Re: Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
Đã gửi: 15/08/18 16:36
Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(16/8/2018) (213) T8
Trong câu ‘một, hai, hay ba thứ nhẫn’, chữ Nhẫn có nghĩa là chịu đựng. Bản Ngụy dịch ghi như sau: ‘Ðệ nhất, đệ nhị, đệ tam pháp nhẫn’.
‘Pháp nhẫn’: pháp là lý đã chứng đắc, tâm an trụ nơi pháp là Nhẫn. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 9 giảng: ‘Huệ tâm an pháp thì gọi là nhẫn’.
Với những thứ ‘pháp nhẫn’ vừa được nêu trên, các nhà chú giải kinh nêu nhiều thuyết sâu hoặc cạn khác nhau. Xin nêu một thí dụ: Kinh Nhân Vương bảo có năm thứ nhẫn: Phục Nhẫn, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, Vô Sanh Pháp Nhẫn, và Tịch Diệt Nhẫn.
Sách Nhân Vương Tư Ký lại giảng: ‘Sơ địa, nhị địa, tam địa chứng đắc vô lậu tín thì gọi là Tín nhẫn. Tứ địa, ngũ địa, lục địa hướng đến vô sanh nên gọi là Thuận nhẫn. Thất địa, bát địa, cửu địa chẳng sanh các niệm nên gọi là Vô Sanh nhẫn.
Thập địa, Diệu Giác đắc quả Bồ Ðề nên gọi là Tịch Diệt nhẫn’.
Trong các nhà chú giải kinh thời cổ, có vị cho rằng ba thứ nhẫn được nói đến trong kinh Vô Lượng Thọ đây là Phục Nhẫn, Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn; thậm chí có vị cho rằng ba mức thượng, trung, hạ của loại nhẫn đầu tiên (Phục nhẫn) chính là ba thứ nhẫn được kinh này nhắc đến. Hiểu như vậy nghĩa là chẳng thừa nhận việc Bồ Tát nơi phương khác nghe danh hiệu Phật liền ngay lập tức chứng đắc một thứ nhẫn, hai thứ nhẫn, cho cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Nếu dựa theo kinh văn, quả thật ‘trong ba thứ nhẫn ấy ắt phải có Vô Sanh Pháp Nhẫn’ là điều chẳng thể còn nghi ngờ chi nữa.
Nguyện thứ ba mươi bốn trong bản Ngụy dịch được ghi như sau: ‘Nếu tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong mười phương vô lượng chẳng thể nghĩ bàn các thế giới Phật nghe danh hiệu tôi mà chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát, các tổng trì sâu xa, thì chẳng lấy Chánh Giác’. Bản Tống dịch cũng ghi: ‘Nghe danh hiệu tôi thì ngay lập tức đắc sơ nhẫn, nhị nhẫn cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu a nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề’. Rõ ràng, pháp nhẫn thứ ba được nói trong lời nguyện này phải là Vô Sanh Pháp Nhẫn!
Hơn nữa, những câu trong sách Luận Chú như: ‘Hễ thấy đức Phật ấy thì những vị Bồ Tát chưa chứng tịnh tâm (chỉ những vị Bồ Tát từ Sơ Ðịa đến Thất Ðịa) liền rốt ráo chứng được Pháp Thân bình đẳng’ (Sách còn chép: ‘Bình đẳng Pháp Thân là pháp tánh sanh thân Bồ Tát từ Bát Ðịa trở lên’) và: ‘Nghe danh hiệu chí đức của A Di Ðà Như Lai thì... rốt ráo được khẩu nghiệp bình đẳng’.
Những câu như vậy đủ chứng minh nghe danh hiệu Phật liền chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Vô Sanh Pháp Nhẫn gọi tắt là Vô Sanh Nhẫn. Chơn trí an trụ trong Thật Tướng lý thể vô sanh vô diệt nhưng chẳng động thì gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trí Ðộ Luận, quyển 5 giảng: ‘Vô Sanh Pháp Nhẫn: tin nhận, thông đạt Thật Tướng vô sanh vô diệt của các pháp một cách vô ngại bất thoái thì là Vô Sanh Nhẫn’. Trong quyển bảy mươi ba của Trí Ðộ Luận, ngài Long Thọ lại viết: ‘Vô Sanh Pháp Nhẫn là ngay cả những thứ nhỏ nhiệm còn bất khả đắc, huống là những thứ lớn lao. Ðấy là vô sanh. Ðắc pháp vô sanh này thì chẳng làm, chẳng khởi các nghiệp hạnh. Ðấy là Vô Sanh Pháp Nhẫn’.
Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 12 cũng nói: ‘Lý lặng lẽ chẳng khởi gọi là vô sanh. Huệ an trụ trong lý này thì gọi là Vô Sanh Nhẫn’. Lăng Nghiêm Kinh Trường Thủy Sớ, quyển 1 lại giảng: ‘Hiểu rõ pháp vô sanh, ấn khả quyết định thì gọi là Vô Sanh Nhẫn’.
Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 12 còn bảo: ‘Như ngài Long Thọ nói, từ Sơ Ðịa trở lên cũng đắc vô sanh. Nếu căn cứ vào kinh Nhân Vương và kinh Dữ Ðịa thì chỉ trong Thất Ðịa, Bát Ðịa, Cửu Ðịa mới có vô sanh’. Bản Tống dịch của
kinh Vô Lượng Thọ chép rằng: ‘Nghe danh hiệu tôi, chứng Vô Sanh Nhẫn, thành tựu hết thảy thiện căn bình đẳng, trụ vô công dụng. Do lìa gia hạnh nên chẳng bao lâu sẽ đắc A-nậu Bồ Ðề’. Ngài Vọng Tây chú giải câu này như sau: ‘[Kinh] nói là đã trụ nơi vô công dụng thì đủ biết bậc Bồ Tát ấy đã chứng Bát Ðịa’. Như vậy, pháp nhẫn thứ ba trong kinh đây chính là Vô Sanh Pháp Nhẫn như kinh Nhân Vương đã nói. Theo ngài Vọng Tây, Bồ Tát ấy đã chứng địa vị Bát Ðịa.
Ngài Vọng Tây còn nói: ‘Hỏi: Vì sao do thế lực của việc nghe danh hiệu lại chứng được vô sanh? Ðáp: Là vì Phật nguyện lực vậy, như Thập Trụ Luận bảo: “Quá khứ vô số kiếp, có biển công đức danh hiệu Phật. Mỗi vị Phật trong thập
phương hiện tại thành Chánh Giác đều là từ lời phát nguyện ‘nghe danh hiệu được thành Phật’ ấy [mà được thành Phật]”.
Những luận chứng vừa dẫn trên đã trình bày Tha Lực một cách khéo léo: Người nghe danh hiệu Phật được Phật nguyện gia bị nên chứng được Vô Sanh Nhẫn, quyết định sẽ thành Phật, nhưng “nghe” không có nghĩa là chỉ nghe xuông, mà còn phải phát khởi cái hạnh như Niết Bàn Sớ, quyển 20 bảo: ‘Nếu nghe đến hai chữ Thường Trụ thì đời đời chẳng đọa. Có nhiều thứ nghe, nếu có thể suy nghĩ sâu xa, thực hành đúng như lời dạy thì đời đời chẳng bị đọa’. Ý câu trên là: Nghe xong phải suy nghĩ sâu xa và tu hành đúng như lời dạy thì đời đời mới chẳng bị đọa. Như vậy, một chữ ‘nghe’ còn hàm nghĩa ‘tin nhận’ chẳng phải là nghe lọt qua tai rồi thôi.
‘Một, hai, hay ba thứ nhẫn’ được nêu trong lời nguyện này chính là ba thứ nhẫn sẽ nói trong phẩm 15 ‘Bồ Ðề đạo tràng’: một là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Sách Quán Vô Lượng Thọ Kinh Diệu Tông Sao, quyển 5 giảng như sau:
a). Âm Hưởng Nhẫn là do âm thanh, tiếng vang mà ngộ giải được chơn lý.
b). Nhu Thuận Nhẫn là huệ tâm nhu nhuyễn, thuận theo chơn lý.
c). Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng được thật tánh của vô sanh nhưng lìa khỏi các tướng. Ðây là chỗ cao tột nhất trong việc ngộ đạo’.
Ba thứ nhẫn này sẽ được giảng tường tận trong phẩm thứ mười lăm.
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(16/8/2018) (213) T8
Trong câu ‘một, hai, hay ba thứ nhẫn’, chữ Nhẫn có nghĩa là chịu đựng. Bản Ngụy dịch ghi như sau: ‘Ðệ nhất, đệ nhị, đệ tam pháp nhẫn’.
‘Pháp nhẫn’: pháp là lý đã chứng đắc, tâm an trụ nơi pháp là Nhẫn. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 9 giảng: ‘Huệ tâm an pháp thì gọi là nhẫn’.
Với những thứ ‘pháp nhẫn’ vừa được nêu trên, các nhà chú giải kinh nêu nhiều thuyết sâu hoặc cạn khác nhau. Xin nêu một thí dụ: Kinh Nhân Vương bảo có năm thứ nhẫn: Phục Nhẫn, Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn, Vô Sanh Pháp Nhẫn, và Tịch Diệt Nhẫn.
Sách Nhân Vương Tư Ký lại giảng: ‘Sơ địa, nhị địa, tam địa chứng đắc vô lậu tín thì gọi là Tín nhẫn. Tứ địa, ngũ địa, lục địa hướng đến vô sanh nên gọi là Thuận nhẫn. Thất địa, bát địa, cửu địa chẳng sanh các niệm nên gọi là Vô Sanh nhẫn.
Thập địa, Diệu Giác đắc quả Bồ Ðề nên gọi là Tịch Diệt nhẫn’.
Trong các nhà chú giải kinh thời cổ, có vị cho rằng ba thứ nhẫn được nói đến trong kinh Vô Lượng Thọ đây là Phục Nhẫn, Tín Nhẫn và Thuận Nhẫn; thậm chí có vị cho rằng ba mức thượng, trung, hạ của loại nhẫn đầu tiên (Phục nhẫn) chính là ba thứ nhẫn được kinh này nhắc đến. Hiểu như vậy nghĩa là chẳng thừa nhận việc Bồ Tát nơi phương khác nghe danh hiệu Phật liền ngay lập tức chứng đắc một thứ nhẫn, hai thứ nhẫn, cho cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Nếu dựa theo kinh văn, quả thật ‘trong ba thứ nhẫn ấy ắt phải có Vô Sanh Pháp Nhẫn’ là điều chẳng thể còn nghi ngờ chi nữa.
Nguyện thứ ba mươi bốn trong bản Ngụy dịch được ghi như sau: ‘Nếu tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong mười phương vô lượng chẳng thể nghĩ bàn các thế giới Phật nghe danh hiệu tôi mà chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát, các tổng trì sâu xa, thì chẳng lấy Chánh Giác’. Bản Tống dịch cũng ghi: ‘Nghe danh hiệu tôi thì ngay lập tức đắc sơ nhẫn, nhị nhẫn cho đến Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu a nậu đa la tam miệu tam Bồ Ðề’. Rõ ràng, pháp nhẫn thứ ba được nói trong lời nguyện này phải là Vô Sanh Pháp Nhẫn!
Hơn nữa, những câu trong sách Luận Chú như: ‘Hễ thấy đức Phật ấy thì những vị Bồ Tát chưa chứng tịnh tâm (chỉ những vị Bồ Tát từ Sơ Ðịa đến Thất Ðịa) liền rốt ráo chứng được Pháp Thân bình đẳng’ (Sách còn chép: ‘Bình đẳng Pháp Thân là pháp tánh sanh thân Bồ Tát từ Bát Ðịa trở lên’) và: ‘Nghe danh hiệu chí đức của A Di Ðà Như Lai thì... rốt ráo được khẩu nghiệp bình đẳng’.
Những câu như vậy đủ chứng minh nghe danh hiệu Phật liền chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Vô Sanh Pháp Nhẫn gọi tắt là Vô Sanh Nhẫn. Chơn trí an trụ trong Thật Tướng lý thể vô sanh vô diệt nhưng chẳng động thì gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trí Ðộ Luận, quyển 5 giảng: ‘Vô Sanh Pháp Nhẫn: tin nhận, thông đạt Thật Tướng vô sanh vô diệt của các pháp một cách vô ngại bất thoái thì là Vô Sanh Nhẫn’. Trong quyển bảy mươi ba của Trí Ðộ Luận, ngài Long Thọ lại viết: ‘Vô Sanh Pháp Nhẫn là ngay cả những thứ nhỏ nhiệm còn bất khả đắc, huống là những thứ lớn lao. Ðấy là vô sanh. Ðắc pháp vô sanh này thì chẳng làm, chẳng khởi các nghiệp hạnh. Ðấy là Vô Sanh Pháp Nhẫn’.
Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 12 cũng nói: ‘Lý lặng lẽ chẳng khởi gọi là vô sanh. Huệ an trụ trong lý này thì gọi là Vô Sanh Nhẫn’. Lăng Nghiêm Kinh Trường Thủy Sớ, quyển 1 lại giảng: ‘Hiểu rõ pháp vô sanh, ấn khả quyết định thì gọi là Vô Sanh Nhẫn’.
Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 12 còn bảo: ‘Như ngài Long Thọ nói, từ Sơ Ðịa trở lên cũng đắc vô sanh. Nếu căn cứ vào kinh Nhân Vương và kinh Dữ Ðịa thì chỉ trong Thất Ðịa, Bát Ðịa, Cửu Ðịa mới có vô sanh’. Bản Tống dịch của
kinh Vô Lượng Thọ chép rằng: ‘Nghe danh hiệu tôi, chứng Vô Sanh Nhẫn, thành tựu hết thảy thiện căn bình đẳng, trụ vô công dụng. Do lìa gia hạnh nên chẳng bao lâu sẽ đắc A-nậu Bồ Ðề’. Ngài Vọng Tây chú giải câu này như sau: ‘[Kinh] nói là đã trụ nơi vô công dụng thì đủ biết bậc Bồ Tát ấy đã chứng Bát Ðịa’. Như vậy, pháp nhẫn thứ ba trong kinh đây chính là Vô Sanh Pháp Nhẫn như kinh Nhân Vương đã nói. Theo ngài Vọng Tây, Bồ Tát ấy đã chứng địa vị Bát Ðịa.
Ngài Vọng Tây còn nói: ‘Hỏi: Vì sao do thế lực của việc nghe danh hiệu lại chứng được vô sanh? Ðáp: Là vì Phật nguyện lực vậy, như Thập Trụ Luận bảo: “Quá khứ vô số kiếp, có biển công đức danh hiệu Phật. Mỗi vị Phật trong thập
phương hiện tại thành Chánh Giác đều là từ lời phát nguyện ‘nghe danh hiệu được thành Phật’ ấy [mà được thành Phật]”.
Những luận chứng vừa dẫn trên đã trình bày Tha Lực một cách khéo léo: Người nghe danh hiệu Phật được Phật nguyện gia bị nên chứng được Vô Sanh Nhẫn, quyết định sẽ thành Phật, nhưng “nghe” không có nghĩa là chỉ nghe xuông, mà còn phải phát khởi cái hạnh như Niết Bàn Sớ, quyển 20 bảo: ‘Nếu nghe đến hai chữ Thường Trụ thì đời đời chẳng đọa. Có nhiều thứ nghe, nếu có thể suy nghĩ sâu xa, thực hành đúng như lời dạy thì đời đời chẳng bị đọa’. Ý câu trên là: Nghe xong phải suy nghĩ sâu xa và tu hành đúng như lời dạy thì đời đời mới chẳng bị đọa. Như vậy, một chữ ‘nghe’ còn hàm nghĩa ‘tin nhận’ chẳng phải là nghe lọt qua tai rồi thôi.
‘Một, hai, hay ba thứ nhẫn’ được nêu trong lời nguyện này chính là ba thứ nhẫn sẽ nói trong phẩm 15 ‘Bồ Ðề đạo tràng’: một là Âm Hưởng Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Sách Quán Vô Lượng Thọ Kinh Diệu Tông Sao, quyển 5 giảng như sau:
a). Âm Hưởng Nhẫn là do âm thanh, tiếng vang mà ngộ giải được chơn lý.
b). Nhu Thuận Nhẫn là huệ tâm nhu nhuyễn, thuận theo chơn lý.
c). Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng được thật tánh của vô sanh nhưng lìa khỏi các tướng. Ðây là chỗ cao tột nhất trong việc ngộ đạo’.
Ba thứ nhẫn này sẽ được giảng tường tận trong phẩm thứ mười lăm.