Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phần Biệt Tự
Phẩm tiếp theo đây là Biệt Tự, cũng là Phát Khởi Tự. Trong phần này, Như Lai hiện tướng lành, phóng quang, A Nan hoan hỷ thưa hỏi, Thế Tôn chánh đáp điều nghi, diễn xuất một bộ pháp bảo quảng đại, viên mãn, giản dị, nhanh tắt, phương tiện rốt ráo, hy hữu bậc nhất, khó được gặp gỡ là kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác


3. Ðại Giáo duyên khởi

Chánh kinh:
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn oai quang rạng rỡ như khối vàng nung, lại cũng như gương sáng trong ngoài sáng tỏ, hiện quang minh lớn, biến hiện ra hơn trăm ngàn thứ. Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ: “Hôm nay Thế Tôn sắc thân, các căn vui sướng thanh tịnh, quang nhan vòi vọi, bảo sát trang nghiêm, từ xưa đến nay ta chưa từng thấy”, mừng rằng mình được chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu. Ngài liền từ tòa đứng dậy, trật áo vai phải, quỳ dài, chắp tay, mà bạch Phật rằng: - Thế Tôn ngày nay nhập đại tịch định, trụ pháp kỳ đặc, trụ hạnh đạo sư của chư Phật trụ, là đạo tối thắng. Quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật nghĩ đến nhau. Ngài nghĩ đến quá khứ vị lai chư Phật hay chăng? Ngài nghĩ đến chư Phật hiện tại ở phương khác hay chăng? Vì sao ngài lại oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu? Xin tuyên thuyết cho.


Giải:
Ðức Thích Tôn muốn diễn thuyết pháp môn Tịnh Ðộ vô thượng thù thắng nên hiện tướng lành, phóng quang để tạo đầu mối cho A Nan thưa hỏi, để khiến cho kẻ được nghe liền sanh ý tưởng hy hữu, sanh ý tưởng khó gặp gỡ, y giáo phụng hành, cầu sanh Tịnh Ðộ. Xét ra, các kinh Viên Ðốn đều có nói tướng Bổn Sư Thích Tôn phóng quang, nay kinh này cũng như vậy. Bản Hán dịch ghi:
“ Khi ấy, Phật đang ngồi nghĩ đến chánh đạo, mặt ngài có ánh sáng năm màu biến hiện hơn trăm ngàn thứ. Ánh sáng thật sáng rực. Hiền giả A Nan liền từ tòa đứng dậy, chỉnh đốn y phục, dập đầu lễ chân Phật, bạch trước đức Phật rằng:
- Nay vẻ mặt của Phật rạng rỡ, cớ sao mỗi lúc lại biến đổi sáng rực đến thế? Nay vẻ mặt đức Phật rạng ngời tinh thuần có hơn trăm ngàn sắc, trên dưới sáng tỏ, đẹp đẽ đến thế. Con từ khi hầu Phật đến nay, chưa từng thấy thân thể Phật rực sáng, sáng vằng vặc bội phần đến thế ấy. Con chưa từng thấy đấng Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác quang minh oai thần giống như hôm nay “.
Bản Ngô dịch cũng dịch giống vậy, chỉ có dùng chữ hơi khác. Các bản dịch khác có đề cập đến điểm này, nhưng không ghi tỉ mỉ. Bản Ngụy dịch hai lượt nói: ‘Quang nhan vòi vọi’, lại còn ghi: ‘Oai thần rạng rỡ’. Bản Ðường dịch chép: ‘Oai quang rạng rỡ như khối vàng nung, lại như gương sáng tĩnh lặng, tỏa chiếu sáng ngời’. Bản Tống dịch ghi: ‘Sắc mặt viên mãn, bảo sát trang nghiêm’.
So sánh năm bản dịch, bản Hán dịch mô tả tường tận nhất, các bản dịch khác chỉ nói giản lược. Câu ‘bảo sát trang nghiêm’ trong bản Tống dịch có nghĩa là trong quang minh hiện ra cõi nước. Câu này có thể dùng để bổ túc chỗ thiếu sót của các bản dịch cũ. Do điểm này, đủ thấy việc hội tập các bản dịch là điều tất yếu. Hơn nữa, đa số các nhà chú thích kinh thời xưa cho rằng khi đức Bổn Sư nói kinh này chưa từng phóng quang. Ðó là bởi họ chưa đọc kỹ tường tận các bản dịch cổ đời Ngô, Hán vậy.
Chữ ‘Thế Tôn’ chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Phật đủ các đức, được đời tôn trọng, nên hiệu là Thế Tôn’. Phật là đấng tôn quí nhất của thế gian nên xưng là Thế Tôn.
‘Oai’: có oai đáng nể thì nói là ‘oai’. Chữ Oai ở đây chỉ cho oai thần. Sách Thắng Man Bảo Quật chép: ‘Bề ngoài khiến muôn vật kính nể là Oai. Bên trong khó đo lường nổi thì gọi là Thần’.
‘Quang’ là quang minh: tự tỏa sáng là Quang, chiếu soi vạn vật là Minh, cũng có nghĩa là phóng quang chiếu rạng ngời. Quang minh có hai công dụng: một là phá tối, hai là biểu thị pháp. Ấy là vì quang minh của Phật chính là tướng trí huệ.
‘Hách’ là sáng. ‘Dịch’ là đông nhiều. Vì vậy, câu ‘oai quang hách dịch’ (tạm dịch là “oai quang rạng rỡ”) hàm ý quang minh do Phật phóng ra hùng mãnh có oai thế, sáng chói, số lượng rất nhiều. Tiếp theo đó, dùng ngay hình ảnh vàng được nung chảy để ví von. Sắc vàng vốn đã chói sáng, khi bị nung chảy còn chói lọi hơn nữa. Ví quang minh của Phật như vàng bị nung chảy ra đọng lại, cho nên nói ‘như khối vàng nung’.

Lại như gương sáng chiếu suốt trong ngoài’ (hựu như minh kính, ảnh sướng biểu lý): Ảnh là ánh sáng. Sướng là thông đạt. Ngài Hải Ðông Cảnh Hưng giảng: ‘Ánh sáng của gương chiếu ra ngoài gọi là “ảnh biểu”, giống như thân Phật có quang minh tỏa ra ngoài. Hình ảnh bên ngoài được chiếu rõ bởi ánh sáng lại hiện rõ trong gương, cũng giống như quang minh đã phóng ra soi ngược lại khiến vẻ mặt rạng rỡ. Do vậy, bảo là “biểu lý”.
Ngài Tịnh Ảnh giảng: ‘Ánh sáng chiếu ra ngoài gọi là “ảnh biểu”. Ánh sáng chiếu ra ngoài rồi lại hiện rõ trong gương gọi là “ảnh lý”. Thân Phật giống như vậy: quang minh chiếu ra ngoài là biểu, chiếu rạng thân Phật là lý’.
Theo hai thuyết trên, thân Phật trong ngoài rạng ngời ví như tấm gương sáng sạch. Do gương phóng quang chiếu ra ngoài thì gọi là ‘ảnh biểu’. Quang minh phóng ra ấy lại chiếu vào trong gương thì gọi là ‘ảnh lý’.
Trong hai bản Hán dịch và Ngô dịch chép rằng Phật quang ‘hơn trăm ngàn sắc’ và ‘hơn trăm ngàn biến hiện’, ‘quang minh rất mực sáng rực’, ‘trên dưới sáng ngần’, ‘càng sáng vằng vặc bội phần’ đều chỉ nhằm nói rõ ý nghĩa ‘ảnh sướng biểu lý’.

Câu ‘sắc mặt viên mãn, bảo sát trang nghiêm’ trong bản Tống dịch chỉ rõ trong quang minh của Phật hiện bóng mười phương cõi báu như gương báu to tròn hiện bóng mười phương. Sách Bình Giải giảng rằng: ‘Trong ánh quang minh vằng vặc, hiện bóng tướng trang nghiêm các cõi báu mười phương, giống như trong gương châu báu hiện ra tướng sum la vạn hữu!’ Thuyết trên đây thật đúng là đang nói về cảnh giới Hoa Nghiêm.
Câu ‘hiện đại quang minh biến hiện hơn trăm ngàn thứ’ ý nói: Trong pháp hội, Phật phóng quang minh lớn, trong chớp mắt biến hiện muôn thứ, quang sắc chen lẫn, trang nghiêm thù thắng tự nhiên như trong phẩm Tự của kinh Pháp Hoa chép: ‘Từ tướng bạch hào giữa mày có ánh sáng lớn chiếu khắp’. Do vậy, ‘hiện quang minh lớn’ chính là ‘đại quang phổ chiếu’. Vì vậy, câu ‘oai thần rạng ngời’ trong bản Ngụy dịch cũng tương đồng với câu này, cùng biểu thị quang minh oai thế chiếu rạng ngời của Phật rất rộng lớn, không gì sánh nổi.
Còn như câu ‘biến hiện hơn trăm ngàn thứ’ thì cũng như câu ‘tự nhiên quang sắc xen lẫn nhau, chuyển biến tối thắng’ trong phẩm Thọ Lạc Vô Cực của kinh này, cùng biểu thị Phật quang tự nhiên xen lẫn nhau, xoay chuyển, quang sắc biến hóa, càng biến hiện càng thù thắng chẳng cùng cực.

Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ’: Tôn giả A Nan là đương cơ của kinh này. Xét về Bổn (15), ngài là vị Pháp Thân Ðại Sĩ từ quả hướng nhân. Trong kinh Pháp Hoa, Phật bảo các Bồ Tát rằng: ‘Ta cùng nhóm ông A Nan ở chỗ Không Vương Phật đồng thời phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, A Nan thường tu đa văn, ta thường siêng tinh tấn. Vì vậy, ta đã đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà A Nan hộ trì pháp của ta, cũng sẽ hộ trì pháp tạng của chư Phật trong tương lai, giáo hóa thành tựu các Bồ Tát’.
Xét về Tích, A Nan là người kết tập Kinh tạng, được truyền Phật tâm ấn (tổ thứ hai của Thiền tông), truyền thọ Mật thừa, là nhân vật cốt lõi trong việc truyền thừa Ðại giáo. Kinh Liên Hoa Sanh Ðại Sĩ Ứng Hóa Nhân Duyên nói: ‘Từ ngài A Nan, sơ tổ Mật giáo là Liên Hoa Sanh Ðại Sĩ nhận lãnh mật pháp do đấng Thích Tôn phó chúc truyền trao lại’.
Sách Thai Tạng Giới Mạn Ðà Ra Ni Sao, quyển 3 nói: ‘A Nan mật hiệu là Tập Pháp Kim Cang’. Ðiều này chứng tỏ rằng về Bổn, A Nan chính là ‘kim cang tức Phật’ vậy. Vì vậy, truyền trì Phật pháp là bổn nguyện của ngài A Nan, hiện đang thị hiện làm thị giả của Phật, tiếp nối huệ mạng của Phật, tiếp nối quá khứ dẫn đến tương lai. Vì vậy, trong kinh này, ngài là đương cơ, lại có thể tự khéo suy nghĩ phát ra lời hỏi hay khéo ấy.

Sắc thân các căn, vui vẻ thanh tịnh’: Chữ ‘các căn’ chỉ cho năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân của thân sắc tướng. Gia Tường Sớ giải thích chữ ‘thanh tịnh’ là ‘quang hiển’. Kinh Bảo Tích lại chép: ‘Thân Như Lai tự tánh trong trẻo, vì cớ sao? Vì Như Lai từ lâu đã xa lìa hết thảy phiền não và các cấu uế. Thân Như Lai vượt khỏi thế gian. Vì cớ sao? Chẳng bị pháp thế gian làm nhiễm ô… Thân Như Lai như hình ảnh vi diệu trong tấm gương sạch, như vầng trăng tròn sáng [hiện bóng] trong nước sạch’.
Tổng hợp những điều vừa dẫn trên, ta có thể giải thích kinh văn như sau: Lúc ấy, đức Thế Tôn nơi năm căn như mắt v.v... đều hiện vẻ vui sướng, trong tâm an lạc, diệu tướng trong trẻo như ảnh hiện trong gương, như trăng in nước, quang minh viên mãn, thanh tịnh như không có hình chất, hoan hỷ sung sướng, thanh tịnh trang nghiêm. Lại nữa, vì sao Phật vui? Tịnh Ảnh Sớ chép: ‘Vui vì có hai lý do:
- Nghĩ đến hạnh đức đáng ưa đã thành tựu của A Di Ðà Phật cho nên vui.
- Nghĩ đến chúng sanh đã đến lúc được ích lợi cho nên vui’.

‘Quang nhan vòi vọi’: Quang là quang minh. Nhan là vẻ mặt. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Tiên Chú viết: ‘Vẻ mặt của Phật có ánh sáng nên gọi là quang nhan’.
‘Vòi vọi’ là ý nói vẻ mặt cao quý, vĩ đại, đáng tôn trọng nhất. Gia Tường Sớ giảng: ‘Vòi vọi là ý nói đức rộng lớn, cao quý, rạng ngời’. Nói chung, câu này diễn tả vẻ mặt của Phật viên mãn các đức, rạng ngời quang minh hơn hẳn hết thảy các thứ.

‘Bảo sát trang nghiêm’: Câu này trích từ bản Tống dịch, phía trước câu này có bốn chữ ‘diện sắc viên mãn’, ý nói: trong quang minh vi diệu phóng ra từ khuôn mặt đức Phật, hiện bóng cõi nước báu (bảo sát) trang nghiêm của cõi Phật mười phương. Sách Pháp Hoa Văn Cú Ký, quyển 2 giảng chữ ‘Sát’ như sau: ‘Sát, Hán dịch là “điền”, tức là vương thổ của một đức Phật’. Vì vậy, Sát nghĩa là
một Phật độ, một nước Phật. Tiếp ngay theo câu ‘bảo sát trang nghiêm’, bản Tống dịch ghi thêm: ‘Công đức như vậy là chưa từng có’, ý nói: quang minh hiển hiện thập phương, Phật sẽ khai diễn pháp hy hữu bậc nhất. Vì vậy, Phật hiện tướng lành chưa từng bao giờ thấy như thế.
Do đó, kinh chép tiếp rằng: ‘Từ xưa đến nay, chưa từng được thấy, mừng rằng mình được chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu’. Ý câu này là ngài A Nan tuy hầu bên cạnh Phật đã lâu, nhưng các tướng lành như thế ấy từ trước đến nay ngài chưa được thấy. Ngày nay mừng được dịp ngắm nhìn, khâm phục, thấy quang minh này trong tâm hoan hỷ, liền khởi lên ý tưởng hy hữu, khó gặp.
Do vậy, A Nan liền từ chỗ ngồi đứng lên, kéo áo ca sa đắp thân để lộ vai hữu. Câu ‘trật áo vai hữu’ trong kinh chính là cách tỏ lòng cung kính cùng cực của tỳ kheo. ‘Quỳ dài’ là cả hai đầu gối cùng đặt sát đất. ‘Chắp tay’ là áp cả mười ngón của hai tay trái và phải vào nhau, nên còn gọi là ‘hợp thập’. Ở Ấn Ðộ, chắp tay biểu thị kính lễ, biểu thị cung cách nhất tâm chuyên chú, cung kính.
‘Bạch’ là thưa bày. A Nan quỳ dài, chắp tay, hướng về đức Phật tỏ bày, cung kính thốt lời thưa hỏi.
(bảo sái chứ không phải bảo sát. Chữ sái là cõi. Bảo sái là cõi báu)
(117) T5


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

‘Nhập đại tịch định’: lìa hết thảy tán động, tịch tĩnh rốt ráo là “đại tịch”. Ðại tịch định là thiền Kinh Phật định được đức Như Lai nhập. Quyển 30 kinh Niết Bàn chép: ‘Ta ở Sa La song thọ nơi cõi này, nhập đại tịch định. Ðại tịch định có tên là Ðại Niết Bàn’.
Sách Bình Giải lại nói: ‘Phổ Ðẳng tam muội và Ðại Tịch Ðịnh chỉ là tên khác của Niệm Phật Tam Muội... Nay đức Phật vì để nói pháp môn Niệm Phật nên trụ Niệm Phật tam muội’.
Như vậy, Ðại Tịch Ðịnh nói chung là một thứ thiền định của Phật mang tên Ðại Niết Bàn. Còn xét trong kinh này, Ðại Tịch Ðịnh chỉ Niệm Phật Tam Muội. Niệm Phật Tam Muội được gọi là Bảo Vương Tam Muội, là vua trong các tam muội. Giờ đây, đức Thế Tôn khai diễn pháp môn Tịnh Ðộ nên ngài nhập Niệm Phật Bảo Vương Tam Muội.

‘Trụ pháp kỳ đặc’: Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Phật đắc pháp thù thắng hơn những kẻ khác, trong đời chẳng ai có pháp như vậy nên gọi là kỳ đặc’. Sách Hợp Tán chép: ‘Bí thuật để cứu tế phàm phu hiện giờ sẽ nói nên bảo là trụ kỳ đặc’.
Sách Bình Giải lại giảng: ‘Pháp kỳ đặc là chánh giác quả hải của Như Lai nên gọi là “kỳ đặc”. Kỳ đặc đến cùng cực thì như phần giảng về Hoa Quang Xuất Phật sẽ nói rõ.
Lại nữa, như trong phẩm Tánh Khởi của kinh Hoa Nghiêm: “Trong thân hết thảy chúng sanh có chánh giác trí, do khen ngợi nên nói là kỳ thay!” [Ðiều này] kỳ thì kỳ lạ thật, nhưng chưa đặc biệt.
Lại như trong phẩm Ðề Bà Ðạt Ða kinh Pháp Hoa, long nữ thành Phật mới thật là đặc biệt. Ðặc biệt thì đặc biệt thật, nhưng chưa kỳ lạ. Chỉ có một pháp môn này kỳ lạ nhất, đặc biệt nhất, vì sao? Kinh dạy: “Các hoa sen báu khắp đầy thế giới”.
Hoa sen ấy nếu bảo là y báo thì ngoài hoa nào có Phật Chánh Giác, nếu bảo là Chánh, thì sao lại nói là trăm ngàn ức cánh? Nếu cho là Nhân thì hoa ấy chính là công đức của Như Lai quả. Nếu cho là Quả, hoa ấy chính diệu hoa trong thập phương. Nếu cho là Chủ thì hoa hàm chứa vô lượng huệ của mười phương tam thế. Nếu bảo là Bạn, lại chỉ là Chánh Giác của Như Lai. Nếu cho
là một pháp thì trong ấy lại xuất sanh vô lượng pháp. Nếu cho là vô lượng, hoa ấy cũng là một câu danh hiệu. Kỳ kỳ, đặc đặc! Pháp chẳng thể nêu, chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn nên cưỡng gọi là pháp kỳ đặc’.
Nghĩa trên đây rất sâu, ở đây tôi chỉ lược nói: Quả đức của Như Lai được xưng tụng là kỳ đặc, tối cực kỳ đặc như đoạn kinh nói về ‘ánh sáng của hoa hiện ra đức Phật’ trong kinh có nói rõ.
Vả như kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Trong thân hết thảy chúng sanh có Chánh Giác Trí’, điều này rất kỳ lạ, nhưng chúng sanh ai cũng có, chẳng phải là hiện tượng đặc biệt, nên cho rằng: “Kỳ lạ nhưng chưa đặc biệt”. Trong kinh Pháp Hoa, long nữthành Phật: Long nữ tám tuổi, ngay lập tức thành Phật, thật là rất đặc biệt. Nhưng là đặc biệt mà không kỳ lạ, do vì chúng sanh bổn lai là Phật, ai cũng có phần, ai cũng hiện thành được. Vì vậy, long nữ thành Phật cũng chẳng được coi là kỳ lạ!
Chỉ có một pháp Tịnh tông trong kinh đây đã là đặc biệt nhất, lại cũng là kỳ lạ nhất. Phần sau, trong phẩm Bảo Liên Phật Quang sẽ nói rõ về phương diện y chánh, chủ, bạn, nhân quả, một, nhiều....
Nếu luận theo thường tình, do hoa sen ở trong ao nên là Y Báo. Nhưng nếu bảo là Y Báo, thì mỗi một hoa có ba mươi sáu trăm ngàn ức ánh sáng, trong mỗi một ánh sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật; đủ thấy Phật từ hoa hiện ra, nên nói: ngoài hoa không có Phật. Do vậy, chẳng thể bảo hoa là Y Báo. Nếu cho là chánh báo, trong kinh nói hoa có trăm ngàn ức cánh, rõ ràng là cánh hoa chẳng phải là thân Phật, nên chẳng được nói là chánh báo.
Nếu xem là nhân, nhưng hoa ấy từ quả đức của Như Lai thành tựu, nên chẳng phải là nhân. Nếu xem là quả, hoa ấy lại là vật sanh trong mười phương thế giới, chẳng đợi đến khi hành nhân đạt đến cái quả giác ngộ, viên mãn công phu. Vì vậy, hoa sen chẳng thể là quả.
Nếu xem là chủ thì hoa hàm chứa được mười phương tam thế vô lượng huệ, dung chứa hết thảy, bạn của hoa quá nhiều! Nếu xem là bạn, thì ngoài tâm không có pháp, chỉ là Chánh Giác của Như Lai. Y, chánh, chủ, bạn, hết thảy mọi vật trong Cực Lạc đều chỉ do tự tâm của Di Ðà Như Lai hiện ra.
Muốn bảo là một pháp thì một hoa có vô lượng quang, trong mỗi quang xuất sanh vô lượng pháp. Nếu nói là vô lượng, lại chỉ là một câu danh hiệu. Ba thứ trang nghiêm vào trong một pháp cú.
Vì vậy, bảo đây là pháp kỳ lạ nhất trong các sự kỳ lạ, pháp đặc biệt nhất trong những chuyện đặc biệt, pháp chẳng thể nêu, chẳng thể nói, chẳng nghĩ bàn, cũng chẳng đặt tên nổi, chỉ đành cưỡng gọi là ‘pháp kỳ đặc’.
Nay đức Thế Tôn muốn tuyên nói hoằng nguyện Nhất Thừa của Phật Di Ðà là pháp kỳ đặc nhất, nên trụ vào sở trụ của Phật Di Ðà, là điều Phật nào cũng nghĩ đến, nên nói là ‘trụ pháp kỳ đặc’.

‘Trụ hạnh đạo sư của chư Phật trụ, là đạo tối thắng’: Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘Phật sở trụ’ như sau: ‘Chỗ Phật trụ là Niết Bàn thường quả, chư Phật cùng trụ. Nay đức Thế Hùng (chỉ đức Thích Ca) trụ nơi chỗ trụ ấy là trụ đại Niết Bàn để khởi lên diệu dụng hóa độ’.
Sách Hội Sớ giảng: ‘Chỗ Phật trụ chẳng phải là điều Nhị Thừa, Bồ Tát đạt đến nổi, chỉ có Phật với Phật mới trụ nổi’. Lại viết: ‘Phật giảng tam thừa, hễ khi nói các các giáo pháp khác đều trụ trong pháp tam thừa. Nay ngài trụ vào chỗ trụ của chính mình nên nói là trụ chỗ Phật trụ’.
Thuyết sau hay hơn, vì hiện tại pháp được Phật sẽ nói là Quả Giác của Phật, là cảnh giới của Phật, cho nên phải trụ vào pháp chư Phật tự trụ để tỏ bày diệu pháp thù thắng này ngõ hầu làm nhân tâm (cái tâm phát khởi để làm nhân, hầu đạt đến cái quả là sự giác ngộ hoàn toàn) cho chúng sanh.
Sách Bình Giải lại giảng: ‘Trụ chỗ trụ của Phật là trụ Phổ Ðẳng tam muội. Phổ Ðẳng tam muội và Ðại Tịch Ðịnh đều là tên khác của Niệm Phật tam muội. Tam thế chư Phật đều trụ vào Niệm Phật này nên bảo là chỗ trụ của Phật. Nay Phật vì chúng sanh nói pháp môn Niệm Phật nên trụ Niệm Phật tam muội’. Thuyết của sách Bình Giải phù hợp với yếu chỉ của kinh này nhất.
‘Ðạo sư’ là bậc dẫn dắt người khác nhập Phật đạo. Kinh Thập Trụ Ðoạn Kết nói: ‘Gọi là đạo sư vì chỉ bày chánh đạo cho chúng sanh’. Kinh Hoa Thủ chép: ‘Có thể vì người khác nói đạo chẳng sanh tử nên gọi là đạo sư’. Kinh Phật Báo Ân nói: ‘Ðại đạo sư là bậc dùng đường chánh chỉ bày đường đến Niết Bàn, khiến cho được vô vi thường lạc’ (Vô vi là pháp vô vi, thường lạc là thường lạc ngã tịnh).
Sách Bình Giải lại viết: ‘Hạnh đạo sư chính là Di Ðà Thế Tôn bình đẳng dẫn dắt không để sót vậy’ và: ‘Ðại đạo sư chính là Di Ðà Thế Tôn dùng bổn nguyện nhiếp dẫn năm thừa’. Do đó, đức Bổn Sư diễn thuyết kinh này chính là ngài đã trụ vào hạnh của Phật Di Ðà vậy.

Chữ ‘đạo tối thắng’ được Tịnh Ảnh Sớ giảng rằng: ‘Vô Thượng Bồ Ðề là đạo tối thắng’. Sách Hội Sớ lại giảng như sau: ‘Là pháp mà hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian chẳng sánh được’.
Sách Bình Giải giảng: ‘Ðạo tối thắng là một đạo Niệm Phật Vãng Sanh vì trong hết thảy phương tiện nó là vô thượng tối thắng’. Lại còn viết: ‘Ðạo tối thắng là giải thoát đức. Kinh Niết Bàn dạy: ‘‘Vô thượng thượng, chơn giải thoát’’. Vì vậy, vô thượng thượng nghĩa là tối thắng’. Ấy là vì Niệm Phật chính là đạo tối thắng vô thượng thượng: khi vãng sanh ắt chứng Niết Bàn. Hơn nữa, ngay lúc đang niệm Phật, tâm là Phật, tâm làm Phật, ngay khi ấy chính là Phật, chính là lúc vô thượng thượng giải thoát. Ngày nay đức Thích Tôn sắp khai diễn diệu pháp Di Ðà nên trụ nơi Phật Di Ðà trụ, hành hạnh của Phật Di Ðà hành, niệm điều Phật Di Ðà niệm. Do vậy, ngài A Nan bảo Phật ‘trụ đạo tối thắng của chư Phật trụ’.

Với các câu ‘quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật nghĩ đến nhau’ v.v... Gia Tường Sớ giảng: ‘Ðiều mà vị quá khứ, vị lai, hiện tại Phật nào cũng nghĩ nhớ là tam thế chư Phật đều có ý niệm hóa độ chúng sanh. Ánh sáng của mỗi vị chiếu lẫn nhau, trí từng vị chiếu soi lẫn nhau nên bảo là nghĩ nhớ lẫn nhau’.
Sách Bình Giải viết: ‘Các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, lấy điều cả ba đời nghĩ nhớ để suy lường điều đức Phật đang tâm niệm’.
Sách Hợp Tán lại viết: ‘Ta được tam thế chư Phật nghĩ đến, suy ra lẽ nào đức Phật hiện tại chẳng nghĩ đến chư Phật. Nhưng nay ngài lại hiện ra tướng lạ lùng này vượt hơn hẳn chư Phật là có nguyên cớ gì?’
Kinh chép: ‘Oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu’ là ý nói: hiện ra sắc tướng, quang nhan vòi vọi, oai thần khó lường, phóng quang hiện điềm lành, tướng đẹp thù thắng: mười phương bảo sát hiện bóng trong quang minh. Do vậy, sách Hợp Tán khen ngợi là ‘vượt hẳn chư Phật’.
Ngài A Nan do thấy hiện các quang minh, tướng tốt lành mình chưa hề được thấy như vậy, hoan hỷ, mừng rỡ, nên lại tự suy nghĩ: Ngày hôm nay đức Thế Tôn hiện quang minh hy hữu như thế, hiển lộ tướng tốt lành khó thấy biết trọn vẹn như thế, ắt hẳn đức Thế Tôn phải nhập đại tịch định, trụ pháp kỳ đặc. Pháp ấy, định ấy chính là Niệm Phật Tam Muội, hạnh đạo sư, đạo tối thắng.
Do tam thế Như Lai, mỗi vị Phật nghĩ đến nhau; suy ra đức Thích Tôn nay ắt hẳn đang nghĩ đến Phật khác, chỉ chưa biết rằng ngài nghĩ đến vị Phật nào, cho nên thưa hỏi: ‘Ngài nghĩ đến chư Phật quá khứ, vị lai chăng? Ngài nghĩ đến chư Phật phương khác trong hiện tại chăng?’ Nếu chẳng phải là nghĩ đến đức Phật, vì sao ngày nay Phật lại ‘oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu đến thế’.
Oai là dũng mãnh. Thần là chẳng thể nghĩ lường. Hiển diệu là sáng đẹp. Trong quang minh của Phật hiện bóng mười phương bảo sát trang nghiêm, hiển hiện Hoa Nghiêm huyền môn nhiệm mầu chẳng thể nghĩ bàn. Tướng tốt lành trong ánh sáng ấy (quang thụy) mầu nhiệm tuyệt luân, cho nên A Nan thỉnh Phật giảng cho.
(120) T5


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Khi ấy, đức Thế tôn bảo A Nan rằng: - Lành thay! Lành thay! Ông vì thương xót, lợi lạc các chúng sanh nên có thể hỏi nghĩa vi diệu như vậy. Ông nay hỏi như thế hơn cả công đức cúng dường một thiên hạ A La Hán, Bích Chi Phật, bố thí suốt nhiều kiếp cho chư thiên, nhân dân, các loài ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn đến trăm ngàn vạn lần. Vì cớ sao? Vì chư thiên, nhân dân, hết thảy hàm linh trong tương lai đều do lời hỏi của ông mà được độ thoát!


Giải:
Ðoạn kinh trên là lời đáp của đức Bổn Sư. ‘Lành’ là tốt. ‘Lành thay!’ (Sadhu) là lời khen ngợi. Trí Ðộ Luận chép: ‘Lành thay, lành thay, nói đến hai lần là tỏ sự vui mừng vậy’.
Sư Tịnh Ảnh bảo lời hỏi của A Nan ‘xứng cơ, đương pháp, hợp thời’ nên đức Phật khen ngợi.
Sách Bình Giải cho rằng ‘vì lời hỏi đó tương xứng tâm Phật’. Những câu tiếp đó là lời đức Như Lai tự giải thích lời khen ngợi của mình.

‘Ông vì thương xót, lợi lạc các chúng sanh nên có thể hỏi nghĩa vi diệu như thế’: Thương xót là bi tâm dẹp khổ. ‘Lợi lạc’ là từ tâm ban vui. Phật khen A Nan: Ông nay nguyện dẹp tan nỗi khổ của hết thảy chúng sanh nên mới hỏi nghĩa như vậy.
‘Vi diệu’: pháp thể u huyền nên nói là ‘vi’, dứt bặt nghĩ lường nên gọi là ‘diệu’. Ấy là do bổn thể của pháp u thâm, diệu huyền, chẳng thể dùng ngữ ngôn, phân biệt biết được nổi, vì vậy, gọi là ‘vi diệu’.
Từ câu ‘ông nay hỏi như thế’ cho đến hết đoạn kinh đều nói về công đức của lời hỏi của A Nan.

Một thiên hạ’ tức là địa cầu. Địa cầu gồm có Tứ thiên hạ là bốn đại châu quanh bốn phía núi Tu Di. Một là Nam Thiệm Bộ Châu , hai là Ðông Thắng Thần Châu, ba là Tây Ngưu Hóa Châu, bốn là Bắc Uất Ðan Châu. Vì vậy, một thiên hạ là một đại châu. Phật dạy: Công đức của lời hỏi ấy của ngài A Nan còn hơn cả công đức cúng dường A La Hán, Bích Chi Phật và bố thí chư thiên, nhân dân trong nhiều kiếp và các loài trùng ‘ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn’ trong cả một đại châu đến trăm ngàn vạn lần.

Kiếp’ là cách gọi tắt chữ kiếp ba của tiếng Phạn, dịch là Trường Thời. Trí Ðộ Luận nói: ‘Núi đá to bốn mươi dặm, có người trường thọ, cứ mỗi trăm năm lại đến một lần dùng chiếc áo mềm mại phất qua. Khi hòn đá to ấy đã bị phẩy đến mòn nát hết cả mà kiếp vẫn chưa tận’.

Ngọ nguậy’ (quyên) chỉ cho loài trùng nhỏ. ‘Bay’ là loại trùng nhỏ biết bay. ‘Bò trườn’ (nhụ động) là loài trùng không chân, chỉ loài trùng đi bằng cách bò. Lời hỏi của A Nan vì sao có công đức đến thế? Là vì ‘chư thiên, nhân dân, hết thảy hàm linh trong tương lai đều nhân lời hỏi của ông mà được độ thoát’.

Hàm linh’ chỉ loài có linh tánh, tức là chúng sanh. Bản Hán dịch ghi: ‘A Nan, nay ông đều độ thoát chư thiên, đế vương, nhân dân và các loài ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn’. Ấy là bởi vì từ lời hỏi này dẫn ra pháp môn Tịnh Ðộ: thâu trọn phàm thánh, lợi độn cùng được độ, hoành siêu tam giới, chóng lên bốn cõi Tịnh Ðộ, được chư Phật cùng khen ngợi, được các kinh luận cùng nêu; Nhất Thừa liễu nghĩa, vạn thiện đồng quy chẳng thể nghĩ bàn. Hết thảy chúng sanh trong tương lai đều do pháp này mà được độ thoát. Vì vậy, đức Phật khen ngợi công đức của lời hỏi ấy.

Chánh kinh
A Nan, Như Lai do vô tận đại bi, xót thương tam giới, cho nên xuất hiện trong đời: quang xiển đạo giáo, muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chơn thật khó gặp, khó thấy, như hoa Ưu Ðàm ít khi xuất hiện. Lời hỏi của ông trong hiện tại gây lợi ích rất nhiều.


Giải:
‘Vô tận đại bi’: Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: ‘Chư Phật Như Lai dùng đại bi mà làm thể’ và ‘Dùng nước đại bi nhiêu ích chúng sanh thành tựu hoa quả trí huệ của chư Phật, Bồ Tát’. ‘Vô tận’ chính là ý nghĩa ‘chẳng có cùng tận’ trong kinh Hoa Nghiêm. Như Lai do tâm đại bi chẳng cùng tận nên thương xót tam giới. ‘Thương xót’ (căng ai) là thương yêu, xót thương. ‘Tam giới’ là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Phật vì thương xót hết thảy chúng sanh trong tam giới ‘cho nên xuất hiện trong đời’.
Câu này chỉ rõ bổn hoài xuất hiện trong thế gian của Như Lai. Kinh Pháp Hoa nói: ‘Chư Phật Thế Tôn do một đại sự nhân duyên nên xuất hiện trong đời’. Ðức Thế Tôn vì một đại sự nhân duyên nên tuyên nói nguyện lực của Phật Di Ðà để phổ độ chúng sanh.

Quang xiển đạo giáo, muốn cứu vớt quần manh’: Quang là sáng sủa, to lớn, rộng rãi. Xiển là mở ra. ‘Ðạo giáo’ chỉ chánh đạo thật giáo, tức là giáo hóa của chư Phật, chỉ chung cho giáo pháp cả một đời của đức Thế Tôn: tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì vậy, ‘quang xiển đạo giáo’ nghĩa là rộng tuyên kinh pháp của Như Lai.
“Chửng” (cứu vớt) là cứu giúp. ‘Manh’ là mầm mộng, ‘quần manh’ chỉ quần sanh. Chư Như Lai dùng đại bi làm thể muốn cứu hết thảy chúng sanh nên nói: ‘Muốn cứu vớt quần manh’.
Sách Hội Sớ giảng:‘Tiệm, Ðốn đều xứng với căn cơ, tùy duyên đều được độ thoát, nên bảo là cứu vớt quần manh’. Sách còn viết: ‘Chữ Muốn chỉ cho sở nguyện đại bi của đức Thích Ca. Nhưng một chữ này thông với cả đoạn trên lẫn đoạn dưới, bao hàm hai nghĩa:
- Một là, khi nói ‘muốn cứu vớt quần manh’ thì chư Phật Như Lai dùng đại bi làm thể muốn làm cho kẻ chưa độ được độ, kẻ chưa an được an, đó là ‘quang xiển đạo giáo’. Vì vậy, ý câu này thông với câu kinh văn trước đó.
- Hai là muốn thí cho lợi lạc chơn thật, tức là Như Lai muốn cho chúng sanh nhập Di Ðà nguyện hải’. Sách Bình Giải kết luận thuyết trên bằng câu: ‘Chư Phật sở dĩ xuất hiện trong đời là vì muốn giảng Di Ðà nguyện lực cứu giúp muôn chúng sanh để ứng với bổn hoài vậy’.

Ban cái lợi chơn thật’: Ban là ban cho, cũng có nghĩa là ân tứ (thưởng cho). Theo Thiện Ðạo đại sư, ‘cái lợi chơn thật’ là cái lợi chơn thật phát xuất từ thệ nguyện của Phật Di Ðà. Bài kệ của đại sư có câu: ‘Như Lai sở dĩ xuất hiện trong đời là chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật A Di Ðà’.
Sách Bình Giải khen ngợi rằng: ‘Nay riêng mình kim gia (người Nhật gọi đại sư Thiện Ðạo là kim gia) giải thích khéo léo, những người khác chẳng bàn được như vậy. Thuận theo cách giải thích của Tổ, lấy Di Ðà bổn nguyện làm cái lợi chơn thật thì ý nghĩa dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn để quang xiển đạo giáo đã được minh bạch’.
Sách Bình Giải lại dẫn sách Lục Yếu: ‘Lợi chơn thật chỉ cho danh hiệu này, tức là Phật trí’. Sách Bình Giải viết thêm: ‘Nay chơn thật là Phật trí danh hiệu. Ngài Thiện Ðạo cho rằng Pháp Tạng trong lúc tu nhân thành tựu chơn thật nên bảo là bổn nguyện chơn thật. Nói rộng ra thì là năm nguyện chơn thật. Nói gọn lại thì chỉ là một câu danh hiệu. Vì vậy, ta biết rằng cái chơn thật này bao gồm giáo, hạnh, tín, chứng’ Như vậy, ‘Lợi’ là cái lợi lớn lao của danh hiệu. Cứu cánh của cái lợi lớn lao ấy chính là Niết Bàn vô thượng diệu quả. Sách Bình Giải còn viết: ‘[Gọi là] lợi chơn thật là vì so sánh với phương tiện quyền giả. Vì vậy, đem pháp thế gian so với Tiểu Thừa thì Tiểu Thừa là chơn mà pháp thế gian là giả. Dùng Tiểu Thừa sánh với Quyền Ðại Thừa, Quyền Ðại Thừa là chơn mà Tiểu Thừa là giả. Dùng Quyền Ðại Thừa sánh với Thật Ðại Thừa Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v... thì Thật Ðại là chơn, Quyền Ðại là giả. Dùng Thật Ðại thừa Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v… sánh với nguyện thứ mười chín của Phật Di Ðà (Nguyện mười chín trong bản Ngụy dịch như sau: ‘Phát Bồ Ðề tâm, tu các công
đức, chí tâm phát nguyện, muốn sanh cõi ta’) thì nguyện mười chín là chơn, mà Hoa Nghiêm, Pháp Hoa... là giả.
Vì cớ sao? Hoa Nghiêm, Pháp Hoa lấy vãng sanh làm mặt lợi ích của kinh, các kinh ấy vẫn chưa ra khỏi nguyện mười chín.
Ðem nguyện mười chín sánh với nguyện hai mươi (bản Ngụy dịch: ‘Nghe danh hiệu ta, hệ niệm cõi ta, trồng các cội đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh cõi ta’) thì nguyện hai mươi là chơn, nguyện mười chín là giả.
Ðem nguyện thứ hai mươi sánh với nguyện mười tám (mười niệm vãng sanh) thì nguyện hai mươi là giả, nguyện thứ mười tám là chơn, là viên đốn nhất trong pháp viên đốn’.

Viên đốn tột bực không gì hơn kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, mà nay còn chê là quyền giả, chỉ khen ngợi Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh của kinh này là viên nhất trong pháp viên, pháp đốn nhất trong pháp đốn, chơn thật nhất trong các thứ chơn nhất là vì cớ gì? Sách Bình Giải giải thích: ‘Nay bàn về mặt lợi ích, pháp kia là giả, pháp này là chơn. Vì sao? Pháp kia (chỉ cho Pháp Hoa, Hoa Nghiêm) nói đến nhanh chóng thành Phật đạo, nhưng chẳng thấy có người nhanh chóng thành Phật, nên thành ra “biệt thời ý” (16). Pháp thể há có biệt thời ý, chỉ do căn cơ của con người hèn kém. Nay những kẻ tin tưởng chẳng nghi ngờ thì mười người tu cả mười được sanh, vãng sanh rồi sẽ tiến đến Bồ Ðề chẳng lui sụt: ngay nơi đầu tiên mình được sanh về đã là Bồ Ðề vì dẫu Phật tại thế hay diệt độ, cũng chỉ có một pháp này. Do vì hết thảy phàm thánh thực hành pháp này không phân biệt, do về mặt lợi ích chơn thật thì
không có gì hơn nổi pháp này’.Ðoạn văn trên ý nói: Nếu luận về pháp thể,
các kinh đều là chơn, nhưng nếu bàn về mặt lợi ích: các kinh khác đều là giả, chỉ có pháp này là chơn. Vì sao thế? Do các pháp như Pháp Hoa v.v... tuy nói có đạo thành Phật nhanh chóng, nhưng chẳng thấy có người y pháp tu trì ngay đời sau thành Phật, nên đó chỉ là cái nhân để thành Phật một cách biệt thời (tức là trong tương lai lâu xa sau này sẽ thành Phật).
Luận về pháp thể, vốn chẳng phải đợi đến biệt thời mới thành Phật; hiềm vì căn cơ hành giả kém cỏi nên chẳng thể nhanh chóng thành Phật. Chỉ có Nhất Thừa nguyện hải của Tịnh Tông đây, sáu chữ hồng danh: mười người tu mười người được sanh, vạn người tu vạn người vãng sanh, nên vượt trỗi hơn các kinh khác. Vả lại:
- Vãng sanh ắt chứng Bồ Ðề.
- Khi pháp diệt rồi chỉ còn kinh này để độ sanh
- Phàm thánh niệm Phật bình đẳng.
Sách SớSao nói: ‘Một câu ngang với chư thánh’ Vì vậy, ta bảo là ‘lợi chơn thật’ không có chi hơn được pháp này. Hơn nữa, kinh này có thể ban cho cái lợi chơn
thật là do những điều được giảng trong kinh đều là Chơn Thật Tế. Cõi mầu nhiệm Cực Lạc chính là do A Di Ðà Phật trụ vào Chơn Thật Tế biến hiện ra
như Vãng Sanh Luận viết: ‘Ba thứ (chỉ cõi Phật, Phật, Bồ Tát) thành tựu nguyện tâm trang nghiêm... vào trong một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân’. Chơn Thật Tế là vô vi Pháp Thân. Y báo, chánh báo của Cực Lạc là do chơn thật trí huệ hiện ra. Do vì hết thảy chơn thật nên có thể ban cho lợi chơn thật.
Vô vi Pháp Thân chính là Thật Tướng, cho nên sách Yếu Giải nói:
‘Năng thuyết, sở thuyết, năng độ, sở độ, năng tín, sở tín, năng nguyện, sở nguyện, năng trì, sở trì, năng sanh, sở sanh, năng tán, sở tán, không thứ gì
chẳng do Thật Tướng chánh ấn in vào’.
Ðủ thấy: nhập được pháp môn này rồi thì mỗi mỗi việc đều là nhập Thật Tướng. Vì vậy, trong những pháp ban bố cái lợi chơn thật thì không pháp gì hơn được pháp này.
Khó gặp, khó thấy như hoa Ưu Ðàm ít khi xuất hiện’: ‘Gặp’ (trị) là gặp gỡ. Sách Hội Sớ giảng: ‘Phật pháp khó nghe nên nói “khó gặp”. Phật thân khó được trông thấy nên là “khó thấy”.
Hoa Ưu Ðàm có chỗ dịch là Linh Thụy Hoa. Lá nó như lá cây lê, quả to bằng nắm tay, vị ngọt, không hoa mà kết trái, tuy có hoa nhưng rất ít khi thấy được hoa.
Kinh Bát Niết Bàn chép: ‘Có loại thọ vương tôn quý tên là Ưu Ðàm Bát, có trái, không hoa. Nếu nó sanh kim hoa, trong đời bèn có Phật’.
Kinh Văn Thù Hiện Pháp Tạng lại chép: ‘Ðời không Phật, cây ấy chỉ có trái không có hoa’.
Kinh Xuất Diệu lại chép: ‘Hơn mấy ngàn vạn kiếp, thỉnh thoảng mới trổ hoa. Chúng sanh thấy hoa bảo rằng Như Lai sắp ra đời’.
Theo các kinh trên, hoa này khó gặp ít có, khi nào có Phật ra đời nó mới xuất hiện. Vì vậy, nó được dùng để ví với giáo pháp chơn thật của Phật khó gặp gỡ.
Nay do lời hỏi của A Nan, bổn hoài của đấng Thích Tôn được mở toang, hoằng nguyện của Phật Di Ðà được tỏ rõ, nên bèn đem pháp chơn thật này giãi bầy hết cả ra để lợi ích khắp quần sanh. Vì vậy, Phật khen A Nan rằng: ‘Lời hỏi hiện nay của ông gây nhiều lợi ích’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
A Nan nên biết: Như Lai chánh giác là trí khó lường chẳng có chướng ngại, có thể trong một niệm trụ vô lượng ức kiếp, thân và các căn chẳng bị tăng, giảm. Vì cớ sao thế? Ðịnh, huệ của Như Lai đã trọn vẹn cùng tột đến vô cực. Do với hết thảy pháp được tự tại tối thắng. A Nan nghe kỹ, khéo nghĩ nhớ lấy, ta sẽ vì ông phân biệt giải nói.

Giải:
Chánh Giác là giác trí chơn chánh chứng ngộ hết thảy các pháp, tức là Chơn Trí của Như Lai. Vì vậy, ta bảo thành Phật là thành Chánh Giác như Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Như Lai chánh giác gọi chung là Phật trí’. Ðủ thấy bốn chữ ‘Như Lai chánh giác’ biểu thị Phật trí một cách hoàn toàn. Trí ấy rất sâu nên bảo là ‘khó lường’.
Vì Phật chứng pháp Niết Bàn rất sâu đến cùng cực, nên Gia Tường Sớ viết rằng: ‘Nói trí Chánh Giác của Như Lai khó lường là ý nói: chơn trí mầu nhiệm đến cùng tuyệt, chiếu soi tột cùng pháp giới, chẳng phải là điều kẻ hạ căn, phàm tình biết được nổi’.
Sách Bình Giải lại viết: ‘Như Lai Chánh Giác là nương vào Nhất Như của Phật Di Ðà để thành Chánh Giác, ứng thân ấy chính là bổn địa thân. Trí ấy khó lường.... Niệm Phật tam muội là sở trụ, do trụ vào đấy phát sanh được diệu trí thù thắng’. Câu này ý nói: Chánh Giác của Thích Ca Như Lai là do nương theo Nhất Như thừa của Di Ðà mà thành Chánh Giác. Vì vậy, ngài với Phật Di Ðà là cùng một Chơn Như, mà cũng là cùng một Pháp Thân. Ứng thân Phật [của Phật Thích Ca] hiện tướng lành ngay trong pháp hội đây thật ra chính là Pháp Thân (bổn địa thân) của Như Lai. Nhất Như thừa của Phật Di Ðà trụ vào Niệm Phật Tam Muội. Do trụ vào tam muội ấy phát sanh trí huệ thắng diệu nên ‘trí ấy khó lường’. Do vậy, điều này chẳng phải là điều các Ðại Sĩ địa thượng và Ðẳng Giác có thể tính kể, suy lường nổi. Dùng chơn trí thắng diệu hiểu thấu suốt được Chơn Như, lại thông đạt hết thảy các pháp chẳng có chướng ngại nên bảo là ‘chẳng có chướng ngại’.

Câu ‘có thể trong một niệm, trụ vô lượng ức kiếp mà thân và các căn chẳng bị tăng giảm’ hiển thị cái đức của Bổn Ðịa Pháp Thân.
Câu ‘trụ vô lượng ức kiếp’ ngụ ý Phật có thọ mạng vô lượng. Phẩm Thọ Lượng của kinh Tối Thắng Vương có bài kệ rằng: ‘Nếu ai trụ ức kiếp, tận lực thường tính toán, cũng chẳng biết được nổi thọ lượng của Thế Tôn’. Nay kinh này dạy trong khoảng một niệm trụ vô lượng kiếp thì đây chính là môn ‘thập thế cách pháp dị thành môn’ trong mười huyền môn sự sự vô ngại pháp giới của kinh Hoa Nghiêm.
Bản dịch kinh Hoa Nghiêm đời Tấn có câu: ‘Biết vô lượng kiếp là một niệm, biết một niệm chính là vô lượng kiếp’. Sự kéo dài hay rút ngắn đồng thời nói trên giống với kinh này. Ðiều trên đủ chứng minh rằng kinh này chẳng khác gì kinh Hoa Nghiêm! Thích Tôn là Tỳ Lô, Ứng Thân Giáo Chủ nơi thế giới của chúng ta cũng chính là Pháp Thân Vô Lượng Thọ Phật. Thích Ca và Tỳ Lô, Di Ðà chẳng hai, chẳng khác.

Tiếp theo đó, kinh nói: ‘Thân và các căn chẳng có tăng giảm’ ngụ ý: Phật thân tốt đẹp phi thường. Do ngài trụ vào bổn địa Pháp Thân thị hiện ứng thân nên đầy đủ đức của viên mãn báo thân.

Ðịnh, huệ của Như Lai đã trọn vẹn cùng tột đến vô cực’ (Như Lai định huệ cứu sướng vô cực): ‘Ðịnh’ là thiền định. Huệ là trí huệ. Giới, Ðịnh, Huệ gọi là tam vô lậu học. Hội Sớ viết: ‘Cứu là cùng tột, rốt ráo. Sướng là thông suốt. Ðể phân biệt với sở đắc của hạng còn tu nhân nên bảo là vô cực’. Vì vậy, ý của câu kinh trên là thiền định, trí huệ của Phật đã được thông suốt trọn vẹn cùng cực, đó chẳng phải là điều hết thảy các vị Ðại Sĩ còn ở địa vị tu nhân đạt được nổi.

Với hết thảy pháp được tự tại tối thắng’: Tâm thoát khỏi sự trói buộc của phiền não, thông đạt vô ngại, đó là “tự tại”. Hơn nữa, chẳng toan tính mà đạt được, hết thảy vô ngại nên gọi là tự tại. Như trong kinh Hoa Nghiêm, có mười tự tại:

1).Mạng tự tại: Bồ Tát đắc huệ mạng trường thọ, trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp trụ trì thế gian chẳng có chướng ngại.
2).Tâm tự tại: Bồ Tát dùng trí huệ phương tiện điều phục tự tâm, nhập được vô lượng đại tam muội, du hí thần thông không chướng ngại.
3).Tư cụ tự tại: Bồ Tát có thể dùng vô lượng trân bảo, các thứ vật dụng để trang nghiêm hết thảy thế giới một cách thanh tịnh vô ngại.
4).Nghiệp tự tại: Bồ Tát có thể tùy theo các nghiệp để ứng thời thị hiện, thọ các quả báo không chướng không ngại.
5).Thọ sanh tự tại: Bồ Tát theo tâm niệm có thể ở trong các thế giới thị hiện thọ sanh không chướng không ngại.
6).Giải tự tại: Bồ Tát thành tựu kiến giải thù thắng, thị hiện các thứ sắc thân, diễn thuyết diệu pháp không chướng không ngại.
7).Nguyện tự tại: Bồ Tát tùy lòng mong muốn, ở trong các cõi, ứng thời xuất hiện thành Ðẳng Chánh Giác không chướng không ngại.
8).Thần lực tự tại: Bồ Tát thần thông quảng đại oai lực khó lường, trong các thế giới thị hiện biến hóa không chướng không ngại.
9).Pháp tự tại: Bồ Tát đắc đại biện tài, trong các pháp diễn thuyết rộng rãi vô biên pháp môn một cách không chướng không ngại.
10).Trí tự tại: Bồ Tát trí huệ đầy đủ, trong một niệm hiện ra thập lực vô úy của Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác không chướng không ngại.

Nay kinh đây nói ‘tự tại tối thắng’ là như kinh Pháp Hoa nói: ‘Ta làm pháp vương, tự tại trong pháp’. Viên mãn mười tự tại của Hoa Nghiêm một cách rốt ráo nên bảo là ‘tối thắng’. Tiếp theo đó, đức Thế Tôn hứa nói, truyền dạy A Nan lắng nghe kỹ (chú tâm nghe pháp), khéo tự suy nghĩ nghĩa lý được nghe. Cuối cùng bảo: ‘Ta sẽ vì ông, phân biệt giải nói’.

(Tới đây, phần biệt tự đã hết)
(126) T5


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Quyển thứ hai
Trong quyển này, từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ mười trình bày nhân địa của Phật Di Ðà một cách chi tiết: thấy Phật nghe pháp, sơ phát đại tâm, năm kiếp tinh tấn kết thành đại nguyện, Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh độ khắp ba căn, cứu hết muôn loài, tích công trữ đức, trụ chơn thật huệ, một dạ chuyên chí trang nghiêm cõi nước nhiệm mầu. Trong vô lượng kiếp, ngài vun bồi đức hạnh để thành tựu viên mãn các đại nguyện đã phát.
Trong ba kinh Tịnh Ðộ, chỉ mình kinh này giảng nói những sự việc như vậy, nên kinh này được xưng tụng là kinh Tịnh Ðộ đệ nhất.

C.2. Chánh Tông phần
Phần Chánh Tông của một bản kinh giống như thân người có đủ các tạng: tim, phổi... Phần Chánh Tông của kinh này gồm các phẩm từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ mười hai. Nhân hạnh của Phật Di Ðà, đại nguyện của Pháp Tạng, y báo, chánh báo trang nghiêm cõi Cực Lạc, chánh nhân vãng sanh của ba bậc, sự tu trì của các Bồ Tát cõi Cực Lạc, nhân duyên sanh vào nghi thành biên địa, các sự ác khổ của cõi uế Sa Bà, hiển hiện Cực Lạc để chứng tín v.v... đều được thuật rõ trong phần Chánh Tông. Ðấy chẳng những là chủ thể của kinh này mà còn thật sự là những điểm chủ chốt trong toàn bộ diệu pháp Tịnh Ðộ vậy.
Kinh này hơn hẳn các kinh khác ở chỗ nó trình bày tường tận vô biên pháp hạnh nhiệm mầu như sự tu hành khi còn tu nhân của Cực Lạc giáo chủ A Di Ðà Phật, thệ nguyện thù thắng của ngài v.v... Nội dung của quyển hai này bàn về lời phát nguyện của Di Ðà khi còn tu nhân, cũng như những việc ngài đã thực hiện để viên mãn những đại nguyện đó. Trước hết, kinh nói ‘trong quá khứ vô lượng chẳng thể nghĩ bàn kiếp’ nhằm diễn giải: trong thuở cùng cực lâu xa về quá khứ, Phật Di Ðà trong thời Phật Thế Gian Tự Tại Vương được gặp Phật xuất gia học đạo, pháp danh là Pháp Tạng, phát khởi thệ nguyện sâu rộng. Như vậy, thời gian kể từ khi đức Phật Di Ðà còn đang tu nhân phát tâm tu hành đến nay thật chẳng thể tính kể nổi.
Lúc đức Di Ðà phát nguyện, ngài đã không còn là phàm phu. Ða số các bậc cổ đức đều cho rằng khi phát nguyện như thế, ngài đã ở địa vị địa thượng Bồ Tát. Suy ra, thời kỳ ngài phát tâm ban đầu còn phải lâu xa hơn nữa. Do vậy, người tu Tịnh Ðộ càng phải sanh lòng tin trong sạch, cảm niệm ân đức vô biên của Phật. Y báo, chánh báo cõi Cực Lạc và diệu pháp trì danh chính là diệu quả do đức Di Ðà trong vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn kiếp đã siêng gắng tu tập thành, để nay ta đem cái diệu quả ấy làm nhân tâm của mình. Ân ấy, đức ấy không cách nào sánh ví, diễn tả nổi.
Hơn nữa, khi còn tu nhân đức Di Ðà đã chứng Pháp Thân từ lâu, nên Nhất Thừa nguyện vương, sáu chữ hồng danh, các thứ trang nghiêm y báo, chánh báo, thậm chí một sợi lông, một mảy bụi, không một thứ nào chẳng phát sanh từ vô vi Pháp Thân, trí huệ chơn thật. Mỗi một thứ ấy đều siêu tình ly kiến, mỗi một thứ ấy đều được Thật Tướng chánh ấn in vào, mỗi một thứ đều khai hóa hiển thị Chơn Thật Tế, mỗi một thứ đều ban cho chúng sanh cái lợi chơn thật. Do vậy, pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn.
Phẩm thứ tư tiếp theo đây sẽ nói về nhân duyên phát tâm học đạo của tỳ kheo Pháp Tạng trong khi tu nhân.

4. Pháp Tạng nhân địa

Chánh kinh:
Phật bảo A Nan: “ Vô lượng chẳng thể nghĩ bàn vô ương số kiếp trong quá khứ có Phật xuất thế hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn trụ thế giáo hóa trong bốn mươi hai kiếp. Khi ấy, đức Phật vì chư thiên và người đời nói kinh giảng đạo.


Giải:
Vô ương số kiếp’, tiếng Phạn là a tăng kỳ, dịch thành Vô Ương Số. Ương nghĩa là cùng tận. Do kiếp số chẳng thể tính đến cùng tận nên gọi là “vô ương số kiếp” (hoặc còn nói là a tăng kỳ kiếp. Trong quyển 1 đã giảng chữ ‘kiếp’: Kiếp là đơn vị thời gian rất dài. Số kiếp nhiều đến nỗi chẳng thể tính đếm nổi thì gọi là vô ương số kiếp). A tăng kỳ kiếp lại chẳng có hạn lượng, chẳng thể nghĩ bàn cho xiết, nên bảo là ‘vô lượng chẳng thể nghĩ bàn vô ương số kiếp’, ngụ ý: thời gian lâu xa đến vô cực trong quá khứ.

Thế Gian Tự Tại Vương’ (danh xưng này dựa theo cách dịch của bản Ðường dịch): trong quá khứ lâu xa đến vô lượng chẳng thể nghĩ bàn vô tận đại kiếp, có một vị Phật xuất hiện trong thế gian, danh xưng là Thế Gian Tự Tại Vương Phật. Ngài là một vị cổ Phật. Thế Gian Tự Tại là thường ở trong thế gian, nhưng chẳng bị thế gian chướng ngại như câu nói: ‘Phật chiếu tướng thế gian, thường trụ tự tịch diệt’. Sách Bình Giải lại bảo: ‘Chữ Thế Gian tương ứng với Bát Nhã, Tự Tại nghĩa là Giải Thoát, Vương là Pháp Thân. Ba chính là một, một chính là ba, chẳng ngang, chẳng dọc, nên gọi là Thế Tự Tại Vương’. Ðấy là cách giải thích danh hiệu Phật dựa trên ba đức của Niết Bàn.
Thời cổ, mọi thứ đều thuộc về nhà vua cả nên dùng chữ Vương để ví Pháp Thân. Hết thảy đều từ Pháp Thân hiện ra, nhưng thứ nào rồi cũng quy về Pháp Thân cả, nên bảo Vương là Pháp Thân.
Thông đạt thế gian là Bát Nhã đức, tự tại trong thế gian là Giải Thoát đức. Như vậy, danh hiệu Thế Tự Tại Vương chứa trọn ba đức, ba tức là một, một tức là ba, giống như ba điểm của chữ Y (∴).

Câu ‘chẳng ngang chẳng dọc’ diễn tả diệu đức vô thượng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của chơn thân Niết Bàn.
Từ ‘Như Lai’ đến ‘Phật Thế Tôn’ là hiệu chung của chư Phật, hết thảy các đức Phật cùng có đủ mười hiệu này. Thật ra, chư Phật vô lượng đức nên đức hiệu cũng vô lượng, nay do thuận theo căn cơ chúng sanh nên chỉ nói giản lược mười hiệu.
Trong các kinh, do tách ra hay gộp lại sai khác, nên mười danh hiệu trên thành ra sai khác. Chẳng hạn như Tịnh Ảnh Sớ đã dựa theo Thành Thật Luận gộp Vô Thượng Sĩ và Ðiều Ngự Trượng Phu thành một hiệu, tách chữ Phật Thế Tôn thành hai danh hiệu. Theo các kinh Niết Bàn, kinh Anh Lạc và quyển 10 của bộ Ðại Luận thì Vô Thượng Sĩ và Ðiều Ngự Trượng Phu là hai danh hiệu, Phật
Thế Tôn được gộp lại thành một danh hiệu. Tôi theo thuyết này. Mười hiệu được giải thích như sau:
(129) T6


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

a). Như Lai: Như là Chơn Như. Nương theo đạo Chơn Như để đạt (lai) thành Chánh Giác, nên gọi là Như Lai. Còn có thể hiểu là chư Phật đạt đạo an ổn, nên cũng bảo là Như Lai đến; lại chẳng sanh trong sanh tử nên gọi là Như Lai. Lại giống như chư Phật mà đến nên gọi là Như Lai. Sách Hợp Tán lại giảng: ‘Phẩm Phạm Hạnh của kinh Niết Bàn chép rằng: “Vì sao gọi là Như Lai? Giống như lời nói của chư Phật quá khứ chẳng biến đổi. Vì sao không biến đổi? Chư Phật quá khứ vì độ chúng sanh nên giảng mười hai bộ kinh, Như Lai nay cũng thế nên gọi là Như Lai”. Sách Hội Sớ lại nói: “Chữ Như Lai có ba nghĩa là: Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân. Kinh Kim Cang dạy: ‘Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu’ là nói về Pháp Thân Như Lai. Luận Chuyển Pháp Luân bảo: ‘Ðệ Nhất Nghĩa Ðế là Như, Chánh Giác là Lai’, là nói về báo thân Như Lai. Luận Thành Thật chép: ‘Nương đạo Như Lai đạt thành Chánh Giác nên gọi là Như Lai’ là nói về ứng thân Như Lai”.
Trong bản sớ giải phẩm Thọ Lượng [kinh Pháp Hoa], tổ Thiên Thai (Trí Giả đại sư) lại giảng rằng: ‘Như là pháp bất biến, giống như tấm gương, chẳng phải là nhân, chẳng phải là quả. Dẫu có Phật hay không có Phật thì tánh tướng vẫn thường như vậy. Trọn khắp hết thảy các chốn mà chẳng bị đổi khác là Như, bất động mà đến được khắp tất cả là Lai’. Giải thích như vậy là giảng theo Pháp Thân Như Lai. Do Phật có ba thân: pháp, báo, ứng, nên chữ Như Lai tất nhiên được giải thích theo từng quan điểm: pháp, báo, ứng khác nhau. Nói đầy đủ thì sẽ như Hội Sớ giảng:
- Chẳng đến, đi là Pháp Thân.
- Chánh Giác Ðệ Nhất Nghĩa Ðế, đạt đến Chơn Như Thật Tướng như thế là Báo Thân.
- Nương theo Chơn Như Thật Tướng để thành tựu Chánh Giác, đạt đến như vậy thì là Ứng Thân.
Với các cách giải thích khác, ta luôn có thể dựa theo cách giải thích của Hội Sớ để lãnh hội ý chỉ.

b). Ứng Cúng: Ðại Luận chép: ‘Ðức Phật đã trừ sạch hết các kiết sử, đắc hết thảy trí huệ, nên xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường của hết thảy chúng sanh trong trời đất. Vì vậy, Phật được xưng là Ứng Cúng’. Tịnh Ảnh Sớ lại bảo: ‘Chứng, diệt tương ứng nên gọi là Ứng. Lại do chứng diệt nên đáng cúng dường; vì vậy bảo là Ứng Cúng’. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Vạn hạnh viên thành, phước huệ đầy đủ, xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường của trời, người, lợi ích hữu tình, nên Phật hiệu là Ứng Cúng’.

c). Ðẳng Chánh Giác: tiếng Phạn là Tam Miệu Tam Bồ Ðề, nói đủ là ‘A nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề’. A là Vô, Nậu Ða La là thượng, Tam là chánh, Miệu là đẳng, Bồ Ðề là giác, nói gộp lại là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Bồ Tát nhân hạnh viên mãn nên thành Ðẳng Chánh Giác, xưa kia dịch là Vô Thượng Chánh Biến Tri. Bản chú giải kinh Duy Ma Cật của ngài Tăng Triệu có chép: ‘A Nậu Ða La: Hán dịch là Vô Thượng. Tam Miệu Tam Bồ Ðề: Hán dịch là Chánh Biến Tri. Do không có gì lớn hơn được đạo, nên đạo là Vô thượng.
Ðạo ấy chơn chánh, không pháp nào chẳng biết, nên là Chánh Biến Tri’. Tịnh Ảnh Sớ lại chép: ‘Chánh là lý. Chiếu soi tột cùng lý thể, nên bảo là Biến Tri’.

d). Minh Hạnh Túc: Có nhiều cách giải thích chữ Minh.
- Ðại Luận giảng: ‘Túc mạng, thiên nhãn, lậu tận gọi là tam minh’. Sách Hội Sớ và Tịnh Ảnh Sớ cùng theo cách giải thích này, đều cho rằng Minh chính là Tam Minh.
- Tịnh Ảnh Sớ lại còn viết thêm: ‘Minh là chứng hạnh. Chứng pháp rõ ràng rốt ráo nên bảo là Minh’. So ra, thuyết này sâu sắc hơn cả vì toàn bộ kinh Hoa Nghiêm chỉ là tín giải hành chứng. Nếu thấu suốt rõ ràng, chứng ngộ thông suốt được hành pháp thì mới được gọi là Minh.
- Quyển 18 kinh Niết Bàn có chép: ‘Minh là được vô lượng thiện quả... Thiện quả gọi là A-nậu-đa-la tam-miệu tam Bồ Ðề’. Thuyết này cực sâu vì đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mới được gọi là Minh. Dùng thuyết của kinh Niết Bàn để giải thích chữ Minh trong bản kinh Vô Lượng Thọ này là thỏa đáng nhất. Quyển 18 kinh Niết Bàn giảng chữ Hạnh Túc như sau: ‘Hạnh là như chân cẳng (cước túc)…. Chân cẳng là Giới, Huệ. Dùng chân Giới, Huệ để đắc A-nậu-đa-la tam miệu tam Bồ Ðề, nên gọi là Minh Hạnh Túc’. Tịnh Ảnh Sớ cũng giảng tương tự: ‘Ngài Long Thọ nói: Giới, Không Huệ v.v... được gọi là Hạnh. Ðầy đủ trọn vẹn hai thứ ấy (chỉ giới và không huệ) thì gọi là Túc’. Sách Hội Sớ giảng hơi khác: ‘Hạnh Túc là thân khẩu ý nghiệp chơn chánh, thanh khiết. Dùng nguyện lực của chính mình để khéo tu trọn vẹn hết thảy các hạnh nên hiệu là Minh Hạnh Túc’.

e). Thiện Thệ:Thiện là hay, tốt. Thệ là đi qua. Vì vậy, Thiện Thệ còn được dịch là Hảo Khứ (khéo đi qua). Ðại Luận chép: “Hảo Khứ là khéo đạt các tam ma đề (chánh định) sâu và vô lượng đại trí huệ như lời kệ: ‘Nhất thiết trí của Phật là cỗ xe lớn, hành tám chánh đạo nhập Niết Bàn’, nên gọi là Hảo Khứ”. Sách Hợp Tán lại bảo: ‘Thiện là phát tâm lúc đầu tiên, Thệ là Ðại Bát Niết Bàn. Như Lai chẳng bỏ cái tâm đã phát đầu tiên mà chứng đắc Niết Bàn. Vì vậy, Như Lai hiệu là Thiện Thệ’. Cả hai thuyết trên đều coi ‘nhập Niết Bàn’ là Thiện Thệ. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Thiện Thệ nghĩa là diệu trụ, tức là vô lượng trí huệ đoạn được các hoặc, khéo xuất thế gian, nên đạt đến Phật quả vậy’. Như vậy, thuyết này xem ‘đạt Phật quả’ là Thiện Thệ, nhưng thật ra cũng chẳng khác với hai thuyết nói trên. Phật đã chẳng đến, đi, sao lại bảo là Hảo Khứ? Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Phật đức viên mãn chẳng có chốn nào để đến nên bảo là Hảo Khứ. Tuy không đến đâu nhưng chẳng phải là không đến được, như lửa lúc kiếp tận tuy chẳng thiêu cái gì, nhưng không cái gì nó chẳng thiêu được. Vì vậy, cũng có thể bảo là Khứ’.

f). Thế Gian Giải: Còn dịch là Tri Thế Gian. Sách Bình Giải giảng: ‘Thế Gian là ngũ ấm. Giải là biết. Chư Phật Thế Tôn khéo hiểu ngũ ấm nên được gọi là Thế Gian Giải’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Thế Gian Giải là Hóa Tha Trí. Khéo hiểu thế gian nên gọi là Thế Gian Giải’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Với các pháp nhân quả thế gian, xuất thế gian, không pháp nào chẳng hiểu rõ, nên gọi là Thế Gian Giải’. Tổng hợp ba cách giải thích trên, Thế Gian Giải là thánh trí hóa độ người khác (hóa tha trí), nghĩa là Như Lai thật sự hiểu rõ các pháp: nhân quả thế gian, xuất thế gian.

g). Vô Thượng Sĩ: Sĩ là người, cao quý nhất trong loài người thì gọi là Thượng Sĩ. Kinh Niết Bàn dạy: ‘Như Lai gọi là Vô Thượng Sĩ. Ví như nơi thân người, đầu ở cao nhất, chân tay, các chi chẳng bằng được; Phật cũng giống như vậy, cao quý nhất, Pháp, Tăng chẳng bằng’. Kinh còn chép: ‘Còn có cái để đoạn thì gọi là Thượng Sĩ. Không còn gì để đoạn là Vô Thượng Sĩ’. Sách Hội Sớ cũng giảng giống hai thuyết trên: ‘Hoặc nghiệp hết sạch thì không có gì để đoạn, trong nhân thiên phàm thánh của tam giới là bậc nhất, tối thượng, không ai bằng nên hiệu là Vô Thượng Sĩ’. Trí Ðộ Luận lại bảo: ‘Pháp Niết Bàn vô thượng, Phật tự biết là Niết Bàn, chẳng phải nghe từ người khác, lại còn có thể dẫn dắt chúng sanh đạt đến Niết Bàn. Như Niết Bàn là vô thượng trong các pháp, Phật cũng là vô thượng trong chúng sanh. Hơn nữa, Phật trì giới, thiền định, trí huệ giáo hóa chúng sanh không ai bằng được nổi, huống là hơn nổi Ngài. Vì vậy, gọi
Phật là vô thượng’.

h). Ðiều Ngự Trượng Phu: Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Khéo có thể điều phục chúng sanh thì gọi là Ðiều Ngự Trượng Phu’. Sách Hợp Tán lại giảng: ‘Chính mình đã là trượng phu, lại có thể điều phục trượng phu. Vì vậy, xưng tụng Phật là Ðiều Ngự Trượng Phu. Nếu đầy đủ bốn pháp thì gọi là trượng phu. Những gì là bốn? Gần thiện tri thức, hay nghe pháp, suy nghĩ ý nghĩa [của pháp đã được nghe], đúng lời dạy tu hành’.
Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Ðầy đủ lực dụng của đại trượng phu để thuyết các pháp, điều phục chế ngự hết thảy chúng sanh khiến họ lìa cấu nhiễm, đắc đại Niết Bàn’. Nếu có kẻ chất vấn: Cũng phải nên giáo hóa bọn nữ nhân, cớ sao chỉ nói đến bọn trượng phu? [Xin mượn lời] Trí Ðộ Luận để đáp: ‘Nếu nói trượng phu là đã tính cả nhị căn (kẻ có đủ hai căn nam, nữ), vô căn (bẩm sinh không có bộ phận sinh dục), nữ nhân, nên chỉ nói là trượng phu’. Như vậy, khi nói đến trượng phu là đã tính hết phụ nữ, nhị căn, vô căn trong ấy.

i). Thiên Nhân Sư: Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Có thể dùng chánh pháp để gần gũi, giáo hóa trời người, thì gọi là Thiên Nhân Sư’. Sách Hội Sớ bảo: ‘Tất cả thiên thượng, nhân gian, ma vương, ngoại đạo, Thích, Phạm, thiên, long đều cùng quy mạng, tuân lời dạy vâng làm, đều làm đệ tử, nên hiệu là Thiên Nhân Sư’. Sách Hợp Tán lại bảo: ‘Chư Phật tuy là vô thượng đại sư của hết thảy chúng sanh, nhưng trong các loài chúng sanh, chỉ có trời và người phát nổi tâm vô thượng đại Bồ Ðề. Do đó, xưng tụng Phật là Thiên Nhân Sư’.

j). Phật Thế Tôn: Thành Thật Luận tách danh hiệu này ra làm hai, coi Phật là danh hiệu thứ chín, Thế Tôn là danh hiệu thứ mười. Nay tôi theo ý kinh Niết Bàn gộp Phật và Thế Tôn thành hiệu thứ mười.
Phật là Giác: tự giác, giác tha và giác mãn. Ba giác viên mãn nên xưng là Phật. Sách Hợp Tán lại giảng rằng: ‘Phật là Giác. Ðã tự giác ngộ, lại còn giác ngộ người khác. Ví như có kẻ hiểu biết kẻ giặc, giặc chẳng làm gì nổi’. Phật còn nghĩa là Trí, như Trí Ðộ Luận viết: ‘Phật Ðà, Hán dịch là Trí Giả. Biết được hết thảy các pháp: chúng sanh số, phi chúng sanh số, hữu thường, vô thường v.v... trong quá khứ, vị lai, hiện tại. Dưới cội Bồ Ðề, ngài hiểu biết rành rẽ hết cả nên gọi là Phật Ðà’. Luận còn chép: ‘Phật thành tựu hết thảy trí huệ, đầy đủ trọn vẹn các đức, nên đều hiểu rành rẽ quá khứ, vị lai, hiện tại, tận, bất tận, động, bất
động, hết thảy thế gian, nên hiệu là Phật Ðà’.
‘Thế Tôn’ tiếng Phạn là Bà Già Phạm, đầy đủ trọn vẹn các đức được thế gian khâm ngưỡng nên hiệu là Thế Tôn. Phẩm Thập Hiệu của Thành Thật Luận có câu sau: ‘Trọn vẹn chín danh hiệu như trên, là bậc cao quý trong tam thế thập phương thế giới, nên gọi là Thế Tôn’ (Trí Ðộ Luận xem Phật là hiệu thứ mười vì cho rằng Thế Tôn là tiếng xưng tụng chung cả mười đức hiệu. Cách tách ra hay gộp lại này so với thuyết của Tịnh Ảnh Sớ hơi khác đôi chút, nhưng vẫn tương đồng).
‘Trụ thế giáo hóa trong bốn mươi hai kiếp. Khi ấy, đức Phật vì chư thiên và người đời nói kinh giảng đạo’ (câu này trích từ bản Hán dịch): Ðức Phật ấy trụ thế hoằng pháp tất cả bốn mươi hai kiếp. Khi ấy, ngài vì chư thiên và nhân dân trong thế gian diễn thuyết kinh văn, giảng luận đạo pháp và đạo yếu. Ðạo là con đường giác ngộ. Luận Câu Xá giảng: ‘Ðạo nghĩa là gì? Là đường Niết Bàn, vì đi theo con đường ấy đến được thành Niết Bàn’. Hoa Nghiêm Ðại Sớ cũng nói: ‘Thông đến quả Phật nên gọi là Ðạo’. Ðạo pháp là pháp dẫn đến chánh đạo Niết Bàn. ‘Ðạo yếu’ là điểm trọng yếu trong Phật đạo, như Tán A Di Ðà Phật Kệ đã viết: ‘Thông suốt đạo yếu chẳng chướng ngại’.
(132) T6


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Có đại quốc chúa tên là Thế Nhiêu Vương nghe Phật thuyết pháp hoan hỷ, khai giải, liền phát vô thượng chánh chơn đạo ý, bỏ nước, bỏ ngôi vua, trở thành sa môn, hiệu là Pháp Tạng.


Giải:
Danh hiệu Thế Nhiêu Vương được ghi trong bản Hán dịch, kinh chép: ‘Thế Nhiêu Vương nghe kinh tu đạo hoan hỷ, khai giải, liền bỏ ngôi vua, trở thành tỳ kheo’. Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Chuẩn theo kinh văn, Thế Nhiêu Vương chính là tục danh của ngài Pháp Tạng’. Ngài nói như vậy vì kinh văn bản Hán dịch khẳng định rõ ràng: lúc làm quốc vương, [Pháp Tạng] tên là Thế Nhiêu Vương, sau đó xuất gia trở thành tỳ kheo Pháp Tạng.
Vào thời ấy, có một đại quốc vương tên là Thế Nhiêu Vương nghe đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương thuyết pháp, tâm chợt khai ngộ, thấu suốt Thật Nghĩa nên kinh chép là ‘khai giải’. Do khai giải nên tự nhiên ‘hoan hỷ’. Ðiểm này giống như cuối các bản kinh thường chép: ‘Nghe lời Phật dạy đều đại hoan hỷ’.
Trong câu ‘liền phát vô thượng chánh chơn đạo ý’, chữ ‘liền’ có nghĩa là ngay lập tức, ‘phát’ là phát tâm. ‘Vô thượng chánh chơn đạo’ tiếng Phạn là a nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề, tức là đạo mà đức Phật đã chứng đắc. Do không gì hơn được đạo ấy nên bảo là ‘vô thượng’. ‘Chơn’ là chơn thật. ‘Chánh’ là thánh trí vì biết đúng như pháp tướng. ‘Ðạo’ là đạo vô ngại. ‘Ý’ là tâm năng cầu, tức là cái
tâm cầu Bồ Ðề đạo được gọi là ‘ý’. Vì vậy, ‘vô thượng chánh chơn đạo ý’ chính là phát vô thượng đại Bồ Ðề tâm. Thế Nhiêu Vương nghe pháp khai giải, ngay lập tức phát vô thượng đại Bồ Ðề tâm, bỏ đất nước và ngôi vua, tránh đời, xuất gia, trở thành sa môn.

Sa môn’ nguyên là tiếng để gọi chung những người xuất gia, kể cả ngoại đạo, sau này mới trở thành danh từ dành riêng cho tăng lữ Phật giáo. Sa môn nghĩa là Cần Tức, sách Hội Sớ giảng: ‘Kẻ ấy siêng (cần) tu pháp lành, dứt (tức) các ác’. Kinh Tứ Thập Nhị Chương chép: ‘Từ biệt thân thuộc xuất gia, hiểu thấu cội rễ của tâm tánh, hiểu pháp vô vi, gọi là Sa Môn’. Ðấy chính là ý nghĩa sâu xa
của chữ Sa Môn vậy.

Hiệu là Pháp Tạng’: Pháp Tạng chính là pháp danh của Thế Nhiêu Vương sau khi trở thành tỳ kheo. Bản Hán dịch chép là Pháp Bảo Tạng, bản Ngô dịch ghi là Ðàm Ma Ca, bản Ðường dịch viết là Pháp Xứ, bản Tống dịch ghi là Tác Pháp, Ðại Luận lại ghi là Pháp Tích, chỉ mỗi bản Ngụy dịch chép là Pháp Tạng; bản hội tập dùng danh xưng này. Các bản dịch tên ngài sai khác như vậy chỉ là do cách dùng từ sai khác. Theo Thám Huyền Ký, chữ Pháp có đến bốn nghĩa:
- chứa đựng, bao gồm
- tích chứa sâu sắc.
- sanh ra
- vô tận.
Do chứa đựng hết thảy pháp nên gọi là Pháp Tạng, như Gia Tường Sớ nói: ‘Do có thể tích lũy Phật pháp một cách sâu xa, nên gọi là Pháp Tạng’. Lại vì có thể mở bày pháp tạng của Phật nên gọi là Pháp Tạng.

Chánh kinh:
Tu Bồ Tát đạo, cao tài dũng triết, siêu dị hơn đời, tín, giải, nhớ dai đều là bậc nhất. Lại có hạnh nguyện và niệm huệ lực thù thắng để tăng thượng tâm mình kiên cố chẳng động, tu hành tinh tấn chẳng ai hơn nổi.

Giải:
Ðoạn kinh này khen ngợi nồng nhiệt đức hạnh tu hành của tỳ kheo Pháp Tạng sau khi xuất gia.
Câu ‘tu Bồ Tát đạo’ trích từ bản Ngô dịch, hàm ý: Pháp Tạng hướng thẳng đến Nhất Thừa, chẳng lạc trong Quyền, Tiểu. Bản Tống dịch ghi là ‘Ðại Thừa đệ nhất’. Như vậy, pháp của Bồ Tát tu chỉ là pháp Nhất Thừa Chơn Như viên mãn.

Cao tài dũng triết’: Tài là khả năng hay trí huệ, Triết là hiểu rõ. Gia Tường Sớ giảng: ‘Khen ngợi tài năng siêu quần nên bảo là Cao Tài. Tự thắng được mình, thắng được người nên khen là Dũng. Sáng suốt phá tan tà kiến nên bảo là Triết’.
Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘Tài là tài khéo, tài đức hơn người nên bảo là Cao Tài. Ý chí mạnh mẽ là Dũng. Tâm sáng suốt là Triết’. Như vậy, câu ‘cao tài dũng triết’ hàm ý: Bồ Tát Pháp Tạng tài cao hơn người, dũng mãnh tinh tấn, tâm rạng, trí sáng.
Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘siêu dị hơn đời’ như sau: ‘Riêng mình ngài đức hạnh vượt trỗi, nên bảo là siêu dị hơn đời’. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Thường nhân chẳng bằng nổi nên bảo là siêu dị hơn đời’.
Sách Hợp Tán lại bảo: ‘Nếu là ở bậc địa thượng phát tâm thì đời (Thế) có nghĩa là những người thuộc địa tiền’. Vì không dám đoan chắc lúc Bồ Tát Pháp Tạng phát tâm đã đạt đến địa vị nào nên sách Hợp Tán chỉ nói dè dặt rằng: ‘Nếu là ở bậc địa thượng phát tâm’ thì chữ Thế trong câu ‘siêu dị hơn đời’ (ư thế siêu dị) sẽ chỉ hết thảy những người chưa đạt đến Sơ Ðịa. Ðó là vì những người còn thuộc Ðịa Tiền được gọi chung là “thế gian”, chỉ bậc chứng Sơ Ðịa trở lên mới được gọi là “xuất thế gian”. Tôi trộm nghĩ tác giả sách Hợp Tán tin rằng ngài Pháp Tạng khi ấy đã là bậc địa thượng Bồ Tát phát tâm, nhưng chưa dám quả quyết đó thôi.
Với vấn nạn: ‘Khi phát tâm Bồ Tát Pháp Tạng đã ở địa vị nào?’, các nhà chú giải kinh nêu lên nhiều thuyết khác nhau. Ngài Tịnh Ảnh bảo: ‘Ở đây, ngài vừa mới phát tâm vô thượng nên còn thuộc địa tiền thế gian hạnh; đến đoạn sau có câu: ‘‘Ta phát tâm Vô Thượng Chánh Giác’’, [lúc ấy] ngài mới thuộc địa thượng xuất thế gian hạnh’.
Các vị: Nghĩa Tịch, Vọng Tây v.v... cũng nghĩ tương tự: Trong đoạn kinh này, khi Pháp Tạng phát tâm là còn thuộc địa tiền; đến phẩm thứ năm, khi phát tâm lần nữa, ngài mới là địa thượng Bồ Tát phát tâm.
Các vị Ðàm Loan, Gia Tường, Thiện Ðạo và tác giả sách Bình Giải đều bác thuyết ấy. Sách Bình Giải bác thuyết của ngài Tịnh Ảnh như sau: ‘Dẫu có nói phát tâm trước (đoạn kinh này), sau (phẩm thứ năm) nhưng chẳng có hai lượt phát tâm. Chỉ là một lần phát tâm mà thôi!’. Ý nói: Ðoạn này là đức Thích Ca thuyết pháp, thuật lại sự phát tâm của Bồ Tát Pháp Tạng; trong phẩm thứ năm ở phần sau, chính tỳ kheo Pháp Tạng tự thuật việc phát tâm của mình. Việc phát tâm thuật trong phần sau chỉ là nhắc lại việc phát tâm lần này. Tuy kinh có nói đến thứ tự phát tâm trước sau một cách sơ lược hay chi tiết sai khác, nhưng việc phát tâm của ngài Pháp Tạng chỉ là một, chẳng hề có đến hai lần! Ý kiến của sách Bình Giải rất xác đáng. Sách còn viết tiếp: ‘Ðại sĩ Long Thọ phán định là thuộc Sơ Ðịa hoặc là Bát Ðịa, cũng là từ quả hướng đến nhân, thật khác với ý các sư lắm!’ Viết như vậy là căn cứ vào Ðại Luận. Trong Ðại Luận, Ðại Sĩ Long
Thọ phán định Bồ Tát Pháp Tạng khi phát tâm đã ở bậc Sơ Ðịa hay là Bát Ðịa, nghĩa là đều thuộc bậc địa thượng mà phát tâm. Do đó, ý Ðại Luận thật khác xa thuyết của các sư! Thuyết của sách Bình Giải thật có chứng cứ đích xác. Phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa chép: ‘Từ khi ta (Phật Thích Ca) thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp’.
Kinh Pháp Hoa lại bảo đức Thích Ca cùng Phật Di Ðà trong vô lượng a tăng kỳ kiếp trước cùng làm vương tử của Ðại Thông Trí Thắng Như Lai. Như vậy, Di Ðà Như Lai cũng đã thành Phật từ rất lâu xa rồi, đúng là tỳ kheo Pháp Tạng chỉ từ quả hướng nhân mà thôi.
(134) T6


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tín, giải, nhớ dai đều là bậc nhất’: Tín là tin nhận (tín thọ). Quyển hai sách Ðại Thừa Nghĩa Chương chép: ‘Ðối với Tam Bảo tâm tịnh chẳng ngờ gọi là Tín’. Quyển sáu kinh Hoa Nghiêm (bản dịch đời Tấn) cũng bảo: ‘Tín là nguồn đạo của biển công đức... thị hiện khai phát vô thượng đạo’. ‘Giải’ là liễu giải, khai giải, hiểu thông suốt. Kinh Hoa Nghiêm lấy ‘tín giải hạnh chứng’ làm cương yếu là bởi có tín giải chơn thật thì mới có thể sanh khởi hạnh chứng chơn thật. ‘Nhớ dai’ (tạm dịch chữ “minh ký”) là ghi nhớ một cách phân minh, chẳng hề quên mất pháp đã nghe, nhớ rành mạch phân minh nên bảo là ‘minh ký’. Câu ‘đều là đệ nhất’ có hai nghĩa:
- Một là cao cùng tột vô thượng, không ai hơn được nổi.
- Hai là sự tín, giải, lãnh hội của ngài đều khế hợp Ðệ Nhất Nghĩa Ðế nên ‘đều là bậc nhất’.

Lại có hạnh nguyện và niệm huệ lực thù thắng để tăng thượng tâm mình kiên cố chẳng động’:
“Thù thắng” là thuật ngữ riêng của Phật giáo, Thù là đặc biệt, Thắng là siêu việt. Việc gì siêu phàm tuyệt tục, thế gian hy hữu thì bảo là ‘thù thắng’.
‘Hạnh nguyện’ là thân hạnh và tâm nguyện hỗ trợ nhau. Sách Bồ Ðề Tâm Luận giảng: ‘Cầu Bồ Ðề là phát Bồ Ðề tâm, tu Bồ Ðề tâm’. ‘Phát’ là tín nguyện, ‘tu’ là hạnh. Ba thứ tư lương: tín, nguyện, hạnh như ba chân của cái đỉnh, chẳng thể thiếu một. Phật Di Ðà hiệu là Ðại Nguyện Vương, pháp môn Tịnh Ðộ hoàn toàn nương vào biển nguyện Nhất Thừa của Phật Di Ðà, lấy tín nguyện trì danh làm tông, cho thấy chữ Nguyện thật đúng là cốt lõi của Tự Giác, Giác Tha vậy. Ðại nguyện sanh ra đại lực, nên đại nguyện và sức niệm huệ cùng làm tăng thượng duyên. Tịnh Ảnh Sớ nói: ‘Nguyện để khởi hạnh thì gọi là nguyện lực’. Sách Hội Sớ nói: ‘Nguyện lực là tứ hoằng thệ nguyện để thanh tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh vậy’. Nay Bồ Tát Pháp Tạng có đủ các nguyện lực thù thắng không chi bằng nổi, nên ngài được gọi là Ðại Nguyện Vương. Chữ ‘niệm huệ lực’ còn chỉ niệm lực và huệ lực. Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực và huệ lực gọi chung là ngũ lực. Trí Ðộ Luận nói: ‘Tăng trưởng ngũ căn khiến chúng chẳng bị phiền não phá hoại nên gọi là Lực’. Luận còn nói: ‘Thiên ma ngoại đạo chẳng thể ngăn trở, phá hoại nên gọi là Lực’.
Niệm lực tăng trưởng niệm căn, phá được các tà niệm. Huệ lực tăng trưởng huệ căn, phá các hoặc trong tam giới. Ðại sư Linh Phong (tổ Ngẫu Ích) còn bảo: ‘Niệm căn tăng trưởng thành tựu hết thảy chánh niệm xuất thế công đức nên gọi là niệm lực.
Huệ căn tăng trưởng ngăn che được hết thảy các Hoặc Chướng dù thông hay biệt, phát sanh chơn vô lậu, nên gọi là huệ lực’.
Kiến Tư Hoặc là thông hoặc vì cả ba thừa cùng phải đoạn trừ.
Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc là biệt hoặc, chỉ riêng Bồ Tát phải đoạn. Huệ quang dứt được hoặc, hiển phát vô lậu chơn trí nên gọi là Huệ Lực. Các lực như vậy đều thù thắng cả.
‘Tăng thượng’ là có thế lực mạnh mẽ, có thể khiến cho các pháp khác được tăng trưởng, phát triển thêm, nên gọi là ‘tăng thượng’. Cái được tăng thượng trong đoạn kinh này thật hết sức thù thắng, vì nó chẳng phải là pháp nào khác mà chính là ‘tâm mình’. ‘Tâm mình’ chính là tự tâm của đương nhân.
Kinh Kim Cang dạy: ‘Ðừng trụ vào đâu cả mà sanh tâm mình’. Cả hai kinh cùng nhắc đến ‘tâm mình’, đó chính là ‘nhất tâm’. Giống như khi mài kiếng, chất dơ hết thì gương hiện sáng; vô minh hoặc đã hết, tự tâm liền hiện sáng. Vì thế, kinh nói: ‘Tăng thượng tâm mình’.
‘Kiên cố chẳng động’: Tâm mình như kim cang phá được hết thảy, nhưng hết thảy chẳng phá được tâm, nên bảo là ‘kiên cố’. Tâm ấy như như, giống như kinh Kim Cang nói: ‘Như như bất động’ nên bảo là ‘chẳng động’. Cái tâm bất động ấy chẳng hề bị chìm đắm, vướng mắc trong không tịch mà tâm tâm khế hợp với Chơn Như, niệm niệm nhập trong Như Lai Giác Hải.

Tu hành tinh tấn không ai hơn được’:
“Tu hành” xưa vốn là tiếng thông dụng, chỉ từ đời Tấn trở đi, tu hành mới trở thành thuật ngữ Phật giáo chuyên biệt. Ðúng như lý mà hành Giới, Ðịnh, Huệ thì gọi là ‘tu hành’. Tu hành chính là hành pháp trong bốn pháp: Giáo, Lý, Hành, Quả. ‘Tinh tấn’ là siêng năng. Trong bản sớ giải kinh Quán Di Lặc Thượng Sanh, ngài Từ Ân (Khuy Cơ) giảng chữ ‘tinh tấn’ như sau: ‘Tinh là tinh thuần, không ác
tạp. Tấn là thăng tấn, chẳng biếng lười’. ‘Hơn’ (tạm dịch chữ “du”) nghĩa là: vượt hơn, hơn hẳn, vượt trội.
Hai câu này (tức là câu: ‘Tu hành tinh tấn, không ai hơn nổi’) dùng để tổng kết đoạn kinh văn trên. Chữ ‘tu hành’ chỉ chung các diệu hạnh đã thuật trong các đoạn trên. Với các hạnh như vậy đều siêng năng tấn tới, nên bảo là ‘tu hành tinh tấn’. Ðức hạnh của tỳ kheo Pháp Tạng không ai bằng được nổi nên bảo là ‘không ai hơn nổi’.

Chánh kinh:
Ði đến chỗ Phật, đảnh lễ, quỳ dài, hướng về Phật chắp tay, liền dùng già-tha khen Phật, phát nguyện rộng lớn, tụng rằng:

Giải:
‘Ðảnh lễ’: tiếng Phạn là Na Mộ, Tàu dịch là Quy Mạng, Khể Thủ, Ðảnh Lễ, hoặc chỉ dịch là Lễ, thường nói: ‘Ðảnh lễ Phật túc’ (đảnh lễ dưới chân Phật). Chỗ quý nhất trong thân ta là đảnh đầu, chỗ thấp hèn nhất là bàn chân. Dùng cái tôn quý nhất của ta để cung kính cái thấp hèn nhất của người để biểu lộ lòng cung kính đến cùng cực.
‘Già-tha’ (gatha): xưa dịch là Kệ, nay dịch là Tụng. Tụng có nghĩa là khen ngợi, ca tụng. Dùng đến kệ tụng vì hai lý do:
a). Lời kệ ít chữ nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa, dễ hiểu, dễ nhớ.
b). Âm điệu bài kệ du dương nên thường được dùng để tán vịnh.
Tỳ kheo Pháp Tạng đến trước đức Phật, lễ Phật, khen ngợi, lại còn phát ra lời nguyện rộng lớn (như sẽ thuật đủ trong phần kinh văn kế tiếp). Hết thảy chúng sanh trong hiện tại và tương lai đều nương theo Nhất Thừa nguyện hải ấy mà được độ thoát cả.
(136) T6


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm
Hết thảy thế gian không ai sánh
Quang minh vô lượng chiếu thập phương
Nhật, nguyệt, hỏa, châu đều ẩn sáng
Thế Tôn hay diễn một âm thanh
Hữu tình tùy loại đều hiểu được
Lại hiện ra một diệu sắc thân
Khiến khắp chúng sanh tùy loại thấy


Giải:
Bài tụng này trong bản Hán dịch mỗi câu chỉ có năm chữ, bản Ngụy dịch mỗi câu bốn chữ, hai bản Ðường dịch và Tống dịch mỗi câu có bảy chữ (bản Ngô dịch thiếu hẳn bài kệ này). So ra, câu văn và ý nghĩa bài kệ trong hai bản Ðường dịch và Tống dịch hay hơn cả, nên hội bản cũng dùng bài kệ bảy chữ.

"Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm" Trong bài tụng trên, đoạn đầu tán thán Phật đức. ‘Vi’ là nhỏ nhiệm, tinh diệu; ‘diệu’ là tốt đẹp, tinh túy. Ðây là tiếng dùng để khen ngợi, ngụ ý: đủ các sự chẳng thể nghĩ bàn, không gì so sánh nổi. Báo độ, báo thân, sắc tướng của đức Phật chẳng thể nghĩ bàn nổi, nên khen là ‘diệu sắc’.
‘Vi diệu’ là tinh diệu đến cùng cực. ‘Sắc đoan nghiêm’ là sắc tướng đoan chánh, trang nghiêm. Phẩm Tự của kinh Pháp Hoa có câu: ‘Sắc thân như hòn núi bằng vàng, đoan nghiêm thật vi diệu’.
‘Nặc’ (ẩn giấu) là giấu kín, ẩn đi, mất đi.
‘Diệu’ (trong lời kệ tạm dịch là “sáng” do số chữ hạn chế) có nghĩa là chiếu sáng. Nghĩa của bốn câu đầu bài tụng như sau: Sắc tướng Như Lai vi diệu, đoan chánh, trang nghiêm khó nghĩ lường nổi. Hết thảy tất cả các vật trong thế gian, không vật nào sánh nổi sắc tướng của Như Lai. Ý nghĩa hai câu này cũng giống như lời kệ tán Phật: ‘Thập phương sở hữu ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả’ (Con đã thấy hết tất cả hết thảy các vật trong mười phương. trong hết thảy các vật, không có vật nào sánh bằng được Phật).
Phật phóng ra vô lượng quang minh chiếu khắp các cõi nước trong mười phương. Ánh sáng rực rỡ của mặt trời, mặt trăng, lửa, châu trong các cõi ấy đều bị quang minh của Phật che lấp mất chẳng thấy được nữa. Chữ ‘hỏa’ ở đây chỉ chung hết thảy đèn, đuốc và hết thảy các thứ ánh lửa sáng. ‘Châu’ là ma ni, còn phiên là Mạt Ni, nói đầy đủ là chấn đá mạt ni (cintamani), dịch nghĩa là châu, bảo, ly cấu, như ý. Nếu dịch gộp chung các ý trên thì dịch là ‘như ý bảo châu’. Ma ni tỏa quang minh lớn, hơn hẳn các thứ trong đời. Sách Hội Sớ nói: ‘Vật sáng nhất trong thiên hạ không gì hơn mặt trời, mặt trăng. Vật sáng nhất trong muôn vật không gì hơn nổi ma ni. Nhưng Phật quang vừa tỏa, ánh sáng của chúng đều bị che lấp hết’.

Bốn câu tụng kế đó đều trích nguyên văn từ bản Ðường dịch.
Bốn câu này xưng tán Thế Gian Tự Tại Vương Phật viên minh cụ đức, sự sự vô ngại (1), diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn. Nghĩa của bốn câu ấy như sau: Thế Tôn diễn thuyết diệu pháp, trong một âm thanh có thể khiến cho các loài chúng sanh trong khắp cả cửu giới, lục đạo, tứ sanh đều tùy theo căn tánh của từng loài cùng nghe được, hiểu được lời Phật dạy. Ngôn ngữ trong thế gian thường bị trở ngại vì phương ngôn khác nhau, cũng như do người nghe, kẻ nói không cùng một trình độ, nên không hiểu được nhau. Ðức Thế Tôn diệu dụng vô cùng, Ngài khiến cho khắp tất cả các loài chúng sanh loài nào cũng hiểu được tiếng nói của ngài. Tiếng nói của Phật càng chẳng thể nghĩ bàn hơn nữa, vì trong một âm thanh đã đầy đủ trọn vẹn vô biên diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn như thế.

Thế Tôn hay diễn một âm thanh
Hữu tình tùy loại đều hiểu được

Hai câu kệ này thật đã hiển thị cảnh giới sự sự vô ngại siêu tình ly kiến của kinh Hoa Nghiêm. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm có câu: ‘Lời nói của hết thảy Như Lai thanh tịnh, mỗi một tiếng có đủ các biển âm thanh.
Theo ý thích của từng chúng sanh, mỗi một tiếng phát xuất biển biện tài của Phật’. Quả thật, bài kệ trên có cùng một ý chỉ với hai câu kệ trong kinh này: ‘Thế Tôn hay diễn một âm thanh, hữu tình tùy loại đều hiểu được’. Mỗi một âm thanh có vô lượng âm thanh, mỗi một âm trong vô lượng âm thanh ấy lại có vô biên diệu dụng, tùy theo ý thích của từng chúng sanh mà mỗi một âm thanh xuất
hiện vô biên biện tài khiến cho mỗi chúng sanh đều được nghe hiểu, được độ thoát. Ðây chính là môn ‘chủ bạn viên minh cụ đức’ trong mười huyền môn: Một pháp viên mãn công đức của hết thảy pháp nên bảo là ‘viên minh cụ đức’. Trong một âm vang ra vô lượng âm, nói trọn vẹn hết thảy pháp, phổ độ vô biên chúng sanh, đấy chính là ‘viên minh cụ đức’. Hiển nhiên, kinh này và kinh Hoa Nghiêm có cùng một pháp vị.

Hai câu kệ trên đã diễn tả ngữ mật của Như Lai. Hai câu kệ kế tiếp:
‘Lại hiện ra một diệu sắc thân,
khiến khắp chúng sanh tùy loại thấy’
diễn tả thân mật của đức Như Lai. Phật có thể hiện ra một sắc thân vi diệu khiến cho khắp các loài chúng sanh tùy theo phẩm loại của chúng đều được thấy Phật. Xét ra, Phật thân có đến năm loại: Pháp Thân, báo thân, ứng thân, hóa thân, đẳng lưu thân.

a). Pháp Thân: tức là Tự Tánh Thân, mang tên Tỳ Lô Giá Na, dịch là Biến Nhất Thiết Xứ. Thân này là lý thể của Trung Ðạo, lìa khỏi hết thảy tướng và các hý luận, đầy đủ vô biên công đức thanh tịnh, chơn thật. Ðây là cảnh giới chỉ có Phật với Phật mới chứng nhập được.
b). Báo thân: Thân này của đức Như Lai mang tên Lô Xá Na, dịch là Quang Minh Biến Chiếu, phải là bậc Bồ Tát từ Sơ Ðịa trở lên mới thấy nổi.
c). Ứng thân: Chẳng hạn như đức Thích Ca Văn. Ứng thân [nói chung] chỉ thân Phật dùng để hiện tám tướng thành đạo. Ðịa tiền Bồ Tát, Nhị Thừa, phàm phu đều thấy được thân này.
d). Hóa thân: Thân Phật hóa hiện trong một giai đoạn nào đó thì gọi là Hóa Thân.
e). Ðẳng lưu thân: Là một trong bốn thân do Mật giáo lập ra. Ðẳng Lưu Thân là thân do Phật thị hiện có cùng hình dạng như các loài trời, người, quỷ, súc sanh v.v... cho các dị loại đều được thấy.

Câu kệ trong bài tụng trên có nghĩa là: từ một thân Phật hiện ra vô lượng các thân, khiến cho mọi loài chúng sanh mỗi loài đều được trông thấy. Câu này cũng hiển thị cảnh giới viên minh cụ đức chẳng thể nghĩ bàn vậy.
Phần kệ tụng trên đây là lời khen ngợi Phật, phần tiếp theo là phát nguyện. Tỳ kheo Pháp Tạng sau khi tán thán công đức của Phật xong, liền phát khởi thệ nguyện rộng lớn: nguyện tự làm Phật, nguyện nhiếp trì Phật độ, lợi khắp chúng sanh chóng thành Chánh Giác.
Phải phát đại nguyện vì đó là việc trọng yếu nhất. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có chép: ‘Giả sử mười phương hết thảy chư Phật liên tục diễn nói công đức của Như Lai trong số kiếp nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật cũng chẳng thể nói hết nổi. Nếu muốn thành tựu môn công đức ấy phải tu mười thứ hạnh nguyện rộng lớn’. Vì vậy, Tịnh tông dùng ba thứ tín, hạnh, nguyện làm tư lương.
Linh Phong đại sư dạy: ‘Không có tín chẳng đủ để phát khởi nguyện, không có nguyện chẳng đủ dẫn dắt hạnh’. Pháp sư Tỉnh Am đời Thanh cũng nói: ‘Tu hành thì việc cần kíp trước tiên là lập nguyện. Nguyện đã lập mới độ nổi chúng sanh, tâm đã phát mới kham thành được Phật đạo’. Ngài còn dạy: ‘Vì vậy, cần biết là nếu muốn học Như Lai thừa thì trước hết phải phát đủ Bồ Tát nguyện, chẳng được chần chừ’.
Ðoạn kệ tụng tiếp sau đây là lời Pháp Tạng nguyện cầu đức tự giác, giác tha. Muốn giác tha thì trước hết mình phải tự giác đã. Cầu tự giác chính là để giác tha.
(139) T6


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Nguyện con được tiếng Phật thanh tịnh
Pháp âm phổ cập vô biên giới
Tuyên dương Giới, Ðịnh, Tinh Tấn môn
Thông đạt thậm thâm vi diệu pháp
Trí huệ rộng lớn sâu như biển
Nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao
Vượt khỏi vô biên ác thú môn
Mau đến bờ Bồ Ðề rốt ráo
Vô minh, tham, sân vĩnh viễn dứt
Hoặc tận, lỗi mất, tam muội lực


Giải:
Hai câu đầu là tỳ kheo Pháp Tạng nguyện được đầy đủ hạnh đức lợi tha như Phật: nguyện được tiếng thanh tịnh của Như Lai. ‘Thanh tịnh’ là không có lầm lỗi ác hạnh, lìa phiền não cấu nhiễm thì gọi là ‘thanh tịnh’. Nguyện tôi được như Phật có thể phát ra những pháp âm không lầm lỗi, không cấu nhiễm, phổ cập vô biên các giới.
Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ ‘giới’ như sau: ‘Chia riêng biệt ra gọi là Giới. Tánh các pháp riêng biệt nên gọi là Giới’. Như vậy, Giới có nghĩa là “sai biệt”. Mỗi thứ sự vật tự duy trì tướng của nó, tướng sai biệt nhưng chẳng
hỗn độn thì là Giới, chẳng hạn như ta thường nói: ‘Các giới nhân sĩ’. Do chữ Giới có nhiều nghĩa như vậy nên câu ‘phổ cập vô biên giới’ có nghĩa là phổ biến khắp hết thảy.

Câu kệ thứ ba: ‘Tuyên dương Giới, Ðịnh, Tinh Tấn môn’ trích từ bản Tống dịch. Câu kệ này trong bản Ðường dịch được ghi là: ‘Diễn thuyết các pháp môn: Thí, Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Ðịnh và Huệ’. Bản Ðường dịch nói rõ lục độ: Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Thiền Ðịnh, Bát Nhã. Bản Hán dịch cũng chép như vậy, bản Tống dịch ghi giản dị hơn là ba độ: Giới, Ðịnh, Tinh Tấn. Ba độ này là cốt lõi cùng bao hàm cả ba thứ kia.

Câu kế tiếp: ‘Thông đạt thậm thâm vi diệu pháp’ nói đến pháp thậm thâm vô thượng được mười phương chư Phật khen ngợi, đó là Trì Danh Niệm Phật. Tỳ kheo Pháp Tạng nguyện đạt được pháp âm như Phật, rộng tuyên các diệu hạnh như lục độ... là muốn cho chúng sanh thông đạt pháp thậm thâm vi diệu sau đây: ‘Tâm này là Phật, tâm này làm Phật’, hiểu rõ bổn tâm của chính mình,
thấu hiểu bổn tánh của mình, đều sẽ thành Phật độ sanh cả.

Bốn câu đầu của phần kệ tụng này là lời mong cầu Giác Tha Ðức, sáu câu tiếp theo là ý mong cầu Tự Giác Ðức. Trước hết cầu pháp âm được tuyên lưu, sau cầu trí huệ rộng như biển, đạt thẳng đến bờ kia rốt ráo.
Trí huệ’ là Bát Nhã, Trí Ðộ Luận nói: ‘Bát Nhã: Hán dịch là Trí Huệ. Trong hết thảy các thứ trí huệ, Bát Nhã là bậc nhất, vô thượng, không gì sánh, không chi bằng, không có gì hơn được nổi’.
Sách Vãng Sanh Luận Chú cũng viết: ‘Bát Nhã là tên gọi của cái trí huệ đã đạt Như’, nghĩa là: Trí huệ thông đạt được Chơn Như gọi là Bát Nhã. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương lại giảng: ‘Thể của Chơn Như sáng tỏ, tự tánh chẳng tối tăm, nên gọi là Huệ’, nghĩa là: Bổn thể của Chơn Như sáng tỏ, tự tánh rạng ngời, sáng suốt không chút tối tăm, nên ta gọi đó là Huệ. Trong phần phát nguyện được tự giác của kệ tụng, trước tiên, nói ngay đến Trí Huệ vì Trí Huệ là tối thượng. Hơn nữa, chỉ dùng trí mới vượt nổi biển cả Phật pháp, như bản Hán dịch chép: ‘Ðàn thí, điều phục ý. Giới, nhẫn và tinh tấn. Tam muội định như thế, trí huệ là tối thượng’. Ngài Gia Tường giảng: ‘Thấu hiểu năm độ mới là hạnh, chưa thể thoát khỏi sanh tử; cần phải do trí huệ thấu đạt cội nguồn mới có thể giải thoát. Do đó, trí huệ là tối thượng’. Theo như câu văn trong Ðại Thừa Nghĩa Chương vừa trích dẫn ở trên, ta thấy rằng Trí Huệ chính là bổn thể của chơn tâm sáng tỏ, tự tánh không tối tăm. Vì vậy, ngay khi Trí Huệ đã sâu rộng như biển thì nội tâm ắt cũng phải thanh tịnh, không ác, không lỗi, ly cấu, ly nhiễm, dứt sạch các trần lao nên mới bảo: ‘Nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao’ như Tâm kinh đã dạy: ‘Lúc thực hành Bát Nhã ba la mật một cách sâu sa, soi thấy năm uẩn đều là không, vượt khỏi hết thảy khổ ách’.
‘Tuyệt’ có nghĩa là dứt, diệt, hoàn toàn không còn nữa. ‘Trần lao’ là phiền não. Do các phiền não: tham, sân, si… như bụi bặm (trần cấu) che lấp chơn tánh khiến thân tâm nhọc mệt, não loạn, nên ta gọi phiền não là ‘trần lao’.
Do trí huệ sâu rộng, thanh tịnh tuyệt trần như vậy, nên có thể vượt khỏi vô biên vô số các nẻo ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh, chẳng đọa trong ba đường ác, nên nói: ‘Vượt khỏi vô biên ác thú môn’ và nhanh chóng đạt đến bờ kia Bồ Ðề rốt ráo. Bồ Ðề là Giác. ‘Bờ kia Bồ Ðề rốt ráo’ chính là Cứu Cánh Giác. Sách Tam Tạng Pháp Số giảng: ‘Cứu Cánh nghĩa là quyết định, chung cực, nghĩa là: hiểu rõ ràng nguồn gốc của cái tâm cấu nhiễm đến mức cùng tột, rốt ráo thì tâm ấy chính là Bổn Giác, nên ta gọi đó là Cứu Cánh Giác’. Ðấy chính là sự giác ngộ đến cùng tột, trọn vẹn nhất của bậc Bồ Tát đại hạnh viên mãn, tức là đã thành Phật vậy. Vì muốn thoát khỏi sanh tử, trước hết tỳ kheo Pháp Tạng cầu trí huệ. Do trí huệ chiếu soi, nội tâm thanh tịnh sạch hết trần lao, ngay khi ấy, đóng lấp các nẻo ác, nhanh chóng chứng được quả giác cứu cánh. Do đó, ngài bảo: ‘Mau đến bờ Bồ Ðề rốt ráo’. Chữ ‘bờ’ ở đây là ‘bờ kia’ (bỉ ngạn). Sanh tử là bờ bên này (thử ngạn), Niết Bàn là bờ bên kia. ‘Bờ cứu cánh’ là địa vị Niết Bàn cứu cánh.
‘Vô minh’ là tên khác của Si. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương viết: ‘Thể của cái tâm bị si ám là vì không có trí huệ sáng suốt, nên gọi là vô minh’. Vô minh, tham, và sân là tam độc. Do trí huệ đạt đến bờ kia, lại do sức tam muội nên vĩnh viễn không còn tam độc, tam hoặc (kiến tư, trần sa và vô minh) đều hết sạch, bao lỗi lầm đều chẳng còn.
‘Tam muội’ còn gọi là Chánh Ðịnh, Chánh Thọ, Ðẳng Trì. Sách Thám Huyền Ký, quyển ba giảng: ‘Tam Muội, Tàu dịch là Ðẳng Trì. Vì chẳng chìm nổi, vì trí huệ bình đẳng nên gọi là Ðẳng. Do tâm chẳng tán loạn, trụ vào một cảnh nên gọi là
Trì’. Trong các tam muội chỉ có Niệm Phật tam muội là cao quý nhất như vị vua, quý nhất như của báu, nên kinh Ðại Tập gọi Niệm Phật tam muội là Bảo Vương tam muội. ‘Tam muội’ được nói trong bài kệ tụng ở đây chính là Niệm Phật tam muội. Sau chữ ‘tam muội’ lại thêm chữ ‘lực’ để biểu thị các đức lớn lao như trên đều xuất phát từ sức Niệm Phật tam muội nên nói: ‘Vô minh, tham, sân vĩnh viễn dứt. Hoặc tận, lỗi mất, tam muội lực’.
Sáu câu phát nguyện này lấy trí huệ để mở đầu, lấy Bảo Vương tam muội và Giới, Ðịnh, Huệ v.v… để kết thúc, thật là ý chỉ sâu xa vậy.
(141) T6


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Cũng như vô lượng Phật quá khứ
Làm đại đạo sư cho quần sanh
Cứu độ hết thảy các thế gian:
Sanh, lão, bịnh, tử... các khổ não
Thường hành Bố Thí và Giới, Nhẫn,
Tinh Tấn, Ðịnh, Huệ, sáu ba la
Hữu tình chưa độ khiến được độ
Kẻ đã được độ khiến thành Phật
Giả sử cúng dường hằng sa thánh
Chẳng bằng kiên dũng cầu Chánh Giác.


Giải:
Ðoạn kệ phát nguyện trên đây diễn tả ý mong cầu đức Giác Tha của Phật.
Ý của bốn câu đầu là tỳ kheo Pháp Tạng nguyện được như hết thảy vô lượng chư Phật trong quá khứ: làm đại đạo sư cho hết thảy hữu tình, dẫn dắt chúng sanh lìa khổ được vui, từ mê được ngộ, thoát biển sanh tử, nhập Phật tri kiến, lại dùng các thứ phương tiện khiến hết thảy chúng sanh được sức vô úy. Vì thế, ngài nói: ‘Cứu độ hết thảy các thế gian, sanh, lão, bịnh, tử... các khổ não’. Nói một cách thô thiển, Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới là ‘các thế gian’. Tam giới chẳng an ví như nhà lửa, đều thuộc trong biển sanh tử nên nguyện cứu độ. Nói ở mức độ cao hơn, ngay cả những vị ở bậc Ðịa Tiền vẫn còn thuộc thế gian, vô minh chưa dứt, nên cũng cần phải độ thoát họ.

Bốn câu từ chữ ‘thường hành Bố Thí’ trở đi nói đến bổn nguyện đại bi vô tận của Pháp Tạng Bồ Tát:nguyện thường hành Lục Ðộ phổ độ chúng sanh. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: ‘Chư Phật Như Lai lấy đại bi làm thể, nên đối với chúng sanh khởi đại bi. Do đại bi nên sanh Bồ Ðề tâm. Do Bồ Ðề tâm thành Ðẳng Chánh Giác. Ví như trong chốn sa mạc có đại thọ vương, nếu rễ của nó hút được nước thì cành, lá, hoa, quả thảy đều sum xuê. Cây thọ vương Bồ Ðề trong chốn sa mạc sanh tử cũng giống như vậy: hết thảy chúng sanh là rễ cây, chư Phật, Bồ Tát là hoa quả. Lấy nước đại bi làm lợi chúng sanh thì thành tựu được hoa quả trí huệ của chư Phật, Bồ Tát’. Kinh Ðại Nhật cũng dạy: ‘Ðại bi làm rễ’. Ở đây, ngài Pháp Tạng cũng thế: Do đại bi nên rộng hành Lục Ðộ, phổ độ quần sanh.

Sáu ba la’ tức là Lục Ðộ, là chánh nhân để chứng Niết Bàn. Nguyện hành Lục Ðộ chính là: ‘Pháp môn vô biên thệ nguyện học’ và ‘Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành’. Hơn nữa, Bố Thí trị được keo tham, Trì Giới trị phá giới, Nhẫn Nhục trị nóng giận, Tinh Tấn trị biếng trễ, Thiền Ðịnh trị tán loạn, Trí Huệ trị ngu si. Thường hành Lục Ðộ thì chính là ‘phiền não vô biên thệ nguyện đoạn’. Tự giác, giác tha là dùng sự giác ngộ của chính mình để giác ngộ khắp các chúng sanh, dùng hạnh của chính mình để dẫn dắt chúng sanh, đem đức của chính mình hồi hướng đến chúng sanh. Ðấy chính là ‘chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’. Do vậy, trong kệ tụng có câu: ‘Hữu tình chưa độ khiến được độ, kẻ đã được độ khiến thành Phật’. Cứu vớt, gánh vác cho họ đều đạt tới bỉ ngạn. Bốn câu kệ này đã chứa trọn ý nghĩa tứ hoằng thệ nguyện.

Trong hai câu ‘Giả sử cúng dường hằng sa Phật, chẳng bằng kiên dũng cầu Chánh Giác’, chữ ‘hằng sa’ chỉ cát trong con sông Hằng của Ấn Ðộ. Do sông Hằng lắm cát, đại chúng ai cũng thấy rõ như vậy, nên Phật thường dùng cát sông Hằng làm thí dụ. Ý nghĩa của hai câu kệ trên là: Giả sử cúng dường chư Phật nhiều như số cát của sông Hằng ‘chẳng bằng cầu Chánh Giác một cách kiên cố, dũng mãnh chẳng khiếp nhược’. Ðoạn kinh này giống hệt như ý nghĩa của đoạn kinh sau đây trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm:

‘Này thiện nam tử! Trong các loại cúng dường, pháp cúng dường là bậc nhất. Pháp cúng dường là: cúng dường bằng cách tu hành đúng như lời dạy, cúng dường bằng cách lợi ích chúng sanh, cúng dường bằng cách nhiếp thọ chúng sanh, cúng dường bằng cách chịu khổ thay cho chúng sanh, cúng dường bằng cách siêng tu các căn lành, cúng dường bằng cách chẳng bỏ Bồ Tát nghiệp, cúng dường bằng cách chẳng rời Bồ Ðề tâm. Này thiện nam tử! Công đức của vô lượng các thứ cúng dường trước đó (ý nói cúng dường bằng tài vật) đem so với công đức của pháp cúng dường dẫu trong một niệm thì chẳng bằng được một phần trăm, một phần ngàn [cho đến] cũng chẳng bằng nổi một phần trăm ngàn câu chi na do tha, ca la phần, toán phần, số phần, dụ phần, ưu bà ni sa đà phần. Vì sao vậy? Vì các đức Như Lai tôn trọng pháp, do tu hành đúng như lời dạy sẽ sanh ra chư Phật. Nếu các Bồ Tát thực hành pháp cúng dường thì chính là thành tựu việc cúng dường Như Lai. Tu hành như thế mới là cúng dường chơn chánh’. Vì ‘kiên cố, dũng mãnh cầu Chánh Giác’ chính là pháp cúng dường, là cúng dường chơn chánh, là bậc nhất trong các cách cúng dường, nên cầu Chánh Giác vượt xa cúng dường hằng sa chư thánh bằng các tài vật khác.

Trong đoạn kinh Hoa Nghiêm trên đây, ‘câu chi’ là một ngàn vạn, ‘na do tha’ là vạn vạn, những con số nói kế tiếp đó càng lớn hơn nữa. Dẫu đem cả đại địa nghiền nát thành vi trần thì con số ‘ưu bà ni sa đà’ vẫn còn lớn hơn số vi trần ấy nữa. Công đức của pháp cúng dường ví như số vi trần trong toàn bộ quả địa cầu, còn công đức của tài cúng dường chưa bằng một hạt bụi nhỏ, làm sao sánh nổi với tất cả số vi trần của địa cầu. Ðấy chính là lời khen chi tiết về công đức chẳng thể nghĩ bàn của pháp cúng dường vậy.
Câu kệ ‘chẳng bằng kiên dũng cầu Chánh Giác’ chỉ rõ công đức ‘kiên cố, dũng mãnh cầu Chánh Giác’ của Bồ Tát Pháp Tạng vượt xa công đức cúng dường hằng sa chư thánh.
****
(143) T6


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Nguyện sẽ an trụ tam ma địa
Luôn phóng quang minh chiếu hết thảy
Cảm được chốn thanh tịnh, rộng lớn
Trang nghiêm thù thắng không chi sánh
Các chúng sanh luân hồi các nẻo
Chóng sanh cõi tôi hưởng an lạc
Thường vận từ tâm cứu hữu tình
Ðộ hết vô biên chúng sanh khổ

Giải:
Tám câu trên đây chính là lời nguyện cầu thành Phật, nhiếp thủ Tịnh Ðộ. Tám câu này thật đúng là chỗ quy kết của toàn bộ các nguyện trên, cũng chính là cốt lõi của bốn mươi tám nguyện sẽ được thuật trong phần sau của chánh kinh.
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: ‘Nếu các Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi ích chúng sanh thì có thể thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì vậy, Bồ Ðề thuộc về chúng sanh’. Ðể làm phương tiện rốt ráo hầu thành tựu sự nghiệp độ sanh nên ngài phát đại nguyện nhiếp thủ cõi Tịnh Ðộ.

Trong hai câu: ‘Nguyện sẽ an trụ tam ma địa, luôn phóng quang minh chiếu hết thảy’, ‘tam ma địa’ chính là tam muội hay chánh định. Nguyện an trụ trong Chánh Ðịnh, thường phóng quang minh chiếu trọn hết thảy. Nói cách khác, câu trên là nói về Tịch, về Thể; câu dưới nói về Chiếu, về Dụng. Hai câu kệ ngụ ý diệu đức: định huệ đẳng trì, tịch chiếu đồng thời, thể dụng bất nhị.
Phóng quang là tu đức, thể của nó là tánh đức: tịch mà thường chiếu, chiếu nhưng luôn tịch. Cõi nước là Thường Tịch Quang, thân là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang Như Lai, cho nên an trụ tịch định, luôn phóng quang minh chiếu khắp hết thảy. Do vậy, cảm được cõi Phật rộng lớn, thanh tịnh.

Chữ ‘cư’ (tạm dịch là “chốn”) trong câu ‘cảm được chốn thanh tịnh, rộng lớn’ chỉ quốc độ. Chữ ‘rộng lớn’ chỉ cõi nước ‘rộng rãi, bằng phẳng, chẳng có hạn lượng’ được nói trong kinh. ‘Thanh tịnh’ là ‘thanh tịnh trang nghiêm, vượt trội mười phương’. Do vậy, bảo là ‘quảng đại thanh tịnh cư’ (chốn thanh tịnh rộng lớn).
Luận Vãng Sanh bảo ba thứ trang nghiêm vào trong một pháp cú mà một pháp cú là thanh tịnh cú.
Thanh tịnh cú là chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân. Vô vi Pháp Thân là thể, từ thể hiện ra y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc, nên nói: ‘Cảm được chốn thanh tịnh, rộng lớn, trang nghiêm thù thắng không chi sánh’. ‘Không chi sánh’ (vô đẳng luân) nghĩa là không gì bằng được nổi, không gì so sánh nổi. Bản Ngụy dịch lại chép rằng: ‘Ðạo tràng siêu tuyệt’. ‘Siêu tuyệt’ là thù thắng, ý nghĩa cũng tương tự.
Gia Tường Sớ ghi: ‘Tu đạo nhanh chóng thành Phật nên bảo là siêu tuyệt’. Một lời của đại sư Gia Tường đã mở toang chỗ thù thắng siêu việt của Tịnh tông: nhanh chóng thành Phật, phàm phu vãng sanh chứng ngay bất thoái; có bất thoái mới mau chóng thành Phật nổi. Do phương tiện thù thắng nên phổ nguyện: ‘Các chúng sanh luân hồi các nẻo, mau sanh cõi tôi hưởng an lạc’. Sự an lạc ấy mới là an lạc chơn thật. Nhanh chóng thoát khỏi sanh tử, chóng thành Chánh Giác nên bảo là “an lạc”.
Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ lại dạy: ‘Vì các hữu tình tuyên thuyết pháp thậm thâm vi diệu để họ được lợi ích an vui thù thắng’. Kinh còn chép: ‘Chẳng có hết thảy khổ não nơi thân tâm, chỉ có vô lượng hỷ lạc thanh tịnh. Vì vậy, gọi là Cực Lạc thế giới’. Do những điều trên, kệ nói: ‘Hưởng an lạc’ vậy. Những điều vừa trình bày trên chính là ý nghĩa thật sự của câu kinh: ‘Ban cho cái lợi chơn thật’.

‘Thường vận từ tâm cứu hữu tình, độ tận vô biên chúng sanh khổ’: Từ là ban vui, Bi là dẹp khổ. Hai câu trên thể hiện hoằng thệ đại từ đại bi của ngài Pháp Tạng: nguyện thường vì hết thảy chúng sanh dẹp khổ, ban vui đến tột cùng đời vị lai; cứu vớt, gánh vác độ hết sạch chúng sanh xong mới thành Chánh Giác.
‘Thường’ là nói về thời gian. Quá khứ, vị lai, hiện tại được gọi là ‘tam tế’ (“Tế” là bờ mé, giai đoạn). Thường là tính theo chiều dọc, tột cùng cả tam tế, bao quát hết thảy thời gian quá khứ, hiện tại lẫn vị lai.
‘Vô biên’ là nói về không gian, trọn khắp cả mười phương hư không, tức là theo chiều ngang bao trọn hết thảy mười phương, bao quát hết thảy không gian nên vô biên, mười phương tam thế vô lượng vô biên.
Pháp Tạng Bồ Tát trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, đại từ đại bi độ thoát chúng sanh mãi cho đến khi độ xong tất cả mới ngưng nghỉ, nhưng thời gian vô cùng tận, không gian vô cùng tận, chúng sanh cũng vô cùng tận, nên đại từ, đại bi, đại nguyện, đại hạnh cũng vô cùng tận.
(144) T6


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.31 khách