Niết Bàn rốt ráo nên gọi là Ðáo Bỉ Ngạn (ba la là bờ kia, mật đa là đến). Do đại hạnh ấy sẽ thấu đạt được sự sâu rộng của các pháp nên gọi là ‘độ vô cực’.
Sanh cõi kia liền đầy đủ thần thông (thần là diệu dụng chẳng lường nổi, thông là dung thông tự tại) tự tại vô ngại, có thể triệt để quán triệt hết thảy tự hạnh và sự nghiệp hóa độ người khác, nên bảo là ‘thần thông tự tại ba la mật đa’.

Câu ‘trong khoảng một niệm... vượt qua ức na do tha trăm ngàn cõi Phật’ diễn tả thần túc thông, còn gọi là thần túc trí thông, thần cảnh trí thông, thân như ý thông, thân thông. ‘Na do tha’ là ức (một vạn vạn) (thời cổ, Trung Hoa hiểu chữ Ức theo ba cách khác nhau: mười vạn, trăm vạn, ngàn vạn. Vì vậy, các vị cổ đức cũng phán định con số này không đồng nhất). Sách Hội Sớ giảng chữ ‘thần túc’ (cũng gọi là như ý túc) như sau:

Thần túc có ba loại:
a). Vận thân hành: bay trên không giống như chim bay.
b). Thắng giải thông: với chỗ xa xôi nhất, chỉ tác ý tư duy liền tới ngay đó.
c). Ý thế thông: với chỗ xa xôi nhất, tâm vừa nghĩ đến, thân đã ở đấy’.

Sách Ðại Luận lại bảo: ‘Như ý thông có ba thứ: Năng đáo, chuyển biến, thánh như ý.
Năng đáo có bốn thứ:
a). Một là thân bay được đến đó như chim không trở ngại.
b). Biến xa thành gần, chẳng qua đó mà đến được nơi ấy.
c). Biến mất chỗ này hiện ra chỗ kia.
d). Trong một niệm đến ngay nơi đó.

Chuyển biến là biến nhỏ thành lớn, biến lớn thành nhỏ, biến một thành nhiều, nhiều biến thành một. Với các vật đều chuyển biến được. Ngoại đạo biến hóa không lâu được hơn bảy ngày. Chư Phật và đệ tử chuyển biến tự tại, chẳng có gần, xa.
Thánh như ý là ngay trong lục trần, có thể quán vật bất tịnh chẳng đáng ưa là tịnh, quán vật khả ái thanh tịnh thành vật bất tịnh. Chỉ mình đức Phật đắc pháp như ý trí này’.

Câu ‘trong khoảng một niệm’ ý nói thời gian rất ngắn. Bao lâu là một niệm? Có nhiều thuyết khác nhau, xin coi lời giải thích trong phần trước.
Theo sách Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập thì một sát na là một niệm, cũng như theo Ðại Luận: ‘Trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi sát na’, ta thấy
rằng một niệm lâu bằng một phần sáu mươi thời gian khảy ngón tay. Như vậy, một niệm cực ngắn ngủi.
Trong khoảng một sát na cực ngắn như thế đã có thể ‘vượt qua ức na do tha trăm ngàn cõi Phật đi khắp tất cả’ thì hiển nhiên, thần thông diệu dụng của người cõi Cực Lạc chẳng thể nghĩ bàn.

‘Na do tha’ là một con số, từ xưa đã có nhiều thuyết. Nhỏ nhất là như sách Huyền Ứng Âm Nghĩa bảo: ‘Na do tha là mười vạn của Trung Quốc’. Lớn hơn là: ‘Ðời Tùy, na do tha là ngàn vạn’ (các thuyết khác chẳng dẫn ra). Như vậy, khó lòng xác định na do tha lớn bao nhiêu, nhưng ta có thể đoan chắc ‘na do tha trăm ngàn’ là một con số rất lớn đến nỗi khó tính biết nổi.
Trong một sát na vượt qua được những cõi Phật nhiều đến như vậy là ngụ ý: đến được những cõi rất xa.

Câu ‘đi khắp tất cả’ ngụ ý: con số cõi nước họ đến cực lớn. Câu ‘cúng dường chư Phật’ ngụ ý: tuy phát khởi lên rất nhiều sự, nhưng chỉ trong khoảng một niệm đều viên mãn thành tựu được hết tất cả những sự việc ấy. Rõ ràng cõi nước Cực Lạc sự sự vô ngại, một tức là nhiều, nhiều tức là một, kéo dài, rút ngắn đồng thời, hạt cải dung nhập núi Tu Di, mười phương chẳng rời khỏi nơi mình đang trụ.

Trong một niệm cúng trọn tất cả, ba đời nào khác một niệm, đương hạ tức thị (6) , thâu tóm trọn vẹn không sót. Vì vậy, ta thường nói: Hoa Tạng nào khác Cực Lạc, Tịnh Ðộ chứa trọn sự huyền diệu.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(27/7/2018) (175) T7

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi xa rời phân biệt, các căn tịch tĩnh. Nếu họ chẳng quyết định thành Ðẳng Chánh Giác, chứng Ðại Niết Bàn, thì chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện mười hai: quyết định thành Chánh Giác)

Giải:
Ðây là nguyện thứ mười hai: ‘Chắc chắn thành Chánh Giác’.
Vãng sanh là quyết định thành Phật; điều này thể hiện thật rõ tâm nguyện Phật Di Ðà: chỉ dùng một Phật thừa để đưa trọn vô biên chúng sanh vào Niết Bàn rốt ráo.
Câu ‘xa rời phân biệt, các căn tịch tĩnh’ trích từ bản Tống dịch. Câu ‘nếu chẳng quyết định thành Ðẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn thì chẳng lấy Chánh Giác’ trích từ bản Ðường dịch. Bản Ngụy dịch ghi là: ‘Chẳng trụ định tụ, đều diệt độ thì chẳng lấy Chánh Giác’.
Khi đại sư Thiện Ðạo chú giải bản Ngụy dịch, lắm chỗ ngài dẫn bản Ðường dịch để làm rõ thêm ý nghĩa. Ðại sư đặt cho nguyện này bốn cái tên: một là nguyện ‘ắt đạt diệt độ’, hai là nguyện ‘chứng đại Niết Bàn’, ba là nguyện ‘vô thượng Niết Bàn’, bốn là nguyện ‘trụ tướng chứng quả’.
Sách Bình Giải ca tụng: ‘Cao tổ (chỉ ngài Thiện Ðạo) đặt tên các nguyện đã hiển lộ tột cùng ý nghĩa lời nguyện vậy’. Nay hội bản không những đã trích lấy câu kinh từ bản Ðường dịch, lại còn đặt tên nguyện này là nguyện ‘quyết thành Chánh Giác’ thì thật là rất phù hợp ý chỉ đại sư Thiện Ðạo vậy.
Trong bốn mươi tám nguyện, đại sư Thiện Ðạo gọi năm nguyện: ‘Quyết thành Chánh Giác’, ‘quang minh vô lượng’, ‘thọ mạng vô lượng’, ‘chư Phật khen ngợi’ và ‘mười niệm ắt được vãng sanh’ là chơn thật nguyện. Ngài coi chúng là tâm yếu của cả bốn mươi tám nguyện. Như vậy, nguyện này là tâm tủy của Di Ðà hoằng thệ.
Bổn hoài của đức Phật chỉ là cốt sao khiến hết thảy chúng sanh quyết định thành Phật. Ðể thực hiện lời nguyện này, ngài lại có đại nguyện thù thắng ‘mười niệm ắt vãng sanh’, chúng sanh chỉ việc nương theo đấy mà tu. Thật là giản dị bậc nhất, là đường tắt cực viên, cực đốn. Niệm Phật được vãng sanh xong thì sẽ quyết định thành Phật.

Chữ ‘phân biệt’ dùng trong lời nguyện nghĩa là: suy nghĩ, hiểu biết được sự và lý thì gọi là “phân biệt”. Do lấy phân biệt hư vọng làm thể tánh, nên với pháp vô phân biệt lại sanh lòng phân biệt là ngã hay là pháp. Bởi vậy, phân biệt hư vọng gọi là ‘phân biệt hoặc’. Ðoạn được cái ‘phân biệt hoặc’ ấy thì gọi là Vô Phân Biệt Trí. Sách Duy Thức Thuật Ký, quyển 7 giảng: ‘Phân biệt là tâm tam giới hữu lậu, là tâm sở pháp (7) , nó lấy phân biệt hư vọng làm tự thể’. Chữ ‘xa lìa phân biệt’ trong lời nguyện có nghĩa là: rời bỏ, đoạn trừ phân biệt vọng hoặc, hiểu rõ ‘Chơn Như chính là vạn pháp, vạn pháp chính là Chơn Như’.

‘Tịch tĩnh’: lìa phiền não là Tịch, dứt khổ sở là Tĩnh; tức là lý Niết Bàn. Sách Tư Trì Ký giảng: ‘Tịch tĩnh là Niết Bàn lý’. Quyển thượng sách Vãng Sanh Tập Yếu cũng bảo: ‘Hết thảy các pháp vốn tịch tĩnh, chẳng có, chẳng không’.
‘Các căn’ là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu căn này đồng quy về tịch tĩnh như kinh Hoa Nghiêm dạy: ‘Quán pháp tịch tĩnh, lìa các si ám’, chẳng sanh phân biệt, tự nhiên xa lìa si ám nên các căn tịch tĩnh.
Giảng rộng hơn chút nữa, đức Thế Tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni, Mâu Ni nghĩa là tịch mặc hay tịch tĩnh. Sách Nhân Vương Kinh Hiệp Sớ, quyển thượng giảng: ‘Mâu Ni là tên, Tàu dịch thành Tịch Mặc do tam nghiệp đều tịch mặc’. Sách Lý Thú Thích bảo: ‘Mâu Ni nghĩa là Tịch Tĩnh. Thân, khẩu, ý tịch tĩnh nên gọi là Mâu Ni’. Thân, khẩu, ý tịch tĩnh chính là ý nghĩa câu ‘các căn tịch tĩnh’ trong kinh này. Tịch tĩnh lại chính là lý thể của Niết Bàn! Do xa lìa phân biệt vọng hoặc, các căn tịch tĩnh nên khế nhập lý Niết Bàn. Bởi vậy, kinh dạy tiếp: ‘Quyết định thành Ðẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn’. ‘Ðẳng Chánh Giác’ là ‘Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác’ nói tắt. ‘Ðại Niết Bàn’ cũng là tên khác của
Phật quả, dịch nghĩa là Nhập Diệt, nói đầy đủ là ‘bát Niết Bàn’. ‘Bát’ có nghĩa là Viên, Tàu dịch Niết Bàn là Tịch. Do vậy, ‘bát Niết Bàn’ dịch là ‘viên tịch’. Nghĩa lý đầy ắp cả thế giới, đức lại nhiều như trần sa nên gọi là ‘viên’. Thể tột cùng
chơn tánh (bổn thể cùng tột Chơn Như pháp tánh), diệu tuyệt tướng lụy (đoạn tuyệt được các vướng mắc vào hình tướng một cách vi diệu) là ‘tịch’.
Trong Tâm Kinh Lược Sớ, tổ Hiền Thủ giảng: ‘Niết Bàn, Tàu dịch là Viên Tịch, nghĩa là: không đức gì chẳng đủ nên bảo là Viên, không chướng gì chẳng hết nên gọi là Tịch’.
Ðại Niết Bàn là Niết Bàn của Ðại thừa, gọi là Ðại để phân biệt với Niết Bàn của Tiểu Thừa. Niết Bàn của Ðại thừa có đủ ba đức: Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát, đủ bốn nghĩa: thường, lạc, ngã, tịnh, lìa khỏi hai thứ sanh tử phần đoạn và biến dịch, đầy đủ vô biên thân trí. Ðó là Ðại Thừa Niết Bàn.
Trong ba đức, Niết Bàn của Nhị Thừa chỉ có giải thoát; trong bốn nghĩa chỉ có thường, lạc, tịnh, chỉ lìa phần đoạn, vẫn còn biến dịch sanh tử. Niết Bàn của Tiểu thừa chỉ chú trọng nát thân diệt trí.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(28/7/2018) (177) T7

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, quang minh vô lượng chiếu khắp mười phương vượt xa chư Phật, hơn hẳn quang minh của nhật, nguyệt ngàn vạn ức lần. Nếu có chúng sanh thấy quang minh của tôi chiếu chạm vào thân, không ai là chẳng an vui,
từ tâm làm lành, sanh về cõi tôi. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện mười ba: quang minh vô lượng; nguyện mười bốn: quang minh soi đến được an vui)

Giải:
Chương này gồm hai nguyện: từ câu ‘ngàn vạn ức lần’ trở lên là nguyện thứ mười ba: ‘Quang minh vô lượng’; từ chữ ‘nếu có chúng sanh’ trở đi là nguyện thứ mười bốn: ‘Quang minh soi đến được an lạc’.
Ngài Tịnh Ảnh bảo nguyện thứ mười ba này và nguyện thứ mười lăm ‘thọ mạng vô lượng’ là những nguyện ‘nhiếp Pháp Thân’, vì các nguyện này nhằm để thành tựu Pháp Thân.
Sách Bình Giải cho rằng hai nguyện ấy thể hiện cái đức của chơn báo thân, còn cho rằng cả hai nguyện ‘quang minh và thọ mạng vô lượng’ là ‘cái gốc đại bi của phương tiện Pháp Thân’.
Thọ vô lượng là theo chiều dọc cùng tột cả ba đời, do Phật thân thường trụ nên chúng sanh có chỗ để nương dựa. Quang minh vô lượng là theo chiều ngang khắp cả mười phương, đức dụng trọn khắp, nhiếp hóa vô tận. Vì vậy, quang minh và thọ lượng là cái gốc của phương tiện đại bi, là thật đức của Báo Thân. Như vậy, Phật Di Ðà thệ nguyện quang minh và thọ mạng vô lượng thật ra chỉ là để khiến cho hết thảy chúng sanh đều có quang minh và thọ mạng vô lượng.
Sách Vãng Sanh Luận lại bảo: ‘Ba thứ trang nghiêm vào trong một pháp cú. Một pháp cú chính là thanh tịnh cú, tức là chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân’. Ba thứ trang nghiêm chính là các thứ y báo, chánh báo trang nghiêm thù thắng đã được 48 nguyện đề cập đến. ‘Nhập một pháp cú’ là hoàn toàn quy về chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân. Do vậy, sách Bình Giải bảo: ‘Nếu xét về sở chứng của Phật thì bốn mươi tám nguyện đều quy về quang thọ Pháp Thân’, nghĩa là: Y báo, chánh báo của cõi Cực Lạc chỉ từ Pháp Thân Phật Di Ðà hiện ra, cho nên bốn mươi tám nguyện hiển bày trọn vẹn Pháp Thân.
Về mặt độ sanh, sách Bình Giải lại bảo: ‘Xét về mặt độ sanh thì nguyện nào cũng là vì chúng sanh, nên nói: bốn mươi tám nguyện nhiếp thọ chúng sanh’. Lại bảo: ‘Mỗi một thệ nguyện đều vì chúng sanh vậy’. Bốn mươi tám nguyện như vậy dung chứa lẫn nhau chẳng thể nghĩ bàn.
Ý nghĩa của lời nguyện trên như sau: lúc Pháp Tạng tôi thành Phật, nguyện cho quang minh của tôi vô lượng vô biên, ‘chiếu khắp mười phương’ hết thảy các cõi nước dù uế hay tịnh.
Ngài Vọng Tây giảng: ‘Theo chiều ngang, do mười phương hư không vô biên nên quốc độ cũng vô biên. Do quốc độ vô biên nên chúng sanh cũng vô biên. Chúng sanh vô biên nên đại bi cũng vô biên. Ðại bi vô biên nên quang minh cũng vô biên. Quang minh vô biên nên nhiếp thủ, tạo lợi ích cũng vô biên. Nói tóm lại, vì muốn làm lợi ích vô biên nên quang minh vô biên’. Theo ý ngài Vọng Tây, ta có thể hiểu đoạn kinh này như sau: do muốn làm lợi ích vô biên nên quang minh vô biên, đầy đủ các đức vô cùng tận vậy.

‘Vượt xa chư Phật, hơn hẳn quang minh của nhật nguyệt ngàn vạn ức lần’: Phẩm Quang Minh Biến Chiếu trong kinh này có chép: ‘Quang minh của chư Phật chiếu xa hay gần là do đời trước khi cầu đạo nguyện được công đức lớn hay nhỏ sai khác. Lúc thành Phật, mỗi vị tự cảm được [quang minh] để biến hiện tự tại, chẳng biết trước nổi. A Di Ðà Phật quang minh thiện hảo, trỗi hơn quang minh của mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần’.
Như vậy, Phật A Di Ðà quang minh vượt xa chư Phật là do nguyện lực đời trước siêu tuyệt nên ngày nay tự nhiên được như vậy. Vì thế, trong kinh còn dạy: ‘A Di Ðà Phật oai thần quang minh cao quý bậc nhất, mười phương Như Lai chẳng bằng được nổi’.

Kinh Ðại Pháp Cự Ðà Ra Ni nói chư Phật có hai thứ quang minh: thường quang và phóng quang. Thường quang thì viên minh vô ngại, không lúc nào chẳng chiếu. Phóng quang là dùng ánh sáng để cảnh tỉnh người khác, tùy lúc mà chiếu: hoặc tỏa ra, hoặc thâu vào, tùy nghi tự tại. Quang minh nói trong lời nguyện đây là thường quang. Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ dạy: ‘Ðức Như Lai ấy luôn phóng ra vô lượng vô biên quang minh mầu nhiệm, chiếu khắp hết thảy mười phương cõi Phật thực hiện Phật sự’. Ðây là chứng cớ để nói quang minh được đề cập trong nguyện này là thường quang.

Nguyện thứ mười bốn thuật rõ quang minh của Phật đầy đủ diệu đức lợi ích chúng sanh. ‘Thấy quang minh của tôi chiếu chạm đến thân’: hễ ai thấy được quang minh của Phật và được quang minh của Phật chiếu vào thân thì ‘không ai chẳng được an vui, từ tâm làm lành, sanh về cõi tôi’.
Phẩm Quang Minh Biến Chiếu trong kinh này có chép: ‘Gặp được ánh sáng này, cấu diệt, thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn. Nếu đang ở trong chốn tam đồ cực khổ mà được thấy quang minh này thì [mọi sự khổ] đều được ngưng nghỉ, chết đi đều được giải thoát’. Ðấy chính là ý nghĩa của câu ‘không ai chẳng an vui, từ tâm làm lành’.
Sách Lễ Tán cũng viết: ‘Di Ðà Thế Tôn vốn phát thệ nguyện sâu nặng, dùng quang minh, danh hiệu nhiếp hóa mười phương’. Lại như Quán kinh nói: ‘Quang minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ’. Nói ‘quang minh nhiếp thủ’ chính là nói về nguyện này. Gặp được ánh sáng ấy đều được vãng sanh nên bảo: ‘Sanh về cõi tôi’. Câu này hiển thị quang minh có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
Do những điều trên, ta thấy rằng tuy quang minh là đức tướng nơi thân Phật, nhưng quang minh ấy thật ra là để lợi lạc chúng sanh. Vì vậy, người xưa bảo: ‘Bốn mươi tám nguyện đều hiển thị Pháp Thân’, lại còn bảo: ‘Mỗi một thệ nguyện đều vì chúng sanh’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(29/7/2018) (180) T7

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, thọ mạng vô lượng. Trong nước tôi, Thanh Văn, trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng. Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp cùng nhau tính toán mà biết nổi số lượng ấy thì chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện mười lăm: thọ mạng vô lượng; nguyện mười sáu: Thanh Văn vô số)

Giải:
Chương này gồm nguyện thứ mười lăm ‘thọ mạng vô lượng’ và nguyện mười sáu ‘Thanh Văn vô số’.
Trong nguyện thọ mạng vô lượng, không những thọ mạng của Phật vô lượng, mà vô số Thanh Văn, trời, người trong cõi ấy thọ mạng cũng đều vô lượng. Trong bản Ngụy dịch, nguyện này được tách ra làm hai, đủ thấy bốn mươi tám nguyện trong hội bản đây gói trọn bốn mươi tám nguyện đức của Phật Di Ðà, chi tiết hơn bất cứ bản cổ dịch nào.
Trong nguyện thứ mười lăm ‘thọ mạng vô lượng’, trước tiên kinh bảo vị giáo chủ cõi ấy thọ mạng vô lượng. Kinh Pháp Hoa nói về thọ mạng của Sơn Hải Huệ Như Lai như sau: ‘Thọ mạng chẳng hạn lượng vì thương xót chúng sanh’. Ấy là vì nếu đức Phật chỉ trụ thế trong một thời gian ngắn thì sự giáo hóa cũng ngắn ngủi, chúng sanh khó gặp gỡ được. Giáo chủ ở lâu nơi đời thì hóa duyên vô cùng, lợi lạc chúng sanh vô tận. Vì vậy, ngài Trừng Hiến khen ngợi: ‘Phật thọ vô lượng là hạnh đức giáo hóa đến tột bậc, ai lại chẳng khâm ngưỡng lời nguyện ấy hay sao!’ Hơn nữa, Di Ðà là báo thân Phật, Cực Lạc là báo độ (cõi của báo thân Phật ngự), giáo chủ thọ mạng vô lượng thì thật sự là vô lượng, chứ chẳng phải là vô lượng của hữu lượng (cụm từ ‘vô lượng của hữu lượng’ chỉ con số vô lượng rất lớn được nói trong kinh Hoa Nghiêm, dẫu rất lớn nhưng vẫn tính đếm được, nên gọi là vô lượng của hữu lượng). Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thọ mạng vô lượng là vô lượng tuyệt đối, chứ chẳng phải vô lượng một cách tương đối.
Tiếp đó, kinh văn bảo thọ mạng của nhân dân trong cõi ấy cũng vô lượng. Ngài Trừng Hiến khen: ‘Nhân dân thọ mạng vô lượng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Ðộ’, rồi giải thích như sau: ‘Tu hành Phật đạo chỉ e sợ tử ma vì sự gián đoạn giữa sống và chết chính là căn nguyên tạo duyên thoái thất. Gặp Phật, nghe pháp, gặp gỡ thánh chúng, cúng dường chư Phật, thân cận bạn lành, khoái lạc tự nhiên, chẳng có các khổ... Nếu thọ mạng ngắn ngủi, di hận khó tính nổi, khác nào chén ngọc không đáy.
Lời nguyện này thật là tối quan trọng’ (Chén ngọc thật là của quý, nhưng thủng đáy thì chẳng ra cái gì). Ngài Vọng Tây cũng bảo: ‘Căn bản của các sự vui [nơi cõi Cực Lạc] chỉ thuộc nơi nguyện này’. Lại như Tịnh Ðộ Quần Nghi Luận bảo: ‘Nhân dân cõi ấy thọ cực dài lâu, dẫu cho là phàm phu vẫn còn thuộc biến dịch sanh tử (ý nói họ đã đoạn hết phần đoạn sanh tử, chỉ còn biến dịch sanh tử) nhưng cũng rốt ráo thành Phật’. Ðó là vì khi đã sanh về Cực Lạc, gặp Phật nghe pháp, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều tăng thượng, chẳng có duyên thoái chuyển, thọ mạng lại vô lượng, nên chẳng luận là căn khí nào đi nữa, hễ sanh về cõi ấy sẽ quyết định thành Phật. Ðiều này được xưng tụng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Ðộ kể cũng chẳng ngoa.
Nguyện thứ mười sáu là Thanh Văn vô số. Kinh chép: ‘Thanh Văn, trời người trong nước vô số’, ngài Trừng Hiến bảo: ‘A Di Ðà Phật có đệ tử vô lượng, đó là một trong ba thứ vô lượng’. Ba vô lượng là quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng và quyến thuộc vô lượng. Lời nguyện chỉ nói đến Thanh Văn, nhưng ngụ ý kể cả Duyên Giác.
Nếu có kẻ ngờ vực: kinh Bi Hoa dạy: ‘Chẳng có Thanh Văn và Bích Chi Phật thừa. Tất cả đại chúng thuần là Bồ Tát vô lượng vô biên’, sao kinh này lại bảo ‘Thanh Văn vô số’? Hai câu kinh này dường như mâu thuẫn nhau, nhưng nghĩa lý thật sự chẳng trái nghịch nhau. Với ba bậc vãng sanh, kinh này đều bảo ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm’.
Ba bậc vãng sanh đều đã phát Bồ Ðề tâm thì hạnh của họ phải thuộc Bồ Tát thừa, nên kinh Bi Hoa bảo ‘thuần là Bồ Tát’. Trong cõi ấy, gọi là Thanh Văn, Duyên Giác là chỉ căn cứ trên mức độ đoạn được hoặc chướng mà nói: Tuy đã đoạn được kiến hoặc, tư hoặc, nhưng chưa phá nổi trần sa hoặc và vô minh hoặc thì gọi là Thanh Văn, chứ nào phải đâu là hạng Nhị Thừa chỉ cầu tự độ. Nếu chỉ cầu tự độ, chẳng nguyện độ người khác, làm sao phát nổi Bồ Ðề tâm? Chẳng phát Bồ Ðề tâm, chẳng được vãng sanh!
Xét ra, bản Tống dịch nói rõ ý nghĩa này nhất. Bản Tống dịch ghi: ‘Tôi đắc Bồ Ðề thành Chánh Giác rồi, khiến cho tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi tuy trụ địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, nhưng đi đến trăm ngàn câu chi na do tha bảo sát làm đủ các Phật sự để khiến cho [chúng sanh trong các cõi ấy] đều đắc a nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề’. Xét ra, Thanh Văn chẳng nghe đến danh hiệu Phật phương khác, chỉ cầu Tiểu Thừa Niết Bàn, chẳng cầu Phật quả, thế nhưng nhân dân cõi Cực Lạc tuy gọi là ‘Thanh Văn’ mà lại qua được đến vô số cõi Phật xa xôi, làm vô lượng Phật sự, độ cho vô biên chúng sanh đều thành Phật thì đấy chính là hành vi của bậc Bồ Tát, há dám bảo họ đều là Thanh Văn thật sự hay không? Những người được gọi là ‘Thanh Văn’ ấy đều đã phát đại tâm Bồ Tát, hành đại hạnh Bồ Tát, hướng đến đại quả vô thượng, họ thật đúng như kinh Bi Hoa bảo: ‘Thuần là Bồ Tát’ vậy.
Tiếp theo đó, kinh lại dạy: ‘Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp chung nhau tính toán. Nếu họ biết được số lượng ấy thì chẳng lấy Chánh Giác’. Câu kinh này nêu tổng quát các ý nghĩa sau: Phật thọ vô lượng, nhân dân thọ mạng vô lượng, đệ tử trong nước vô lượng.

‘Tam thiên đại thiên thế giới’ là cảnh giới hóa độ của một đức Phật. Lấy núi Tu Di làm trung tâm, gộp cả bốn đại châu, mặt trời, mặt trăng, chư thiên, ta có một thế giới. Gộp một ngàn thế giới như vậy lại, ta được một tiểu thiên thế giới. Gom một ngàn tiểu thiên thế giới lại, ta được một trung thiên thế giới. Gom một ngàn trung thiên thế giới lại ta được một đại thiên thế giới. Do trước hết lấy một ngàn thế giới tạo thành một tiểu thiên, lại đem nhân tiểu thiên lên một ngàn lần thì được trung thiên, cuối cùng đem trung thiên nhân lên một ngàn lần thì được đại thiên; ba lượt nhân lên như thế nên đại thiên thế giới được gọi là ‘tam thiên đại thiên thế giới’. Thật sự chỉ là một đại thiên thế giới, chứ không phải là ba ngàn cõi đại thiên thế giới. Một tam thiên đại thiên thế giới có một ngàn ức thế giới.
Hiện thời, các nhà thiên văn mới tạm thời phát hiện được trong vũ trụ có vô lượng thế giới. Hiện tại, ai cũng biết là mặt trời và chín đại hành tinh hợp thành một thái dương hệ. Ðịa cầu chỉ là một ngôi sao xoay quanh mặt trời trong thái dương hệ.
Mặt trời chẳng những tự xoay mà nó còn đi vòng quanh trung tâm của một ngân hà tinh vân (hiện thời, khoa học tạm gọi đó là một hắc đỗng (black hole)) mất một thời gian ước chừng hai vạn năm.
Mặt trời chỉ là một hằng tinh trong dải tinh vân mang tên Ngân Hà. Dải Ngân Hà có chừng một ngàn ức hằng tinh. Trong vũ trụ có vô lượng tinh vân. Bản thân tinh vân cũng đang xoay vần, Ngân Hà cũng chỉ là một thiên thể lớn trong vũ trụ. Cứ tính rộng dần dần như thế chẳng biết đâu là cùng tận. Ðiều phát hiện mang tính cách sơ khởi của Thiên Văn học quả đã chứng thực điều kinh dạy: ‘Thế giới vô lượng’. Tam thiên đại thiên thế giới chỉ là cảnh hóa độ của một đức Phật, mà Phật vô lượng nên thế giới cũng vô lượng.
Ðại ý của lời nguyện là: giả sử hết thảy chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác rồi dùng sức thần thông hợp lại tính toán cũng chẳng biết nổi thọ lượng của Phật Di Ðà, thọ lượng của nhân dân cõi ấy và số lượng của người trong nước ấy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(30/7/2018) (181) T7

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi nước trong mười phương thế giới nếu chẳng cùng khen ngợi danh hiệu của tôi, thuật sự tốt lành của cõi nước và công đức của tôi thì chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện mười bảy: Chư Phật khen ngợi)

Giải:
Ðây là nguyện thứ mười bảy: ‘Chư Phật xưng thán’. Xưng là xưng dương, thán là tán thán. Bản Hán dịch ghi: ‘Lúc tôi thành Phật, tiếng tăm của tôi vang khắp tám phương, trên, dưới. Trong vô số cõi nước, các đức Phật vị nào cũng ngự giữa chúng đệ tử, khen ngợi công đức và sự tốt lành của cõi nước tôi. Chư thiên, nhân dân, các loài ngọ nguậy, bò trườn nghe được danh hiệu tôi thảy đều hớn hở sanh về cõi tôi’. Bản Ngô dịch ghi tương tự. Ngài Vọng Tây bảo: ‘Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện này rất thiết yếu’ và ‘nếu không có nguyện này, làm sao mười phương [nghe được danh hiệu ngài]. Nay chúng ta được gặp gỡ giáo pháp vãng sanh hoàn toàn là nhờ vào nguyện này, khá nên suy nghĩ kỹ’. Ý của ngài Vọng Tây là nếu không có nguyện này thì bọn chúng ta thân đang trong cõi Sa Bà uế độ, làm sao nghe được danh hiệu của vị giáo chủ và cõi nước ấy? Dẫu cho cõi ấy, Phật ấy công đức thắng diệu, thanh tịnh trang nghiêm, nhưng nếu ta chưa từng được nghe biết thì còn biết nhờ vào đâu để phát khởi nguyện thù thắng cầu vãng sanh cõi ấy? Vì vậy, ngày nay bọn chúng ta nghe được pháp môn Tịnh Ðộ thật là nhờ sức của thệ nguyện này. Do đó, trong cõi uế độ này, đức Bổn Sư Thích Ca mới xưng dương, tán thán A Di Ðà Phật và công đức chẳng thể nghĩ bàn của cõi ngài cho chúng ta được nghe biết. Bởi thế, ngài Vọng Tây khen rằng: ‘Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện này tối quan trọng’.
Ngài Pháp Tạng cầu nguyện danh hiệu mình vang dội thập phương chỉ là để nhiếp trọn mười phương hết thảy chúng sanh vãng sanh Cực Lạc, rốt ráo thành Phật. Nếu không có lời nguyện này thì cái nguyện ‘mười niệm vãng sanh’ cũng chỉ vô ích bởi có nghe được pháp thì mới biết cách trì danh chứ!
Sách Hội Sớ lại giảng câu ‘xưng thán danh hiệu tôi’ như sau: ‘Câu ‘Xưng thán danh hiệu tôi’ có ba nghĩa:
a). Chư Phật xưng dương đức hiệu của đức Phật ấy.
b). Chư Phật khen ngợi người xưng danh như Tiểu Kinh (kinh A Di Ðà) thật đã nói rõ chư Phật hộ niệm người xưng danh.
c). Chư Phật vừa khen ngợi lại vừa tự mình xưng niệm danh hiệu Phật A Di Ðà’.
Sách còn nói thêm: ‘Tam thế chư Phật do niệm Di Ðà tam muội mà thành Ðẳng Chánh Giác’.
Ý sách Hội Sớ là: Câu ‘chư Phật xưng thán’có ba nghĩa: Chư Phật khen ngợi thánh hiệu của Phật A Di Ðà, chư Phật khen ngợi hết thảy người trì niệm danh hiệu A Di Ðà và bản thân chư Phật cũng xưng niệm thánh hiệu A Di Ðà. Chư Phật nhờ niệm Phật tam muội mà trọn thành Chánh Giác.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(31/7/2018) (184) T7

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng
sanh nghe danh hiệu tôi chí tâm tin ưa, tất cả
thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi
tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh thì
chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch,
phỉ báng chánh pháp.
(nguyện mười tám: mười niệm ắt vãng sanh)

Giải:
Ðoạn kinh này nói về nguyện thứ mười tám: ‘Mười niệm ắt vãng sanh’. Các vị cổ đức thuộc Tịnh tông Nhật Bản phán định rằng: trong các kinh, mình kinh Hoa Nghiêm là chơn thật. Nhưng nếu đem Hoa Nghiêm so với kinh này thì kinh này mới là chơn. Ðem các nguyện khác so sánh với nguyện này thì nguyện này chơn thật nhất, nghĩa là: nguyện này chơn thật nhất trong các nguyện chơn thật.
‘Chí tâm’ là tâm chí thành, tâm chí cực. Sách Kim Quang Minh Văn Cú nói: ‘Chí tâm là tột cùng nguồn tâm, tận cùng Thật Tế của tâm nên bảo là chí tâm’. ‘Nguồn tâm’ là nguồn gốc của bổn tâm.
‘Thật tế’ là Chơn Thật Tế nói trong kinh này. ‘Tin ưa’ là tin thuận pháp đã được nghe, do ưa thích nên sanh lòng tin hoan hỷ. ‘Chí’ còn có nghĩa là chơn thành, thành thật. ‘Tâm’ là trân trọng, thành thật. ‘Tín’ là chơn thật, thành thật, viên mãn, trung tín. ‘Ưa’ là ham thích, mong muốn, yêu mến, sung sướng, vui vẻ, mừng rỡ. Như vậy, ‘tín tâm’ là tấm lòng chơn thật, thành thực, trọn vẹn, tấm lòng mong mỏi yêu thích, tấm lòng hoan hỷ, mừng rỡ. Dùng cái tâm như thế để tin yêu, ham thích, nên bảo là ‘chí tâm tin ưa’.
‘Thiện căn’ là sự lành nơi ba nghiệp: thân, khẩu, ý kiên cố chẳng thể nhổ trốc gốc được. Do thiện lại có thể sanh ra diệu quả và các điều lành khác nên gọi là thiện căn.
‘Tâm tâm’ là tấm lòng thuần nhất, tấm lòng tịnh niệm liên tục.
Trong chữ Hồi Hướng thì ‘hồi’ là xoay chuyển, ‘hướng’ là hướng đến; hồi chuyển công đức mình đã tu để hướng đến điều mình mong mỏi thì gọi là ‘hồi hướng’. Sách Hoa Nghiêm Ðại Sớ Sao, quyển 23 có ghi: ‘Hồi là chuyển, hướng là hướng đến. Chuyển vạn hạnh của chính mình để hướng đến ba chỗ nên gọi là hồi hướng... Ba chỗ là chúng sanh, Bồ Ðề và Thật Tế’. Vãng Sanh Luận Chú, quyển hạ cũng bảo: ‘Hồi hướng là đem công đức của chính mình thí cho khắp các chúng sanh cùng được thấy A Di Ðà Như Lai, sanh cõi An Lạc’. Ðây chính là ý nghĩa của hai chữ ‘hồi hướng’ trong lời nguyện.
‘Nguyện sanh cõi ta’ chính là lời hồi hướng: nguyện hết thảy chúng sanh vãng sanh cõi nước Cực Lạc.
‘Mười niệm’ là như kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: ‘Ðầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật’. Sách Tiên Chú giảng: ‘Mười lần xưng danh’. Ngài Vọng Tây bảo: ‘Trong khoảng mười niệm, chuyên xưng danh hiệu Phật thì là mười niệm. Chữ “niệm” ở đây là xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Ðọc hết sáu chữ ấy là một niệm’.
Ý nghĩa câu này được các kinh, luận giảng như nhau. ‘Dẫu chỉ mười niệm’ ý nói: dẫu chỉ xưng niệm danh hiệu mười niệm cũng được vãng sanh.
Ðây là nói về mức độ thấp nhất nên bảo là ‘dẫu chỉ’, nếu có thể niệm nhiều hơn thì càng niệm được càng nhiều càng tốt.
Nếu có kẻ cật vấn: trong kinh chỉ nói ‘mười niệm’, sao lại chỉ khuyên xưng niệm danh hiệu Phật, chứ chẳng thực hành những cách niệm Phật khác?
Ðáp: Chữ ‘niệm’ trong ‘mười niệm’ chỉ cho cách niệm danh hiệu Phật bằng miệng. Ðiều này thật có chứng cớ, bản Tống dịch ghi: ‘Tất cả chúng sanh cầu sanh trong cõi ta, niệm danh hiệu ta, phát tâm chí thành, kiên cố chẳng thoái. Người ấy lúc mạng chung, ta sai vô số bí sô (tỳ kheo) hiện ra trước mặt, cùng quây quần đến đón người ấy. Trong khoảnh khắc được sanh về cõi ta’.
Chữ‘niệm danh hiệu ta’ trong đoạn kinh trên chỉ có thể hiểu là niệm hồng danh của Phật mà thôi. Kinh Bát Châu cũng nói: ‘Lúc bấy giờ, A Di Ðà Phật bảo Bồ Tát ấy rằng: Muốn sanh về cõi ta nên thường niệm danh ta chẳng ngớt. [Làm] như vậy thì được sanh về cõi ta’. Trong phần hạ phẩm hạ sanh, Quán kinh cũng nói nếu có chúng sanh tạo nghiệp chẳng lành: ngũ nghịch, thập ác, làm đủ các việc chẳng lành. Lúc mạng sắp chết, gặp thiện tri thức giảng cho diệu pháp, dạy cho niệm Phật (quán tưởng niệm Phật). Nếu chẳng niệm nổi thì nên xưng danh hiệu Phật: ‘Chí tâm như vậy chẳng để dứt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Do xưng Phật danh nên trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử’. Sau khi mạng chung liền được vãng sanh. Do những đoạn kinh trên, ta thấy rõ ‘mười niệm’ được nói trong kinh này chính là Trì Danh Niệm Phật!

Với lời nguyện này, các vị cổ đức chú giải kinh cũng hiểu khác nhau. Có vị bảo: ‘Nguyện này thuộc về thượng phẩm, nói nguyện này tiếp độ hạ phẩm là sai’. Lại có vị bảo: ‘Nguyện này thuộc về ba phẩm bậc thượng, mười niệm được nói ở đây là dựa vào mười pháp để khởi niệm, chứ chẳng phải là mười niệm xưng danh’. Bảo ‘dựa vào mười pháp để khởi niệm’ là ý nói mười niệm được dạy trong kinh Di Lặc Sở Vấn. Kinh Di Lặc Sở Vấn chép: ‘Ðầy đủ những niệm như sau liền được vãng sanh An Lạc quốc độ. Có mười niệm, những gì là mười?

Một là với hết thảy chúng sanh thường sanh từ tâm; với hết thảy chúng sanh chẳng hủy hoại hạnh của họ. Nếu hủy hạnh của họ, trọn chẳng được vãng sanh.
Hai là với hết thảy chúng sanh, phát khởi bi tâm sâu xa, trừ bỏ ý tàn hại.
Ba là phát tâm hộ pháp, chẳng tiếc thân mạng. Với hết thảy pháp, chẳng sanh phỉ báng.
Bốn là sanh tâm quyết định nơi nhẫn nhục.
Năm là thân, tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm lợi dưỡng.
Sáu là phát tâm Nhất Thiết Chủng Trí, hằng ngày thường niệm chẳng hề quên mất.
Bảy là với hết thảy chúng sanh khởi tâm tôn trọng, trừ ý ngã mạn, nói năng khiêm tốn.
Tám là chẳng ham thích những lời đàm luận của thế gian.
Chín là chú trọng giác ý, sanh khởi các thứ thiện căn nhân duyên, xa lìa tâm ồn náo, tán loạn.
Mười là chánh niệm quán Phật, trừ khử các căn’ (trừ khử các căn nghĩa là không để các căn trần làm nhiễm loạn thân tâm).

Sách Tông Yếu nói: ‘Mười niệm như vậy phàm phu không làm nổi, phải là từ Sơ Ðịa Bồ Tát trở lên mới thực hiện đầy đủ nổi mười niệm ấy’.
Các thuyết trên đều cho rằng nguyện này chuyên vì thượng phẩm, thậm chí là bậc địa thượng Bồ Tát mới thực hiện trọn vẹn nổi; như vậy thì bậc trung, hạ phàm phu biết nhờ vào đâu để được vãng sanh? Rõ ràng ý kiến của các vị trên chẳng phù hợp với chân lý Tha Lực Quả Giáo của Tịnh tông. Còn như ngài Nghĩa Tịch dùng ngay thập niệm của hạ phẩm hạ sanh trong Quán kinh để giải thích ý nghĩa ‘mười niệm’ trong nguyện thứ 18 này mới thật là bậc am hiểu.
Sư Vọng Tây bảo: ‘Tông gia không nghĩ vậy (tông gia là tiếng người Nhật gọi ngài Thiện Ðạo). Mười niệm đây chỉ là miệng xưng niệm, bậc thượng thì niệm suốt cả đời, bét nhất là một niệm. Thông cả ba bậc, gồm trọn chín phẩm, không ai chẳng được vãng sanh’. Ý ngài bảo: mười niệm trong lời nguyện đây chỉ là miệng niệm. Bậc thượng thì suốt cả một đời chỉ niệm Phật danh; tệ nhất thì chỉ niệm một tiếng đều được vãng sanh (Chỉ niệm một tiếng là một niệm khi lâm chung, hoặc là ‘đạt được một niệm tịnh tâm, phát một niệm tâm niệm đức Phật ấy’ cũng được vãng sanh).
Trong lời nguyện này có nói ‘chí tâm tin ưa’, Quán kinh cũng dạy: ‘Chí tâm như thế chẳng cho ngơi tiếng, đầy đủ mười niệm’. Thế nào là ‘chí tâm’ và thế nào là ‘đầy đủ mười niệm’? Ðây là những điểm rất quan yếu của lời nguyện này. La Thập đại sư giải thích những điểm trên một cách hết sức khéo léo, ảo diệu như sau:
‘Ví như có người ở trong đồng hoang gặp phải ác tặc vung giáo, quơ gươm xông đến toan giết, người ấy rảo chạy, thấy mình phải vượt sông. Nếu chẳng vượt sông khó giữ nổi đầu cổ. Lúc bấy giờ, chỉ nghĩ cách vượt sông: mình chạy đến bờ sông, mặc áo mà lội hay là cởi áo mà bơi? Nếu vẫn mặc áo, sợ không qua sông nổi. Nếu cởi áo ra, sợ không kịp nữa. Chỉ nghĩ như vậy, không nghĩ gì khác. Cái ý nghĩ vượt sông khi ấy chính là nhất niệm. Mười niệm này đây chẳng để niệm nào khác xen vào. Hành giả cũng giống thế: nếu niệm danh hiệu Phật hoặc niệm tướng Phật đều niệm Phật không gián đoạn cho đến mười niệm. Chí tâm nhưvậy thì gọi là mười niệm’. Nghĩa là: trong lúc ấy chỉ nghĩ cách làm sao vượt được sông, không còn nghĩ gì khác; niệm như thế chính là nhất niệm. Niệm Phật liên tục như vậy đến mười niệm thì chính là ‘mười niệm’.
Sách Tông Yếu lại ghi: ‘Mười niệm nói trong kinh này có cả hai nghĩa ẩn mật và hiển liễu’. Mười niệm hiển liễu là như mười niệm được đại sư La Thập giảng trong đoạn văn vừa trích ở trên. Mười niệm ẩn mật là như các niệm: từ tâm v.v... mà kinh Di Lặc Sở Vấn đã nói. Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Trong mỗi một niệm, tự nhiên đầy đủ mười niệm như: từ tâm v.v...’ có nghĩa là: nếu có thể như Quán kinh dạy hay như lời ngài La Thập dạy mà niệm mười niệm thì trong mỗi một niệm đó tự nhiên đầy đủ cả mười niệm như kinh Di Lặc Sở Vấn dạy. Ấy là trong nghĩa hiển liễu tự nhiên hàm chứa nghĩa ẩn mật. Lời nhận xét của ngài Nghĩa Tịch thật đã phô trọn lẽ huyền vi của Tịnh tông. Người đời thường ưa thích sự huyền diệu mà chẳng biết rằng sự huyền diệu tối cực lại chỉ nằm trong cái bình thường, nên cổ đức bảo: ‘Tâm bình thường là đạo’. Chỉ cần bình bình thường thường, ròng rặt chuyên tinh, miên mật niệm Phật thì tự nhiên thầm hợp diệu đạo, niệm niệm ly niệm. Dùng cái tâm phàm phu mà nhập được Thật Tướng các pháp thì chỉ có trì danh và trì chú là dễ nhất. Vì sao niệm Phật lại có công đức như thế? Là vì niệm niệm đều thầm ứng hợp với Thật Tướng vậy!


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(01/8/2018) (186) Hết T7

‘Chỉ trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp’: Tội ác trái nghịch với Lý đến cùng cực thì gọi là ‘nghịch’. Do Ngũ Nghịch sẽ cảm lấy ác nghiệp khổ quả trong Vô Gián địa ngục nên còn gọi là Vô Gián Nghiệp.
Kinh A Xà Thế Vấn Ngũ Nghịch chép: ‘Có năm thứ tội nghịch; nếu tộc tánh tử, hoặc tộc tánh nữ phạm năm tội chẳng cứu được này, quyết sẽ vào địa ngục, không còn ngờ gì nữa. Những gì là năm? Chính là: giết cha, giết mẹ, hại a xà lê, gây rối chúng Tăng, khởi ác ý đối với Như Lai’.
Kinh Hoa Nghiêm, trong phần ba chương Khổng Mục cũng nói: ‘Ngũ Nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá Tăng, làm thân Phật chảy máu. Hai thứ đầu là bội ân dưỡng dục, ba thứ sau là phá hoại phước điền. Vì vậy, gọi là Nghịch’.
Nói nôm na, ngũ nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng. Phạm những tội nghịch này ắt đọa Vô Gián địa ngục trong một đại kiếp chịu khổ không ngừng ngớt.

Trong chữ ‘phỉ báng’, Phỉ có nghĩa giống như báng; Báng là chê bai, nhục mạ. Nói việc xấu của người khác quá mức sự thật là ‘báng’. Phỉ báng chánh pháp tức là phỉ báng Phật pháp. Ðại nguyện ‘mười niệm ắt được sanh’ này phổ độ hết thảy, nhưng không độ được kẻ đã phạm tội Ngũ Nghịch và hủy báng chánh pháp. Quán kinh dạy: ‘Ngũ nghịch, thập ác, lâm chung mười niệm cũng được vãng sanh’, kinh này lại loại trừ họ ra là vì họ đã phạm Ngũ Nghịch lại còn phỉ báng chánh pháp, tội càng thêm tội. Vả lại, tội phỉ báng rất nặng! Kẻ báng pháp gọi là báng pháp xiển đề nên chẳng được vãng sanh vậy.

Hỏi: Quán kinh bảo người phạm tội ngũ nghịch nhưng chẳng phỉ báng chánh pháp cũng được vãng sanh. Vậy thì kẻ chỉ phỉ báng chánh pháp nhưng chẳng phạm ngũ nghịch có được vãng sanh hay chăng?
Vãng Sanh Luận Chú đáp: ‘Nếu chỉ phỉ báng chánh pháp, chẳng phạm các tội khác cũng nhất định chẳng được vãng sanh. Vì sao bảo vậy? Kinh dạy: Tội nhân ngũ nghịch đọa trong A Tỳ đại địa ngục, chịu đủ hết thảy trọng tội (chỉ đến khi kiếp tận mới được ra). Người phỉ báng chánh pháp đọa trong A Tỳ đại địa ngục, nếu kiếp này tận rồi bèn bị chuyển sang A Tỳ đại địa ngục ở phương khác. Lần lượt trải qua trăm ngàn A Tỳ đại địa ngục như thế mà Phật chẳng huyền ký lúc nào sẽ thoát khỏi. Như vậy, tội phỉ báng chánh pháp nặng nề nhất’.
Sách còn viết thêm: ‘Ông chỉ biết năm tội nghịch là trọng mà chẳng biết năm tội nghịch đều là do không có chánh pháp mà sanh. Vì vậy, tội người báng chánh pháp rất nặng’.
Trong Quán kinh sớ, đại sư Thiện Ðạo lại có cách giải thích khác biệt: nói ngũ nghịch, báng pháp chẳng được vãng sanh là do Phật muốn ngăn ngừa điều ác nên phương tiện nói thế. Sách viết: ‘Với nghĩa này, nên dùng Ức Chỉ Môn để hiểu. Trong bốn mươi tám nguyện loại trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp là vì hai nghiệp này gây chướng rất nặng. Chúng sanh nếu trót phạm phải liền vào thẳng A Tỳ, kinh hoàng bao kiếp, biết nhờ đâu để thoát khỏi. Ðức Như Lai sợ chúng sanh tạo hai tội lỗi ấy nên mới thốt lời ngăn ngừa ‘chẳng được vãng sanh’, nhưng chẳng phải là ngài chẳng nhiếp thủ bọn họ.... Dẫu tạo tội vẫn được nhiếp thủ vãng sanh, tuy được vãng sanh nhưng hoa sen trong nhiều kiếp chưa nở. Lúc ở trong hoa, bọn tội nhân ấy có ba thứ chướng: một là chẳng được thấy Phật và các thánh chúng; hai là chẳng được nghe chánh pháp; ba là chẳng được qua khắp các nơi cúng dường. Trừ những điều trên ra không còn các nỗi khổ nào khác’.
Trong phần nói về tông chỉ của kinh, sách Hợp Tán cũng nhận định: ‘Nói chỉ trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp là đối với căn cơ chưa tạo nghiệp, chỉ là để ngăn ngừa mà thôi. Nếu với căn cơ đã trót tạo nghiệp, đã hồi tâm thì Phật cũng
nhiếp thủ chẳng để sót vậy’. Ý nói: Nói ‘trừ’ nhưng thật sự là nhằm ngăn dứt điều ác để kẻ chưa tạo ác chẳng dám tạo. Kẻ đã trót tạo nếu biết hồi tâm, sám hối niệm Phật thì vẫn nhiếp thủ như cũ chẳng để sót vậy.
Như vậy, Di Ðà đại nguyện nhiếp thủ căn cơ vô tận nên Thiện Ðạo đại sư bảo: ‘Như Lai sở dĩ xuất hiện trong đời chỉ là để nói biển bổn nguyện của Phật Di Ðà’. Ý nói: Tam thế chư Phật xuất hiện trong đời chỉ để nói đại sự nhân duyên sau: tuyên thuyết nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn của A Di Ðà Như Lai nhằm cứu vớt chúng sanh. Vì vậy, đại sư lại bảo: ‘Nay được gặp gỡ di tích của Phật Thích Ca trong đời mạt pháp, pháp môn trọng yếu bổn thệ nguyện Cực Lạc của Phật Di Ðà, hết thảy phàm phu thiện ác được vãng sanh không ai lại chẳng nương vào đại nguyện nghiệp lực của A Di Ðà Phật làm tăng thượng môn vậy’.
Thoạt nhìn, thuyết của Vãng Sanh Luận Chú tựa hồ mâu thuẫn với thuyết của Quán Kinh Sớ, nhưng thật ra cả hai thuyết dung thông lẫn nhau. Thuyết của Vãng Sanh Luận Chú thật phù hợp với ý chỉ ngăn ngừa của Như Lai: khiến người kinh sợ chẳng dám báng pháp. Trong luận lại có câu: ‘Kẻ ngu si trong đời này đã sanh lòng phỉ báng thì lẽ nào nguyện sanh?’ Vì vậy, kinh dạy ngũ nghịch, báng pháp chẳng được vãng sanh. Quán Kinh Sớ thì hiển thị bi nguyện vô tận của Phật Di Ðà: “Tuy ngũ nghịch, báng pháp nhưng lúc lâm chung lại có thể niệm Phật thì chính là sám hối phát tâm, người như vậy trong ức ức người khó được một, hai kẻ, nên Phật vẫn từ mẫn nhiếp thọ”.
Thiện Ðạo đại sư lại bảo: ‘Hoằng thệ môn nói đến cả bốn mươi tám nguyện, nhưng chỉ bảo niệm Phật là thiết yếu. Ai niệm Phật thì Phật niệm người ấy. Chuyên tâm tưởng Phật thì Phật biết người ấy’.
Ngài lại bảo: ‘Chỉ có niệm Phật được quang minh nhiếp thọ. Ta nên biết rằng bổn nguyện là mạnh mẽ nhất’. Thiện Ðạo đại sư phán định trong bốn mươi tám nguyện, chỉ có năm nguyện chơn thật. Xét trong năm nguyện ấy, chỉ có nguyện mười tám là chơn thật, nên ngài viết trong sách Sự Tán như sau:
‘Mỗi một lời nguyện dẫn về nguyện thứ mười tám’. Sách Bình Giải nói: ‘Bốn mươi tám nguyện tuy rộng nhưng chỉ quy về nguyện mười tám’. Sách còn viết: ‘Do nơi nguyện này nên chúng sanh được sanh về cõi không có ba đường ác, chẳng đọa đường ác nữa, đủ tướng hảo, hiện thần thông mà được diệt độ do nhập vào biển quang minh, thọ lượng. Vì vậy, riêng nguyện này thật tối thắng vậy’.
Sách Tiên Chú cũng nhận xét: ‘Rõ ràng, trong bốn mươi tám nguyện, nguyện niệm Phật vãng sanh này là vua của các nguyện căn bổn’.
Nguyện này thể hiện phương tiện rốt ráo, Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật Di Ðà. Do danh hiệu chính là thật đức nên ‘thanh, chữ đều là Thật Tướng’ vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(02/8/2018) (189) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi liền phát Bồ Ðề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu ba la mật kiên cố bất thoái, lại đem các thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, nhất tâm niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt. Lúc lâm chung, tôi cùng các Bồ Tát chúng hiện đến đón trước mặt, trong
khoảnh khắc liền sanh cõi tôi, thành bậc a duy việt trí Bồ Tát. Chẳng thỏa nguyện này chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện mười chín: nghe tên phát tâm,
nguyện hai mươi: lâm chung tiếp dẫn)

Giải:
Chương này gồm nguyện mười chín ‘nghe danh phát nguyện’ và nguyện hai mươi ‘lâm chung tiếp dẫn’. ‘Danh hiệu’ là tên hiệu. Danh để nêu rõ cái thể, hiệu là cái tên được phô ra ngoài để thiên hạ hay biết. Danh và hiệu đồng thể. Danh hiệu vốn được dùng để chỉ chung những tên hiệu của chư Phật, Bồ Tát, nhưng trong kinh này chữ ‘danh hiệu’ chuyên dùng để chỉ danh hiệu vị giáo chủ cõi Cực Lạc: A Di Ðà.
‘Phát Bồ Ðề tâm’: Bồ Ðề là tiếng Phạn, cựu dịch là Ðạo, tân dịch là Giác. Ngài Tăng Triệu bảo: ‘Ðạo đạt đến chỗ cùng cực gọi là Bồ Ðề, Tàu không có tiếng nào dịch nổi. Ấy chỉ là chơn trí Chánh Giác vô tướng mà thôi!’. Bồ Ðề tâm là cái tâm cầu chơn đạo, tâm cầu Chánh Giác. Bồ Ðề tâm còn có nghĩa là tâm tự giác giác tha; nói tỉ mỉ thì như Vãng Sanh Yếu Tập bảo có hai thứ Bồ Ðề tâm:

a). Duyên sự Bồ Ðề tâm (đây chính là Hạnh Nguyện Bồ Ðề tâm trong Mật tông). Tâm này dùng tứ hoằng thệ nguyện làm thể:
* ‘Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’ là nhân của Ứng Thân Bồ Ðề.
* ‘Phiền não vô số thệ nguyện đoạn’ là nhân của Pháp Thân Bồ Ðề.
* ‘Pháp môn vô tận thệ nguyện học’ là nhân của Báo Thân Bồ Ðề.
* ‘Vô thượng Bồ Ðề thệ nguyện chứng’ là nguyện cầu chứng đắc Phật quả Bồ Ðề.
Do thành tựu trọn vẹn ba hạnh nguyện trước nên chứng được tam thân Bồ Ðề viên mãn rồi lại lợi ích khắp hết thảy chúng sanh.

b). Duyên lý Bồ Ðề tâm (đây chính là tâm Thắng Nghĩa Bồ Ðề trong Mật thừa): hết thảy các pháp vốn không tịch nên an trụ trong Trung Ðạo Thật Tướng để viên thành hạnh nguyện “thượng cầu hạ hóa”.
[Tâm Bồ Ðề nói trong kinh này] là tâm Bồ Ðề tối thượng tức là duyên lý Bồ Ðề tâm.

Trong sách Tông Yếu, sư Nguyên Hiểu người xứ Tân La luận về Bồ Ðề tâm như sau: ‘Một là tùy sự phát tâm, hai là thuận lý phát tâm.

a). Tùy sự là: phiền não vô số nguyện đều đoạn cả; thiện pháp vô lượng nguyện đều tu cả; chúng sanh vô biên nguyện đều độ cả. Quyết định nguyện thành tựu ba điều này. Tâm thứ nhất làm chánh nhân cho Ðoạn Ðức của Như Lai, tâm kế đó là chánh nhân cho Trí Ðức của Như Lai, tâm thứ ba là chánh nhân của Ân Ðức. Ba đức hợp thành quả Bồ Ðề vô thượng. Ba tâm này gọi chung là nhân của Vô Thượng Bồ Ðề.
Nhân, quả tuy khác nhưng rất rộng lớn, bình đẳng không sót, không gì mà nó chẳng bao gồm, như kinh nói: “Cả hai thứ: phát tâm và rốt ráo. Trong hai tâm như thế, tâm trước là khó: chưa tự đắc độ đã độ người trước. Vì vậy, tôi lễ bậc sơ phát tâm”. Quả báo của tâm này tuy là Bồ Ðề (thành Phật), nhưng hoa báo lại là Tịnh Ðộ (vãng sanh).

Vì sao như thế? Bồ Ðề tâm lượng rộng lớn vô biên, dài lâu vô hạn nên cảm được y báo Tịnh Ðộ rộng lớn không ngằn mé, chánh báo thọ mạng dài lâu vô lượng. Ngoại trừ Bồ Ðề tâm không thứ gì khác có khả năng làm được như thế. Vì vậy bảo tâm này là chánh nhân cho Bồ Ðề.

b). Thuận lý phát tâm là tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng có, chẳng không, dứt nói năng, bặt suy lường. Dùng lòng tin hiểu đó để phát tâm rộng lớn, tuy chẳng thấy có phiền não hay thiện pháp, nhưng chẳng bác rằng không có gì để tu, để đoạn. Vì vậy, tuy nguyện đoạn tất cả, tu tất cả, nhưng chẳng trái nghịch Vô Nguyện tam muội.

Tuy nguyện đều độ vô lượng hữu tình, nhưng chẳng có [quan niệm] người độ và kẻ được độ, nên có thể tùy thuận Không, Vô Tướng như kinh dạy: “Diệt độ vô lượng chúng sanh như vậy, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ” v.v... Phát tâm như thế chẳng thể nghĩ bàn. Ðấy là nói về thuận lý phát tâm.
Tùy sự phát tâm còn có thể bị thoái chuyển, kẻ bất định tánh cũng có thể phát được tâm ấy. Thuận lý phát tâm thì chẳng bị thoái chuyển, chỉ căn tánh Bồ Tát mới phát nổi. Phát tâm như thế công đức vô biên. Giả sử chư Phật trong suốt kiếp nói các công đức ấy còn chẳng thuật đủ được’.

Trong đoạn văn trên đây của ngài Nguyên Hiểu, ‘tùy sự phát tâm’ chính duyên sự Bồ Ðề tâm, ‘thuận lý phát tâm’ là duyên lý Bồ Ðề tâm. Ở đây, tôi trích dẫn trọn đoạn văn trên vì xét ra sách Tông Yếu giảng Bồ Ðề tâm tường tận hơn.
Bản ‘Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm Văn’ cũng viết: ‘Phát Bồ Ðề tâm là vua trong các điều lành’.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận lại bảo: ‘Nên biết rằng Bồ Ðề tâm là nguồn cội của chư Phật, là huệ mạng của chúng sanh. Vừa phát tâm này đã thành Phật đạo vì đã tương ứng với Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, trí Ðại Thừa rộng lớn, trí tối thượng thắng không gì sánh tày vậy’. Hơn nữa, ba bậc vãng sanh trong kinh này đều do ‘phát Bồ Ðề tâm, một dạ chuyên niệm’, đủ thấy phát Bồ Ðề tâm thật là điều quan trọng hàng đầu.

Xét ra, vì nguyện thứ hăm sáu là ‘nghe danh được phước’ và nguyện bốn mươi bảy là ‘nghe danh đắc nhẫn’, thì nguyện thứ mười chín ‘nghe danh phát tâm’ này phải nên được hiểu là: Do nghe danh hiệu của Phật, được Phật gia bị nên phát tâm Bồ Ðề. Hiểu như vậy liền thấy rõ công đức của danh hiệu A Di Ðà chẳng thể nghĩ bàn, sức hoằng thệ nguyện của đấng Nguyện Vương chẳng thể nghĩ bàn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(03/8/2018) (191) T8

‘Tu các công đức... ngày đêm chẳng ngớt’ là đại hạnh sẽ làm sau khi phát tâm. Câu này và câu trước đó hợp thành toàn văn của nguyện thứ mười chín: do nghe danh hiệu Phật Di Ðà nên phát tâm và tu các đại hạnh.
Trong lời nguyện, chữ ‘sáu ba la mật’ chỉ lục độ. ‘Ðộ’ là vượt qua được biển sanh tử đạt tới bờ Niết Bàn. Sáu độ là Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Ðịnh và Bát Nhã. Lục Ðộ bao trùm vạn hạnh.

‘Kiên cố bất thoái’ nghĩa là các đại nguyện, đại hạnh trên quyết định chẳng lay động, vĩnh viễn chẳng lui sụt. Như phần kệ tụng đã nói: ‘Hạnh tôi sức kiên cố quyết định, chỉ Phật thánh trí chứng biết nổi, dẫu thân ở trong các chốn khổ, nguyện tâm như vậy trọn bất thoái’ thì ‘kiên cố’ có nghĩa là bất thoái.

Trong câu ‘nhất tâm niệm tôi’, chữ ‘nhất tâm’như phần trên đã giải thích: nhất tâm chỉ thật thể Chơn Như của vạn hữu. Xét trong kinh này, nhất tâm là tín tâm kiên định, chẳng bị các tâm khác não loạn nên gọi là ‘nhất tâm’. Sách ‘Giáo Hạnh Tín Chứng Văn Loại’ nói: ‘Tín tâm chính là nhất tâm. Nhất tâm chính là lòng tin chơn thật. Vì vậy, luận chủ khăng khăng nói nhất tâm’. Sách Thám Huyền Ký, quyển 3 cũng nói: ‘Nhất tâm là tâm không dị niệm’. Sách Chỉ Quán, quyển bốn lại viết: ‘Nhất tâm là lúc tu pháp này, một dạ chuyên chí, tâm chẳng duyên theo điều gì khác’ (tức là trong tâm chẳng nghĩ đến sự vật nào khác). Hơn nữa, nhất tâm lại có hai thứ: sự và lý. Không xen lẫn niệm nào khác là sự nhất tâm, nhập Thật Tướng là lý nhất tâm.
Câu ‘nhất tâm niệm tôi’ trong kinh này gồm cả sự lẫn lý. Người tu học tịnh nghiệp hiện tại chỉ cần tin sâu, nguyện thiết, xưng niệm danh hiệu thì đã là ‘nhất tâm niệm tôi’. Hành được như đại sư Thiện Ðạo dạy: ‘Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng luận thời tiết, xa gần, niệm niệm chẳng bỏ’ thì chính là ‘nhất tâm niệm Phật’ từ sự nhập lý, nhưng toàn thể của sự lại chính là lý vậy.

Nguyện thứ mười chín là nhân, nguyện thứ hai mươi là quả. Nếu ai phát tâm niệm Phật đúng như nguyện thứ mười chín dạy thì khi lâm chung, Phật Di Ðà cùng hàng Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc sẽ hiện đến trước mặt tiếp dẫn. Trong khoảnh khắc, người ấy liền vãng sanh Tịnh Ðộ Cực Lạc làm bậc Bồ Tát a duy việt trí (bất thoái chuyển).

Nguyện hai mươi thể hiện sâu xa diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn của phương tiện Tha Lực trong Quả giáo. Kẻ phàm phu nghiệp chướng chất chồng lại có thể mang nghiệp đi vãng sanh; đấy toàn là do nguyện này của Phật Di Ðà, do sức
từ bi đại lực nhiếp thọ của thánh chúng hiện diện trong lúc lâm chung.
Ngài Linh Chi (Nguyên Chiếu) đời Tống nói: ‘Phàm người lâm chung thức thần vô chủ, không một thứ nghiệp chủng thiện hay ác nào lại không phát hiện: hoặc khởi ác niệm, hoặc khởi tà kiến, hoặc sanh quyến luyến, hoặc phát điên rồ, chẳng phải chỉ có một thứ ác tướng... đều là điên đảo cả’.
Rõ ràng là phàm phu nghiệp nặng, lúc lâm chung lắm nỗi điên đảo, lại bị tứ đại bức bách khổ sở, đau đớn khó tả nổi, làm sao mà chánh niệm trì danh được! Chẳng thể trì danh làm sao vãng sanh nổi? Vì vậy, phàm phu vãng sanh chẳng phải do tự lực mà toàn là cậy vào sức gia bị của đại nguyện của Phật Di Ðà giữ cho chẳng điên đảo nên mới được vãng sanh như sách Viên Trung Sao nói: ‘Chúng sanh cõi Sa Bà tuy có thể niệm Phật nhưng kiến hoặc còn rối bời chưa thể đoạn trừ được. Khi lâm chung chẳng bị điên đảo thì vốn nào phải do sức mình chủ trì nổi, mà chỉ toàn là cậy vào Di Ðà đến cứu vớt thôi. Tuy không có chánh niệm mà giữ nổi chánh niệm nên tâm chẳng điên đảo, liền được vãng sanh’.
Ý tưởng trên càng được diễn tả rõ hơn trong hai kinh Tiểu Bổn (bản Ðường dịch) và kinh Bi Hoa. Kinh Tiểu Bổn bản Ðường dịch mang tên là Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ kinh có nói:‘Lúc lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật cùng vô lượng Thanh Văn đệ tử, Bồ Tát của ngài trước sau vây quanh, đến đứng trước mặt, từ bi gia hựu khiến tâm chẳng loạn’. Rõ ràng là phàm phu khi lâm chung tâm chẳng điên đảo và chẳng tán loạn, chánh niệm trì danh toàn là nhờ sức Phật Di Ðà từ bi ban ân vậy. Kinh Bi Hoa cũng chép: ‘Lúc lâm chung, ta cùng các đại chúng vây quanh hiện trước mặt người ấy. Người ấy thấy ta liền đối trước ta sanh lòng hoan hỷ. Do thấy ta nên lìa các chướng ngại, liền xả thân sanh về cõi ta’. Kinh còn chép lời nguyện sau: ‘Tất cả chúng sanh nếu nghe danh hiệu của ta, phát nguyện muốn sanh trong thế giới ta thì lúc mạng chung các chúng sanh ấy thảy đều thấy ta và các đại chúng vây quanh trước sau. Ngay khi ấy, ta nhập Vô Ế tam muội. Do sức tam muội nên ở trước mặt kẻ đó mà thuyết pháp cho kẻ đó. Do được nghe pháp, kẻ đó liền đoạn trừ được hết thảy khổ não, tâm đại hoan hỷ nên đắc Bảo Chơn Tam Muội. Do sức tam muội nên tâm đắc Vị Bất thoái. Trong cõi Sa Bà này, Sơ Quả của Tạng giáo, bậc Kiến Ðịa của Thông giáo, bậc Sơ Trụ của Biệt giáo, bậc Tín Ðịa của Viên giáo gọi là Vị Bất thoái. Bồ Tát của Thông giáo, bậc Thập Hướng của Biệt giáo, bậc Thập Tín của Viên giáo gọi là Hạnh Bất niệm và Vô Sanh Nhẫn. Sau khi mạng chung, ắt sanh về cõi ta’.
Kinh Bi Hoa đã nói rõ diệu dụng của tha lực một cách thật rành rẽ. Kinh ‘Xưng Tán Tịnh Ðộ’ là tiểu bổn của kinh này, kinh Bi Hoa nói về nhân địa của Phật Di Ðà và cõi Cực Lạc trang nghiêm. Hai kinh cùng nói rõ lúc lâm chung, Phật đến tiếp dẫn, nguyện lực nhiếp thọ vãng sanh thù thắng, đủ thấy Di Ðà nguyện vương diệu đức khó lường, đại ân, đại lực chẳng thể tính kể nổi.

‘A-duy-việt-trí’ còn được phiên là A Bệ Bạt Trí, dịch nghĩa là bất thoái chuyển, là một địa vị của Bồ Tát. Theo sách Di Ðà Yếu Giải: ‘A-bệ-bạt-trí, Tàu dịch là “bất thoái”:
a). Vị bất thoái: vào dòng thánh, chẳng đọa địa vị phàm phu.
b). Hạnh bất thoái: luôn độ sanh, chẳng đọa địa vị Nhị Thừa.
c). Niệm bất thoái: tâm tâm lưu nhập biển Tát Bà Nhã (nhất thiết trí).
Niệm bất thoái. Sơ Ðịa của Biệt giáo, Sơ Trụ của Viên giáo mới gọi là Niệm Bất thoái’
Nghĩa là: Bất thoái có ba thứ, loại cao nhất là Niệm Bất Thoái. Hành giả trong cõi này phải là bậc tu chứng Sơ Hoan Hỉ địa trong Biệt giáo, hay bậc tu đến Sơ Phát Tâm Trụ trong Viên giáo mới phá được một phẩm vô minh, chứng một phần pháp Thân rồi, mới có thể trong mỗi niệm chứng nhập biển Tát Bà Nhã (biển Nhất Thiết Chủng Trí, tức là quả hải của Như Lai). Bỏ cả nhị biên, hoàn toàn quy về Trung Ðạo thì mới gọi là ‘niệm niệm lưu nhập biển Tát Bà Nhã’. Như vậy, rất khó chứng được Niệm Bất Thoái, nhưng trong nguyện này, Phật lại nói: mười phương chúng sanh nghe danh phát tâm, nhất tâm niệm ta, liền sanh trong cõi ta, thành bậc a duy việt trí Bồ Tát. Kinh Tiểu Bổn cũng dạy: ‘Chúng sanh sanh về cõi nước Cực Lạc đều là A-bệ-bạt-trí’.
Sách Yếu Giải còn giảng: ‘Nay trong Tịnh Ðộ, ngũ nghịch, thập ác mười niệm thành tựu, ôm nghiệp đi vãng sanh thuộc về hạ hạ phẩm cũng đều được ba thứ bất thoái’. Người hạ hạ phẩm mà cũng chứng ba thứ bất thoái, trong một đời viên thành Phật quả thì thật là không đâu được như vậy, chỉ mình Cực Lạc riêng có. Siêu tuyệt, lạ lùng đặc biệt đến thế, dẫu suy nghĩ, biện luận cũng chẳng thấu đạt nổi, nên sách Yếu Giải bảo: ‘Nếu chẳng phải là do tâm tánh đạt đến cùng cực, do sự un đúc kỳ diệu của trì danh, do đại nguyện của Di Ðà thì làm sao mà được như vậy!’.
Trong 48 nguyện, hai nguyện này như hồng tâm của bia bắn tên, còn nguyện thứ mười tám lại là trung tâm của các hồng tâm vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.25 khách