DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

DI ĐÀ HUYỀN CHỈ
Kim Đài
(Tái bản lần thứ nhất)
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
Phật lịch 2550 - 2006
(Sách thỉnh tại Phật Bảo Tự, Annandale, Virginia).
  • TỰA

    A Di Đà Tất cả pháp
    Tất cả pháp A Di Đà
    Chẳng quản trời cao đất thấp
    Búng tay cõi nước bày ra.
    Kim Đài.

    LỜI TỰA TÁI BẢN

Cuốn "Di Đà Huyền Chỉ" ra đời đồng thời với bản dịch Việt ngữ "Thế Giới Nhất Hoa" vào cuối năm 2001. Cuốn "Thế Giới Nhất Hoa" đến nay vẫn còn ở các quày sách. Điều đó cho chúng ta thấy rằng Thiền Công án rất khó nuốt.

Trái lại, cuốn "Di Đà Huyền Chỉ" ra đời được rất nhiều người mến mộ và phần đông thực tập theo phương pháp "Niệm Phật Thập Lực". Riêng Hòa thượng Thích Tâm Thanh trụ trì chùa Vĩnh Minh ở Đại Ninh, một pháp sư lão thành rất kén sách, nhưng khi đọc qua "Di Đà Huyền Chỉ" đã điện thoại về tác giả thỉnh 200 quyển để cúng dường nhân dịp trai tăng cuối năm 2001, đủ thấy "Di Đà Huyền Chỉ" có một sức hút lạ lùng.

Điều nầy đã khích lệ cho tác giả rất nhiều. Kỳ tái bản nầy xin điều chỉnh lại những lỗi chính tả do phòng in ấn nhầm lẫn.

Kính mong quý độc giả đóng góp thêm ý kiến để được hoàn chỉnh hơn trong những lần tái bản sau.

Kim Đài kính ghi.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Hoa sen 1
    GIỚI THIỆU THIỀN DI ĐÀ
Thiền Di Đà là pháp môn tối thắng, là con đường tắt an ổn thứ nhứt đưa chúng sanh ra khỏi biển sanh tử, dưới không trái ý tổ sư, trên hợp bản hoài chư Phật, hiện đời tỏ ngộ tự tánh Di Đà, thọ chung vãng sanh Cực lạc thế giới, cứu cánh thành tựu vô thượng Bồ đề.

Tăng hỏi Hoà thượng Triệu Châu:

- Thập phương chư Phật có thầy hay không?

Triệu Châu đáp:

- Có.

Lại hỏi:

- Thế nào là thầy của chư Phật?

Triệu Châu đáp:

- A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!

Thập phương Chư Phật có thầy hay không xin gác lại, thử hỏi thế nào là thầy của chư Phật, Triệu Châu đáp "A Di Đà Phật! A Di Đà Phật", yếu chỉ thế nào?

Hãy đem bốn chữ A Di Đà Phật này làm mạng sống của mình, trong tất cả các thời đừng để cho nó vụt mất, như người vượt biển bám chiếc phao nổi.

Sẽ đến lúc như rắn nuốt cóc, muốn bỏ cũng chẳng được mà nuốt thì chẳng lọt. Trong giờ phút khẩn trương gay cấn cùng cực như thế, một tiếng sét xé màn trời, mười phương thế giới chấn động vang dội, rắn cũng bất khả đắc, cóc cũng bất khả đắc, bất khả đắc cũng bất khả đắc, rờ chạm lỗ mũi cha mẹ sanh, đập bể hư không rống tiếng rống sư tử:

A Di Đà Phật
A Di Đà Phật
A Di Đà Phật
A Di Đà Phật.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Hoa sen 2
    MẬT CHỈ THIỀN DI ĐÀ

    1. ĐƯỜNG LỐI

    Thiền Di Đà lấy vô sanh làm thể
    Vãng sanh làm tướng
    Độ sanh làm dụng.
    Vì vô sanh mới đến tận bờ kia.
    Vì vãng sanh mới được Phật thọ ký.
    Vì độ sanh mới hợp với bản hoài.
Kinh Hoa Nghiêm nói: "Quên mất tâm Bồ đề mà tu các pháp lành, ấy là ma nghiệp", do đó thiền Di Đà lấy tịch quang làm tâm Bồ đề, tâm ấy chính là Amita (A Di Đà).

Kinh Pháp Hoa lấy thật tướng làm tịch và Tri Kiến Phật làm chiếu.

Kinh Hoa Nghiêm lấy Nhất chân pháp giới làm tịch và Phổ quang minh trí làm chiếu.

Thiền Di Đà lấy Tịnh Độ làm tịch, và thọ quang làm chiếu, không rời đạo tràng mà làm các Phật sự nên Thiền Di Đà còn gọi là Thiền Tịch Quang.
  • 2. LƯỢC KỆ

    Ngay dụng liền LY
    Ngay LY liền dụng
    LY ấy tự quên
    Liền Tịch Quang dụng.

    3. KHAI THỊ
Như một lữ khách xa quê, một hôm trở về lại ngôi nhà cũ Amita của chính mình thuở trước, gõ cửa gọi:

- Amita?

Bên trong không tiếng đáp.

Lại gõ cửa gọi tiếp:

- Amita?

Vẫn không tiếng đáp.

Người ấy bắt đầu gọi mãi và nóng lòng muốn khám phá những gì từ nhà mình, nhưng gọi thì cứ gọi mà đáp vẫn không đáp. Chỗ không tiếng đáp này gọi là LY.
  • LY lớn ngộ lớn
    LY nhỏ ngộ nhỏ
    Không LY không ngộ.

    4. HIỂN LÝ
Ngay khi khởi gọi Amita, hoàn toàn không thấy có mình gọi, cũng không có đối tượng để gọi, vô năng vô sở. Như tiếng trống trời khua lên giữa hư không, thoát ly tứ cú, vô trú vô trước, nên nói:

"Ngay dụng liền LY".

Dụng tâm như thế là dụng mà không có chỗ dụng. Dụng mà không dụng tức là LY, thì cứ ngay chỗ LY này mà dụng, LY chính là chiếc bè pháp để vào dòng qua biển sanh tử, mười phương chư Phật đều đã đi qua, nên nói:

"Ngay LY liền dụng".

Khi qua bờ bên kia rồi, thấy không cần thiết nữa, chiếc bè tự lui, nên nói:

"LY ấy tự quên".

Nói thì dông dài nhưng đối với hàng lợi căn, chẳng cần cất bước liền vào tịch quang, nên nói"

"Liền Tịch Quang dụng".

Đến đây rồi, mười phương hư không đều thâu về trong một lỗ chơn lông, đến đi vô ngại, nên liền tuỳ niệm sanh về cõi Cực Lạc, cũng chỉ là sanh về nơi tự tâm, nên sanh ấy mà vô sanh, về ấy mà chưa từng về. Nếu có chỗ về ngoài tâm có pháp, vì không chỗ về liền vào bất nhị, đích thân được Phật A Di Đà thọ Ký, thành tựu vô thượng Bồ đề.
  • 5. HÀNH SỰ
Để khám phá Amita của chính mình cũng là hoà nhập với tâm thể của Phật A Di Đà, hằng ngày trong tất cả các thời, khi ăn uống, lúc ngồi nằm đều khởi gọi Amita rõ ràng trong sáng từ câu này đến câu khác.

Như tiếng sấm giữa trời, phi chủ phi khách:

- Amita?

Như tiếng vang trong hang động, chẳng có chẳng không:

- Amita?

Hồn nhiên như chim hoàng anh hót trên bờ liễu:

- Amita?

Lặng lẽ như giọt mưa rớt bên thềm:

- Amita?

Niệm như thế gọi là vô tướng niệm Phật, niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm, ngay niệm liền không, ngay không liền niệm, đương thiền là tịnh, đương tịnh là thiền. Chỉ có pháp thiền Di Đà mới được như thế, huyền nhiệm như thế, thù diệu như thế, tức thể là dụng, tức dụng là thể, ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm, cứ như thế mà khởi gọi liên tục không gián đoạn, thì mỗi một niệm tiêu được tám mươi ức kiếp tội lớn nơi đường sanh tử, Pháp môn này lìa thấy nghe tỏ biết, trả thấy về vô tướng, trả nghe về vô thanh, phản văn văn tự tánh.

Ban đầu, sức trả nghe này rất rời rạc. Ra sức gia công, nhẫn nại thực hành. Một ngày như thế, ngàn ngày như thế, đến chỗ thuần thục, vọng niệm không còn chỗ ló đầu, quét hết thấy nghe, lấp đường tỏ biết, như ngây như điếc, quên cảnh quên tâm.

Như bị người dữ rượt, chỉ lo chạy thoát thân, đến chỗ cùng đường buông tay vực thẳm. Chết đi sống lại, ngồi đoạn mười phương, mười vạn ức cõi trên đầu sợi lông. Vì thế Quán kinh nói: "Cõi nước của Phật A Di Đà cách đây không xa".

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 6. BÀY DIỆU QUYẾT
Mỗi lần khởi gọi Amita đều lưu ý dằn mạnh ở cuối câu. Sơ đồ dằn mạnh có thể biểu diễn như sau:
  • * Khi chưa dằn mạnh: - Amita?
    * Khi đã dằn mạnh cuối câu: - AmiTa?
Vừa khởi gọi vừa lắng theo chữ "TA" nghe ngóng trong đó có tiếng đáp không? Thực hành miên mật, liên tục không ngừng như nước băng ghềnh, vừa gọi vừa nghe, vừa nghe vừa gọi. Nghe để dọ đường, gọi để bước tới.

Nếu gọi mà không nghe, vọng tưởng thường quấy nhiễu, đường đi trở ngại. Nếu nghe mà không gọi, hồng danh đành thiếu sót, Cực Lạc khó về.

Đương khi gọi có nghe, đương khi nghe có gọi, tất cả thinh sắc đồng thời tan rã, tất cả ngăn ngại liền được suốt thông, thật là vi diệu, thật là viên dung. Cứ chỗ không tiếng đáp này mà nghe tới mới đích thực là phản văn.
  • 7. MỞ KHO BÁU
Biết chọn nhĩ căn làm viên thông là bước đầu tiên dùng kho báu trong nhà, bởi nhĩ căn không ngăn ngại như nhãn căn, không vọng động như ý căn, nên ở hội Lăng Nghiêm, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi chọn làm viên thông đệ nhất.

Khởi gọi Amita là lấy động làm định, toàn định là động, toàn động là định. Được cái định ở trong động này rồi thì không còn cái động nào quấy nhiễu được nữa.

Hành giả vẫn chuyên nhất khởi gọi Amita cho đến lúc không gọi mà tự gọi, không đi mà tự đi, muốn dừng nghỉ cũng chẳng được, lúc này là quyền của công phu, không còn là quyền của hành giả nữa. Đây là đến lúc tiêu dùng kho báu trong nhà, chẳng phải vay mượn bên ngoài, gọi là từ hông ngực lưu xuất.
  • 8. NÊU TÍN NGUYỆN
Thiền Di Đà lấy vãng sanh làm gốc. Vãng sanh lấy tín nguyện làm nhân. Nếu không có cái nhân tín nguyện, ắt không có cái quả vãng sanh.

"Di Đà Sám Pháp" ở Hoa sen 8, hướng dẫn đầy đủ cách thức nêu tín nguyện để thành tựu sự nghiệp vãng sanh.

Rất mong các pháp hữu lưu ý cho.
  • 9. TRÙM CĂN CƠ
Thiền Di Đà trùm khắp các căn cơ thượng trung hạ, lại dung nhiếp cả ba tông Mật, Tịnh, Thiền.

- MẬT: Thần chú Amita - tiêu tội chướng: A Di Đà, chữ Phạn là Amita, ở đây được giữ nguyên gốc để mỗi lần khởi gọi, tạo ra âm hưởng của một đại thần chú, uy lực mạnh mẽ vô cùng. Kinh nói, mỗi một lần khởi gọi Amita là tiêu được tám mươi ức kiếp tội lớn nơi đường sanh tử.

Theo Mật giáo, Amita là chủng tử của năm vị Phật, gọi là Ngũ Trí Như Lai, đó là:
  • Tỳ Lô Giá Na Như Lai
    A Súc Bệ Như Lai
    Bảo Sanh Như Lai
    A Di Đà Như Lai
    Bất Không Thành Tựu Như Lai.
Người trì thần chú Amita, khi vãng sanh gặp Phật A Di Đà rồi, liền được vô lượng nghìn muôn đà ra ni lưu xuất, vượt hẳn các thần chú khác.

- TỊNH: Phật hiệu Amita - được vãng sanh. Nguyện thứ mười tám của Tỳ Kheo Pháp Tạng, tiền thân của Phật A Di Đà, rằng:
  • "Nếu chúng sanh nào
    Hết lòng khát khao
    Danh ta tín nhiệm
    Xưng đến mười niệm
    Cầu về nước ta
    Nếu không sanh qua
    Thệ không thành Phật".
Mỗi một lần khởi gọi Amita là một niệm. Do nguyện lực rộng lớn của Phật A Di Đà cơ cảm, thì hoa sen sẽ ghi tên người đó và lớn dần nơi ao Liên Trì. Khi người ấy lâm chung, hoa sen sẽ bay về tận nơi tiếp rước.

Nếu khởi gọi lơ là hoặc bỏ quên luôn thì hoa sẽ héo lần. Do đó, phải khởi gọi cho niệm niệm nối luôn thì đài sen của mình mới tươi tốt.
  • Niệm trước Amita.
    Niệm sau Amita.
    Quét thông minh thấy biết
    Là trì danh Di Đà.
- THIỀN: Thoại đầu Amita -Thành Thượng phẩm: Thiền Di Đà quyết thành tựu thượng phẩm, do đó chuyên ròng khởi gọi Amita đến chỗ một niệm không sanh, vào thẳng cõi Phật.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Hoa sen 3
    NIỆM PHẬT THẬP LỰC

    1. HÀNH TRÌ
Phương pháp: NIỆM PHẬT THẬP LỰC, gồm mười câu niệm như sau:
  • A Di Đà
    A Di Đà Phật
    A Di Đà Phật.

    A Di Đà
    A Di Đà Phật
    A Di Đà Phật.

    A Di Đà
    A Di Đà Phật
    A Di Đà Phật.
    Nam mô A Di Đà Phật.
Khi niệm đến câu thứ mười xong, liền trở lại niệm từ đầu cho mười câu khác, luân phiên như thế, tự nhiên sẽ thấy liên tục không gián đoạn, vào được nhất tâm chỉ trong thời gian rất ngắn.
  • 2. TÍN NGUYỆN

    Một lòng quy mạng
    Phật A Di Đà
    Nguyện được sanh qua
    Tây Phương Cực Lạc
    Thệ xưa của Phật:
    "Nếu chúng sanh nào
    Hết lòng khát khao
    Danh ta tín nhiệm
    Xưng đến mười niệm
    Cầu về nước ta
    Nếu không sanh qua
    Thệ không thành Phật"
    Nay con chuyên nhất
    Niệm A Di Đà
    Hấp hối nở hoa
    Biết ngày giờ trước
    Đài vàng tiếp rước
    Sen báu nở bày
    Trong khảy móng tay
    Vào ngôi bất thối.
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Hoa sen 4
    SO SÁNH CÕI TA BÀ VỚI CÕI CỰC LAC

    I. CHÚNG SANH CÕI TA BÀ:
1. Thân máu mủ hôi dơ từ thai ngục chui ra.

2. Mỗi người tạo nghiệp khác nhau, tướng mạo xấu xí, các căn không đủ.

3. Toàn là chịu khổ. Nếu có chút vui, ấy là lấy khổ làm vui, các khổ đó là:
  • - Khổ về sanh: từ tử cung xú uế chui ra.
    - Khổ về già: thân thể suy hao, tóc bạc da nhăn.
    - Khổ về bệnh: thân thể do đất nước lửa gió hợp thành, giả hợp bất thường.
    - Khổ về chết: cuộc sống mong manh, cái chết thình lình.
    - Khổ về ân tình chia cách: Sợi dây ân tình cha mẹ vợ con khó dứt.
    - Khổ về oan gia gặp gỡ: những kẻ thù ghét thường hay gặp gỡ.
    - Khổ vì cầu không được: sự nghiệp khó thành, công danh thất bại.
    - Khổ vì năm ấm bức bách: thân tâm nhiễm ô, tham dục lẫy lừng.
4. Trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi:

Người có tu, nếu được chút ít định lực rồi cũng thối thất, đâu dám mong đến đạo Bồ đề.

5. Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi:

Dành giựt vật lộn với đời, rất nhiều kẻ sống lang thang, không tạo được một mái nhà. Kẻ ở vỉa hè, người nằm xó chợ, xin ăn đầy dẫy, mù điếc bơ vơ.

6. Sống trong vô minh tăm tối:

Tham dâm, sân hận, si mê, chấp thân này là thật, các căn lẫy lừng như núi lửa chờ phun, vọng tưởng, phóng túng, không lúc nào ngừng nghỉ, thường sống theo ác kiến: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ.

7. Thường gây chiến tranh để dành giựt của cải địa vị, vì quyền lợi mà giết hại lẫn nhau.
  • II. ĐẠI CHÚNG CÕI CỰC LẠC:
1. Thân kim cương bền chắc từ hoa sen báu hóa sanh.

2. Đủ ba mươi hai tướng tốt, đồng xinh đẹp như nhau.

3. Đều hưởng sự vui, không có các khổ
  • - Không sanh khổ, vì từ hoa báu trí giác hóa sanh.
    - Không lão khổ vì là thân kim cương không biến hoại theo thời gian.
    - Không bệnh khổ vì là thân na la diên bền chắc.
    - Không tử khổ vì thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, đồng với thọ mạng Phật Vô Lượng Thọ.
    - Không có cha mẹ vợ con nên không bị khổ về ân tình chia cách.
    - Được các bậc thượng thiện nhơn dắt dìu giúp đỡ, nên không bị khổ về oan gia hội ngộ.
    - Cầu chi được nấy nên không bị khổ về đau buồn thất vọng.
    - Vì là thân hóa sanh nên rất uyển chuyển linh động, do đó dứt được thân kiến vì tâm thanh tịnh, nên không bị khổ về năm ấm lẫy lừng.
4. Vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi vì đều vào bậc bất thối, tiến lên địa vị Phật.

5. Thọ dụng tự nhiên: cung điện bằng bảy báu tự nhiên hiện thành. Muốn mặc có mặc, muốn ăn có ăn, y phục bát đĩa và thức ăn tự hóa hiện ra theo ý của mình. Nếu muốn cúng dường, đồ cúng tự hiện.

6. Trí tuệ sáng suốt, biện tài vô ngại. Dứt tham sân si, không còn thân kiến, các căn thanh tịnh, không vọng duyên phóng dật. Được năm thứ thần thông: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông.

7. Trụ ở bậc chánh định, không còn thối chuyển nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, phân thân khắp mười phương thế giới làm lợi ích quần sanh.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • III. CẢNH DUYÊN CÕI TA BÀ:
1. Có đủ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

2. Hầm hố, gò nỗng, rừng rậm, chông gai.

3. Thời tiết đổi dời, nóng lạnh bất thường. Hay bị tai nạn nước lụt, hỏa hoạn, bão tố, động đất.

4. Các ma cùng ngoại đạo não loạn người tu.

5. Lời ái véo von, sắc dâm khêu gợi, lò mổ, quán rượu, đảng cướp nhà dâm, ác thú muỗi mòng đâu đâu cũng có.

6. Song lâm đã khuất, Long Hoa còn xa.

7. Đèn quang minh đã tắt, chúng sanh sống mãi trong đêm dài tăm tối.

8. Quan Âm Thế Chí, chỉ được nghe danh các người chung quanh, tà sư bạn ác.

9. Đồ ăn thức uống bị nhiễm độc chất suy hao cơ thể.

10. Thọ mạng ngắn ngủi, tu tập dở dang.
  • IV. THẮNG DUYÊN CÕI CỰC LẠC:
1. Không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cả đến tên gọi ba đường ác này cũng không có.

2. Vàng ròng làm đất, cây báu vút trời, lầu chói trân châu, hoa đua bốn sắc.

3. Không có đêm ngày nóng lạnh, vĩnh viễn là thế giới trường xuân.

4. Phật hoá tinh thuần, ngoại ma tuyệt tích.

5. Không có người nữ. Nước, chim, cây, lưới, gió nhạc thường diễn pháp âm, nghe rồi liền được thanh tịnh.

6. Thường được thấy Phật, được nguyện lực của Phật nhiếp thọ gia trì.

7. Quang minh của Phật chiếu đến thân làm cho tâm Bồ đề kiên cố.

8. Thường được gần gũi các đức Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, các đại Bồ tát, thường được dắt dìu. Mọi người chung quanh đều là bậc thượng thiện.

9. Nước tắm, đồ ăn, thức uống đều làm cho căn lành thêm lớn.

10. Thọ mạng vô cùng, đồng với Phật và Bồ tát, an nhiên tu tập trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp.

Trên đây chỉ lược sơ so sánh đôi phần, hơn kém đã rõ, cốt giúp các bạn đồng tu chọn chỗ quy hướng cho đời mình, cùng phát tâm dự hội Liên Trì:
  • Tịnh Quang mãi ngóng con về.
    Không về Cực Lạc, còn về nơi đâu?
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Hoa sen 5
    TIỆN LỢI
Phương pháp Niệm Phật Thập Lực được những tiện lợi sau:
  • 1. DỄ TU DỄ NHỚ
Dễ tu vì mọi trình độ, mọi căn cơ, mọi lứa tuổi đều có thể tu tập được trong mọi nơi, mọi lúc.

Dễ nhớ vì không cần đếm mà vẫn nhớ được câu niệm:
  • A Di Đà
    A Di Đà Phật
    A Di Đà Phật

    A Di Đà
    A Di Đà Phật
    A Di Đà Phật

    A Di Đà
    A Di Đà Phật
    A Di Đà Phật
    Nam mô A Di Đà Phật.
Câu số mười là quy kết của chín câu trước, là cái mốc rất dễ nhớ, tránh được sự lầm lộn khi niệm.
  • 2. KHÔNG QUÁN MÀ THÀNH TỰU QUÁN
Từ câu một đến câu chín là tượng trưng cho chín phẩm. Các bạn đồng tu khi niệm thầm lên chín câu này thì đã có phần nơi hoa sen chín phẩm rồi, tuy không quán mà đã thành tựu quán.
  • 3. KHÔNG ĐẾM MÀ TỰ ĐẾM

    A Di Đà
    A Di Đà Phật
    A Di Đà Phật

    A Di Đà
    A Di Đà Phật
    A Di Đà Phật

    A Di Đà
    A Di Đà Phật
    A Di Đà Phật
    Nam mô A Di Đà Phật.
Nếu sơ ý một chút sẽ không biết mình đang ở câu nào. Nếu biết thì cách đếm tự hiện, ấy là không đếm mà tự đếm vậy.
  • 4. LẦN CHUỖI HAY KHÔNG ĐỀU ĐƯỢC LỢI
Phương pháp niệm Phật thập lực rất dễ nhiếp tâm, các bạn có thể niệm thầm hoặc nhắp môi mà niệm trong vài phút đã thấy câu Phật hiệu vững chắc nơi tâm rồi. Khi ngồi với tư thế tọa thiền thì không lần chuỗi. Khi đi kinh hành cứ mười câu thì lần một hạt, trong khoảng hai giờ sẽ lần được mười xâu, tức là 10.800 câu niệm.
  • 5. KHÔNG NIỆM DANH HIỆU KHÁC
Từ sáng đến chiều, từ đêm đến sáng cũng chỉ là A Di Đà, hôm nay A Di Đà, ngày mai A Di Đà, năm nay A Di Đà, năm đến A Di Đà, không niệm danh hiệu các đức Phật khác, vì một câu A Di Đà đã thâu nhiếp hằng sa các đức Phật ở trong đó rồi, nên kinh Hoa Nghiêm nói:
  • "Thân tất cả chư Phật
    Là thân một đức Phật
    Một tâm một trí huệ
    Lực vô úy cũng thế".
Lại nói:
  • "Ví như trăng tròn sáng
    In bóng khắp sông hồ
    Ảnh tượng tuy vô cùng
    Mặt trăng chỉ là một
    Như đấng vô ngại trí
    Thành bậc đẳng chánh giác
    Ứng hiện tất cả cõi
    Thân Phật không có hai".
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 6. THÀNH TỰU MƯỜI LỰC
Phương pháp niệm Phật thập lực gồm mười câu, mỗi câu là một lực, mười câu là mười lực vô úy của Như Lai, là mười sức của trí Phật, đó là:
  • (1) Tri thị xứ phi xứ trí lực.
    (2) Tri tam thế nghiệp báo trí lực.
    (3) Tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực.
    (4) Tri chúng sanh tâm tánh trí lực.
    (5) Tri chủng chủng giải trí lực.
    (6) Tri chủng chủng giới trí lực.
    (7) Tri nhứt thiết sở đạo trí lực.
    (8) Tri thiên nhãn vô ngại trí lực.
    (9) Tri túc mạng vô lậu trí lực.
    (10) Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
Trong mười lực này có hai lực thứ hai và thứ ba là quan trọng nhất, vì do nghiệp lực mà vào đường sanh tử, rồi do định lực mà ra khỏi sanh tử.

Ví như có một Thiền sư đưa ly nước lên hỏi bạn: đây là cái gì? Nếu bạn trả lời: ly nước, tức là quên mình theo vật, do nghiệp lực mà vào đường sanh tử. Nếu có khả năng đập vỡ được ly nước trên, ấy là do định lực mà ra khỏi sanh tử, vì chuyển được vật tức đồng Như Lai vậy.
  • 7. KHÔNG PHẢI TRỪ VỌNG TƯỞNG
Không phải dùng câu niệm Phật để trừ vọng tưởng. Nếu dùng câu Phật hiệu để trừ vọng tưởng tức thì có chiến tranh đấy.

Khi một vọng tưởng khởi lên, bạn không cần để ý đến nó, cũng giống như khi bạn đang tọa thiền ở giữa đường, có một vạn hùng binh đi ngang qua trước mặt, bạn cũng chẳng cần để ý đến họ, cứ một bề giữ chắc Phật hiệu, thì vọng tưởng cũng như vạn hùng binh kia, đâu can hệ gì đến bạn?
  • 8. TIÊU TỘI CHƯỚNG
Kinh nói: "Niệm một câu A Di Đà, tiêu tám mươi vạn ức kiếp tội lớn nơi đường sanh tử. Hằng ngày trong mọi nơi mọi lúc, đi xe đi tàu, rửa chén, quét nhà đều có thể niệm Phật dễ dàng, lâu ngày thuần thục, nghiệp chướng tự tiêu".

Phẩm "Hạt Muối" trong Tăng Chi Bộ Kinh có ví dụ rằng “Một người dân đen đánh trộm một con dê của một nhà giàu có thế lực, có thể bị đánh đập đổ máu tại chỗ và bị tù tội. Nhưng một đại quan của triều đình bắt trộm con dê của nhà giàu có thế lực ấy thì không bị đánh đập, cũng không tù tội. Ví như một nắm muối thả vào một hồ nước lớn hay con sông lớn thì độ mặn không đáng kể, nhưng nếu nắm muối ấy cho vào một ghè nước thì độ mặn lại đáng kể. Cũng thế, cùng phạm một tội, với người tâm tư bỏn xẻn không tu tập giới định tuệ thì kết quả có thể đi vào địa ngục, nhưng với người có tu tập giới định tuệ, có từ tâm rộng rãi thì kết quả xem như không có". Người niệm Phật, tức là đang tu giới định tuệ mà thường rải tâm từ cứu độ chúng sanh thì nghiệp chướng bao đời đều tiêu hết.
  • 9. THÀNH TỰU VÃNG SANH
Cổ Đức nói: "Nếu đã nguyện thì được vãng sanh. Đã vãng sanh thì vào bất thối".

Kinh "Hành Sanh" trong Trung bộ kinh nói: "Lại nữa, này các Tỳ Kheo! Vị Tỳ Kheo đầy đủ tín, đầy đủ giới, đầy đủ văn, đầy đủ thí, đầy đủ trí huệ. Vị ấy được nghe bốn đại thiên vương có thọ mạng lâu dài, có tướng hảo, có nhiều thọ lạc. Vị ấy nghĩ, mong rằng sau khi mạng chung sẽ được sanh cộng trú với chư thiên ở bốn đại Thiên Vương. Vị ấy chuyên định tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Những HÀNH ấy của vị Tỳ Kheo được an trú, tu tập..., đưa đến tái sanh tại chỗ ấy".

Cũng vậy, người niệm Phật, do hạnh nguyện của mình, thường nguyện sanh về cõi Cực Lạc, cộng thêm sự nhiếp thọ của Phật A Di Đà, thì sự vãng sanh quyết định thành tựu vậy, mà vãng sanh tức là thành Phật đó!
  • 10. ĐỘ KHẮP CHÚNG SANH
Pháp môn niệm Phật độ chúng sanh nhiều hơn hết. Mọi thời đại, mọi căn cơ đều có thể niệm Phật để độ mình độ người.

Pháp môn lợi ích như thế, Phật Di Lặc ra đời cũng nói như thế, ngàn Phật ra đời cũng nói như thế. Hôm nay nói như thế, đến tột đời vị lai cũng nói như thế!
  • A Di Đà tất cả pháp
    Tất cả pháp A Di Đà
    Chẳng quản trời cao đất thấp
    Búng tay, cõi nước bày ra!
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Hoa sen 6
    NGOẠI TÂM VÔ PHÁP
Phật hỏi Tô Đà Di:

- Đâu là nhà của con?

Tô Đà Di đáp:

- Đâu chẳng là nhà của con!

Trước câu trả lời siêu xuất ấy, Phật Thích Ca liền thọ Tỳ Khưu giới cho cậu bé mới lên bảy tuổi này.

Tâm như hư không trùm khắp pháp giới, nên kinh Hoa Nghiêm nói: "Cõi pháp giới trùng trùng, nhưng cũng không ngoài tâm".

Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo A Nan:

"Mười phương hư không đều ở trong tâm ông".

Ông Giải Thoát Trưởng Giả trong phẩm "Nhập Pháp Giới" nói:

"Các đức Như Lai kia chẳng đi đến cõi này, tôi cũng chẳng đi đến cõi kia, nhưng nếu tôi muốn thấy đức Vô Lượng Thọ Như Lai và thế giới An Lạc thì tùy ý liền được thấy".

Cho nên, đã ngộ lý duy tâm và Tức Tâm là Phật thì tùy chỗ tưởng niệm, không đâu chẳng là Phật, không đâu chẳng là nhà.

Vì không đâu chẳng là nhà nên không sanh.

Vì tâm trùm khắp Pháp giới nên sanh về cõi Cực Lạc tức là sanh nơi tự tâm, nên sanh ấy mà vô sanh.

Vì vô sanh nên ngoài tâm không pháp.

Nếu thấy có sanh thì ngoài tâm có Pháp, trái với thật tướng.
  • 1. BẮT HƯ KHÔNG
Thạch Củng cùng Tây đường Trí Tạng đi dạo:

Thạch Củng hỏi:

- Sư đệ bắt được hư không chăng?

Trí Tạng đáp:

- Bắt được.

- Làm sao bắt?

Trí Tạng lấy tay chụp hư không.

Củng bảo:

- Làm thế ấy đâu bắt được hư không.

- Sư huynh làm sao bắt được?

Củng liền nắm mũi Trí Tạng kéo mạnh.
  • 2. CHÉN PHA LÊ
Đang lúc dùng trà, Văn Thù đưa chén pha lê lên hỏi Văn Hỷ:

- Phương Nam có cái này không?

Văn Hỷ đáp:

- Không

Văn Thù hỏi:

- Bình thường lấy gì uống trà?

Văn Hỷ không đáp được.
  • 3. BÀY THÂN
Tổ Pháp Nhãn hỏi Tử Phương:

- Thế nào là ở trong vạn tượng riêng bày thân?

Tử Phương chống phất tử.

Pháp Nhãn nói:

- Ông hội thế ấy sao được?

Tử Phương nói:

- Tôn ý Hoà thượng thế nào?

Pháp Nhãn bảo:

- Gọi cái gì là vạn tượng?

Pháp Nhãn bảo:

- Ở trong vạn tượng bày thân, đâu nói lập, chẳng lập?

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 4. ĐỒNG TIỀN
Thuở trước có vị Hoà thượng thường dùng gậy quảy một cái bao bố với cái nệm rách. Bao nhiêu đồ dùng đều bỏ hết vào trong cái bao ấy. Vào chợ búa xóm làng, thấy vật gì thì xin, hoặc thịt chua cá mặn, vừa lấy thì cho vào miệng, còn lại thì cho vào bao. Đời ấy gọi là Trường Đinh Tử.

Một hôm có vị tăng đi trước mặt, sư bèn vỗ vào lưng, vị tăng quay đầu lại. Sư nói:

- Cho ta một đồng tiền.

Tăng đáp:

- Nói được thì cho.

Sư bỏ cái bao bố xuống, khoanh tay đứng.

Lần khác, ngài đứng ở chợ, có vị Tăng hỏi:

- Hoà thượng tại Trong Ấy làm cái gì?

Ngài đáp:

- Đồng với "Con người".

- Đến rồi vậy, đến rồi vậy!

- Ông chẳng phải là con người ấy đâu!

- Thế nào là con người ấy?

- Cho ta một đồng tiền!
  • 5. KHÔNG TRONG NGOÀI
Ngài Tăng Phụng Nghi nói: "Nếu A Nan là người tỏ suốt, thấy được con người đích thực của A Nan, vốn chẳng thuộc giảng đường, chẳng thuộc vườn rừng, chẳng thuộc cửa nẻo, thì ông sẽ đến đi tự tại, làm gì có trong ngoài".
  • 6. NGÓN TAY VÀ MẶT TRĂNG
Có vị tăng hỏi Tổ Pháp Nhãn:

- Ngón tay thì chẳng hỏi, thế nào là mặt trăng?

Pháp Nhãn nói:

- Ngón tay mà ông chẳng hỏi đó là cái gì thế?

Lại có vị tăng hỏi:

- Mặt trăng thì chẳng hỏi, thế nào là ngón tay?

Pháp Nhãn đáp:

- Mặt trăng.

Vị tăng nói:

- Kẻ học nhân hỏi ngón tay, Hoà thượng vì sao lại trả lời mặt trăng?

Pháp Nhãn đáp:

- Vì ông hỏi ngón tay.
  • 7. DUYÊN SANH TỨC VÔ SANH
Thấu đạt vô sanh là hiểu rằng:

Trần cảnh là duyên của tâm, và tâm là nhân của trần cảnh. Nhân duyên hoà hiệp thì các huyễn tướng mới sanh ra. Do từ duyên sanh nên vô tự tánh.

Tại sao thế?

Vì nay trần chẳng thể tự duyên mà phải chờ có tâm. Tâm chẳng thể tự mình làm tâm, tất phải chờ có duyên trần. Do đó, duyên sanh tức vô sanh, chứ chẳng phải bỏ duyên sanh mà nói vô sanh.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 8. YẾU CHỈ VỀ NGUỒN
Quốc Thanh Tịnh hỏi tổ Trường Sa: "Như trong kinh dạy: Không thể lấy cái tâm có chỗ biết mà đo lường nổi cái tri kiến vô thượng của Như Lai, thế thì làm sao?"

Trường Sa nói:

- Ông hãy nói xem: Cứu xét cho cùng cái tâm có chỗ biết này, có thể đo lường được nó chăng? Theo đó mà tin nhập.

Sau này, có vị tăng hỏi:

- Đệ tử mỗi đêm ngồi thiền, tâm niệm tán loạn, chưa biết cách nào nhiếp phục. Xin thầy chỉ bảo.

Quốc Thanh Tịnh trả lời:

- Nếu ban đêm ngồi tịnh mà niệm niệm lăng xăng, thì lấy cái tâm lăng xăng đó cứu xét cái chỗ lăng xăng, thấy nó không có xứ sở, thì cái tâm niệm lăng xăng đó đâu còn.

Cứ xét ngược lại cái tâm, thì cái tâm cứu xét đó đâu có tại chỗ nào? Trí chiếu soi vốn không, cái cảnh để duyên cũng tĩnh lặng vậy. Chiếu mà chẳng chiếu, tuyệt không có cảnh để chiếu soi vậy.

Cảnh trí đều tịch diệt, tâm lượng an nhiên. Ngoài chẳng tìm cầu lấy sự tán loạn, trong chẳng trụ nơi định tĩnh. Hai đường dứt bặt, một tánh rỗng nhiên.

Đây là yếu đạo về nguồn vậy.

Sách Hoàn Nguyên Quán nói: "Do nơi trần tướng mà niệm niệm dời đổi, đó là sanh tử. Do quán trần tướng mà sanh diệt dứt hết, rỗng không, không thật, đó là Niết Bàn".

Cuốn Trí Chứng truyện viết: "Niệm niệm sanh diệt gọi là dời đổi. Quán các pháp ấy không từ đâu khởi lên, không từ đâu diệt mất, ngay đây giải thoát".

Cuốn Tiên quán Kỹ Nhãn viết: "Con mắt không thể tự thấy nó. Nó còn không thể thấy nó, làm sao thấy gì khác?"

Cuốn Thư Quán Tiền cảnh viết: "Nếu cái thấy là cây, thì cây đâu còn?"

Cuốn Thư Quán Tam Tế viết: "Nếu hiện tại là có thì quá khứ vị lai cũng có. Nếu hiện tại là không thì quá khứ vị lai cũng không".

Tổ Quy Sơn dạy: "Phàm cái tâm của đạo nhơn thì ngay thẳng, không sau trước, không hư dối. Trong tất cả thời, thấy nghe bình thường, không quanh co khuất lấp, cũng chẳng bịt mắt che tai, chỉ là tình chẳng dựa vật, thì thật như chư Thánh xưa nay chỉ nói cái lầm hại bên phía dơ uế. Như không có các thứ tưởng tập, biết bậy, tình kiến, bèn như nước thu yên lặng, thanh tịnh vô vi, trong ngần không ngại, gọi đó là đạo nhân cũng gọi là người vô sự".

Kinh Hoa Nghiêm nói:
  • "Một niệm quán khắp vô lượng kiếp.
    Không trụ, không đến cũng không đi.
    Như thế rõ biết sự ba đời.
    Siêu các phương tiện thành thập lực".
Ngoại đạo không đến được chỗ này nên nói: "Ta có hoạn lớn vì ta có thân", bèn lui về Minh đế.
  • 9. KHÔNG ĐÂU CHẲNG KHẮP
Tổ Ma Cốc đang quạt, có nhà sư hỏi:

- Tánh của gió thường trụ, không nơi nào chẳng khắp, Hoà thượng còn động quạt làm gì?

Ma Cốc nói:

- Ông chỉ biết "tánh gió thường trụ" mà không biết chuyện không đâu chẳng khắp.

Nhà Sư nói:

- Thế nào là "Không đâu chẳng khắp?"

Ma Cốc lại phẩy quạt.

Nhà sư làm lễ.

Ma Cốc nói:

- Cái ông sư không có chỗ dùng này, dẫu có ngàn ông thì lợi ích gì!

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Google [Bot]37 khách