DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 10. CHỖ CHẲNG HỀ THAY ĐỔI
Ngài Tào Sơn ban đầu ra mắt Tổ Động Sơn.

Động Sơn hỏi: Thầy Xà Lê tên gì?

Tào Sơn đáp: Bổn Tịch.

Động Sơn hỏi: Hình dạng gì?

Tào Sơn đáp: Chẳng gọi là Bổn Tịch.

Động Sơn nói: Rất là pháp khí vậy.

Từ đó, Tào Sơn được nhập thất, trải qua mấy năm mới xin đi. Tổ Động Sơn ấn truyền "Bảo Cảnh Tam Muội".

Lại hỏi: Ông hướng chỗ nào đi?

Tào Sơn đáp: Đi vào chỗ chẳng hề thay đổi.

Tổ nói: Chỗ chẳng hề thay đổi lại có đi ư?

Tào Sơn đáp: Đi cũng chẳng thay đổi!

Ngài Đơn Hà tụng rằng:
  • "Nhà nhà cửa đóng, ánh trăng trong
    Chốn chốn oanh kêu, dương liễu rung
    Nếu bảo tung hoành không đổi khác
    Cũng như quăng kiếm chém hư không".
Ngài Tăng Phụng Nghi nói: "Tổ Tào Sơn, chánh thiên kiêm đới (sự lý viên dung), có thể nói là được con mắt kim cang. Như định nhìn nhận chỗ không thay đổi, dường vẫn còn cây kiếm, ôi, vi tế thật".
  • 11. THIẾT TRAI
Động Sơn đến Minh Triết.

Minh Triết hỏi:

- Vừa rời chỗ nào?

Động Sơn đáp:

- Hồ Nam.

- Vị quan sát sứ ở đó họ gì?

- Không biết.

- Tên ông ta là gì?

- Không biết.

- Ông ta có trông nom công việc của mình không?

- Tự có thuộc hạ làm việc cho ông.

- Thế ông ta không hề ra vào quan sở sao?

Động Sơn bèn rũ áo đi ra.

Hôm sau Minh Triết nói:

- Lời hôm qua của Thầy, tôi chưa được hiểu rõ lắm. Hôm nay mời thầy nói lại. Nếu nói được, xin thỉnh thầy cùng thọ trai quá hạ.

Động Sơn nói:

- Quá tôn quí vậy:

Minh Triết bèn cho thiết trai.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 12. THẤY TÁNH
Tổ Vân Cư nói: "Cái Tánh trong sạch xưa nay vắng lặng, chẳng chút lay động, không thuộc hữu vô, lìa ngoài nắm bỏ, tánh thể làu làu, vốn tự như nhiên".

Thấy rõ ràng như vậy mới gọi là thấy tánh. Tánh tức Phật, Phật tức tánh, nên nói là "Kiến tánh thành Phật".

Hỏi: Tánh vốn trong sạch chẳng thuộc hữu vô, sao lại còn có thấy?

Đáp: Thấy không chỗ thấy.

Hỏi: Đã không chỗ thấy, sao lại còn có tánh?

Đáp: Chỗ thấy cũng không.

Hỏi: Như vậy thì khi thấy là ai thấy?

Đáp: Không người thấy.

Hỏi: Rốt cùng thì như thế nào?

Đáp: Tính toán hư vọng mà cho là có, liền sanh năng sở, mang tiếng là mê.

Theo cái thấy hư vọng đó sanh chuyện hiểu biết, liền đọa, sanh tử. Người thấy biết rõ ràng thì chẳng có vậy. Suốt ngày thấy mà chưa hề thấy, tìm cầu danh, xứ, thể, tướng, đều chẳng thể được. Năng sở dứt tuyệt gọi là thấy tánh.

Hỏi: Cái tánh này trải khắp nơi chăng?

Đáp: Không đâu chẳng khắp.

Hỏi: Phàm phu đủ chăng?

Đáp: Đã nói là không đâu chẳng khắp thì phàm phu sao lại chẳng đủ?

Hỏi: Cớ sao chư Phật Bồ Tát chẳng bị sanh tử ràng buộc, mà chỉ có phàm phu bị trói cột vào cái khổ này, thì sao trải khắp được?

Đáp: Phàm phu ở ngay tánh trong sạch này vọng thấy có năng có sở, bèn sa vào sanh tử. Chư Phật Bồ Tát khéo biết tự tánh trong sạch nào có hữu vô nên chẳng lập năng sở.

Hỏi: Nếu như vậy thì có người hiểu, có người chẳng hiểu?

Đáp: Cái hiểu còn chẳng thể được, há có người hiểu sao?

Hỏi: Tột lý như thế nào?

Đáp: Ta lấy yếu lý mà nói, ông phải biết rằng tánh trong sạch không có hữu vô phàm thánh, cũng chẳng có người hiểu, người không hiểu. Phàm thánh chỉ có danh. Nếu theo danh mà khởi sanh hiểu biết liền đọa sanh tử. Nếu biết mọi sự đều giả danh, không thật, tức thì không có cái mang danh.

Ngài lại nói: "Đây là chỗ tột rốt ráo: Như cho rằng ta hiểu, kia chẳng hiểu tức là đại bệnh. Thấy có phàm thánh dơ sạch cũng là đại bệnh. Khởi niệm không phàm thánh lại là bác không nhơn quả. Thấy có cái tánh trong sạch để có thể trụ dừng, cũng là đại bệnh. Khởi kiến giải chẳng có trụ dừng cũng là đại bệnh. Như vậy trong tánh trong sạch, chẳng phá hoại phương tiện, ứng dụng mà hưng vận từ bi. Như thế chỗ đạo tràng hưng vận đó, tức toàn tánh trong sạch, nên nói là thấy tánh thành Phật".

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Hoa sen 7
    VĨNH MINH TỨ LIỆU GIẢN
Vĩnh Minh tứ liệu giản có nhiều nhà uyên bác bình giải nhưng hơi ép bên Thiền, do đó tưởng cũng nên triển khai nơi đây để cho Thiền Tịnh được dung thông.
  • Có Thiền, có Tịnh Độ
    Như thêm sừng mãnh hổ
    Hiện thế làm thầy người
    Đời sau thành Phật Tổ.
Thiền là tâm Phật. Tịnh là tướng Phật, toàn tâm hiển tướng, toàn tướng quy tâm cho nên gọi là tịch chiếu.

Nếu lấy tâm bỏ tướng thì mất chiếu.

Nếu lấy tướng bỏ tâm thì mất tịch.

Tịch chiếu đồng thời gọi là Thiền Tịnh.

Chiếu tịch không hai gọi là Tịnh Thiền.

Hiện đời nhất tâm, tương ưng tự tánh gọi là có Thiền.

Lâm chung mười niệm cầu sanh Tây Phương gọi là có Tịnh.

Nếu hiện đời chưa được nhất tâm thì chẳng được gọi là có Thiền. Chỉ còn thoại đầu, chẳng còn tạp niệm gọi là Nhất tâm.

Nếu lúc lâm chung tâm trí hôn ám mê muội không thể niệm lên mười niệm hồng danh A Di Đà Phật cầu sanh Tây phương thì chẳng được gọi là có tịnh.

Vì hiện đời được nhất tâm nên có thể làm thầy hướng dẫn chúng sanh, như mãnh hổ trong đời, muôn thú đều khiếp phục.

Nếu người này phát nguyện sanh qua Cực Lạc thế giới, bằng cách trước giờ lâm chung, niệm lên mười niệm hồng danh A Di Đà Phật thì công đức người này rất lớn, oai lực không chi bằng, như mãnh hổ thêm sừng, liền được vãng sanh thượng phẩm, thấy Phật liền chứng vô sanh pháp nhẫn, được Phật A Di Đà thọ ký, có thể phân thân qua lại mười phương cõi nước độ khắp chúng sanh, nên nói đời sau thành Phật tổ là vậy.
  • Không Thiền, có Tịnh Độ
    Muôn tu, muôn người đỗ
    Khi gặp Phật A Di Đà
    Lo gì không khai ngộ.
Vì hiện đời người này chưa được nhứt tâm, nên gọi là không thiền.

Nhưng lúc lâm chung, hoặc tự mình hoặc được thiện hữu trợ niệm cho, người ấy liền niệm được mười niệm hồng danh A Di Đà Phật tha thiết cầu sanh Tây phương trước khi tắt thở, gọi là có Tịnh độ.

Nếu được như thế thì như trong kinh, dù phạm tội ngũ nghịch mà không huỷ báng chánh pháp cũng được vãng sanh. Đây hoàn toàn do nguyện lực của Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn.

Khi đã gặp Phật rồi thì sớm muộn gì cũng được khai ngộ. Vì sao? Vì chúng sanh đã về cõi ấy rồi đều sẽ là những bậc bất thối chuyển vậy, nên Cổ Đức nói: "Đã không nguyện thì thôi, nếu nguyện liền được sanh. Đã không sanh thì thôi, nếu sanh thì vào bất thối".
  • Có Thiền, không Tịnh Độ
    Mười người, chín ngại lộ
    Khi ấm canh hiện ra
    Thoắt chốc đi theo nó.
Người này hiện đời được nhứt tâm, tương ưng với tự tánh đôi phần, gọi là có Thiền, nhưng chưa phải là cứu cánh nên đường đi chưa suốt khắp, vẫn còn ngần ngại để dọ đường về nhà nên nói "ngại lộ". Đương thời, người này vì mãi tham thiền nên không để ý đến pháp môn Tịnh độ, do đó đến lúc lâm chung cũng không có được mười niệm cầu sanh Cực Lạc, nên không được nguyện lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn, phải tự lực hoàn toàn.

Phần Châu Võ Nghiệp nói: "Khi lâm chung, một mảy tình phàm lượng thánh chưa sạch, chút bụi tư niệm chưa quên, liền tuỳ niệm thọ sanh".

Ấm cảnh tức là cảnh của thân trung ấm, vừa bỏ thân trước chưa thọ thân sau, tình trạng lúc này rất hoang mang, nên kinh nói:
  • "Bồ tát còn mê khi cách ấm,
    Thanh văn còn muội lúc ra thai".
Như con cua bỏ vào nồi nước sôi, hoàn toàn mất tự chủ.
  • Không Thiền, không Tịnh Độ
    Giường sắt cột đồng đỏ
    Trăm kiếp lẫn ngàn đời
    Đều không nơi nương đổ.
Người này hiện đời chưa được nhất tâm nên không có Thiền. Đến lúc lâm chung lại không có được mười niệm hồng danh cầu sanh Cực Lạc trước khi tắt thở nên không có Tịnh độ, không được Phật A Di Đà tiếp dẫn, đường trước mờ mịt chưa biết về đâu.

Luận Quần Nghi nói:

Trong đời có mười hạng người khi lâm chung không niệm Phật được:
  • 1. Không gặp bạn lành, nên chẳng ai khuyên niệm.
    2. Nghiệp khổ bức thiết, không yên ổn để niệm Phật.
    3. Trúng phong cứng họng, không thể xưng danh Phật.
    4. Cuồng loạn mất trí, không thể chú tâm tưởng niệm.
    5. Thoạt gặp tai nạn nước lửa, mất sự điềm tỉnh chí thành.
    6. Bỗng gặp cọp beo ác thú làm hại.
    7. Khi lâm chung bị bạn ác phá hoại lòng tin.
    8. Gặp bạo bệnh hôn mê bất tỉnh mà qua đời.
    9. Bị trúng thương chết giữa quân trận.
    10. Từ trên cao té xuống mà mạng vong.
Thiên Như Duy Tắc Thiền sư nói:

"Giả sử ông không bị những ác duyên đó, chỉ bệnh sơ sài rồi mãn phần, thì lúc sắp chết bốn đại phân ly, gân xương rút chuyển, thân tâm đau đớn kinh hoàng, như con đồi mồi bị lột vảy, như con cua rớt vào nồi nước sôi, làm sao mà niệm Phật? Dù cho ông không bệnh mà chết một cách yên ổn đi nữa, khi lâm chung, hoặc e duyên đời chưa dứt, niệm tục còn vương, nỗi tham sống sợ chết làm cho tâm ý rối loạn phân vân không niệm Phật được. Nếu là người tục thì lại thêm gia vụ chưa xong, việc sau chưa sắp đặt, vợ con kêu khóc trăm mối ưu tư, đâu rỗi rảnh để niệm Phật. Chẳng đợi lúc lâm chung, giả sử trước khi ông chưa chết mà có chút bệnh nơi thân, phải gắng chịu sự đau khổ, rên rỉ không yên, tìm thầy hỏi thuốc, nhờ người cầu an sám hối, tạp niệm rối ren, chưa dễ nhiếp tâm niệm Phật. Dù lúc ông chưa có bệnh, thì bị tuổi cao sức yếu, đủ sự kém suy, áo não buồn than, chỉ lo sự việc trên cái thân già còn chưa xong, chắc chi đã niệm Phật? Ví như lúc ông chưa già, thân lực đang cường tráng, mà còn đeo đẳng việc thế, niệm đời chưa dứt, bôn tẩu Đông Tây, âu lo đủ việc, biển thức mênh mang, làm sao có thể niệm Phật? Dù ông được muôn duyên rỗi rảnh, có chí tu hành, nhưng đối với tướng thế gian, nếu nhìn không thấu, nắm không vững, dứt không xong, khi xúc cảnh chạm duyên, không thể tự chủ, tâm tuỳ theo cảnh mà điên đảo, làm sao yên trí để niệm Phật?"

Cổ Đức nói:

"Lúc tịnh công phu được mười phần thì lúc động chỉ còn một phần.

Lúc động công phu được mười phần thì lúc ngủ quên nằm chiêm bao chỉ còn một phần.

Lúc chiêm bao có được mười phần thì lúc lâm chung tứ đại phân rã các khổ bức thiết, chỉ còn một phần".

Do đó việc dụng tâm hiện nay phải thật là cấp bách khẩn thiết để lúc lâm chung còn được đôi phần. Dù là tu thiền hay tu tịnh, nếu trước giờ lâm chung không có được mười niệm hồng danh, thì không bảo đảm cho sự vãng sanh vậy. Tuy nhiên người tu tịnh độ được lợi thế hơn nhiều, bởi vì hằng ngày thường niệm Phật, thường phát nguyện sanh về cõi Phật A Di Đà, nên lúc hấp hối nếu được bạn lành nhắc nhở lại mà niệm lên Phật hiệu thì người đang hấp hối kia cũng tự niệm theo mà ra đi. Vì thế, việc hộ niệm cho người đang hấp hối rất là cần thiết.

Biết người bệnh không thoát chết được thì cấp tốc đem người bệnh về nhà hoặc về chùa. Tất cả người thân tập trung lại, đồng thanh niệm Phật để thành tựu vãng sanh cho người bệnh. Đừng để chết rồi mới đình đám tưng bừng.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Hoa sen 8
    DI ĐÀ SÁM PHÁP
Di Đà sám pháp:
  • - Thân lễ A Di Đà
    - Miệng niệm A Di Đà
    - Ý nhớ A Di Đà.
Quyết để thành tựu vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. Do đó mỗi ngày hai thời sáng và tối, các hành giả chớ bỏ sót.
  • 1. DÂNG HƯƠNG
(Kẹp một nén nhang vào hai ngón tay giữa như hình vẽ, quỳ trước tượng Phật A Di Đà, đọc:)
  • Nay con một dạ chí thành
    Dâng hương lễ sám, nguyện sanh Liên Trì
    Ngưỡng mong Đại Thánh từ bi
    Phóng soi ánh tịnh gia trì cho con.
    (cắm nhang vào lư).
Chí tâm đảnh lễ:

Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ đại bi A Di Đà Phật (3 lần, 3 lạy).
  • 2. TÁN LƯ HƯƠNG

    Lò hương bi nguyện
    Tỏa khắp hàm linh
    Chỉ nương mười niệm thoát phàm tình
    Chứng ngộ pháp vô sanh
    Như trăng tròn vìn
    Trăng nước hiện quang minh.
    Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần).
  • 3. TRÌ TỤNG: SÁM BỐN MƯƠI TÁM NGUYỆN
  • Pháp mầu vi diệu cao vời
    Muôn kiếp khó gặp, ngàn đời khó thông
    Nay con trì tụng chuyên lòng
    Như Lai thật nghĩa vài dòng mở toang
    Phương Tây tỏa ánh hào quang
    Tiền thân Pháp Tạng đoan trang mở bày
    Nếu không trọn ước nguyện này
    Thề không thành Phật, ta nay tuyên lời:
    Nguyện khi đắc quả Phật rồi
    Nước ta chẳng có ba nơi khổ triền (1)
    Nguyện rằng các chúng nhơn thiên
    Thọ chung dứt hết nghiệp duyên tam đồ (2)
    Sắc thân vàng rỡ thơm tho (3)
    Thể châu óng mượt, dung hoa đẳng đồng (4)
    Đủ đầy sức túc mạng thông
    A tăng kỳ kiếp nhớ lòng chẳng sai (5)
    Mắt trông thấy suốt vạn loài
    Vô biên thế giới hiểu bày toàn thâu (6)
    Tai nghe khắp các tinh cầu
    Thượng tuân Phật sắc, hạ trao pháp lành (7)
    Trời người rỡ rỡ tinh anh
    Tha tâm trí sáng, túc thần siêu nhiên (8,9)
    Chẳng còn tham chấp đảo điên (10)
    Chánh định biến chiếu vô biên hải hà (11)
    Khi ta đắc quả Phật đà
    Thọ Quang lô lượng hằng sa kiếp kỳ (12, 13)
    Dẫu rằng vô lượng Bích chi
    Cũng không đếm hết những vì Thanh Văn (14)
    Tuổi đời của chúng thiên nhân
    Thảy đều vô hạn, trừ phần nguyện riêng (15)
    Những lời bất thiện đều kiêng (16)
    Mười phương chư Phật ngợi khen Di Đà (17)
    Muốn sanh về cõi nước ta
    Dốc lòng mười niệm thiết tha khẩn cầu (18)
    Lâm chung, Thánh chúng dẫn đầu
    Đưa về Lạc Quốc vào ao Liên Trì
    Trừ người ngũ nghịch khinh khi
    Chê bai chánh pháp, khó bề độ nương (19)
    Chúng sanh khắp cả mười phương
    Nơi ta nhớ nghĩ trồng vun cội lành
    Hồi hướng phát nguyện vãng sanh
    Người này chắc được toại thành nguyện chân (20)
    Nước ta toàn chúng thiên nhân
    Ba hai tướng tốt nghiêm thân đủ đầy (21)
    Bồ tát sanh đến cõi này
    Nhứt sanh bổ xứ ở ngày rốt sau
    Trừ người lập thệ hoằng tu
    Làm cho đứng vững đạo mầu chánh chuyên (22)
    Noi theo công hạnh Phổ Hiền
    Cúng dường vô lượng vô biên Giác Hoàng
    Thời gian chừng một bữa ăn
    Là dâng cúng khắp sát trần cõi xa (23)
    Bồ tát trong cõi nước ta
    Muốn cúng liền đủ hương hoa cúng dường (24)
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Nhứt thiết trí diễn đạo huyền (25)
    Kim cương tướng na la diên rỡ ràng (26)
    Đồ dùng trong chúng thiên nhân
    Thể châu chiếu sáng, sắc trần đơm hương
    Dù cho thiên nhãn phi thường
    Cũng không biện được danh phương món đồ (27)
    Dù là Bồ Tát tiểu sơ
    Cõi đây cũng thấy cây to đạo tràng
    Đỉnh cao bốn triệu do tuần
    Linh linh chiếu diệu, hàng hàng chiêu chương (28)
    Thọ trì đọc tụng diễn dương
    Các chúng Bồ Tát đều nương biện tài (29)
    Trí này thâu nhiếp khứ lai
    Nan lường nan đắc, khó ai cận kề (30)
    Nước ta trong suốt pha lê
    Như gương soi thấu bốn bề mười phương (31)
    Nước cây lầu các điện đường
    Muôn hoa khoe sắc, nghìn hương hiệp đồng
    Từ mặt đất đến hư không
    Linh hương tỏa dịu giáp vòng mười phương
    Một khi Bồ Tát ngửi hương
    Liền tu theo hạnh chánh chơn Phật đà (32)
    Quang minh nhu nhuyến của ta
    Các loại chạm đến hóa ra nhẹ vời (33)
    Ai nghe danh hiệu ta rồi
    Vô sanh dĩ chứng thậm nơi tổng trì (34)
    Nữ nào thân gái nhờm ghê
    Nghe danh ta, ắt thoát bề nữ thân (35)
    Vô biên thế giới vi trần
    Nếu có Bồ Tát nghe thầm danh ta
    Liền tu phạm hạnh thuần hòa
    Đến khi đắc quả Phật đà châu viên (36)
    Mười phương thế giới nhơn thiên
    Nghe danh đảnh lễ trì chuyên hạnh lành
    Người này rất được kính tin
    Nơi nơi hoan hỷ giữ gìn tôn ty (37)
    Nước ta ai muốn cần y
    Liền theo tâm niệm đúng kỳ trùm thân (38)
    Tỳ kheo lậu tận xuất trần
    Vô biên an lạc thiên nhân đây bằng (39)
    Hằng sa cõi Phật nghiêm trang
    Cùng là cây báu đạo tràng mười phương
    Cõi đây Bồ Tát tận tường
    Muốn thấy liền thấy như gương soi hình (40)
    Phương xa nghe đến hồng danh
    Bồ Tát đều trọn sắc căn đủ đầy (41)
    Trụ tam muội giải thoát này
    Ở trong một niệm hiển bày càn khôn
    Cúng dường vô lượng Thế Tôn
    Trở về bổn xứ chẳng sờn chẳng lay (42)
    Danh ta đã lọt vào tai
    Mang chung Bồ Tát đầu thai nhà lành
    Một khi Bồ Tát nghe danh
    Vui mừng hớn hở chắc thành quả cao (43)
    Bồ Tát dầu ở phương nào
    Di Đà nghe lọt liền vào định chơn (44)
    Phổ đẳng tam muội chánh nhơn
    Thường thấy chư Phật Thế Tôn diễn bày (45)
    Bồ Tát trong cõi nước này
    Muốn nghe diệu pháp liền hay ứng hòa (46)
    Bồ Tát nghe hiệu Di Đà
    Liền vào bất thối dù xa tinh cầu (47)
    Bồ Tát dầu ở phương nào
    Di Đà nghe lọt, pháp mầu toàn thâu
    Âm hưởng nhẫn trụ buổi đầu
    Nhì nhu thuận nhẫn, ba vào vô sanh
    Trụ ngôi bất thối đặng thành (48)
    Bốn mươi tám nguyện rõ rành phát ra
    Lành thay hùng lực Di Đà!
    Bốn mươi tám nguyện thiết tha độ đời
    Chư thiên liền rải hoa trời
    Sáu phương chấn động, ba thời vang danh.

    Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới
    Đại từ Đại bi A Di Đà Phật
    Nam mô A Di Đà Phật (108 lạy).
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 4. SÁM LIÊN TRÌ

    Liên Trì hoa nở
    In bóng Từ Tôn
    Nhiếp thọ cho con
    Sanh về Lạc Quốc.

    Nay con vì khắp
    Ba cõi bốn ơn
    Pháp giới chúng sanh
    Mà cầu đạo nhiệm.

    Chuyên tâm trì niệm
    Hồng danh Di Đà
    Nguyện được sanh qua
    Tây phương Tịnh độ.

    Xét con phước nhỏ
    Nghiệp nặng chướng dày
    Tạp nhiễm lung lay
    Tán tiêu tịnh đức.

    Nay gieo năm vóc
    Cung đối Từ Tôn
    Bày tỏ một lòng
    Thiết tha sám hối.

    Xưa con gây tội
    Nhiều kiếp đến nay
    Mê bổn tâm này
    Tham si che lấp.

    Ba nghiệp chồng chất
    Như núi Tu Di
    Vô lượng kiếp kỳ
    Nói không thể hết.

    Nghiệp oan đã kết
    Xin đều tiêu tan
    Lập thệ thiết thành
    Đầu gieo sát đất.

    Bỏ hết việc ác
    Làm hết việc lành
    Thệ độ chúng sanh
    Thề thành Phật quả.

    Mong đấng cao cả
    Từ bi mở lòng
    Chứng biết cho con
    Xót thương gia bị.

    Trong cơn mộng mị
    Hay lúc định thần
    Được thấy thân quang
    A Di Đà Phật.

    Rong chơi Cực Lạc
    Của đấng Đạo Sư
    Con được rưới đầu
    Nước thơm cam lộ.

    Từ Tôn che chở
    Tay xoa đầu con
    Áo đắp thân con
    Khiến con nhẹ rủ.

    Sạch trơn chướng cũ
    Thêm lớn căn lành
    Chóng phá vô minh
    Mau tiêu phiền não.
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Con vào diệu đạo
    Tâm mở sáng bừng
    Cảnh thật tịch quang
    Thường ra trước mắt.

    Đến khi mạng hết
    Biết trước ngày giờ
    Tâm không luyến lo
    Thân không bịnh khổ.

    Sáu căn sáng tỏ
    Niệm Phật vãng sanh
    Xả báo an lành
    Như vào thiền tịch.

    A Di Đà Phật
    Thế Chí Quan Âm
    Cùng các thánh hiền
    Tay quang dẫn dắt.

    Tràng phang lầu các
    Hương lạ nhạc trời
    Cảnh Phật đến nơi
    Hiện ra rõ rệt.

    Khiến ai có mặt
    Đều đặng thấy nghe
    Phát lòng Bồ đề
    Mừng vui khen cảm.

    Thân con nhẹ nhõm
    Ngồi đài kim cương
    Mau chóng phi thường
    Bay theo sau Phật.

    Chỉ trong khoảnh khắc
    Như khảy móng tay
    Con đến phương Tây
    Sanh vào ao báu.

    Rồi khi nở hoa
    Thấy Phật thánh hiền
    Nghe tiếng pháp thiêng
    Chứng vô sanh nhẫn.

    Tam muội phấn tấn
    Theo Phật thừa hành
    Thấm thoắt trôi nhanh
    Xin Ngài thọ ký.

    Ba thân bốn trí
    Năm nhãn sáu thông
    Vô lượng nghìn muôn
    Đà La Ni xuất.

    Vô biên công đức
    Đều thảy tựu thành
    Chẳng rời Lạc bang
    Ta Bà hội ngộ.

    Phân thân vô số
    Khắp cả mười phương
    Dùng sức phi thường
    Khó suy khó biện.

    Cùng các phương tiện
    Đưa hết chúng sanh
    Vào chốn an lành
    Tây phương bất thối.

    Nguyện lớn như vậy
    Thế giới vô cùng
    Nguyện con vô chung
    Chúng sanh vô tận.

    Phiền não nghiệp hận
    Cũng lại không cùng
    Đại nguyện của con
    Cũng không cùng tận.

    Nay con phát nguyện
    Lễ Phật sớm chiều
    Công đức bao nhiêu
    Xin đem hồi hướng.

    Bốn ơn đều hưởng
    Ba cõi đặng nhờ
    Pháp giới quần cơ
    Đồng thành chủng trí.
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 5. ĐẢNH LỄ
Nhứt Tâm Đảnh Lễ:
  • - Cực Lạc thế giới
    Vô Lượng Quang
    Vô Biên Quang
    Vô Ngại Quang
    Vô Đối Quang
    A Di Đà Phật.

    - Cực Lạc thế giới
    Diệm Vương Quang
    Thanh Tịnh Quang
    Hoan Hỷ Quang
    Trí Huệ Quang
    A Di Đà Phật.

    - Cực Lạc thế giới
    Nan Tư Quang
    Bất Đoạn Quang
    Vô Xứng Quang
    Siêu Nhựt Nguyệt Quang
    A Di Đà Phật.

    - Cực Lạc thế giới tứ thập bát nguyện
    Phổ độ hàm linh, tướng hảo nan luân.
    Đại từ Đại bi A Di Đà Phật.

    - Cực Lạc thế giới thọ mạng vô biên
    Quang minh vô lượng phổ ứng thập phương
    Lâm chung tiếp dẫn A Di Đà Phật.

    6. HỒI HƯỚNG

    Lễ sám công đức muôn vàn
    Xin đem rưới khắp thế gian phước lành
    Nguyện cho tất cả chúng sanh
    Chóng về cõi Phật, sớm thành vô dư.

    Nguyện bao tội chướng tiêu trừ
    Nguyện được trí tuệ minh sư tuyệt vời
    Nguyện bao phiền não xa rời
    Làm đạo Bồ Tát đời đời nở hoa.

    Tây Phương Tịnh độ là nhà
    Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
    Hoa nở ngộ pháp vô sanh
    Chư tôn Bồ Tát bạn lành với ta.
    • 7. BA TỰ VỀ
    Tự về theo Phật
    Xin nguyện chúng sanh
    Chiếu soi lặng lẽ
    Tâm như hư không

    Tự về theo Pháp
    Xin nguyện chúng sanh
    Vào sâu kinh tạng
    Trí tuệ như biển.

    Tự về theo Tăng
    Xin nguyện chúng sanh
    Khắp nơi hòa hợp
    Đồng tu không ngại.
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • Hoa sen 9
    XƯNG TÁN A DI ĐÀ

    Như cát khắp đại địa
    Đếm còn có thể hết
    Công đức A Di Đà
    Nói chẳng thể hết được

    Dù tột đời vị lai
    Trong vô số ức cõi
    Tán thán cũng chỉ được
    Một phần trong muôn phần

    Con nay xưng tán Phật
    Cũng chỉ là giọt sương
    So với bốn đại hải
    Nên con xưng tán mãi...

    1. MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT ĐỒNG KHEN NGỢI
Về thuở quá khứ có một quốc vương từ bỏ ngôi vua, xuất gia làm Tỳ kheo hiệu là Pháp Tạng. Tỳ kheo ấy đến trước Đức Phật Thế Tự Tại Vương phát nguyện: "Nếu như con thành Phật, nếu vô lượng chư Phật trong mười phương thế giới chẳng đều khen ngợi xưng tụng danh hiệu của con, thì con không ở ngôi chánh giác".

Tỳ Kheo Pháp Tạng ấy nay chính là Phật A Di Đà, hiện đang thuyết pháp tại cõi Cực Lạc, được mười phương chư Phật đồng khen ngợi.
  • 2. SÁU PHƯƠNG ĐỨC PHẬT CỘNG GIA TRÌ
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói kinh A Di Đà, sáu phương các đức Phật hiện ra tướng lưỡi rộng dài để hộ niệm:

Phương Đông có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Đại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm.

Phương Nam có Phật Nhựt Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu Di Đăng, Phật Vô lượng Tịnh Tấn.

Phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang.

Phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhựt Sanh, Phật Võng Minh.

Phương dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp.

Phương trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhứt Thiết Nghĩa, Phật Như Tu Di Sơn.

Như vậy, hằng sa các Đức Phật đều hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới, đồng thanh hộ niệm.
  • 3. MƯỜI BỐN QUỐC ĐỘ NGUYỆN VÃNG SANH
Riêng ở cõi Ta Bà có sáu mươi bảy ức Bất thối Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc, còn số tiểu hạnh Bồ Tát và những chúng sanh tu tập chút ít công đức được vãng sanh nhiều không kể xiết.

Ở mười ba quốc độ kia là cõi nước của các Đức Phật: Viễn Chiếu Như Lai, Bảo Tạng Như Lai, Long Thắng Như Lai, Ly Cấu Quang Như Lai, Đức Thủ Như Lai, Thắng Lực Như Lai, Sư Tử Như Lai, Diệu Đức Sơn Như Lai, Nhơn Vương Như Lai, Vô Thượng Hoa Như Lai, Vô Uý Như Lai. Mỗi quốc độ có từ mười ức cho đến vô số Bồ Tát vãng sanh, còn số tiểu hạnh Bồ Tát và phàm phu thì nhiều không thể kể xiết.

Đó chỉ là lược thuật qua mười bốn quốc độ. Nếu kể tất cả các hàng Bồ Tát ở mười phương thế giới sanh về cõi Cực Lạc thì như Đức Phật bảo: "Dù có nói luôn trong một kiếp cả ngày đêm cũng không thể hết".
  • 4. CÁC ĐẠI BỒ TÁT ĐỀU XƯNG TÁN
Bồ Tát Phổ Hiền nói:
  • "Nguyện tôi đến lúc mạng chung
    Bao nhiêu chướng ngại thảy đồng tiêu pha
    Đích thân gặp Phật Di Đà
    Chỉ trong chớp mắt sanh qua Lạc Thành".
Chẳng những Đức Phổ Hiền tự phát nguyện mà ngài còn hướng dẫn hội chúng Hoa Nghiêm và tất cả chúng sanh đời sau phát nguyện vãng sanh để sớm thành tựu vô thượng Bồ đề.

Thiện Tài đồng tử sau khi tham vấn năm mươi ba vị đại thiện tri thức, chỗ ngộ gần đồng với Phật, đã tuân chỉ Phổ Hiền đại sĩ, phát nguyện vãng sanh Cực Lạc.

Bồ Tát Văn Thù cũng phát nguyện:
  • "Nguyện tôi lúc mạng chung
    Diệt trừ bao chướng ngại
    Thấy Phật A Di Đà
    Vãng sanh An Lạc Quốc".

    5. CHƯ ĐẠI THANH VĂN THẦM COI TRỌNG
Ngài Xá Lợi Phất, kiếp trước đã chứng đến lục trụ, vì ngoại đạo tới xin con mắt mà sanh thối tâm, huống gì hạng phàm phu còn đeo nghiệp chướng. Nên Tiên đức đã bảo: "Số lượng Bồ Tát mới phát tâm nhiều như bông xoài trứng cá, nhưng rốt cuộc chẳng còn bao nhiêu".

Vãng sanh Cực Lạc thì không còn các chướng nạn ấy nữa, đến được chỗ không thối chuyển, nên chư đại thanh văn rất coi trọng sự vãng sanh này.
  • 6. CẢ DÒNG HỌ THÍCH ĐỀU NƯƠNG VỀ
Một thời, khi nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp tại khu rừng Ni câu Đà, vua Tịnh Phạn và bảy vạn người họ Thích đều ngộ vô sanh pháp nhẫn. Đức Phật bảo: "Người họ Thích có trí quyết định nên ở trong Phật pháp được mau an trụ vững vàng. Sau khi mãn thân người này, sẽ đặng vãng sanh Cực Lạc thế giới, gần Phật A Di Đà, sớm thành tựu vô thượng Bồ đề".
  • 7. BỒ TÁT, TỔ SƯ SÁCH TẤN TU
Mã Minh đại sĩ nói: "Do vì chuyên tâm niệm Phật nên tuỳ nguyện được sanh về Tịnh độ thường gần bên Phật, vĩnh ly ác đạo".

Nơi pháp hội Lăng Già, Đức Phật huyền ký:
  • "Sau xứ Nam Thiên Trúc
    Có danh đức Tỳ Kheo
    Tôn hiệu là Long Thọ
    Hay phá hữu vô tông
    Hiển pháp vô thượng thừa
    Chứng sơ Hoan Hỷ địa
    Sanh về nước Cực Lac".
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: DI ĐÀ HUYỀN CHỈ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 8. NGŨ GIA TÔNG PHÁI ĐỀU QUI NGƯỠNG
Những tòng lâm trong thiên hạ đều y theo Bá Trượng thanh quy mà cử hành. Theo thanh quy này thì nghi thức tụng cầu cho những vị tăng bệnh nặng có lời văn như sau: "Phải nhóm chúng lại, tất cả đồng tụng kệ tán Phật A Di Đà, rồi cao tiếng niệm: Nam mô A Di Đà Phật" hoặc trăm câu ngàn câu. Khi niệm xong hồi hướng phục nguyện rằng: "Nếu các duyên chưa mãn, sớm được an lành. Như hạn lớn đến kỳ, sanh về An Dưỡng".

Lại nữa, trong nghi thức đưa những vị tăng đã tịch, có đoạn nói: "Đại chúng đồng niệm A Di Đà Phật, hồi hướng phục nguyện rằng: Thần siêu cõi tịnh, nghiệp dứt đường trần, thượng phẩm sen nở hiện kim thân, nhứt sanh Phật trao phần quả ký". Đến lúc trà tỳ, thanh quy còn dạy:

"Vị Duy Na chỉ dẫn Khánh niệm Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật mười lần, đại chúng đồng xuớng họa theo".

Khi xướng xong lại hồi hướng rằng:

"Trước đây xưng dương mười niệm, phụ giúp vãng sanh".
  • 9. PHẠM TỘI NGŨ NGHỊCH CŨNG VÃNG SANH
Quán Kinh nói rằng, người phạm tội ngũ nghịch cũng được vãng sanh, nhờ lúc lâm chung được những bạn lành dạy bảo niệm đủ mười niệm Nam mô A Di Đà Phật.

Theo kinh Vô Lượng Thọ, người phạm tội ngũ nghịch mà không hủy báng chánh pháp, cũng được vãng sanh.

Ý hai kinh vốn đồng, bởi vì dù phạm tội ngũ nghịch, nhưng lúc lâm chung niệm lên mười niệm hồng danh "Nam mô A Di Đà Phật" thì đâu còn chê bai chánh Pháp nữa.
  • 10. TRẺ CON TỰ BIẾT NIỆM DI ĐÀ
Rất nhiều trẻ con ở cõi này tự biết niệm Phật, hoặc ngồi chắp tay, hoặc đọc danh hiệu Phật khi chào nhau, hoặc lấy đất nén thành tượng Phật.

Đây há không phải do bi nguyện của Phật A Di Đà thấm nhuần đến cõi này là gì?
  • 11. MẠT THẾ CHỈ NƯƠNG HỒNG DANH PHẬT
Đời mạt thế, người tu thì nhiều nhưng chứng đạo rất ít, phần nhiều theo trí thông minh của mình đi lạc đường mà không tự biết, tự xưng là vô thượng sư, tự cho là đến nhà, tự bảo là đại triệt đại ngộ, tự mình lầm đường, lại bảo kẻ khác cùng đi lầm đường, tạo tội vô lượng vô biên. Do đó phải nương vào hồng danh Phật để khỏi lạc đường tu, lại được vãng sanh.
  • 12. LƯU LẠI TRĂM NĂM KINH VÔ LƯỢNG
Đức Phật Thích Ca dạy: "Nay ta nói kinh này khiến cho chúng sanh được thấy Phật Vô Lượng Thọ và quốc độ Ngài. Những ai muốn bước lên đường giải thoát, nên cầu vãng sanh. Pháp môn nầy, mọi người đều có thể tu, chớ vì ta diệt độ rồi mà sanh lòng nghi hoặc.

Trong đời tương lai, khi tam tạng giáo điển đã diệt hết, ta dùng nguyện lực từ bi, lưu kinh này trụ thế thêm một trăm năm. Những chúng sanh nào có duyên được gặp tùy ý mong cầu thảy đều được độ".
  • 13. A DI ĐÀ PHẬT BỐN CHỮ TRUYỀN
Đức Thế Tôn lại nói: "Sau khi kinh Vô Lượng Thọ diệt rồi, Phật Pháp hoàn toàn mất hẳn trong đời, chỉ còn lưu truyền bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sanh. Kẻ nào không tin mà hủy báng sẽ bị đọa vào địa ngục, chịu đủ các thứ khổ".

Nay tóm tắt các ý trên như sau:
  • Mười phương chư Phật đồng khen ngợi.
    Sáu phương đức Phật cộng gia trì.
    Mười bốn quốc độ nguyện vãng sanh.
    Các đại Bồ Tát đều xưng tán.
    Chư đại thanh văn thầm coi trọng.
    Cả dòng họ Thích đều nương về.
    Bồ Tát Tổ Sư sách tấn tu.
    Ngũ gia tông phái đều quy ngưỡng.
    Phạm tội ngũ nghịch cũng vãng sanh.
    Chim muông, gà ngỗng đều thành tựu.
    Trẻ con tự biết niệm Di Đà.
    Mạt thế chỉ nương hồng danh Phật.
    Lưu lại trăm năm kinh Vô Lượng.
    A Di Đà Phật bốn chữ truyền.

    HỒI HƯỚNG

    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Quyển "Di Đà Huyền Chỉ" ra đời, nếu có chút công đức nào xin đem hồi hướng đến khắp chúng sanh, lâm chung được bạn lành hộ niệm, thành tựu vãng sanh Cực Lạc thế giới, rộng độ chúng sanh đồng thành Phật đạo.
  • Pháp mầu vi diệu cao vời
    Muôn kiếp khó gặp ngàn đời khó thông
    Nay con trì tụng chuyên lòng
    Như Lai thật nghĩa vài dòng mở toang.

    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
- HẾT -
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.32 khách