Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(04/8/2018) (192) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, hệ niệm cõi tôi, phát Bồ Ðề tâm kiên cố bất thoái, gieo các cội đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về Cực Lạc thì không ai chẳng được toại nguyện. Nếu có nghiệp ác đời trước, nghe danh hiệu tôi liền tự hối lỗi, tu đạo làm lành, liền trì kinh, giới, nguyện sanh cõi tôi, chết đi chẳng đọa vào tam ác đạo nữa, liền sanh trong cõi tôi. Nếu chẳng được vậy chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện hăm mốt: sám hối được vãng sanh)

Giải:
Ðây là nguyện thứ hăm mốt ‘Sám hối được vãng sanh’. Ý của đoạn văn từ câu đầu đến câu ‘không ai chẳng được toại nguyện’ giống ý của nguyện hai mươi trong bản Ngụy dịch (câu văn và chữ dùng trong hội bản được chọn từ bản Ðường dịch lẫn Tống dịch); phần còn lại trích từ nguyện thứ năm của bản Ngô dịch (bản Hán dịch chép giống vậy) để kết thành nguyện này, đặt tên là nguyện ‘hối lỗi được vãng sanh’.
Khác với nguyện thứ mười tám và nguyện hai mươi, nguyện này chú trọng kẻ tạo ác nghiệp trong đời trước: tội nghiệp sâu nặng phải chịu quả báo trong tam đồ. Ðời này được nghe danh hiệu liền phát tâm, chí tâm hồi hướng, vun bồi đức hạnh cầu vãng sanh. Lúc lâm chung được Phật nguyện gia bị, chẳng đọa ba ác đạo, vãng sanh cõi kia. Nguyện này thể hiện từ đức thù thắng của Phật nguyện nên cổ đức bảo: ‘Bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng vì cứu độ chúng sanh’. Ðại bi từ phụ ân đức vô cực, chúng ta học Phật lẽ nào chẳng báo?
‘Hệ niệm’ nghĩa là: tâm niệm chuyên chú một chỗ, chẳng nghĩ đến điều gì khác, như Quán kinh dạy: ‘Phải nên chuyên tâm, hệ niệm một chỗ tưởng nơi Tây phương’.

Chữ ‘thực’ trong ‘thực chúng đức bổn’ (trồng các cội đức) có nghĩa là trồng trọt. ‘Ðức bổn’ là thiện căn. Ðức là thiện, bổn là cội rễ. ‘Ðức bổn’ còn có nghĩa là căn bổn của các đức vậy. Hiểu theo nghĩa này, danh hiệu Phật A Di Ðà chính là cội đức như sách Giáo Hạnh Chứng Tín giảng: ‘Ðức bổn là đức hiệu của Như Lai. Xưng niệm đức hiệu ấy một tiếng thì chí đức được thành tựu trọn vẹn, chuyển được các họa. Do [đức hiệu A Di Ðà] là gốc của mười phương tam thế đức hiệu nên gọi là “đức bổn”.

Câu ‘nghiệp ác đời trước’ chỉ các nghiệp ác đã gây tạo trong đời trước, tức là tội ác trong đời quá khứ. ‘Hối’ là sửa đổi, sửa đổi quá khứ, tu tập tương lai. ‘Hối lỗi’ là hướng về Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng mà sám hối tội lỗi, thề chẳng tái phạm.
Do nguyện này mang tên ‘hối lỗi được vãng sanh’ nên ta biết: Sám Hối là chìa khóa để vãng sanh vì do sám hối sẽ diệt được hết thảy tội. ‘Trì’ là phụng trì.
‘Chết đi chẳng đọa tam ác đạo nữa, liền sanh về cõi ta’ chính là yếu chỉ của lời nguyện này. Nếu đời trước trót làm ác, có nghiệp quyết định thì sau khi mạng chung ắt phải ở cõi này hoặc trong thế giới phương khác đọa trong ba ác đạo. Do đời này hối lỗi tu đạo hành thiện, tụng kinh, trì giới, phát Bồ Ðề tâm, chuyên niệm Cực Lạc, chí tâm hồi hướng cầu sanh Tịnh Ðộ v.v... thì nhờ vào công đức của lời nguyện này của Phật Di Ðà để ngăn chặn túc nghiệp, được Phật tiếp dẫn chẳng đọa tam đồ, nhanh chóng sanh về Cực Lạc. Vì vậy, kinh chép: ‘Không ai chẳng được toại nguyện’. Chữ ‘toại nguyện’ nghĩa là ý nguyện cầu sanh Cực Lạc được thỏa mãn trọn vẹn. Rõ ràng, người túc nghiệp sâu nặng đều chẳng bị đọa vào tam đồ nữa, được mang nghiệp đi vãng sanh. Bi nguyện Phật Di Ðà sâu thẳm, sức nhiếp độ mênh mông vượt trỗi mười Phương.

Hiện thời, giới Phật giáo hải ngoại đang tranh cãi về thuyết ‘đới nghiệp vãng sanh’, nay ta cứ dựa trên kinh này thì biết ngay thuyết đới nghiệp vãng sanh thật đã căn cứ trên lời Phật nguyện. Hơn nữa, cái nghiệp được mang theo đó chính là ác nghiệp!


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(06/8/2018) (194) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, nước không nữ nhân. Nếu có nữ nhân nghe danh hiệu tôi sanh lòng tin thanh tịnh, phát Bồ Ðề tâm, chán ngán thân nữ, nguyện sanh cõi tôi, chết đi liền hóa thành nam tử sanh về cõi tôi. Các loài chúng sanh trong
mười phương thế giới sanh về cõi tôi đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện hăm hai: nước không nữ nhân;
nguyện hăm ba: chán thân nữ, chuyển thân nam;
nguyện hăm bốn: liên hoa hóa sanh)

Giải:
Chương này gồm ba nguyện: nguyện hăm hai ‘nước không nữ nhân’ (trích từ bản Ngô dịch); câu ‘nếu có nữ nhân... mạng chung hóa thành nam tử, sanh về cõi tôi’ là nguyện thứ hăm ba ‘chán thân nữ, chuyển thành thân nam’, còn gọi là nguyện ‘nữ nhân vãng sanh’; nguyện hăm bốn là ‘liên hoa hóa sanh’ (trích từ bản Ngô dịch).
Bản Ngô dịch chép nguyện ‘nước không nữ nhân’ như sau: ‘Khiến trong nước ta không có phụ nữ’. Trong bản Hán dịch, phần kinh văn thuật về sự thành tựu của lời thệ nguyện có ghi: ‘Nữ nhân vãng sanh thì đều hóa sanh, biến thành nam tử’. Kinh còn nói: ‘Cả nước đều là Bồ Tát, A La Hán, không có phụ nữ’.
Hơn nữa, ngài Ðạo Tuyên luật sư đời Ðường còn dẫn kinh như sau: ‘Mười phương thế giới chỗ nào có nữ nhân, chỗ đó có địa ngục’. Nay Cực Lạc không có ba ác đạo, ắt hẳn chẳng có phụ nữ, thuần là người đủ băm hai tướng đại trượng phu. Ðó là vì giữa nam nữ dễ sanh tình ái, thành duyên thoái chuyển. Vì vậy, cõi đồng cư Cực Lạc thù thắng hơn Sa Bà nhiều.
Trong Quán Niệm Pháp Môn, Thiện Ðạo đại sư giải thích về nguyện thứ hăm ba ‘nhàm chán thân nữ, chuyển thành thân nam’ như sau: ‘Ấy là do sức bổn nguyện của Phật Di Ðà nên nếu nữ nhân xưng danh hiệu Phật thì ngay lúc lâm chung
liền chuyển thân nữ trở thành nam tử. Di Ðà dắt tay, Bồ Tát nâng thân, đặt ngồi trên hoa sen báu theo Phật vãng sanh’ và: ‘Hết thảy nữ nhân nếu chẳng nhờ sức danh hiệu của Phật Di Ðà thì trong ngàn kiếp vạn kiếp, kiếp số như cát sông Hằng, trọn chẳng thể đổi được thân nữ’.
Ngay như Phật Thích Ca lúc còn tu nhân phải mất cả một đại kiếp tu hành siêng năng mới dần dà thoát khỏi thân nữ, đủ thấy nữ chuyển thành thân nam thật chẳng dễ dàng. Nay do nghe danh hiệu Phật ‘sanh lòng tin thanh tịnh’ (thanh tịnh là lìa khỏi các lầm lỗi ác hạnh, không phiền não cấu nhiễm. Lòng tin không cấu nhiễm gọi là lòng tin thanh tịnh). Do lòng tin thanh tịnh mà phát Bồ Ðề tâm, nhàm chán thân nữ, nguyện sanh Cực Lạc, tin sâu, nguyện thiết thì ắt khởi thắng hạnh niệm Phật, được bổn nguyện của Phật gia hộ, nên lúc lâm chung liền chuyển nữ thành nam, vãng sanh Cực Lạc. Ðó là nguyện ‘chán thân nữ, chuyển thành thân nam’.
Nguyện thứ hăm bốn là liên hoa hóa sanh: ‘Sanh trong cõi ta đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu’. Phẩm mười bốn trong kinh đây chép: ‘Nếu có chúng sanh tin rõ Phật trí cho đến thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, tin vào thiện căn của mình, tạo các công đức, chí tâm hồi hướng thì tự nhiên hóa sanh, ngồi xếp bằng trong hoa bằng bảy báu. Trong khoảnh khắc, được thành tựu đầy đủ thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức như các BồTát’.
Kinh A Di Ðà Cổ Âm Thanh Vương Ðà Ra Ni cũng dạy: ‘Tây phương An Lạc thế giới hiện đang có Phật hiệu A Di Ðà. Nếu có tứ chúng có thể chánh trì danh hiệu đức Phật ấy thì do công đức đó, lúc sắp chết, A Di Ðà Phật liền cùng đại chúng
đến chỗ người ấy cho kẻ ấy được thấy. Thấy rồi, liền sanh lòng vui sướng, tăng thêm công đức bội phần. Do nhân duyên ấy, với chỗ sẽ sanh về vĩnh viễn thoát khỏi thân trong thai bào, uế dục, thuần tự nhiên hóa sanh trong hoa sen diệu bảo, đủ các đại thần thông, quang minh chói lọi’.
Hai kinh trên cùng bảo người vãng sanh Cực Lạc đều tự nhiên hóa sanh trong hoa sen, thanh tịnh vô cấu, thần thông, trí huệ, phóng đại quang minh đầy đủ như Bồ Tát. Ðấy là do lời nguyện này nên chứng được như thế.
Liên Trì đại sư viết trong Di Ðà Sớ Sao rằng: ‘Lục đạo chúng sanh nơi thân trung ấm (8) tự cầu cha, mẹ. Vãng sanh cõi lành thì như trong khoảng búng ngón tay liền hóa sanh trong hoa sen. Hoa sen ấy là cung huyền diệu để thoát thân phàm, là nhà thần diệu để an huệ mạng’, nghĩa là: hết thảy chúng sanh trong sáu nẻo, sau khi mạng chung, hiện thành thân trung ấm. Nơi thân trung ấm ấy, do túc nghiệp nhân duyên của tự thân mà đi tìm cha mẹ trong thế gian, gieo thân vào chỗ bụng mẹ đầy phân nhơ để kết thành cái thân trược nhiễm tội nghiệp; sao bằng vãng sanh về cõi lành, lâm chung được Phật tiếp dẫn, trong khoảng khảy ngón tay, hóa sanh trong hoa sen, liền sanh cõi An Lạc. Hoa sen ấy chính là cung điện u huyền để thoát bỏ thân phàm phu, là căn nhà thần diệu để an dưỡng huệ mạng của đương nhân. Mấy lời này đã hiển lộ Phật Di Ðà đại nguyện sâu xa đại nguyện, bi tâm tột bực, diệu đức khó lường.
Quyển 15 sách Ðại Nhật Kinh Sớ có câu: ‘Như người đời cho hoa sen là thanh tịnh tốt lành, khiến mọi người vui sướng, nay trong bí tạng, cũng lấy diệu pháp liên hoa của Ðại Bi Thai Tạng làm bí mật cát tường bậc nhất, hết thảy thân gia trì pháp môn ngồi trên đài hoa ấy’. Như vậy, chín phẩm sen nơi Cực Lạc thật đã hiển thị mật ý của Ðại Nhật Như Lai: toàn thể đều là bí mật cát tường tối thắng.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(06/8/2018) (195) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi hoan hỷ tin ưa, lễ bái, quy mạng, dùng tâm thanh tịnh tu Bồ Tát hạnh. Chư thiên, người đời ai chẳng cung kính. Nếu nghe tên tôi, sau khi hết tuổi thọ sẽ sanh nhà tôn quý, các căn chẳng khuyết, thường tu phạm hạnh thù thắng. Nếu chẳng được thế, chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 25: trời người lễ kính; nguyện 26: nghe tên được phước; nguyện 27: tu hạnh nguyện thù thắng)

Giải:
Chương này gồm ba nguyện từ chữ ‘nghe danh hiệu tôi’ đến ‘không ai chẳng cung kính’ là nguyện 25 ‘trời người lễ kính’; từ chữ ‘nếu nghe tên tôi’ đến ‘các căn chẳng khuyết’ là nguyện 26 ‘nghe tên được phước’; phần còn lại là nguyện 27 ‘tu hạnh nguyện thù thắng’.
Nguyện thứ mười tám ‘mười niệm ắt vãng sanh’ ở phần trước là chánh nhân vãng sanh, là cốt lõi của 48 nguyện. Hai nguyện 19 và 20 triển khai nguyện 18. Nguyện 21 đặc biệt chú trọng những chúng sanh có đủ túc nghiệp: nếu biết hối lỗi phát tâm Bồ Ðề, nhất tâm chuyên niệm cũng đều được vãng sanh, chẳng đọa ác đạo nữa. Nguyện 23 chuyên vì phụ nữ: nghe danh phát lòng tin trong sạch, phát tâm Bồ Ðề cầu sanh Tịnh Ðộ, khi tuổi thọ hết chuyển thành thân nam, vãng sanh Cực Lạc.
Những nguyện trên đều là nghe danh phát tâm, được vãng sanh Tịnh Ðộ, toàn là những sự lợi ích bậc thượng; chương này nói về sự lợi ích bậc hạ. Ấy là vì chúng sanh căn khí chẳng đồng nên khi nghe danh phát tâm tín ưa khác nhau, hoặc là do đại tâm chẳng vững vàng, hoặc do tín nguyện chẳng sâu, hoặc do trì niệm chẳng chuyên đến nỗi chẳng thể hoàn toàn khế hợp các đại nguyện của Phật Di Ðà như: mười niệm ắt vãng sanh v.v... Vì vậy, đời sau họ chưa thể thoát khỏi sanh tử, chỉ có thể đạt được phước báo trong hiện tại và vị lai, nên phước được hưởng thua kém các nguyện trước.
Chữ ‘tu Bồ Tát hạnh’ trong nguyện 25 chỉ lục độ, vạn hạnh, đây là tu rộng rãi nhiều thứ điều lành. Kinh này dạy ba bậc vãng sanh đều phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm. Do phát tâm là vua của các nguyện, trì danh là hạng nhất trong các hạnh, nên nếu khuyết những chánh nhân vãng sanh đó thì dẫu có làm các điều thiện một cách rộng lớn nhưng lại chẳng chuyên, nhiều nhưng không tinh nên chẳng khế hợp bổn nguyện của Phật Di Ðà, khó bề chứng đạo ngay trong đời này. Do đó, chỉ được trời, người cung kính mà thôi!
Sách Ðại Luận giảng câu ‘sanh nhà tôn quý’ trong nguyện hăm sáu như sau: ‘Sanh dòng sát lợi thì có thế lực, sanh nhà bà la môn thì có trí huệ; sanh nhà cư sĩ thì giàu có lớn nên có thể làm lợi ích chúng sanh’. Sách Hội Sớ cũng bảo: ‘Sanh nhà hạ tiện bị đời khinh rẻ, chẳng thể tạo lợi ích rộng rãi’. Vì vậy, ‘nghe danh được phước’ là đời sau sanh trong nhà tôn quý.
‘Các căn’ là sáu căn: mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý.
Tiếp đó là nguyện 27. ‘Phạm hạnh’: Phạm nghĩa là thanh tịnh. Phạm hạnh là hạnh thanh tịnh vô dục. Chư thiên đoạn trừ dâm dục nên được gọi là Phạm thiên. Hạnh đoạn được dâm dục như Phạm thiên thì gọi là “phạm hạnh”. Sách Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường giảng: ‘Có người bảo hết thảy các giới là phạm hạnh, hoặc bảo chỉ thực hành giới đoạn trừ dâm dục là phạm hạnh. Vì vậy, kinh Ðại Phẩm dạy: ‘Dâm dục còn chướng ngại sanh làm Phạm thiên, huống hồ là Bồ Ðề’. Các ý kiến trên đây đều cho rằng ly dục là phạm hạnh; nhưng nếu hiểu sâu xa hơn, muôn hạnh để chứng Niết Bàn đều là phạm hạnh. Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường có câu: ‘Tướng của phạm hạnh, tiếng Phạn gọi là Niết Bàn, chính là căn bản pháp luân đại Niết Bàn. Thực hành pháp ấy thì là phạm hạnh vì đạt đến Niết Bàn vậy’. Ðại Nhật Kinh Sớ, quyển 17 cũng giảng: ‘Phạm là Niết Bàn. Phạm hạnh nghĩa là tu đạt trọn vẹn Ðại Niết Bàn, nên gọi là Phạm hạnh’. Cả hai bộ kinh sớ trên đều cho rằng hạnh đạt đến Niết Bàn là phạm hạnh. Ðó mới là nghĩa sâu xa của chữ Phạm Hạnh, chứ chẳng hạn cuộc trong trì giới hay đoạn dục mới là phạm hạnh. Chữ ‘phạm hạnh thù thắng’ trong lời nguyện này nên hiểu có hai nghĩa như thế.
Do đoạn trừ dâm dục, lễ Phật, niệm Phật, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm, hướng đến diệu hạnh Ðại Niết Bàn căn bổn pháp luân. Một phen nghe danh hiệu Phật liền được đầy đủ công đức như vậy. Ðiều này chứng tỏ Phật hiệu đầy đủ vạn đức. Hơn nữa, công đức nghe danh hiệu vi diệu khó lường như kinh Tôn Thắng Ðà Ra Ni dạy: ‘Các loài chim bay, súc sanh, hàm linh một phen nghe đà ra ni này thoảng qua tai, hết một thân ấy liền chẳng thọ lại nữa’. Kinh Niết Bàn cũng nói: ‘Ðại Niết Bàn này cũng giống như thế. Nếu có chúng sanh một phen nghe được, trong bảy kiếp sau chẳng đọa đường ác’. Một phen được nghe đã đạt công đức đến mức như vậy, huống hồ nghe xong lại tin nhận thì công đức càng lớn lao hơn nữa. Một chữ ‘nghe’ trong kinh này chẳng chỉ có nghĩa là ‘nghe’ xuông, mà còn có nghĩa là ‘tin nhận’. Vì vậy, người nghe danh hiệu Phật dẫu đời này chẳng được vãng sanh thì đời sau cũng sẽ thường tu phạm hạnh thù thắng.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(07/8/2018) (199) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là lậu tận tỳ kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 28: nước không sự bất thiện; nguyện 29: trụ chánh định tụ; nguyện 30: vui như lậu tận; nguyện 31: chẳng tham chấp thân)

Giải:
Nguyện 28 đến nguyện 31 trong chương này là những nguyện dành cho chúng sanh cõi Cực Lạc, thể hiện công đức thọ dụng của chúng sanh trong cõi Cực Lạc. Chương này gồm bốn nguyện: ‘Trong nước không có danh từ bất thiện’ là nguyện 28 ‘nước không có sự bất thiện’; từ đó đến chữ ‘trụ trong định tụ’ là nguyện 29 ‘trụ chánh định tụ’; từ đấy đến chữ ‘như là lậu tận tỳ kheo’ là nguyện 30 ‘vui như lậu tận’; phần còn lại là nguyện 31 ‘chẳng tham đắm thân’.

Nguyện 28 ‘nước không có danh từ bất thiện’ ý nói: cõi Cực Lạc còn không có danh từ bất thiện huống là thật có sự bất thiện? Long Thọ Ðại Sĩ dạy: ‘Cõi đức Phật ấy không có danh từ ác, cũng không có nỗi sợ ác đạo, nữ nhân; cho đến chẳng có ác tri thức và các đường ác’, nghĩa là: cõi Cực Lạc không có các điều bất thiện. Vãng Sanh Luận lại nói: ‘Nên biết rằng quả báo Tịnh Ðộ lìa khỏi hai thứ tị hiềm: một là thể, hai là danh. Thể có ba thứ: một là người Nhị Thừa, hai là nữ nhân, ba là người chẳng đủ các căn. Do không có ba lỗi này nên gọi là lìa được cái thể của tị hiềm. Danh cũng có ba thứ, chẳng những không có ba thể mà còn chẳng nghe ba thứ danh từ Nhị Thừa, nữ nhân, các căn chẳng đủ, nên lìa được cái danh của tỵ hiềm’. Câu ‘cái danh của tị hiềm’ được dùng trong Vãng Sanh Luận ám chỉ câu ‘chẳng có danh từ bất thiện’ trong lời nguyện ở đây. Sách Sớ Sao lại bảo: ‘Do tai chỉ nghe vạn đức hồng danh của chư Phật, các thứ danh hiệu tốt lành của Bồ Tát, Thanh Văn và chư thiên, thượng nhân, nên các danh tự ba ác chưa từng nghe lọt qua tai’. Tai chẳng nghe tiếng ác nên bảo là ‘chẳng có danh từ bất thiện’.
Hơn nữa, kinh A Di Ðà dạy: ‘Cõi nước Phật ấy còn không có cái tên ác đạo, huống là thật có! Các loài chim ấy đều do A Di Ðà Phật vì muốn khiến cho pháp âm được tuyên lưu nên biến hiện ra’. Linh Phong đại sư đã giảng câu này rất tường tận trong sách Di Ðà Yếu Giải như sau: ‘Hỏi: Các loài như bạch hạc v.v... chẳng phải là tên ác đạo hay sao?
Ðáp: Chúng đã chẳng phải là tội báo thì mỗi mỗi danh tự đều diễn bày công đức của Như Lai, nghĩa là: cứu cánh bạch hạc v.v... không danh tự nào chẳng phải là tiếng tôn xưng tánh đức, há có phải là ác danh đâu!’.
Ý ngài nói: Trong kinh có câu ‘cõi ấy thường có các loài chim nhiều màu kỳ diệu như bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, chim cộng mạng’ nên mới có kẻ hoạnh họe: Cõi ấy đã có các loài chim như bạch hạc v.v... thì những cái tên như bạch hạc v.v... ấy há chẳng phải là cái tên của ác báo hay sao?
Ðáp rằng: Kinh dạy: ‘Ông chớ cho rằng những loài chim ấy thật do tội báo sanh ra’, những loài chim như bạch hạc.... đã chẳng phải do tội báo sanh ra thì những danh từ như: bạch hạc… chỉ là giả danh, cũng chẳng phải là ác danh. Các loài
chim ấy đều từ tánh đức của Như Lai hóa hiện nên tên gọi của chúng biểu thị tánh đức của Như Lai. Ðó chính là mỹ hiệu, chẳng nên bảo là ác danh.
Lại như Quán kinh dạy: ‘Như ý châu vương tỏa ra quang minh kim sắc vi diệu, quang minh ấy hóa ra chim có màu như trăm thứ báu’ thì y báo, chánh báo cõi Cực Lạc đều được trang nghiêm bởi Quả Giác của Như lai. Các loài chim ấy đều do Phật Di Ðà biến hóa ra. Cõi ấy mỗi sắc, mỗi hương, mỗi hạt bụi, mỗi danh từ không thứ nào chẳng là Trung Ðạo, đều là toàn thể đại dụng của pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì vậy, mỗi một danh tự trong cõi nước kia đều thể hiện tánh đức của Như Lai. Như Lai chứng nghiệm pháp giới đến cùng tột, soi tột cùng nguồn tâm, công đức hoàn thiện.
Do một thứ đã chơn thật thì hết thảy đều chơn thật, một thứ đã cứu cánh thì hết thảy đều cứu cánh. Lại do giả danh hiển thị toàn vẹn Thật Pháp nên mỗi một danh tự trong cõi kia đều là cứu cánh. Bạch hạc là cứu cánh bạch hạc, chim cộng mạng là cứu cánh cộng mạng. Các loài chim ấy đều hiển thị tánh đức của Như Lai, nên tên của chúng tuy là giả danh nhưng cũng là tiếng tôn xưng tánh đức, nào phải đâu là ác danh ư!

Nguyện 29: ‘Tất cả chúng sanh sanh trong cõi tôi đều đồng một tâm, trụ trong Ðịnh Tụ’ là kết quả của nguyện thứ năm ‘không sai biệt’: Sanh trong cõi ấy, hình mạo không khác nhau, đều giống như nhau. Hình mạo đã giống nhau, tâm cũng giống hệt. Tâm đã đồng nhất nên cùng trụ trong Ðịnh Tụ.
Ðịnh Tụ nghĩa là Chánh Ðịnh Tụ, là một trong tam tụ. Tam tụ bao gồm hết thảy chúng sanh. “Tụ” có nghĩa là những gì giống nhau được gom lại. Chúng sanh được chia làm ba loại nên gọi là “tam tụ”. Cả Ðại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều nói đến tam tụ, nhưng có nhiều thuyết:

a). Thuyết thứ nhất: Tam tụ là:
* Chánh định tụ: những người nhất định chứng ngộ.
* Tà định tụ: hoàn toàn chẳng chứng ngộ.
* Bất định tụ: Ở giữa hai hạng trên, hữu duyên thì chứng ngộ, vô duyên ắt chẳng chứng ngộ.
b). Thuyết thứ hai là như sách Hội Sớ nói: ‘Ðịnh Tụ nói đầy đủ là Chánh Ðịnh Tụ, cũng gọi là bất thoái chuyển, tức là Bồ Tát a bệ bạt trí. Vì sao gọi là chánh định? Phàm hết thảy chúng sanh tuy căn tánh muôn phần sai khác nhưng nếu phân loại thì chẳng ngoài ba thứ: ắt đọa trong sáu đường là tà định, nếu thăng trầm tùy duyên thì là bất định, quyết định đạt đến Bồ Ðề thì gọi là chánh định’.
c). Thuyết thứ ba là của Khởi Tín Luận: Từ phàm phu đến hạng chưa đạt bậc Thập Tín, chẳng tin nhân quả là tà định. Từ Thập Trụ trở lên là chánh định, hạng Thập Tín là bất định tánh. Thuyết này là thuyết của Ðại Thừa Thật giáo.

Phẩm hăm hai kinh này chép: ‘Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh thảy đều trụ trong Chánh Ðịnh Tụ, quyết định chứng A nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề’. Như vậy, được sanh về cõi kia liền thuộc vào chánh định tụ, ắt chứng quả Ðại Niết Bàn.
Do đó, ngài Thiện Ðạo nói: ‘Chẳng đoạn phiền não mà đắc Niết Bàn, điều này thể hiện tánh đức tự nhiên của cõi An Lạc vậy’. Long Thọ Ðại Sĩ cũng nói: ‘Dùng nhân duyên tin Phật nguyện sanh Tịnh Ðộ, khởi tâm lập đức, tu các hạnh ghiệp. Do Phật nguyện lực nên liền vãng sanh. Do Phật lực gìn giữ nên liền nhập Ðại Thừa chánh định tụ.
Chánh Ðịnh Tụ chính là địa vị a bệ bạt trí bất thoái vậy’. (Ngài Thiện Ðạo còn căn cứ vào lời nguyện này và bản Ðường dịch bảo rằng nguyện này còn ẩn tàng mật nghĩa: ngay hiện đời chứng được bất thoái. Kinh nói ‘hoặc sẽ sanh’ là chỉ người đang cầu vãng sanh cũng được nhập chánh định tụ. Ðây là một thuyết rất kỳ đặc, trong phẩm 22, tôi sẽ trình bày tường tận).

Câu ‘xa lìa nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là lậu tận tỳ kheo’ chính là nguyện 30 ‘vui như lậu tận’. ‘Nhiệt não’ nghĩa là bị sự rất khổ bức bách khiến thân bức rức, tâm phiền muộn, nên gọi là “nhiệt não”. Phẩm Tín Giải của kinh Pháp Hoa bảo: ‘Do vì ba khổ nên trong sanh tử, chịu các nhiệt não’. Nay trong cõi Cực Lạc ‘không có các khổ, chỉ hưởng các điều vui’ nên vĩnh viễn xa lìa nhiệt não. ‘Thanh lương’ là thanh tịnh mát mẻ, trái nghĩa với ‘nhiệt não’. Quyển hăm hai của luận Ðại Trí Ðộ giảng: ‘Người bị cơn nóng dữ làm khổ nếu được vào trong ao trong mát thì mát dịu, thư thái, không bị nhiệt não nữa’. Ao trong mát (thanh lương trì) ví cho Niết Bàn. Nay người vãng sanh được vào trong ao thanh lương lớn của cõi kia, nên đều ‘được tâm thanh lương’.

Chữ ‘lậu’ trong ‘lậu tận tỳ kheo’ có nghĩa là rò rỉ, rịn chảy. Lậu là tên khác của phiền não. Phiền não hiện hành khiến tâm luôn bị rò rỉ, lưu tán chẳng ngớt nên gọi phiền não là ‘lậu’. Lại do sáu cái cửa: mắt, mũi v.v… ngày đêm thường tuôn tràn phiền não nên gọi là “lậu”. Dùng thánh trí để đoạn sạch các phiền não ấy thì gọi là ‘lậu tận’. Năm thứ đầu của lục thông là hữu lậu thông, riêng mình lậu tận thông là vô lậu thông. Tỳ kheo đoạn sạch phiền não được xưng là ‘lậu tận tỳ kheo’, tức là A La Hán.
Pháp Tạng Bồ Tát nguyện chúng sanh trong cõi ngài huởng vui vô cực, nhưng với những sự vui sướng ấy, tâm chẳng chấp trước, như bậc A La Hán, nên bảo là ‘như là tỳ kheo lậu tận’. Dùng hình ảnh này để ví họ hưởng thọ các vui, nhưng không nghĩ là vui. Ngài Nghĩa Tịch gọi nguyện này là nguyện ‘hưởng vui chẳng nhiễm’, ngài Cảnh Hưng gọi là nguyện ‘hưởng lạc không lầm lỗi’, đều cùng ngụ ý này.

Nguyện 31 là ‘chẳng tham chấp thân’: không khởi tưởng niệm tham chấp thân. Phần nhiều phàm phu tu hành hay bị mắc vào Thân Kiến. Thân Kiến là kiến chấp lớn nhất trong kiến hoặc. Kiến hoặc chẳng đoạn, chẳng thể vào dòng thánh; tất nhiên thường lưu chuyển sanh tử, không mong ngày ra.
Tham chấp thân là chấp có thân ta nên tham đắm, so đo. Sách Hội Sớ giảng: ‘Vọng chấp tự thân, so đo yêu, ghét, thuận, nghịch thì gọi là tham chấp. Ðấy gọi là ngã chấp’: Phàm phu vọng tưởng thân mình chính là ngã rồi tham chấp, so đo, ham thích, giữ gìn, bồi bổ, thuận với mình thì sanh lòng yêu thích, nghịch thì sanh giận giữ. Toàn thể các thứ phân biệt, tham đắm ấy đều là phiền não. Sách Vãng Sanh Luận bảo: ‘Xa lìa ngã tâm, tham trước thân mình, xa lìa tâm chẳng an chúng sanh, xa lìa tâm cúng dường cung kính thân mình. Cần biết rằng: Ba pháp ấy đều chướng ngại Bồ Ðề tâm nên phải xa lìa’. Ý nói: cả ba cái tâm: tham chấp tự thân, tâm chẳng an chúng sanh, tâm cúng dường cung kính thân mình đều chướng ngại tâm Bồ Ðề.
Kinh này lấy ‘phát tâm Bồ Ðề, nhất hướng chuyên niệm’ làm tông; nếu tâm Bồ Ðề bị chướng ngại ắt chẳng được vãng sanh nên Phật nguyện rằng: ‘Nếu khởi niệm tưởng tham chấp thân mình thì chẳng lấy Chánh Giác’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(08/8/2018) (202) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, [người] sanh trong nước tôi thiện căn vô lượng, đều được thân kim cang na la diên, sức kiên cố, thân và đảnh đều có quang minh chiếu rực, thành tựu hết thảy trí huệ, đạt được vô biên biện tài, khéo bàn các pháp bí yếu, thuyết kinh, hành đạo tiếng vang như chuông. Nếu chẳng được vậy chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 32: thân na la diên; nguyện 33: quang minh, trí huệ, biện tài; nguyện 34: khéo bàn pháp yếu)

Giải:
Chương này gồm ba nguyện. Câu ‘sanh trong nước tôi thiện căn vô lượng’ là câu nói chung. Thiện căn là điều thiện nơi ba nghiệp thân, khẩu, ý kiên cố chẳng thể nhổ trốc được, nên gọi là căn. Ðại sư La Thập bảo: ‘Thiện tâm kiên cố, sâu chẳng thể nhổ trốc đi được, nên gọi là căn’. Lại vì ‘thiện’ có thể sanh ra diệu quả và sanh ra các điều thiện khác, nên gọi là ‘căn’.
Câu ‘đều có thân kim cang na la diên, sức kiên cố’ là nguyện băm mốt ‘thân na la diên’, ngài Cảnh Hưng gọi là ‘nguyện được thân kiên cố’.
‘Kim Cang’, tiếng Phạn là bạt triết ra (vajra) hoặc phiên là phạt triết ra, dịch là kim cang. Sách Tam Tạng Pháp Số, quyển 5 giảng: ‘Là chất cứng rắn nhất trong các loại vàng nên gọi là kim cang’. Sách Ðại Tạng Pháp Số, quyển 41 lại giảng: Tiếng Phạn là bạt triết ra, Tàu dịch là Kim Cang. Thứ vật báu này từ vàng sanh ra, màu như tử anh, đem nung trăm lần cũng chẳng tiêu hủy, cứng nhất, bén nhất, cắt được cả ngọc, rất hiếm trong đời, nên được coi là quý’ (tức là đá kim cương, tục gọi là cô thạch, độ cứng rất cao (9)

Kim Cang còn là cách gọi tắt chữ ‘kim cang xử’. Ðại Nhật Kinh Sớ, quyển 1 nói: ‘Phạt triết ra chính là kim cang xử’. Kim cang xử nguyên là binh khí của Ấn Ðộ, Mật tông dùng nó để biểu thị trí cứng chắc, sắc bén. Ðại Nhật Kinh Sớ, quyển 1 còn giảng thêm: ‘Phạt triết ra là kim cang trí ấn của Như Lai’. Nhân Vương Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ quyển 1 lại bảo: ‘Tay cầm kim cang xử để biểu thị phát khởi chánh trí giống như kim cang’.
Xử có vô lượng thứ khác nhau: vàng, bạc, đồng, sắt, đá, thủy tinh, gỗ pháp đà la v.v... Xử của Ðế Thích làm bằng kim cang. Vị lực sĩ cầm kim cang xử được gọi là Chấp Kim Cang, hay gọi gọn là Kim Cang. Sách Hạnh Tông Ký, quyển 2 chép:
‘Kim Cang là vị lực sĩ theo hầu, do tay bưng kim cang xử nên thành tên’.
‘Na La Diên’ (Narayana) dịch là Thắng Lực, hoặc Kiên Lao, có bốn nghĩa:
a). Là tên khác của Phạm thiên vương.
b). Là như La Thập đại sư bảo: ‘Lực sĩ cõi trời gọi là Na La Diên, đoan chánh, hùng mạnh’.
c). Ðại Nhật Kinh Sớ, quyển 10 giảng: ‘Na La Diên là một trong nhiều biệt danh của Tỳ Nữu thiên (Vishnu), tức là biệt danh của Na La Diên thiên. Vị trời này do Phật hóa ra’. Sách Bí Tạng Ký lại bảo: ‘Na La Diên thiên có ba mặt, thân sắc xanh pha vàng, tay phải cầm bánh xe, cỡi chim ca lâu la’.
d). Niết Bàn Kinh Sớ, quyển 7 nói: ‘Na La Diên: Tàu dịch là Kim Cang’ là một trong mười chín vị Chấp Kim Cang, kinh Duy Ma Cật ghi là Na La Diên Bồ Tát.

Ða phần các nhà chú giải kinh thời trước cho rằng thân và tâm chúng sanh ảnh hưởng lẫn nhau: hễ thân có sự sướng, khổ, tâm ắt cũng vui, buồn theo; hễ tâm mừng, lo, thân cũng sẽ khỏe khoắn hay hao tổn theo. Ngài Pháp Cứu nói: ‘Như Lai thân lực vô biên như tâm lực vậy’. Kinh Bí Mật Lực Sĩ cũng chép: ‘Thân của Như Lai chắc chắn như kim cang, cứng chắc vô cùng chẳng thể phá hoại được’. Vì vậy, Phật nguyện chúng sanh trong nước ba nghiệp trang nghiêm, thân cứng chắc như kim cang, sức mạnh mẽ như Na La Diên, đều cùng được thân nghiệp thù thắng vậy.

Trong Mật giáo, Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ, Kim Cang Tát Ðỏa v.v... chỉ là những cách dịch khác nhau của cùng một tên. Nhân Vương Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ, quyển thượng chép:
‘Vị Kim Cang Thủ ấy chính là Phổ Hiền Bồ Tát. Tay cầm kim cang xử tiêu biểu phát khởi chánh trí giống như kim cang đoạn được chướng ngã pháp vi tế’. Kinh Thánh Vô Ðộng Tôn Ðại Oai Nộ Vương Bí Mật Ðà Ra Ni cũng chép: ‘Vị Kim Cang Thủ này là Pháp Thân Ðại Sĩ nên có tên là Phổ Hiền, liền từ đức Như Lai mà được kim cang xử. Kim cang xử ấy do ngũ trí hợp thành, nên ngài có tên là Kim Cang Thủ’.

Với lời nguyện ‘thân kim cang na la diên’ trong kinh đây, nếu hiểu theo quan điểm Hiển giáo, ta có thể hiểu theo các cách giải thích ở phần trước: thân kiên cố đại lực như thân của Na La Diên lực sĩ hay thân của thần Na La Diên; nếu hiểu theo mật nghĩa thì kim cang và na la diên đều là Chấp Kim Cang.
Xét về ý nghĩa gốc trong Mật giáo, Kim Cang Na La Diên là Kim Cang Tát Ðỏa, tức là Phổ Hiền, là Pháp Thân đại sĩ. Hơn nữa, Mật giáo gọi Kim Cang là tướng oai mãnh do Phật thị hiện. Vì vậy, câu ‘thân Kim Cang Na La Diên’ có thể hiểu là
được thân kim cang hoặc ‘kim cang thể’ giống hệt như đức Phật.
Chữ ‘kim cang thân’ chỉ thân kim cang bất hoại tức là thân Phật. Kinh Niết Bàn nói: ‘Thân của Như Lai là thân thường trụ, thân chẳng thể hoại, là thân kim cang’ và ‘chư Phật Thế Tôn siêng năng tu tập chứng được thân kim cang’. Bản Tân dịch kinh Nhân Vương ghi: ‘Thế Tôn đạo sư kim cang thể, tâm hạnh tịch diệt chuyển pháp luân’. Sách Lương Phần Sớ chép: ‘Kim cang thể kiên cố trọn vẹn, thể là thân. Thân Phật kiên cố giống như kim cang’.
Nếu hiểu theo quan điểm Mật giáo thì những kẻ được vãng sanh sẽ đạt được thân kim cang bất hoại như Phật nên họ đều thọ mạng vô lượng, thân có sức kim cang kiên cố.

Câu ‘thân đảnh đều có quang minh chói rực, thành tựu hết thảy trí huệ, đạt được vô biên biện tài’ là nguyện 31 ‘quang minh trí huệ biện tài’. Ðức Phật ấy thọ mạng vô lượng, trời người trong nước cũng thọ mạng vô lượng. Ðức Phật ấy quang minh cũng vô lượng nên nhân dân cõi ấy thân và đảnh đều có quang minh chiếu rực. Chủ (Phật) và bạn (hết thảy hiền thánh, nhân dân trong nước) đều như một.
Thêm nữa, tự chiếu sáng gọi là Quang, chiếu sáng vật khác là Minh. Quang minh có hai công dụng: một là trừ tối, hai là hiện pháp. Quang minh của Phật là tướng trí huệ (xem Vãng Sanh Luận, quyển hạ). Kinh Siêu Nhật Minh Tam Muội, quyển hạ cũng dạy: ‘Nên biết rằng: Ðại trí phát ra ngoài chiếu soi pháp giới thì gọi là quang minh’. Kinh Niết Bàn cũng nói: ‘Quang minh là trí huệ’. Ðại Huệ thiền sư còn bảo: ‘Chỉ dùng ánh sáng này để tuyên thuyết diệu pháp, pháp này chính là quang minh ấy, chẳng lìa khỏi quang minh này mà thuyết pháp ấy’.
Thân và đảnh của trời và người cõi kia đều có thường quang chính là do trí huệ thành tựu. Do được Phật lực gia hộ, bảo hựu nên trí huệ thù thắng. Với những trí: Phật trí, bất khả tư nghị trí, bất khả xưng trí, Ðại Thừa quảng trí, trí thù thắng tối thượng không ai bằng không ai sánh nổi đều hiểu rõ cả, nên bảo ‘thành tựu hết thảy trí huệ’ và ‘đạt được vô biên biện tài’.
‘Biện tài’ là khả năng diễn thuyết pháp nghĩa một cách hay khéo. Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘biện tài’ như sau: ‘Nói năng biện luận rành rẽ, chữ dùng tài tình nên gọi là biện tài’. Ngoài ra, các trí biện tài thuyết pháp của Bồ Tát được gọi chung là tứ vô ngại trí, tứ vô ngại giải hoặc tứ vô ngại biện. Tứ vô ngại là:
a). Pháp vô ngại: Giáo pháp được giảng ra luôn gồm: danh (tên gọi của sự vật), cú (câu nói, câu văn), văn (đoạn văn). Giáo pháp không bị úng trệ thì gọi là pháp vô ngại.
b). Nghĩa vô ngại: hiểu biết nghĩa lý của giáo pháp được giảng nhưng không vướng mắc vào đó thì gọi là nghĩa vô ngại.
c). Từ vô ngại: Thông đạt rành rẽ các ngôn ngữ của từng địa phương thì gọi là từ vô ngại.
d). Nhạo thuyết vô ngại: dùng ba thứ trí trên để giảng nói theo ý muốn của chúng sanh một cách tự tại. Nhạo thuyết vô ngại còn gọi là biện vô ngại. Thuận theo chánh lý phát ra lời nói vô ngại nên gọi là biện vô ngại.
Nhân dân trong cõi ấy do thành tựu hết thảy trí huệ nên đắc vô ngại biện tài, dùng tứ vô ngại biện tài để hoằng diễn pháp yếu.

Câu ‘khéo bàn các pháp bí yếu’ là nguyện 34 ‘khéo bàn pháp yếu’. “Bí” nghĩa là bí áo, tức là điểm sâu xa, huyền diệu của pháp môn. Bí cũng có nghĩa là bí mật, tức là những điểm ẩn mật của pháp môn, chẳng dễ chỉ bày cho người khác. Sách Pháp Hoa Văn Cú, quyển 5 giảng chữ ‘bí yếu’ như sau: ‘Ðiều Phật canh cánh trong tâm hơn bốn mươi năm, người khác chẳng hề biết là Bí. Ðạo dẫn thẳng đến Nhất Thừa nhiếp trọn các pháp môn khác gọi là Yếu’. Trong Pháp Hoa Sớ, quyển 9, ngài Gia Tường lại giảng rằng: ‘Do ngôn ngữ giản dị, tinh yếu nhưng chứa đựng trọn vẹn nghĩa lý nên bảo là Yếu. Trước đây vốn đã giấu kín chẳng truyền ra nên gọi là Bí’. Phẩm Pháp Sư kinh Pháp Hoa có câu: ‘Kinh này là tạng bí yếu của chư Phật, chẳng thể lưu truyền, dạy bừa bãi cho người khác’.
Ngoài ra, Mật tông còn được gọi là Bí Mật tông vì Mật pháp chính là tạng bí yếu của chư Phật, chẳng thể đem dạy cho người khác một cách khinh xuất được. Nay các vị Bồ Tát cõi Cực Lạc ‘khéo bàn các pháp bí yếu’ nghĩa là các vị khéo khai diễn hết thảy pháp bí yếu rất sâu dù hiển hay mật.

‘Hành đạo’ là kinh hành. Vừa đi kinh hành vừa tụng kinh là pháp Thường Hành tam muội của tông Thiên Thai.
‘Chuông’ là một trong những loại được gọi là ‘kiền chùy’ trong tiếng Phạn. Chuông là pháp khí để nhóm chúng, dùng tiếng chuông làm hiệu lệnh nhóm chúng. Tiếng chuông lại có công đức thù thắng như kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: ‘Khi đánh chuông, hết thảy các nỗi khổ trong ác đạo được ngưng nghỉ’. Sách Phật Tổ Thống Kỷ, quyển sáu cũng có chép: ‘Người lúc sắp chết nghe tiếng chuông, tiếng khánh thì chánh niệm được tăng thêm’. Câu ‘tiếng vang như chuông’ ý nói thanh âm của người thuyết pháp như tiếng hồng chung trong trẻo, thánh thót, hùng hồn, liên tục vang xa, khua tan đêm dài, đánh thức những kẻ đang mê mệt khiến họ phát sanh thiện tâm, ngưng ngớt các khổ.
Âm thanh thuyết pháp có công đức như tiếng chuông. Ngoài ra, trên thân chuông còn khắc những chơn ngôn, những chữ chủng tử, kinh kệ Ðại Thừa.
Gióng một tiếng chuông khác nào đọc lên hết thảy kinh pháp Hiển, Mật được ghi trên thân chuông.
Dùng những điều đó để sánh ví người thuyết pháp: trong mỗi một âm thanh đều hàm chứa vô biên diệu nghĩa.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(09/8/2018) (204) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi rốt ráo ắt đạt bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, ngoại trừ [những người có] bổn nguyện vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ, hóa đạo hết thảy hữu tình khiến chúng đều phát tín tâm, tu
Bồ Ðề hạnh, hành Phổ Hiền đạo. Tuy sanh trong thế giới phương khác, nhưng vĩnh viễn thoát khỏi đường ác, hoặc thích thuyết pháp, hoặc thích nghe pháp, hoặc hiện thần túc, tùy ý tu tập không gì chẳng viên mãn. Nếu chẳng được vậy,
chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 35: Nhất Sanh Bổ Xứ; nguyện 36: giáo hóa tùy ý)

Giải:
Trong chương này, câu ‘tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi rốt ráo ắt đạt bậc Nhất Sanh Bổ Xứ’ là nguyện 35: Nhất Sanh Bổ Xứ.
‘Nhất sanh Bổ Xứ ’là chỉ còn một đời nữa sẽ thành Phật như hiện tại Di Lặc Ðại Sĩ đang ở nội viện trời Ðâu Suất chỉ còn một đời nữa là thành Phật, tức là như kinh Pháp Hoa nói: ‘Chỉ còn một đời nữa, sẽ đắc Nhất Thiết Trí’ nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Nhất Sanh Bổ Xứ là địa vị Ðẳng Giác. Do vẫn còn một phần vô minh (nói đủ là một phần Sanh Tướng Vô Minh) chưa phá nên bảo là Nhất Sanh. Thế lực của phẩm vô minh ấy lớn nhất. Dùng kim cang trí phá được cái tâm duy nhất còn lại sau cùng ấy thì liền đạt địa vị Diệu Giác nên gọi là Bổ Xứ’.
Nếu xét theo Mật giáo thì ‘nhất’ là lý Nhất Thật. Trong Mật tông, Sơ Ðịa Bồ Tát trước hết chứng đắc tịnh Bồ Ðề tâm, rồi từ cái lý Nhất Thật ấy xuất sanh vô lượng tam muội tổng trì môn, dần dần đạt đến địa vị Thập Ðịa (thập địa trong Mật giáo khác với Thập Ðịa trong Hiển giáo). Lại có địa vị thứ mười một là Phật địa. Do trong đời kế tiếp sẽ thành Phật nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Sách Ðại Sớ, quyển sáu chép: ‘Tông của kinh này là nhất sanh, nghĩa là: ‘từ nhất mà sanh’. Nơi Sơ Ðịa, lúc đạt được tịnh Bồ Ðề tâm, bèn từ nơi Nhất Thật phát sanh vô lượng vô biên tam muội tổng trì môn. Trong mỗi một địa vị như thế, cũng lần lượt tăng trưởng giống như vậy cho đến khi hoàn mãn địa vị thứ mười, nhưng chưa đạt đến địa vị thứ mười một. Khi ấy, từ trong cảnh giới Nhất Thật bèn phát sanh trọn vẹn hết thảy trang nghiêm, chỉ còn mỗi địa vị Như Lai là chưa chứng tri, phải một phen chuyển pháp tánh sanh (10) mới thành Phật, nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ.
Ðàm Loan đại sư lại nghĩ rất có thể là Bồ Tát cõi Cực Lạc chẳng lần lượt đạt từng địa vị mà chứng ngay địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ: ‘Cứ theo kinh này mà suy thì rất có thể Bồ Tát cõi ấy chẳng từ địa vị này đạt đến địa vị kia. Thứ tự thập địa của Bồ Tát chỉ là do Thích Ca Như Lai ứng theo căn cơ cõi Diêm Phù Ðề mà dạy như vậy thôi. Tịnh độ phương khác không bắt buộc phải giống vậy’.
Thuyết của ngài Ðàm Loan đã thể hiện sâu xa sự viên giải viên tu của Bồ Tát cõi Cực Lạc: một địa vị chính là hết thảy địa vị vậy. Do đó, người sanh về Cực Lạc đều được bất thoái chuyển, nhanh chóng vượt khỏi các địa vị, chứng trọn vẹn địa vị Bổ Xứ. Ðiều này thể hiện Phật Di Ðà đại nguyện sâu xa, diệu đức khó lường.

Kế đó là nguyện 36 ‘giáo hóa tùy ý’. Như lời nguyện 35 đã nói: sanh về cõi ấy, ở yên trong cõi vui sướng, đều đạt địa vị Bổ Xứ, thành Ðẳng Chánh Giác, nhưng mỗi vị Bồ Tát thành Phật đều có nguyện lực. Chẳng hạn như nếu có thệ nguyện mặc giáp hoằng thệ, trở vào uế độ phổ lợi quần sanh, giáo hóa hữu tình thì họ sẽ được nguyện lực của Phật Di Ðà gia trì để tùy ý giáo hóa, không điều gì chẳng được viên mãn. Ðấy chính là ý nghĩa của nguyện 36. Giáp là vật dụng được các chiến sĩ thời cổ khoác vào khi giao chiến để bảo vệ thân thể, chống lại tên, đá v.v... (áo chống đạn thời nay cũng là một loại giáp). Bồ Tát vào trong sanh tử hàng phục ma quân thì lấy thệ nguyện sâu rộng của chính mình làm giáp trụ. Do cái tâm hoằng thệ cứng rắn hơn sắt đá nên có thể dùng tâm ấy xông vào trận sanh tử. Với những kẻ được giáo hóa, kinh nói ‘đều khiến họ phát tín tâm’; ấy là do tín tâm là nguồn đạo, là mẹ của công đức vậy. Bản Tiểu Bổn kinh này nói: ‘Vì các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin nổi này’.
Ðó là vì pháp môn Tịnh Ðộ cực viên, cực đốn, siêu tình ly kiến nên Tịnh Ðộ là pháp mà hết thảy thế gian khó tin tưởng được nổi. Kinh Tiểu Bổn còn chép: ‘Chúng sanh các ngươi nên tin kinh Khen Ngợi Công Ðức Chẳng Thể Nghĩ Bàn, Ðược Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này’ và: ‘Các ông đều nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói’. Do đó, bậc Ðại Sĩ cõi Cực Lạc khi hoằng hóa trong thập phương đều lấy việc phát khởi lòng tin làm đầu.

Do ba bậc vãng sanh đều phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm nên câu ‘tu Bồ Ðề hạnh’ gồm hai ý nghĩa trọng yếu: phát Bồ Ðề tâm và chuyên niệm.
Tu Bồ Ðề đại hạnh ắt phải do phát khởi Bồ Ðề đại tâm, mà trong Bồ Ðề hạnh thì nhất hướng chuyên niệm là quan trọng bậc nhất. Hết thảy Bồ Tát tu trọn muôn điều lành, nhưng các vị Bồ Tát trong thập địa, dù ở địa vị nào vẫn chẳng hề rời bỏ việc niệm Phật.
Hơn nữa, Phổ Hiền Bồ Tát là bậc nhất trong các vị đại hạnh Bồ Tát, nên phải giáo hóa hết thảy hữu tình ‘tu Phổ Hiền đạo’. Khuê Phong đại sư giảng chữ Phổ Hiền như sau:
Một là xét trên tự thể: thể tánh trọn khắp là Phổ, tùy duyên thành đức là Hiền. Hai là xét trong các địa vị thì khắp trọn tất cả không sót là Phổ, gần bằng với bậc đại thánh (Phật) là Hiền.
Ba là xét về đương vị: đức không gì chẳng trọn vẹn là Phổ, điều phục, hòa nhã, thiện thuận là Hiền’.
Vì vậy, trong kinh này, các vị đại Bồ Tát cùng đến tham dự pháp hội đều tuân tu đức hạnh của Phổ Hiền đại sĩ. Phổ Hiền đức chính là mười đại nguyện vương dẫn dắt về Cực Lạc, là đức tự lợi lợi tha chẳng có cùng tận. Ðại sĩ cõi Cực Lạc
chính mình đã tu hành Phổ Hiền hạnh đức lại còn dạy chúng sanh cõi khác cùng thực hành Phổ Hiền đạo.

Các vị Ðại Sĩ như vậy của cõi Cực Lạc mặc giáp hoằng thệ, vào trong biển sanh tử, ‘tuy sanh trong mười phương thế giới’ hoặc hiện thân trong uế độ, nhưng được nguyện lực của Phật Di Ðà gia trì nên ‘vĩnh viễn thoát khỏi ác đạo’. Mỗi vị tùy theo ý mình thích mà thuyết pháp, hoặc nghe pháp, hoặc hiện thần thông v.v... ‘tùy ý tu tập’ đều được viên mãn. Chúng sanh được họ giáo hóa cũng đều chí tâm tin ưa, cầu sanh Tịnh Ðộ, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(10/8/2018) (204) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, [người] sanh trong nước tôi, tất cả thức ăn, y phục, các thứ vật cúng, nghĩ tới liền có, không điều gì chẳng được mãn nguyện. Mười phương chư Phật ứng niệm nhận lấy sự cúng dường của người ấy. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 37: y thực tự đến; nguyện 38: ứng niệm thọ cúng)

Giải:
Ðoạn này nói về nguyện 37: ‘Y, thực tự đến’.
Chữ ‘thức ăn, y phục’ trích trong bản Tống dịch, ‘các thứ vật cúng’ trích từ bản Ðường dịch.
Nguyện hăm ba trong bản Hán dịch được ghi như sau: ‘Các vị Bồ Tát trong nước ta lúc muốn ăn thì cơm trăm vị tự nhiên hóa sanh trong bát bằng bảy báu hiện ra trước mặt. Ăn xong, bát tự nhiên biến mất’ (nguyện thứ hăm bốn trong bản Ngô dịch chép giống vậy). Nguyện thứ băm tám trong bản Ngụy dịch lại chép như sau: ‘Trời người trong nước muốn được y phục, hễ nghĩ đến liền có, tự nhiên trên thân khoác áo đẹp đẽ đúng pháp như Phật khen ngợi. Nếu còn phải cắt, may, đập, nhuộm, giặt giũ thì chẳng lấy Chánh Giác’. Bản hội tập này chọn lấy những nghĩa trọng yếu của năm bản dịch để tổng hợp thành nguyện này, đặt tên là nguyện ‘y thực tự đến’.
Sách Hội Sớ chú giải lời nguyện của bản Ngụy dịch như sau: ‘Vì sao Phật lại phát ra lời nguyện này? Vì ngài thấy trong các cõi, con người khổ sở muôn bề vì cái ăn cái mặc, bốn mùa chẳng được yên ổn, cả một đời nhọc nhằn tham cầu.
Huống hồ cấy cây lúa xuống là vùi chết mấy ngàn sanh mạng, trong vạc đun vô lượng kén tằm, cứ thế mà chìm đắm mãi không biết đâu là bến bờ, chịu khổ vô cùng. Vì vậy, Phật nguyện rằng thánh chúng trong cõi ngài cơm, áo, nhà cửa tùy ý hiện ra trước mặt. Áo mặc, cơm ăn đều là pháp để trợ đạo’.

‘Các thứ vật cúng’ là hoa hương, tràng phan, lọng báu, chuỗi ngọc, đồ trải để nằm, thiên nhạc v.v… hết thảy vô lượng vô biên các thứ vật dùng để cúng dường thù thắng như vậy đều tùy ý hiện đến nhằm thỏa nguyện cúng dường như bản Ngô dịch chép: ‘Muốn được tự nhiên có muôn vật thì chúng đều hiện ra trước mặt để cầm đem cúng dường chư Phật’ hoặc như bản Tống dịch chép: ‘Ta dùng thần lực khiến các vật cúng này tự nhiên đến trước chư Phật ở phương khác, cúng dường mỗi đức Phật’. Vì vậy, hội bản ghi là: ‘Nghĩ tới liền có, không gì chẳng được mãn nguyện’.

Tiếp đó là nguyện 38: ‘ứng niệm thọ cúng’. Bản Tống dịch ghi nguyện này như sau: ‘Tất cả Bồ Tát phát đại đạo tâm muốn dùng chơn châu, anh lạc, lọng báu, tràng phan, y phục, ngọa cụ, thức ăn, thuốc men, hương hoa, kỹ nhạc để thừa sự, cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn trong thế giới phương khác mà chẳng qua được chỗ các ngài thì ta ngay trong khi ấy khiến cho các đức Phật Thế Tôn đó đều duỗi cánh tay đến tận cõi ta, nhận lấy sự cúng dường ấy, khiến cho các Bồ Tát ấy mau chứng a nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề’.
Lời nguyện trong bản Tống dịch thật đã hiển thị sâu xa thần lực của Phật. Còn như bản Ngụy dịch ghi: ‘Trong khoảng khởi lên một niệm, cúng dường vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Thế Tôn mà chẳng mất định ý’ là nói về tự lực. Như vậy, nhân dân cõi Cực Lạc hoặc do Phật lực gia bị hoặc do tự lực viên mãn đều có thể tùy lòng nghĩ tưởng cúng dường khắp các đức Phật.

Câu kinh: ‘Thập phương chư Phật ứng niệm nhận lấy sự cúng dường của người ấy’ đã hiển thị sâu xa ý nghĩa Phật và chúng sanh bất nhị, cảm ứng đạo giao: ý niệm cúng Phật vừa khởi lên, chư Phật đã nhận lấy rồi. Ðốn tu, đốn chứng, nhân quả đồng thời.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(11/8/2018) (206) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, vạn vật trong nước nghiêm tịnh, quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, chẳng thể tính kể. Các chúng sanh tuy có thiên nhãn mà có thể phân biệt được hình sắc, quang tướng, danh số và nói tổng quát được [những sự trang nghiêm ấy] thì chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 39: trang nghiêm vô lượng)

Giải:
Từ nguyện 39 đến nguyện 43 là những nguyện nói về công đức của cõi Phật.
Nguyện 39 là nguyện ‘trang nghiêm vô lượng’.
Sách Hội Sớ giảng nguyện này như sau: ‘Nghiêm là trang nghiêm, tịnh là thanh tịnh. Quang là quang minh, lệ là hoa lệ. Nghiêm tịnh là thể không nhơ, quang lệ là hình tướng đặc biệt, lạ lùng. Dài, ngắn, vuông, tròn, lớn, nhỏ v.v... là Hình. Xanh, đỏ, trắng đen, đậm, nhạt là Sắc. Chẳng phải là thứ thế gian có được nên bảo là Thù Ðặc’. Ý của sách Hội Sớ là: Thể của vạn vật chẳng cấu nhiễm nên bảo là ‘nghiêm tịnh’. Hình tướng, quang minh kỳ lạ, đẹp rực rỡ nên bảo là ‘quang lệ’. Những hình sắc ấy chẳng phải là thứ thế gian có nổi nên bảo là ‘hình sắc thù đặc’.
Sách Hội Sớ giảng tiếp: ‘Sự như cái chấm (sự tướng nhỏ nhặt như cái chấm nhỏ) đã tương tức diệu lý nên bảo là “cùng vi”. Tướng vô lậu, tướng Thật Tướng nên bảo là “cực diệu”. Ý nói: Hết thảy sự tướng trong Cực Lạc dẫu một điểm nhỏ nhặt như mảy lông, hạt bụi đều từ Thật Tế lý mà hiển hiện, chúng là diệu lý, diệu lý là chúng (hạt bụi, mảy lông), hoàn toàn bất nhị, nên bảo là ‘cùng vi’. ‘Cùng’ là tột bực, ‘vi’ là nhỏ nhiệm.
Vả lại, hết thảy hình tướng do tâm thanh tịnh hiện ra, do công đức vô lậu của Phật Di Ðà biến hiện, nên tướng của chúng là vô lậu. Mỗi mỗi hình tướng đều viên minh cụ đức, mỗi thứ đều viên viên quả hải (chữ ‘viên viên quả hải’ lấy từ sách Hiển Mật Viên Thông, có nghĩa là biển vô thượng viên mãn thánh giác quả đức), thể của chúng chính là Thật Tướng: có tướng nhưng vô tướng, vô tướng nhưng là tướng. Vì vậy, bảo là ‘cực diệu’. Sách Hội Sớ giảng tiếp rằng: ‘Rộng hẹp dung nhập lẫn nhau nên bảo là chẳng thể tính kể’. Ý nói: Cực Lạc thế giới hiển thị trọn vẹn sự sự vô ngại pháp giới, một tức là nhiều, nhiều tức là một, lớn nhỏ chứa đựng lẫn nhau, rộng vào trong hẹp, hẹp vào trong rộng, trùng trùng vô tận, vượt khỏi khả năng nhận thức của tâm tưởng, kiến giải và khả năng diễn giải của ngôn ngữ, nên chẳng thể bàn luận nổi. Vượt khỏi khả năng suy nghĩ nên chẳng nghĩ nổi. Nói năng, suy nghĩ chẳng thấu suốt nổi thì làm sao tính kể nổi? Vì vậy bảo là ‘chẳng tính kể nổi’.
Hiển nhiên là chỉ có Phật với Phật mới thấu suốt trọn hết nổi Cực Lạc Tịnh Ðộ. Ngoại trừ mình đức Phật ra, hết thảy chúng sanh: trên thì đến bậc Ðẳng Giác, giữa thì như hết thảy phàm, thánh chúng sanh thuộc Tiểu Thừa hay Ðại Thừa có thiên nhãn đều chẳng thể bàn định hình sắc, quang tướng, tên tuổi, số lượng, cũng như chẳng thể nào liệt kê một cách tổng quát được những sự trang nghiêm đó. Vì vậy, kinh nói: ‘Có thể phân biệt được hình sắc, quang tướng, danh số và nói tổng quát được thì chẳng lấy Chánh Giác’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(12/8/2018) (207) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, cây trong cõi nước có vô lượng màu hoặc cao đến trăm ngàn do tuần; cây Ðạo Tràng cao bốn trăm vạn dặm. Trong các Bồ Tát, dù kẻ thiện căn kém cỏi vẫn có thể biết rõ. Muốn thấy sự trang nghiêm nơi Tịnh Ðộ chư Phật thì đều thấy rõ nơi thân cây ấy như nơi gương sáng thấy rõ vẻ mặt. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 40: cây vô lượng sắc; nguyện 41: nơi cây hiện cõi Phật)

Giải:
Chương này gồm hai nguyện, từ đầu đến ‘vẫn có thể biết rõ’ là nguyện 40: ‘Cây vô lượng sắc’, từ chữ ‘muốn thấy’ trở đi là nguyện 41: ‘Trong cây hiện cõi Phật’.
Trong câu ‘cây trong cõi nước có vô lượng màu, hoặc cao đến trăm ngàn do tuần’, cây có vô lượng màu vì hết thảy các cây báu trong nước do bảy báu hóa thành, màu sắc rực rỡ, quang minh chói lọi, mọc thành hàng lối thẳng thớm, thân cây ngang nhau. Các cây báu ấy mọc đầy khắp cõi nước, cây cao từ trăm do tuần cho đến ngàn do tuần. Một do tuần là từ 40 dặm đến 60 dặm, phần trên đã giải thích rõ. Nơi đạo tràng lại có một thọ vương (cây chúa) gọi là Ðạo Tràng Thọ, tức là cây Bồ Ðề.

Ở Tây Vực, từ phía Tây Nam của núi Chánh Giác đi khỏi bốn mươi dặm, có một cây tất bát la (pipala), Phật từng ngồi dưới gốc cây ấy thành Chánh Giác, nên cây được gọi là cây Bồ Ðề. Trong bản chú giải kinh Duy Ma Cật của ngài Tăng Triệu, phần giảng về phẩm Bồ Tát Hạnh có ghi: ‘Phật thành đạo dưới cội cây, cây được gọi tên là Bồ Ðề.
Cây ấy: Quang minh không đâu chẳng chiếu đến, mùi hương không đâu chẳng thơm ngát, hình sắc vi diệu tùy theo ý thích mà thấy [sai khác]. Cây vang ra tiếng pháp theo ý thích của mỗi người. Ðây là cây báo (quả báo) ứng (ứng hóa) của Như Lai vậy. Chúng sanh gặp được cây ấy, tự nhiên ngộ đạo’.
Phần nói về thành tựu sở nguyện của kinh Vô Lượng Thọ đây cũng chép: ‘Lại do thấy được cây ấy nên tự nhiên đạt được ba thứ nhẫn, một là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn’. Cây Bồ Ðề ấy có thể làm cho người trông thấy nó tự nhiên ngộ đạo, chứng nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn. Công đức của cây ấy thật vô thượng hy hữu, vi diệu khó nghĩ tưởng nổi. Vì vậy, cây ấy chính là do tâm trang nghiêm bí mật của đấng Di Ðà nguyện vương hóa hiện ra. Mật giáo phán định tâm ấy thuộc về trụ tâm thứ mười, là tâm được đức Như Lai chứng đắc trong địa vị thứ mười ba: Phật quả rốt ráo. Do vậy, tâm ấy có thể rốt ráo ban cho chúng sanh cái lợi chơn thật. Cây ấy cao vòi vọi nên những Bồ Tát thiện căn kém cỏi trong cõi ấy khó thấy biết hết nổi, nhưng do đức Di Ðà rủ lòng từ, dùng đại nguyện gia bị, nên họ đều được thấy biết rành rẽ cả.

Nguyện thứ 41 là ‘cây hiện cõi Phật’. Nguyện ‘trong cây hiện cõi Phật’ này giống như pháp quán thứ tư trong Quán kinh. Xin trích dẫn lời kinh tóm tắt như sau: ‘Các cây báu ấy... sanh các diệu hoa’, ‘sanh ra các quả’, ‘có đại quang minh hóa thành tràng phan, vô lượng lọng. Trong các lọng báu ấy ảnh hiện hết thảy Phật sự trong tam thiên đại thiên thế giới. Mười phương cõi Phật cũng hiện trong ấy’. Những cây báu được nói đến trong phép quán cây báu trong Quán kinh chính là do nguyện này thành tựu. Trong cõi Cực Lạc cây báu vô lượng, trong quang minh của mỗi cây hóa hiện vô lượng lọng báu. Trong mỗi lọng báu hiện bóng mười phương cõi Phật sáng sạch, thanh khiết như tấm gương sáng. Nơi những cây ấy, ta thấy được mười phương cõi Phật rõ ràng trọn vẹn như đối mặt với tấm gương sáng, tự nhìn thấy rõ vẻ mặt mình. Như vậy, cõi Cực Lạc hàm nhiếp hết thảy cõi Phật, tương nhập, tương tức chẳng thể nghĩ bàn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(13/8/2018) (208) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu tỏ mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 42: chiếu tỏ mười phương)

Giải:
Ðây là nguyện thứ 42: ‘Chiếu tột mười phương’. ‘Quảng bác’ (tạm dịch là rộng rãi) nghĩa là rộng rãi vô biên, ‘nghiêm tịnh’ là trang nghiêm thanh tịnh. ‘Quang oánh’ (tạm dịch là sáng ngời) nghĩa là quang minh chiếu rực rỡ. ‘Triệt chiếu’ (tạm dịch là chiếu tỏ) nghĩa là không vật gì nhỏ nhặt mà chẳng được chiếu rõ, không vật gì xa cách mấy mà chẳng thấy nổi. ‘Hy hữu’ là như kinh Niết Bàn nói: ‘Ví như trong nước mọc lên hoa sen thì chẳng phải là chuyện hy hữu. Hoa mọc trong lửa mới là hy hữu’.
Cõi nước Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh, sáng ngời thanh khiết như tấm gương chiếu tường tận mười phương, giống như Quán kinh nói mão trời của Ðại Thế Chí Bồ Tát ‘có năm trăm hoa báu. Trong mỗi hoa báu có năm trăm đài báu. Trong mỗi một đài, tướng rộng lớn của các cõi nước tịnh diệu của mười phương chư Phật đều hiện rõ cả’.Do vậy, ta biết được cõi Cực Lạc lớn nhỏ dung hợp lẫn nhau, rộng hẹp vô ngại, một mảy bụi, một sợi lông đều hiện bóng mười phương.
Vãng Sanh Luận Chú ghi: ‘Nơi cung điện và các lầu gác xem thấy mười phương một cách vô ngại’. Ðàm Loan pháp sư giảng câu ấy như sau:‘Như gương sáng trong sạch, hết thảy các tướng tịnh, uế, nghiệp duyên thiện, ác của mười phương quốc độ đều hiện ra cả’.
Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: ‘Ví như gương kim pha lê sáng sạch tỏa ánh sáng, đối với mười phương thế giới đều bình đẳng. Nơi gương sáng ấy thấy vô lượng cõi. Hết thảy núi, sông, hết thảy chúng sanh, địa ngục, ngạ quỷ dù tốt hay xấu, các hình loại nhiều như thế ấy đều hiện trong đó’.
Các kinh luận vừa dẫn trên đã giảng rõ ý nghĩa câu ‘quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới’ (sáng ngời như gương, chiếu tỏ mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật).

Chữ ‘chúng sanh’ chỉ nhân dân trong cõi Cực Lạc và chúng sanh trong mười phương thế giới: hễ ai thấy được tướng chiếu tỏ cùng tột mười phương của thế giới Cực Lạc đều phát tâm Bồ Ðề thù thắng vô thượng. Tâm ấy hy hữu như sen nở trong lửa, nên bảo là ‘sanh tâm hy hữu’. Ðã sanh được tâm ấy thì sẽ được như bản Tống dịch nói: ‘Chẳng lâu sẽ đắc a nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(14/8/2018) (210) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các cõi nước mười phương nghe danh hiệu tôi xong ắt đều đạt được thanh tịnh, giải thoát, Phổ Ðẳng tam muội, các tổng trì sâu, trụ tam ma địa thậm chí thành Phật. Trong định thường cúng vô lượng vô biên hết thảy chư Phật, chẳng mất định ý. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 44: Phổ Ðẳng tam muội, nguyện 45: trong định cúng Phật).

Giải:
Trong đoạn này, từ đầu đến chữ ‘cho đến thành Phật’ là nguyện thứ 44 ‘Phổ Ðẳng tam muội’, từ chữ ‘trong định’ trở đi là nguyện 45 ‘trong định cúng Phật’. Các nguyện kể từ nguyện 44 trở đi là những nguyện khiến cho các vị Bồ Tát
ở ngoài thế giới Cực Lạc nghe danh hiệu Phật A Di Ðà được hưởng những lợi ích thù thắng nơi pháp.
Trước hết là nguyện thứ 44: nghe danh hiệu Phật đắc các tam muội nhẫn đến thành Phật.
Theo sách Hội Sớ, người nghe Phật danh, ngay lập tức đắc các tam muội nên bảo là ‘ắt đều đạt được’. Bản Tống dịch ghi lời nguyện này như sau: ‘Tất cả các hàng Bồ Tát trong hết thảy cõi Phật mười phương nghe danh hiệu tôi, ngay lập tức chứng đắc tịch tĩnh tam ma địa’. Chữ ‘ngay lập tức chứng đắc’ trong lời nguyện trên chính là ý nghĩa của câu‘ắt đều đạt được’ trong bản kinh này.

‘Thanh tịnh’ là ý nói các tam muội mà Bồ Tát đang trụ vào đều vô nhiễm, vô trước, nên gọi là ‘thanh tịnh tam muội’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Tịch tĩnh tam ma địa vô phược, vô trước, nên gọi là thanh tịnh’.

‘Giải thoát’: do tam muội mà Bồ Tát trụ đó đã lìa hết thảy triền phược, tự tại, nên bảo là Giải Thoát tam muội. Sách Hội Sớ bảo: ‘Chỉ, Quán vô ngại nên gọi là Giải Thoát’. Sách còn bảo: ‘Niệm Phật tam muội trừ được hết thảy phiền não, giải thoát sanh tử, nên phải gọi là Thanh Tịnh Giải Thoát tam muội’.

Trong danh từ Phổ Ðẳng, Phổ là phổ biến, Ðẳng là bình đẳng. Kinh Bi Hoa gọi tam muội này là Biến Chí tam muội, kinh Phân Ðà Lợi gọi là Phổ Chí tam muội, bản Tống dịch ghi là Phổ Biến tam ma địa, bản Ðường dịch gọi là Bình Ðẳng tam ma địa môn. Sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Nếu theo ý kiến các sư thì Phổ Ðẳng tam muội chỉ là một thứ tam muội được Bồ Tát chứng đắc. Ngài Cảnh Hưng bảo: “Phổ nghĩa là phổ biến; Ðẳng nghĩa là bình đẳng. Cái thấy rộng lớn, Phật Phật đều thấy, cho nên gọi cái định họ trụ vào đó là Phổ Ðẳng”. Ngài Huyền Nhất bảo: “Do sức của tam muội này thấy khắp tất cả chư Phật Thế Tôn nên bảo là Phổ, hiện bình đẳng không gì chẳng đạt đến nên gọi là Ðẳng”. Nếu xét theo
chánh ý tuyển trạch bổn nguyện (11) thì Phổ Ðẳng tam muội chính là Niệm Phật tam muội.
Phổ có nghĩa là phổ biến, phàm thánh cùng chứng nhập được. Ðẳng là bình đẳng, công đức niệm một vị Phật cũng bằng với công đức niệm hết thảy Phật. Kinh Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội bảo: “Ví như chúng sanh nếu ở bên núi Tu Di kim sắc thì thân họ cũng cùng màu với núi ấy. Vì cớ sao vậy? Là do thế lực của núi vậy. Lại như các dòng nước đã vào trong biển cả thì có cùng một vị, vì sao thế? Do sức của biển vậy. Người đắc niệm Phật tam muội cũng giống như thế”. Ðấy là ý nghĩa Phổ Biến của chữ Phổ trong Phổ Ðẳng.
Kinh Văn Thù Bát Nhã dạy: “Niệm một đức Phật công đức vô lượng vô biên, chẳng khác gì công đức niệm vô lượng chư Phật”. Tán A Di Ðà Phật Kệ có câu: “Tôi dùng nhất tâm quy một Phật, nguyện nhập khắp thập phương vô ngại”. Ðấy là ý nghĩa Bình Ðẳng’.
Như vậy, sách Hội Sớ hiểu Thanh Tịnh tam muội, Giải Thoát tam muội và Phổ Ðẳng tam muội đều là Niệm Phật tam muội. Vì Niệm Phật tam muội là Bảo Vương tam muội, đầy đủ công đức của hết thảy tam muội, nên đương nhiên nó phải mang nhiều tên gọi của các tam muội khác nhau.

‘Tam muội’ tức là tam ma địa, dịch là Chánh Ðịnh, Chánh Thọ (đã giải thích tường tận trong phẩm thứ hai). ‘Tổng trì’ là đà ra ni, nghĩa là giữ gìn sự lành chẳng để mất, có khả năng gìn giữ vô tận (chữ “tổng trì” đã được giảng chi tiết trong phẩm 2). Tổng trì thâm diệu nên gọi là ‘tổng trì sâu’. Mười phương Bồ Tát do nghe danh hiệu nên đắc các tam muội và tổng trì thâm diệu, an trụ trong định, được thành Chánh Giác nên bảo là ‘thậm chí thành Phật’.

Nguyện 45 là ‘trong định cúng dường Phật’. Ý nghĩa của việc trong định cúng dường Phật mà chẳng mất định ý, tương đồng ý nghĩa câu ‘thâm trụ thiền định, đều thấy vô lượng chư Phật’ trong phẩm Ðức Tuân Phổ Hiền. Ðây chính là cảnh giới rất sâu của Phổ Hiền đại sĩ. Sách Vãng Sanh Luận Chú bảo: ‘Bậc Bồ Tát từ Bát Ðịa trở lên thường trụ tam muội. Do sức tam muội, thân chẳng rời khỏi chỗ mình mà đến khắp mười phương cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sanh’.
Sư Vọng Tây nhận định: ‘Xét về thường hạnh, “trong định cúng Phật” là hạnh của bậc Bồ Tát từ Sơ Ðịa trở lên’ và ‘bậc Bồ Tát từ Sơ Ðịa trở lên tuy đã có đức này, nhưng phải từ Bát Ðịa trở lên mới [có thể thực hành hạnh ấy] một cách vô công dụng’. Ý ngài nói: Bậc Sơ Ðịa Bồ Tát tuy đã có thể ‘trong định cúng Phật’ nhưng vẫn còn phải dụng công, phải là bậc Bồ Tát từ Bát Ðịa trở lên mới có thể vô công dụng đạo.
Sách Hội Sớ bảo các vị tân phát ý Bồ Tát ở những phương khác do nghe danh hiệu Di Ðà nhanh chóng dự vào những ngôi vị trong thập địa, đắc các tam muội, trụ trong định cúng Phật. Sách viết: ‘Dẫu là hạng tân phát ý Bồ Tát mà nghe được danh hiệu liền có thể định huệ tương tức (định tức là huệ, huệ tức là định, không còn cách ngại gì nữa), chơn, tục soi chiếu lẫn nhau, nhanh chóng chứng đắc các ngôi vị trong thập địa’. Kinh Văn Thù Bát Nhã cũng bảo: ‘Công đức niệm một đức Phật vô lượng vô biên, chẳng khác gì công đức niệm vô lượng chư Phật. Phật pháp bình đẳng vô sai biệt chẳng thể nghĩ bàn, đều nương theo Nhất Như thành tối Chánh Giác, đều đầy đủ vô lượng công đức biện tài. Nhập được Nhất Hạnh tam muội (tức là Niệm Phật tam muội) thì biết hết tất cả các tướng pháp giới sai biệt của hằng sa chư Phật’. Nói ‘trong tam muội biết tất cả tướng pháp giới sai biệt của chư Phật’ chính là nói ‘trụ trong định cúng Phật’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(15/8/2018) (212) T8

Chánh kinh:
Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà ra ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; ngay lập tức nếu chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được bất thoái chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.
(nguyện 46: đắc đà ra ni; nguyện 47: nghe danh đắc nhẫn; nguyện 48: chứng bất thoái trong hiện đời)

Giải:
Chương này gồm cả ba nguyện: Từ chữ ‘đắc đà ra ni’ trở lên là nguyện 46 ‘đắc đà ra ni’, từ chữ ấy đến ‘một, hai hay ba thứ nhẫn’ là nguyện 47 ‘nghe danh đắc nhẫn’; phần còn lại là nguyện 48 ’chứng được bất thoái ngay trong hiện đời’.
Chữ ‘ly sanh’ trong nguyện thứ 46 nghĩa là thoát khỏi sanh tử. Hành nhân trong ba thừa do đạt địa vị Kiến Ðạo, thấy được Ðế Lý (lý chơn thật) nên đoạn được kiến hoặc và tư hoặc, vĩnh viễn không bị sanh trong tam giới nữa nên bảo là ‘chánh pháp tánh sanh’. Sách Vạn Thiện Ðồng Quy Tập bảo: ‘Cùng lên cửa giải thoát, cùng xiển dương đạo ly sanh’. Mười phương Bồ Tát do nghe danh hiệu Di Ðà nên đều chứng được pháp ly sanh ấy và đắc ‘đà ra ni’. Ðà ra ni chính là ‘tổng trì’ (xem giải thích ở phần trước). Ðà ra ni có bốn loại:
a). Pháp đà ra ni: nghe, giữ giáo pháp của Phật chẳng quên.
b). Nghĩa đà ra ni: tổng trì nghĩa lý Phật pháp chẳng quên.
c). Chú đà ra ni (chú đà ra ni lại có năm tên. Theo Bí Tạng Ký, năm tên ấy là: đà ra ni, minh, chú, mật ngữ, chơn ngôn. Ðà ra ni là khi Phật phóng quang, trong quang minh vang ra thần chú nên gọi là đà ra ni hay minh. Vì vậy, ‘đà ra ni’ và
‘minh’ có cùng một nghĩa. Người trì đà ra ni có thể phát khởi thần thông, trừ được tai hoạn. Ðà ra ni gần tương tự với các thứ chú thuật của Tàu, nên đà ra ni cũng gọi là ‘chú’. Vì phàm phu và Nhị Thừa chẳng biết được nổi nên gọi là ‘mật ngữ’. Chơn ngôn: Lời của đức Như Lai chơn thật chẳng dối nên gọi là chơn ngôn).
d). Nhẫn đà ra ni: an trụ trong Thật Tướng của Phật thì gọi là Nhẫn. Giữ được lòng nhẫn nên gọi là Nhẫn Ðà Ra Ni.
Ðại sĩ trong mười phương nghe danh hiệu Phật đều đắc các đà ra ni như trên, an trụ trong Thật Tướng của các pháp nên bảo là ‘đắc đà ra ni’.

Trong lời nguyện 47 ‘nghe danh đắc nhẫn’, chữ ‘thanh tịnh’ có nghĩa là vốn sẵn không nhiễm trước, ‘hoan hỷ’ là trong lòng vui sướng, tịch diệt là vui.
Trong câu "đắc bình đẳng trụ" Ở đây, kinh dùng chữ ‘bình đẳng’ là nói vắn tắt. Thoát khỏi những ý tưởng sai biệt: cao, thấp, cạn, sâu, lớn, nhỏ, thân, sơ, trí, ngu, mê, ngộ thì gọi là “bình đẳng”.
Hiểu ở mức cao hơn, bình đẳng chính là Chơn Như trọn khắp, vạn pháp như một, cả ba thứ: tâm, Phật, chúng sanh không sai biệt. Vãng Sanh Luận Chú nói: ‘Bình đẳng là thể tướng của các pháp’ và: ‘Chúng sanh trông thấy thân có tướng tốt và quang minh của Phật Di Ðà đều giải thoát được hết các thứ ràng buộc nơi thân nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo được thân nghiệp bình đẳng. Nghe danh hiệu chí đức của A Di Ðà Như Lai, nghe âm thanh thuyết pháp thì đều giải thoát khỏi hết các thứ ràng buộc nơi khẩu nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo được khẩu nghiệp bình đẳng. Nếu gặp được quang minh của A Di Ðà Như Lai chiếu đến, hoặc nghe ý nghiệp bình đẳng của A Di Ðà Như Lai thì các chúng sanh ấy đều giải thoát khỏi hết thảy các thứ ràng buộc nơi ý nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo được ý nghiệp bình đẳng’. Ý nói: Nếu thấy được hình tướng, nghe danh, thấy quang minh, biết được tâm ý của A Di Ðà Như Lai thì đều chứng nhập nhà Như Lai. Do nghe pháp nên được nghiệp bình đẳng rốt ráo.
Ðoạn văn trên của Vãng Sanh Luận Chú hoàn toàn có cùng ý nghĩa với câu: ‘Nghe danh hiệu ta, chứng ly sanh pháp, đắc đà ra ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ’ trong kinh này. Do nghe danh hiệu nên trụ trong pháp bình đẳng, nghĩa là trụ trong Thật Tướng của các pháp. Bản Hán dịch còn gọi Phật A Di Ðà là Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác. Như vậy, mười phương Ðại Sĩ nghe danh hiệu Phật chí tâm tin ưa, dùng tâm bình đẳng niệm Bình Ðẳng Giác, an trụ như thế thì chính là ‘đắc bình đẳng trụ’.
Một câu Phật hiệu đây chính là Thật Tướng, chính là toàn thể của pháp giới, chính là thể tánh bình đẳng của các pháp. Chỉ cần niệm niệm tiếp nối, niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm nên bảo là ‘đắc bình đẳng trụ’. Tâm hạnh như thế là ‘Bồ Tát hạnh’, lần lượt dạy dỗ cho nhau cùng quay về Cực Lạc, ban bố cho mọi chúng sanh cái lợi chơn thật nên bảo là ‘tu Bồ Tát hạnh’.
Tu hành như vậy tự nhiên trọn vẹn hết thảy cội rễ của công đức Phật quả nên bảo là ‘đầy đủ cội đức’. Sách Hội Sớ giảng chữ ‘cội đức’ như sau: ‘Lục độ của Bồ Tát là gốc của hết thảy công đức nên gọi là cội đức. Chọn lựa, giữ lấy quả hiệu (danh hiệu của Quả Giác, tức là danh hiệu nam mô A Di Ðà Phật) lưu xuất lục độ vạn hạnh là nguồn gốc cho mọi đức, nên gọi là đức bổn’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.39 khách