NIỆM PHẬT CẢNH

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • IX. MÔN THÂU NHIẾP MỌI GIÁO PHÁP
Pháp niệm Phật bao gồm hết thảy tài hùng biện vô ngại, bố thí, trai giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và phương tiện, nguyện, lực, trí đều đầy đủ. Do niệm Phật nên giống như Bảo Châu Như Ý cầu gì được nấy.

Nếu tự mình có thể niệm Phật, lại chỉ dạy cho người khác niệm Phật tức đồng với Bố thí.

Do niệm Phật nên diệt trừ các tội lỗi, tức là trì giới. Pháp ác không sinh khởi, tức là Nhẫn nhục.

Đi, đứng, nằm, ngồi, danh hiệu Phật chẳng rời tâm miệng tức là Tinh tấn.

Tin sâu không nghi, chí thành niệm Phật vãng sinh Tịnh Độ không còn thối chuyển, tức là Thiền định.

Do dụng công niệm danh hiệu Phật lâu ngày nên tất cả các kinh giáo vừa xem liền hiểu, đó là Trí tuệ.

Thế nên, niệm Phật bao gồm hết thảy tài hùng biện vô ngại. Hơn nữa, y theo niệm Phật mà thâu nhiếp quả báo của Lục độ. Tại sao?

Do niệm Phật nên vãng sinh Tịnh độ, y phục, thức ăn tự nhiên hiện ra, tiền của vật báu đều đầy đủ, tức là thâu nhiếp Bố thí.

Do niệm Phật nên vãng sinh Tịnh Độ được thân nam tử, đủ sáu thứ thần thông, tức là thâu nhiếp Trì giới.

Do niệm Phật nên vãng sinh Tịnh Độ được đoan chánh, đáng ưa, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tức là thâu nhiếp Nhẫn nhục.

Do niệm Phật nên sinh về cõi kia rồi không còn duyên gì khác, vì thường ở trong Tam muội, đó là Thiền định.

Sinh về cõi nước kia rồi, tự nhiên hiểu rõ tất cả các pháp, gọi đó là Trí tuệ.

Thế nên, một pháp môn niệm Phật thâu nhiếp quả báu của Lục độ, vượt hơn sự bốthí tiền của gấp trăm ngàn vạn lần. Kinh Niết Bàn nói: "Một tiếng niệm Phật phân làm mười sáu phần công đức. Nếu có một người bố thí cho chúng sinh khắp thế giới trải qua ba tháng, nhưng chỉ đem một một phần trong mười sáu phần công đức của một tiếng niệm Phật thì cũng hơn công đức của người bố thí kia".

Thế nên biết, niệm Phật hơn cả sự bố thí tiền của gấp trăm ngàn vạn lần.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • X. MÔN PHÁ TRỪ NGHI HOẶC
Hỏi: Nay có những nghi hoặc xin được đoạn trừ.

Kinh Bát Nhã nói:
  • "Nếu dùng sắc thấy ta
    Dùng âm thanh cầu ta
    Người ấy hành tà đạo
    Không thể thấy Như Lai".
Vậy thì sao niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh Độ, được thấy Như Lai?

Đáp: Kinh Bát Nhã bảo rằng, không thấy Như Lai là vì chấp vào tướng mạo cùng với âm thanh, đó đều là mong cầu nhân ngã ; không cầu vãng sinh và đạo Giác ngộ Vô thượng nên chỉ là thực hành đạo tà, không thấy Như Lai.

Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà, cần phải phát khởi tưởng niệm và chuyên xưng danh hiệu, chẳng cần nhân ngã, chỉ cầu mong vãng sinh Tịnh Độ, mau chứng đắc đạo Giác ngộ Vô thượng, gọi là đạo chân chánh, được thấy Như Lai.

Nếu nhìn thấy Pháp thân thì vô tướng là chánh, sắc tướng âm thanh là tà. Đây là đối với hàng Bồ tát Thập địa trở lên.

Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà, quán xét một tướng hảo cùng với nghe danh hiệu, thấy Báo thân Như Lai. Đây là đối với phàm phu, Nhị thừa và các Bồ tát nhỏ.

Nếu nhìn về Báo thân, quán tưởng Phật, xưng danh hiệu là chánh, vô tướng là tà. Nếu đối với Pháp thân, tức luận về vô tướng.

Vả lại lúc nói kinh Bát Nhã, Thế Tôn lên cung trời Đao Lợi nói pháp cho mẹ nghe. Khi ấy, Thế Tôn từ cõi trời trở lại Diêm Phù Đề. Tu Bồ Đề nghĩ nhớ Thế Tôn nên nhập định quán Phật. Bấy giờ có một Thiên nữ không biết nguyên do đến diện kiến Phật trước. Đã gặp đức Phật rồi, Thiên nữ liền hỏi Phật:

- Có phải con là người thấy Phật trước nhất không?

Thế Tôn đáp:

- Con là người thấy Phật sau.

Thiên nữ thưa:

- Con đến đây trước nhất, không thấy ai tới gặp Phật. Vì sao Như Lai lại nói con thấy sau ?

Thế Tôn nói:

- Con Tu Bồ Đề nhập định trước, trừ bỏ nhân ngã, quán xét thấy Pháp thân trước Thiên nữ, thế nên thấy Phật trước. Con vì khởi tâm nhân ngã quán xét về sắc thân ta nên thấy Thế Tôn sau.

Đức Phật vì Thiên nữ ấy, nên nói bài tụng:
  • "Nếu dùng sắc thấy ta
    Dùng âm thanh cầu ta
    Người ấy hành tà đạo
    Không thể thấy Như Lai".
Bài tụng này là đối với ngoại đạo, có ích cho đương thời, không trái ngược với việc đời vị lai, nhưng khác với kinh Quán Vô Lượng Thọ.

Hơn nữa, kinh Bát Nhã vì ngăn ngoại đạo chấp tứ đại, ngũ uẩn là thường, chấp hình sắc là ngã, chấp âm thinh là ngã, cho nên kinh Bát Nhã ngăn ngoại đạo kia mới nói rằng không thấy Như Lai.

Nay y theo các kinh Quán Vô Lượng Thọ... nói về môn chán lìa, nguyện lìa sinh tử, mau chóng vãng sinh Tịnh Độ, sớm chứng ngộ Bồ đề, chẳng quán tưởng tướng ngã liền thấy Như Lai, không đồng với Bát nhã. Nếu có thể chí thành niệm Phật, những tội lỗi vô gián thảy đều tiêu diệt.

Hỏi: Luận vãng sinh nói: "Người nữ, kẻ tàn tật, hàng Nhị thừa không sinh".

Kinh Quán Vô Lượng Thọ vì sao lại nói bà Vi Đề Hy cùng với năm trăm thị nữ đồng được vãng sinh, ba người hàng Trung phẩm và Nhị thừa vãng sinh?

Đáp: Theo Luận Vãng Sinh nói người nữ, Nhị thừa không vãng sinh là bởi không có tâm quyết định vãng sinh.

Người nữ bởi yêu thân nữ không cầu Tịnh Độ, chẳng chịu niệm Phật, nên luận ấy ngăn rằng không vãng sinh. Nhị thừa là người tàn tật cũng như thế, chỉ trụ ở quả vị nhỏ không cầu vãng sinh Tịnh Độ, không biết niệm Phật cho nên không vãng sinh. Nhưng các kinh Quán Vô Lượng Thọ và A Di Đà nói hàng Nhị thừa, người tàn tật, người nữ biết hồi tâm niệm Phật, chán ghét thân nữ đều được vãng sinh.

Từ đây trở về sau là luận bàn so sánh với các pháp, được chia làm sáu phần:
  • 1. Môn niệm Phật đối với Tam Giai(4)
    2. Môn niệm Phật đối với niệm Di Lặc.
    3. Môn niệm Phật đối với tọa thiền.
    4. Môn niệm Phật đối với giảng thuyết.
    5. Môn niệm Phật đối với giới luật.
    6. Môn niệm Phật đối với Lục Độ.
CHÚ THÍCH

(4) Tam Giai: Là tông phái Phật giáo, do ngài Tín Hạnh (540-594) đời Tùy sáng lập, đến giữa đời Đường bị đình chỉ. Tín Hạnh tự xưng là Bồ tát Nhất thừa, đề xướng Phật giáo ở giai đoạn thứ ba, phế bỏ giới Cụ túc, cường điệu khổ hạnh, nhẫn nhực, làm việc lao nhọc, đồng thời dùng phương pháp khuất thực để sống, một ngày ăn một bữa. Phản đối sùng bái hình tượng mà chỉ lễ bái tháp. Cho rằng tất cả chúng sinh đều là Phật thật, nên trên đường gặp nam nữ đều lễ bái. Dốc lòng đề xướng bố thí.

Sau khi chết để thi thể ở rừng núi cho chim thú ăn, gọi là dùng thân bố thí. Phản đối pháp niệm Phật tam muội của tông Tịnh Độ, chủ trương không niệm Phật A Di Đà, chỉ niệm Bồ tát Địa Tạng.

Những tông chỉ này rất trái ngược với lý luận và sự hành trì trong giới Phật giáo đương thời, do đó không ngừng bị đả kích, cuối cùng đi đến chỗ chấm dứt.

Tông này đem giáo lý đức Phật xét về thời, xứ, cơ (chỉ cho người) mà phân ra làm ba giai đoạn :

- Thứ nhất là thời kỳ chánh pháp:

"Xứ" là nước Phật.

"Cơ" chỉ có Phật, Bồ tát.

Phương pháp tu trì là Nhất thừa.

- Giai đoạn thứ hai là thời kỳ tượng pháp:

"Xứ" là các thế giới xấu, ác, ngũ trược.

"Cơ" là phàm, Thánh lẫn lộn.

Lưu hành Đại, Tiểu thừa (Ba thừa).

- Giai đoạn thứ ba là thời kỳ mạt pháp:

"Xứ" là các thế giới xấu, ác trược, nhưng con người đều hiểu và làm theo tà vạy.

Ngài Tín Hạnh cho rằng đương thời đã tiến vào thời kỳ mạt pháp trong giai đoạn thứ ba, con người thật khó thực hành được như hai thời kỳ trên.

Thế nên cần phải y theo phương pháp phổ biến của giai đoạn thứ ba, quy y tất cả Tam Bảo, đoạn trừ tất cả việc ác, tu trì tất cả điều lành, mới dễ thành tựu. Đây là chủ trương căn bản của tông Tam Giai.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • * Một là môn niệm Phật đối với Tam Giai:
Hỏi: Pháp của Phái Tam Giai không ngồi giường chư Tăng, không ăn thức ăn của chư Tăng. Trong pháp niệm Phật chưa biết có cho dùng thức ăn của chư Tăng, ngồi giường chư Tăng và ăn sau giờ ngọ hay không?

Đáp: Trong pháp niệm Phật đều cho phép ngồi giường chư Tăng và được ăn sau giờ ngọ. Tại sao?

Vì người niệm Phật có thể hưởng phước báo của Như Lai, cũng như vương tử hưởng lộc vua. Vả lại, Phật cũng như cha mẹ, người niệm Phật cũng như con trai, con gái, nên được nhận thức ăn, y phục, giường chõng, gối mền của cha mẹ. Thế nên, đều cho phép ngồi giường chư Tăng, đồng thời cho phép ăn sau giờ ngọ.

Hỏi: Không ngồi giường chư Tăng, không ăn thức ăn của chư Tăng, tức là người tu hành. Vậy thì kẻ thấp hèn quê mùa ở vùng biên địa lẽ phải là người tu hành. Tại sao?

Đáp: Kẻ thấp hèn quê mùa ở vùng biên địa không ngồi giường chư Tăng, không dùng thức ăn chư Tăng nhưng họ chẳng có đạo, nên người theo pháp Tam Giai này cũng chẳng phải tu đạo.

Hỏi: Phái Tam Giai cho rằng chúng sinh thời mạt pháp đều xấu ác, thế thì người niệm Phật là chúng sinh tốt hay cũng là chúng sinh xấu ác?

Đáp: Người niệm Phật không phải là chúng sinh xấu ác. Do đâu biết được điều đó? Theo kinh nói: "Người niệm Phật là hoa sen trắng trong trời, người". Hoa này là hoa đẹp nhất trong các loài hoa. Người niệm Phật là người tốt nhất trong tất cả mọi người, nên lấy hoa ấy làm ví dụ. Vì họ diệt trừ mọi tội lỗi cho nên là chúng sinh tốt. Người theo phái Tam Giai làm tội, không diệt trừ cho nên làm chúng sinh ác.

Hỏi: Nếu cho rằng chúng sinh tội ác tức là người tu đạo, vậy những kẻ xấu xa cũng là người tu đạo. Tại sao?

Đáp: Chúng sinh tội ác và những kẻ xấu xa kia chẳng phải là người tu đạo, nên các người theo phái Tam Giai này cũng chẳng phải là người tu đạo.

Hỏi: Theo pháp của phái Tam Giai không cho phép vào chùa, pháp niệm Phật có cho phép vào chùa không?

Đáp: Trong pháp niệm Phật cho phép trụ trì chùa chiền. Tại sao? Vì hiện tại trụ trì chỗ tốt đẹp, về sau sẽ sinh về cõi nước tốt đẹp, sẽ chứng Bồ đề. Cho nên được trụ trì chùa, vào những chỗ tốt đẹp già lam, Tịnh xá.

Những chỗ tốt đẹp như già lam, Tịnh xá, không để cho chúng sinh tội ác ở. Quả vi diệu thù thắng vô thượng, chúng sinh tội ác không thể đạt được.

Hỏi: Trong pháp Tam Giai thấy hình tượng cùng với kinh điển không cung kính nhiều, vì đó là gỗ đất; bốn loài chúng sinh là Phật thật cho nên cung kính. Trong pháp niệm Phật chưa biết có kính tượng Phật và kinh điển không?

Đáp: Pháp niệm Phật nói: Thấy hình tượng Phật và kinh điển đều phải cung kính. Tại sao?

Theo trong lời kinh Báo Ân nói: Phật Thích Ca Mâu Ca lên cõi trời Đạo Lợi thuyết pháp cho phu nhân Ma Gia nghe, phải trải qua chín mươi ngày. Đại vương Ưu Trấn nghĩ nhớ Thế Tôn nhưng không thể gặp. Vua bèn sai thợ điêu khắc giỏi, làm một hình tượng giống y như Phật.

Thế Tôn từ cõi trời trở về Diêm Phù Đề, vua Ưu Trấn cùng các quần thần bèn đi đón Phật. Tượng Phật ấy cũng nghinh đón Thế Tôn. Thế Tôn cùng với tượng Phật đều đứng một nơi, hai vị Phật tương đương như nhau. Thế Tôn bèn dùng tay xoa đầu tượng Phật nói rằng: "Ta không bao lâu sẽ nhập Niết Bàn, lưu ông ở lại thế gian lâu dài để giáo hóa chúng sinh".

Thế Tôn còn tự kính hình tượng Phật. Chúng sinh tội ác lẽ nào lại không kính trọng hay sao?

Lại theo kinh Thập Luân nói: "Thợ săn mặc áo Cà sa, voi khởi tâm cung kính. Do công đức kính áo Cà sa, nên lúc mạng chung voi được sinh lên cõi trời Đao Lợi, trải qua chín mươi mốt kiếp thọ hưởng mọi điều vui thích".

Tại sao?

Bởi tương tự như nhau. Hình tượng của chư Phật cũng như thế, vì tương tợ như Phật thật. Người cung kính tượng Phật cảm được tôn quí vinh hoa, sinh về cõi trời, sinh về cõi trời hay Tịnh độ. Cho nên trong kinh Phật Danh nói: "Có Phật Lô Xá Na kính hình tượng Phật".

Phật Lô Xá Na còn tự mình kính hình tượng Phật, huống gì kẻ phàm phu lại không tôn kính hay sao?

Kinh Hoa Nghiêm còn nói: "Niệm Phật tam muội sẽ thấy Phật, sau khi mạng chung sinh ở trước Phật. Do đó, khi người kia sắp lâm chung, khuyên bảo họ niệm Phật, dạy họ tôn trí tượng Phật để chiêm ngưỡng cung kính".

Thế nên biết, trong kinh Hoa Nghiêm còn bảo cung kính hình tượng Phật, tại sao phái Tam Giai lại nạn rằng: Tất cả hình tượng là gỗ đất, nên đem thức ăn đến không ăn được. Tất cả trâu lừa là Phật thật, nên đem thức ăn đến liền dùng được. Tất cả hình tượng là gỗ đất, nên cúng dường y phục không mặc được?

Tất cả chúng sinh là Phật thật, thế thì côn trùng được y phục làm sao mặc?

Nếu tất cả chúng sinh là Phật thật thì không nên tổn hại. Trong một năm lại tổn hại chúng sinh vô số. Tội lỗi giết hại Phật làm sao trừ được?

Nếu tất cả chúng sinh là Phật thật, nên đặt để ở chỗ sang trọng. Thân mình đã ở nơi phòng nhà tốt đẹp, còn Phật ở nơi xấu, lẽ nào lại bình đẳng?

Hỏi: Người theo pháp Tam Giai niệm danh hiệu Bồ tát Địa Tạng được bao nhiêu công đức, có giống như niệm Phật A Di Đà không?

Đáp: Niệm Phật A Di Đà công đức nhiều hơn niệm Bồ tát Địa Tạng gấp trăm ngàn muôn lần. Do đâu biết được điều đó?

Theo Phẩm Phổ Môn nói: "Có một người cúng đường chư Bồ tát nhiều gấp sáu mươi hai ức lần số Bồ tát nhiều như cát sông Hằng, chẳng bằng một thời lễ bái cúng dường Bồ tát Quán Thế Âm".

Kinh Thập Luân nói: "Một trăm kiếp niệm Bồ tát Quán Thế Âm, chẳng bằng khoảng thời gian một bữa niệm danh hiệu Bồ tát Địa Tạng".

Tịnh độ Quần Nghi Luận nói: Một địa kiếp niệm danh hiệu Bồ tát Địa Tạng, chẳng bằng niệm một tiếng Phật A Di Đà.

Tại sao như thế?

Vì Phật là Pháp Vương, Bồ tát chỉ là bề tôi. Như vua khi đi ra, đại thần ắt tùy tùng, lớn có thể thâu nhiếp nhỏ. Phật là bậc giác ngộ trọn vẹn, đạo quả viên mãn vượt qua mọi địa vị. Cho nên người xưng niệm Ngài được công đức nhiều nhất, vượt hơn Bồ tát Địa Tạng gấp mấy trăm ngàn muôn lần. Bồ tát chưa thuộc về địa vị Phật, đạo quả chưa viên mãn nên công đức còn ít.

Hỏi: Niệm Phật là Nhất thừa, tại sao phái Tam Giai chẳng phải là Nhất thừa?

Đáp: Vì nếu là Nhất Giai thì có thể cho là Nhất thừa, đã là Tam Giai đâu thành ý nghĩa Nhất thừa. Vả lại, theo kinh Pháp Hoa nói:
  • "Trong cõi Phật mười phương,
    Chỉ có pháp Nhất thừa.
    Không hai cũng không ba,
    Trừ Phật phương tiện nói".
Nói "không hai", nếu nhìn về Bồ tát thì không có Duyên giác. Nói "không ba" là nếu nhìn về Duyên giác thì không có Thanh văn.

Lại nói "không hai", nếu nhìn về Phật mà nói tức là Nhất thừa, không có Thanh văn, Duyên giác. Tại sao? Vì quả vị cùng tột của Nhị thừa là Sơ địa của Đại thừa, cho nên nói "không hai".

Nói "không ba" tức không có Bồ tát thừa, vì nhân quả của Thập Địa chưa cùng tột, cho nên bảo rằng không có ba thừa.

Theo kinh Pháp Hoa nói:
  • "Chỉ có một Phật thừa,
    Phương tiện nên nói hai.
    Nay nói thật với ông,
    Ông được chẳng phải diệt.
    Vì Nhất thiết trí Phật
    Nên phát đại tinh tấn.
Thế nên biết, Phật là bậc giác ngộ trọn vẹn, đạo quả viên mãn, là tối thượng thừa, là địa vị cứu cánh nên gọi là Nhất thừa. Các thừa khác thật ra không thể sánh kịp. Vì niệm Phật là pháp Nhất thừa nên Hòa thượng Đại Hạnh lúc còn sống cũng có mấy người theo pháp Tam Giai, bỏ pháp ấy quy y với Hòa thượng mà niệm Phật.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • * Hai là môn niệm Phật đối với niệm Di Lặc:
Hỏi: Niệm Phật A Di Đà so với niệm Bồ tát Di Lặc công đức nhiều ít thế nào?

Đáp: Niệm Phật A Di Đà công đức nhiều hơn niệm Bồ tát Di Lặc gấp trăm ngàn muôn lần.

Do đâu biết được điều đó?

Theo trong kinh nói, Phật A Di Đà hiện là bậc giác ngộ trọn vẹn, đạo quả viên mãn, vượt qua mọi địa vị, người xưng niệm ngài được công đức nhiều nhất. Bồ tát Di Lặc hiện còn trong địa vị Bồ tát, chưa vượt qua các địa vị, đạo quả chưa viên mãn, cho nên người xưng niệm được công đức ít hơn.

Hỏi: Tại sao không niệm Di Lặc để sinh về cõi trời Đâu Suất, mà niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh Độ?

Đáp: Vì trời Đâu Suất chưa ra khỏi ba cõi, lúc quả báo cõi trời đã hết đọa vào Diêm Phù Đề, cho nên chẳng nguyện sinh về cõi trời.

Nếu vãng sinh Tịnh Độ thì ra khỏi ba cõi, dứt hẳn sáu đường, vừa sinh về cõi nước kia tiến thẳng tới Bồ đề không còn đọa lạc. Thế nên, nguyện sinh về Tịnh Độ.

Vả lại, trời Đâu Suất thọ hưởng vui sướng trong thời gian ngắn. Còn ở cõi Phật A Di Đà vui vẻ hơn hết, nên gọi là Cực Lạc, được thọ hưởng niềm vui lâu dài, không hạn định thời gian.

Vì lý do đó, Cực Lạc hơn Đâu Suất gấp trăm ngàn muôn lần. Do đâu biết được điều đó? Trong kinh nói:

- Một là thân tướng thù thắng: Cõi nước của Phật A Di Đà, chúng sinh được sinh về đủ ba mươi hai tướng tốt, còn người ở trời Đâu Suất không đủ tướng đó.

- Hai là đồ chúng thù thắng: Đã sinh về Tịnh Độ cùng làm bạn lữ với chư Bồ tát, thọ thân nam tử không có tướng nữ nhân. Trời Đâu Suất nam nữ lẫn lộn, chẳng đồng với Bồ tát.

- Ba là thọ mạng thù thắng: Ở cõi trời Đâu Suất sống lâu bốn ngàn năm thì đọa trở lại Diêm Phù Đề. Cõi Phật A Di Đà, chư Bồ tát đều có sáu thứ thần thông. Ở trời Đâu Suất, con người không có thần thông.

- Bốn là quả báo thù thắng: Ở cõi nước Phật A Di Đà mọi y phục, ẩm thực, hoa hương, anh lạc, tất cả vật dụng của chúng sinh tự nhiên hóa thành không cần làm ra, thọ dụng lâu dài, không bao giờ hết. Cõi trời Đâu Suất phải làm mới thành, dù có y phục tự nhiên cũng không được lâu dài. Sau bốn ngàn năm, khi sắp mạng chung có năm tướng suy hao:
  • 1. Hoa trên đầu héo.
    2. Nơi nách ra mồ hôi.
    3. Đứng ngồi bất định.
    4. Khí lực suy yếu, chư Thiên không còn thân thiện.
    5. Thân tâm nhiều xao động.
Thế nên, cõi nước Cực Lạc thù thắng hơn cõi trời Đâu Suất gấp trăm ngàn muôn lần.

Hỏi: Sau này, lúc ngài Di Lặc hạ sinh thuyết pháp ba hội, độ các chúng sinh được quả A la hán. Như thế tại sao không nguyện cầu sinh cõi trời Đâu Suất lại nguyện về cõi Phật A Di Đà?

Đáp: Ngài Di Lặc chưa hạ sinh nên không thể đợi được. Do đâu biết được điều đó?

Trong kinh nói: "Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni vào Niết Bàn, trải qua năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm, ngài Di Lặc mới xuất hiện. Khi con người sống lâu tám mươi bốn ngàn tuổi, Bồ tát Di Lặc mới ra đời".

Theo Pháp Vương Bổn Ký, từ khi Phật Thích Ca nhập Niết Bàn đến nay mới có hơn một ngàn bảy trăm năm, hoàn toàn chưa dự định được, còn xa diệu vợi không thể chờ đợi. Chúng sinh mạng ngắn, e rằng trong biển khổ nhiều kiếp chịu tai ương, không được gặp ngài Di Lặc. Chỉ có Phật A Di Đà đang thuyết pháp ở thế giới Cực Lạc, hóa độ mọi chúng sinh. Người nương về Tây Phương sớm chứng đạo quả hơn Đâu Suất của ngài Di Lặc gấp trăm ngàn muôn lần.

Giả sử ngài Di Lặc trong ba hội, thuyết pháp hóa độ mọi người được A la hán nhưng quả cùng tột của Tiểu thừa nếu so với Đại thừa mới đến Sơ địa. Nếu phải chờ đợi thời gian dài như thế thì muôn ngàn chúng sinh chẳng được gặp Phật Di Lặc.

Niệm Phật A Di Đà cầu sinh Tịnh Độ, tức là Bồ tát Bát Địa trở lên. Mau một niệm đến mười niệm, chậm một ngày đến bảy ngày xưng niệm Phật A Di Đà liền vãng sinh Tịnh Độ, thật hơn niệm danh hiệu ngày Di Lặc gấp trăm ngàn muôn lần.

Vả lại, lúc Phật bổn sư Thích Ca nói kinh Di Đà, Bồ tát Di Lặc cũng ở trong pháp hội ấy, trong kinh nói Bồ tát A Dật Đa chính là ngài. Bồ tát Di Lặc còn niệm Phật A Di Đà, huống chi các chúng sinh đời vị lai lẽ nào lại không niệm Phật?

Hòa thượng Đại Hạnh khi còn sống, có mấy người niệm danh hiệu Di Lặc hồi tâm trở lại theo ngài niệm Phật A Di Đà.

Hơn nữa, pháp môn niệm Phật theo lời dạy trong kinh, sau này trong thời mạt pháp, lúc giáo pháp đều diệt hết chỉ còn chánh pháp niệm Phật này tồn tại một trăm năm giáo hóa chúng sinh. Vì thế nên biết, pháp niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn.
  • * Ba là niệm Phật đối với tọa thiền:
Hỏi: Niệm Phật A Di Đà sao bằng tọa thiền, xét tâm Quán vô sinh?

Đáp: Niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh Độ, mau thành tựu quả Phật hơn môn quán Vô sinh gấp trăm ngàn muôn lần. Do đâu biết được điều đó?

Theo kinh Duy Ma nói: "Ví như trong hư không tạo lập nhà cửa, rốt cuộc không thể thành; xây dựng ở trên mặt đất tùy ý vô ngại".

Quán tâm Vô sinh cũng như thế. Tại sao? Vô sinh tức là vô tướng. Vô tướng tức là hư không, cho nên khó thành tựu.

Pháp niệm Phật Sự Lý song tu, giống như ở trên mặt đất xây dựng nhà cửa nên dễ thành. Như người nghèo thiếu thốn tiền của mà học theo vương gia tạo lập vương phủ, tuy có được một số cây gỗ nhưng đến chết rốt cuộc cũng chẳng thể thành. Về sau cây gỗ mục, uổng phí công trình nhưng không có sự thành tựu. Quán vô sinh cũng như thế, vì pháp tài công đức chẳng thành tựu, uổng dụng công phu nhưng không có lợi ích.

Pháp môn niệm Phật không như thế, bởi niệm một tiếng Phật diệt trừ tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp, lại được công đức vi diệu trong tám mươi ức kiếp, như nhà giàu xây dựng dinh phủ liền thành tựu.

Cho nên, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói, do nguyện lực xa xưa của đức Như Lai ấy, nên có người nghĩ nhớ về ngài tất được thành tựu, không đồng với Quán vô sinh. Tại sao?

Trong kinh Pháp Hoa cũng nói: "Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi nơi đạo tràng mười kiếp, Phật Pháp không hiện ra, không thành Phật đạo".

Không hiện ra tức là Vô sinh, đã là mười kiếp không được thành Phật thì nên biết là thành Phật chậm.

Còn như niệm Phật, chậm là bảy ngày, nhanh một ngày, mau chóng vãng sinh Tịnh Độ, tức là Bồ tát Bát Địa trở lên. Tại sao? Vì nương nơi nguyện lực của Phật.

Hỏi: Công đức Quán tâm so với công đức niệm Phật nhiều ít thế nào?

Đáp: Công đức Quán tâm so với công đức niệm Phật ít hơn trăm ngàn muôn lần. Do đâu biết được điều đó?

Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Niệm Phật một tiếng diệt trừ tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp, được công đức vi diệu trong tám mươi ức kiếp".

Một lần Quán tâm chưa biết diệt trừ bao nhiêu tội lỗi, được bao nhiêu công đức. Không nói diệt bao nhiêu ức tội lỗi trong sinh tử, không nói địa ngục đều tiêu diệt, vãng sinh Tịnh độ, thế nên biết, công đức của Quán tâm ít hơn công đức niệm Phật trăm ngàn muôn lần.

Hỏi: Niệm Phật vãng sinh được quả báo gì? Quán vô sinh thành tựu quả báo gì? Hai pháp ấy loại nào hơn?

Đáp: Niệm Phật vãng sinh được ba mươi hai tuớng tốt, đủ sáu thứ thần thông, sống mãi không chết, vượt qua ba cõi, thẳng tiến thành Phật, không còn đọa lạc. Thánh chúng Bồ tát cùng làm bạn lữ, Phật A Di Đà tự thân thuyết pháp.

Còn Quán vô sinh khi được thành tựu, sinh lên cõi trời Trường Thọ, trải qua tám muôn Đại kiếp lại đọa vào đường ác.

Trong pháp Quán vô sinh, muôn người thành tựu không được một, vì không hợp thời. Giả sử có được thành tựu, sinh lên trời Trường Thọ vẫn không ra khỏi ba cõi.

Nói một cách xác thực, cõi Tịnh Độ thù thắng gấp trăm ngàn muôn lần cõi trời Trường Thọ.

Hỏi: Theo pháp Quán vô sinh, chỉ dạy quán xét tâm, tâm ấy là xanh, hay là vàng, đỏ, trắng? Người quán xét có thành tựu hay không thành tựu.

Đáp: Quán tâm Vô sinh chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, chẳng phải không nói là thành hay không thành. Vì tâm không tướng mạo nên không có thành tựu, uổng phí công phu, luống nhọc nào có ích gì!

Hỏi: Nếu lúc quán xét tâm được thành Phật thì khi nhìn áo liền được ấm, nhìn thức ăn nên được no, nhìn vàng nên được vật quí, vậy quán xét tâm cũng được đạo chứ?

Đáp: Nhìn áo mà không mặc ắt chẳng hết lạnh, khi quán xét tâm cũng không được tạo quả. Theo kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: "Tọa thiền không phải là pháp thích hợp trong thời mạt pháp". Tại sao?

Kinh ấy nói rằng: "Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm trong thời chánh pháp thì trì giới kiên cố, một ngàn năm trong thời tượng pháp thì thiền định kiên cố, mười ngàn năm trong thời mạt pháp thì môn niệm Phật được kiên cố".

Theo Pháp Vương Bổn Ký nói rằng: "Vào thời mạt pháp, hơn hai ngàn năm về sau là thời của pháp niệm Phật, không phải là thời gian Tham thiền".

Cho nên Hòa thượng Đại Hạnh lúc còn sống, có mấy người học thiền theo thọ giáo với Hòa thượng hồi tâm niệm Phật rất nhiều.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • * Bốn là môn niệm Phật đối với giảng thuyết:
Hỏi: Công đức niệm Phật A Di Đà so với công đức nghe kinh nhiều ít thế nào?

Đáp: Công đức niệm Phật nhiều hơn công đức nghe kinh gấp trăm ngàn muôn lần. Do đâu mà biết được?

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Người Hạ phẩm Thượng sinh làm mọi điều ác, do tạo việc ác nên lúc sắp mạng chung lửa dữ nơi địa ngục nhất thời đều hiện đến. Khi ấy, gặp được bậc thiện tri thức vì họ giảng nói về mười hai bộ kinh. Người ấy nghe rồi diệt trừ những tội lỗi trong ngàn kiếp".

Nghe kinh công đức ít nên địa ngục vẫn chưa tiêu diệt, được người trí dạy niệm Phật A Di Đà mười câu thì tiêu diệt tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiêp.

Hỏi: Công đức đọc kinh so với công đức niệm Phật nhiều ít thế nào?

Đáp: Công đức đọc kinh cũng ít hơn công đức niệm Phật. Hòa thượng Đại Hạnh nói: "Không niệm Phật tu hành mà đọc kinh, ví như uống thuốc. Đọc toa thuốc bệnh khó giải trừ, uống thuốc bệnh dễ hết".

Vì vậy, công đức đọc kinh ít hơn công đức niệm Phật. Niệm Phật chính là tu đạo nên công đức rất nhiều.

Hỏi: Công đức giảng kinh so với công đức niệm Phật nhiều ít thế nào?

Đáp: Công đức giảng kinh cũng ít hơn công đức niệm Phật gấp trăm ngàn lần. Giảng kinh giống như đếm tiền, niệm Phật cũng như dùng tiền. Đếm tiền tuy nhiều nhưng không hết nghèo khổ. Ở đây không nói diệt trừ tội lỗi, không nói được công đức.

Dùng tiền tuy không nhiều nhưng có thể cứu giúp thân mình. Thế nên biết, công đức niệm Phật vô lượng, công đức giảng kinh ít hơn công đức niệm Phật gấp trăm ngàn muôn lần.

Vả lại, giảng kinh giống như đá mài dao, tuy được ít phần lợi nhưng đều do người khác hết, tự mình hao tổn rất nhiều, vì nhận sự lễ bái cúng dường, tổn hao quả báo rất lớn. Cho nên Luận nói: "Ví như người bần cùng, ngày đêm đếm tiền cho người khác mà tự mình không có nửa đồng xu. Học rộng nghe nhiều cũng như vậy".

Thế nên biết, công đức giảng kinh cũng ít hơn công đức niệm Phật trăm ngàn muôn lần. Do đâu biết được điều đó?

Như Luận Duy Thức phần nhiều phá chấp ngã. Người giảng luận, miệng tuy nói pháp nhưng tâm chấp ngã nhiều. Không sinh khởi cái ta, trong muôn người không có một.

Kinh Pháp Hoa nói:
  • "Ngã mạn tự khoe cao
    Dua nịnh tâm không thật
    Trong muôn ngàn ức kiếp
    Chẳng nghe danh hiệu Phật
    Cũng không nghe chánh pháp
    Người như thế khó độ".
Do đó, việc giảng luận chẳng bằng niệm Phật trăm ngàn muôn lần. Khi xưa có Pháp sư Hoài Cảm, Pháp sư Trí Nhân, Pháp sư Uẩn đều bỏ giảng luận trở về niệm Phật.
  • * Năm là môn niệm Phật đối với giới luật:
Hỏi: Công đức niệm Phật so với công đức giữ hai trăm năm mươi giới, năm trăm giới nhiều ít thế nào?

Đáp: Công đức niệm Phật nhiều hơn công đức trì giới gấp trăm ngàn muôn lần. Do đâu biết được điều đó?

Theo kinh nói trì giới chứng quả nhỏ, mới đến Sơ địa. Còn theo kinh A Di Đà, nếu một ngày đến bảy ngày niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh Độ, tức là Bồ Tát Bát Địa trở lên. Cho nên kinh nói, những chúng sinh về Cưc Lạc đều là bậc Bất thối chuyển.Vì thế nên biết, công đức Niệm Phật nhiều hơn công đức trì giới gấp trăm ngàn muôn lần.

Hơn nữa, theo trong kinh nói: "Hiện nay không phải thời kỳ trì giới mà là thời kỳ niệm Phật".

Do đâu biết được điều đó?

Theo Kinh Tượng Pháp Quyết nghi nói: "Sau khi Phật Thích Ca diệt độ, năm trăm năm trong thời chánh pháp, trì giới được kiên cố. Một ngàn năm thời tượng pháp, tọa thiền được kiên cố. Mười vạn năm thời mạt pháp, niệm Phật được kiên cố".

Theo Thích Ca Bi Văn, từ khi Phật nhập Niết Bàn đến nay đã hơn một ngàn bảy trăm năm, vào thời mạt pháp đã hơn hai ngàn năm. Thế nên biết, hiện nay là thời kỳ niệm Phật, không phải là thời kỳ trì giới. Dù có người trì giới nhưng chỉ theo văn giới kinh để được danh dự và lợi dưỡng, chết được sinh lên cõi trời, không chứng đắc quả A la hán. Tuy được sinh lên cõi trời, nhưng vẫn không ra khỏi ba cõi.

Về mặt người trì giới, trong muôn người cũng không có một người đầy đủ giới hạnh. Tại sao? Vì giới vi tế, còn người thô tháo, số lượng nhiều khó giữ gìn. Nếu so với môn niệm Phật thì số lượng ít, dễ thực hành, được nhiều công đức.

Hỏi: Niệm Phật được lợi ích so với trì giới hơn kém thế nào?

Đáp: Niệm Phật được lợi ích không có hao tổn, trì giới hao tổn nhiều mà lợi ích ít. Do đâu biết được điều đó?

Theo kinh Mục Liên Vấn, phá thiên giới đầu tiên đọa vào địa ngục trải qua chín trăm mười lăm câu chi sáu trăm vạn năm.

Theo văn trong giới, có năm thiên bảy tụ. Y cứ vào sự so sánh, thiên thứ nhất nặng gấp bội thiên thứ hai; thiên thứ hai nặng gấp bội thiên thứ ba; thiên thứ ba nặng gấp bội so với thiên thứ tư; thiên thứ tư nặng gấp bội so với thiên thứ năm. Thiên thứ năm nhẹ nhất là phạm Đột kiết la, đọa vào địa ngục chín trăm vạn năm, một đêm không sám hối thì bỏ mất lợi ích của mình.

Căn cứ vào tội phá giới vô lượng vô biên, trì giới trong muôn người chỉ có một, nên biết hao tổn nhiều lợi ích ít. Niệm Phật một tiếng trừ diệt tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Thế nên, có tội phá giới mà niệm Phật A Di Đà , tội lỗi được tiêu diệt.

Do đâu biết được điều đó?

Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, chương Hạ phẩm Trung sinh nói: "Hoặc có chúng sinh hủy phạm năm giới, tám giới hoặc giới Cụ túc, người ngu như thế nên đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Lúc sắp mạng chung, họ gặp thiện tri thức nói về oai đức Thập lực của Phật A Di Đà, tán thán ánh sáng và thần lực của đức Phật, rồi dạy bảo họ niệm Phật. Người kia nghe rồi diệt trừ tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp, vãng sinh Tịnh Độ". Thế nên biết, tội phá giới cũng được tiêu diệt.

Hơn nữa, trong Tịnh Độ Quần Nghi Luận còn nói: "Pháp Niệm Phật làm cho người phá giới được hộ trì, người lạc đường được lối đi, người đui mù được mắt sáng". Thế nên biết, niệm Phật thuần lợi ích không có hao tổn. Trước kia, có Luật sư ở Bắc Đô dừng việc chuyên về giới luật, hồi tâm niệm Phật vãng sinh thế giới Cực Lạc Tây Phương.

Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, hạng người dự vào ba phẩm Trung, giữ gìn giới luật trọn vẹn thì được sinh về. Do vậy, ở đây Luật sư niệm Phật được vãng sinh Tịnh Độ. Thế nên biết, giữ giới khổ hạnh không thể sánh bằng niệm Phật.
  • * Sáu là môn niệm Phật đối với Lục Độ:
Hỏi: Công đức niệm Phật so với sáu pháp Ba la mật nhiều ít thế nào?

Đáp: Công đức niệm Phật nhiều hơn công đức sáu pháp Ba la mật gấp trăm ngàn muôn lần.

Do đâu biết được điều đó?

Theo kinh Duy Ma nói: "Niệm định bao hàm tất cả pháp". Người tự cầu sinh Tịnh Độ đều được vãng sinh, tất cả không cần hỏi đến.

Hỏi: Có người lại nghi niệm Phật giống như đánh trống bằng miệng, làm sao giải thích?

Đáp: Niệm Phật cũng giống như đánh trống bằng miệng. Tại sao?

Do miệng niệm, tâm ghi nhớ mới được thành tựu. Nếu không có tâm và miệng không sao thành tựu. Niệm Phật cũng như thế, tâm tin miệng niệm mới sinh Tịnh Độ, mau chứng đắc đạo Giác ngộ Vô thượng. Nếu không có tâm và miệng, không do đâu mà vãng sinh. Cho nên niệm Phật cũng giống như đánh trống bằng miệng.

Hỏi: Tại sao không niệm Bổn sư Thích Ca mà chỉ niệm Phật A Di Đà?

Đáp: Niệm Phật A Di Đà là do đức Bổn sư dạy bảo. Song, khi mới hiểu tu, giống như việc sau khi đã sinh được con rồi, cha mẹ bèn giao cho thầy dạy bảo mới thành tựu học vấn, như thế đều là do thầy an lập. Phật A Di Đà cũng vậy. Phật Thích Ca nói kinh, ân cần khuyên bảo niệm Phật A Di Đà để vãng sinh Tịnh Độ, sớm chứng Bồ đề.

Đức Bổn sư cho rằng xưng danh hiệu niệm Phật là việc khó. Ngài nói: "Ta thực hành pháp niệm Phật A Di Đà này là điều khó, nên được đạo Giác ngộ Vô thượng".

Bổn sư Thích Ca cũng tự niệm Phật. Ngài khuyên chúng ta, tất cả chúng sinh, nếu có thể xưng niệm đức Phật A Di Đà nhất định vãng sinh Tịnh Độ, mau chứng Bồ đề.

Đây là việc rất khó, hiếm có. Vì thế nên đức Bổn sư dạy niệm Phật A Di Đà.

Vả lại, niệm Phật cũng giống như cha mẹ có nhiều con đang ở nơi nghèo thiếu, muốn mang chúng đến chỗ sung túc rồi mới nuôi dưỡng được, không thể bị đói mà chết. Phật Bổn sư Thích Ca cũng vậy, vì cõi Ta Bà trược ác không thể ở lâu, sợ e trầm luân vào địa ngục nên đem các chúng sinh đồng về Tịnh Độ, thọ hưởng mọi điều vui thích, chẳng bị trầm luân. Thế nên, chỉ dạy bảo nhớ niệm Phật A Di Đà không niệm Bổn sư.

Chẳng những Phật Thích Ca do niệm Phật nên thành Phật, mà chư Phật trong ba đời mười phương đều do niệm Phật tam muội vì thế nên thành Phật. Do đó, kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: "Tất cả chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại trong mười phương ba đời đều học pháp niệm Phật, mau chóng chứng đắc đạo Giác ngộ Vô thượng".

Thế nên biết, chư Phật trong ba đời đều do niệm Phật được thành Phật.

Hỏi: Tại sao không niệm chư Phật trong mười phương mà chỉ niệm Phật A Di Đà.

Đáp: Hiện tại chư Phật trong mười phương, Phật A Di Đà là thù thắng nhất, tôn quí nhất, từ bi nhất. Vả lại, trong chư Phật khắp mười phương, Phật A Di Đà kết duyên với chúng sinh sâu nhất. Hiện tại trong các đức Phật ở mười phương, nguyện lực của Phật A Di Đà nhiếp thọ chúng sinh nhiều nhất. Trong các cõi Tịnh Độ của chư Phật khắp mười phương, Tịnh độ của Phật A Di Đà là tốt nhất, nên được bà Vi Đề Hy tuyển chọn.

Hơn nữa, trong các Tịnh Độ kắp mười phương, Tịnh Độ của Phật A Di Đà là gần nhất. Trong những danh hiệu của chư Phật mười phương, niệm danh hiệu Phật A Di Đà là công đức nhiều nhất. Thế nên, chuyên niệm Phật A Di Đà không niệm Phật nào khác.

Hỏi: Tại sao niệm Phật chỉ là một pháp lại có thể thâu nhiếp mọi môn khác?

Đáp: Niệm Phật tuy là một pháp nhưng quyết định có thể thâu nhiếp các môn khác. Do đâu biết được điều đó?

Nay nêu ví dụ để giải thích. Niệm Phật giống như Bảo Châu Như Ý, tuy là một hạt châu nhưng có thể thâu nhiếp tất cả bảo vật. Thế nên, trong kinh Pháp Hoa nói: "Long nữ vì dâng bửu châu mau chóng được thành Phật".

Tuy là một pháp mà tăng trưởng tất cả công đức, cảm được vãng sinh Tịnh Độ, mau chứng đắc đạo Giác ngộ Vô thượng. Một pháp bao hàm tất cả pháp, nên kinh Duy Ma nói: "Niệm định là tổng trì, bao hàm tất cả pháp". Thế nên, trong một pháp mà chứa đựng các pháp.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • XI. MÔN NIỆM PHẬT RA KHỎI BA CÕI
Hỏi: Tịnh Độ là ra khỏi ba cõi hay còn trong ba cõi?

Đáp: Tịnh Độ là nhất định ra khỏi ba cõi, không còn ở trong ba cõi. Đã nói ba cõi, vậy ba cõi đó là những gì

Một là cõi Dục: Từ Diêm Phù Đề này lên đến sáu cõi trời, đều gọi là cõi Dục.

Hai là cõi Sắc: Từ sáu cõi trời ấy lên đến Phạm Chúng Thiên... mười tám cõi trời này đều gọi là cõi Sắc.

Ba là cõi Vô Sắc: Lại có bốn cõi trời Không Vô Biên Xứ cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, đều gọi là cõi Vô Sắc.

Lại nữa, ba cõi trời trở lên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ có hai mươi tám cõi trời, trở xuống tức là địa ngục Vô gián. Loài người ở khoảng giữa giống như trong lao ngục, cho nên trong kinh Pháp Hoa nói: "Ba cõi không an, giống như là lửa, thường có những nỗi lo sinh già bệnh chết, những ngọn lửa như thế cháy hừng hực không ngừng".

Vì thế, bà Vi Đề Hy chán nản thế giới Ta Bà có năm thứ trược ác này. Năm thứ ấy là những gì?

1. Kiếp trược: Nghĩa là kiếp bệnh dịch, đói kém, đao binh.

2. Phiền não trược: Tất cả chúng sinh có nhiều phiền não.

3. Mạng trược: Thọ mạng ngắn ngủi.

4. Kiến trược: Chê bai, không tin chánh pháp.

5. Chúng sinh trược: Con người không có đức hạnh.

Lại có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, dẫy đầy những điều bất thiện. Thế nên, bảo phải chán nản Ta Bà, ưa thích thế giới Cực Lạc Tây Phương.

Kinh Pháp Hoa nói:
  • "Hay ở ngục tam giới
    Cứu chúng sinh ra khỏi
    Bậc tôn quí trí tuệ
    Thương xót cho loài mê.
    Hay mở cửa cam lộ
    Độ tất cả chúng sinh".
Luận cũng nói:
  • "Vượt khỏi ngục Tam giới
    Mắt như hoa sen xanh
    Chúng Thanh văn vô số
    Thế nên con cúi lễ".
Luận Vãng Sinh lại nói:
  • "Xem tướng thế giới kia
    Thù thắng hơn ba cõi
    Rốt ráo như hư không
    Rộng lớn không bờ mé".
Trong Tịnh Độ Quần Nghi Luận cũng nói:

"Tịnh Độ theo chiều dọc vượt khỏi ba cõi; theo chiều ngang tuyệt dứt sáu đường; vừa được vãng sinh không còn đọa vào lao ngục nơi Tam giới, tiến thẳng tới đạo Giác ngộ Vô thượng".

Thế nên biết, Tịnh Độ của Phật A Di Đà nhất định lìa ba cõi, không còn ở trong Tam giới. Vì vậy pháp môn niệm Phật vượt ra ba cõi.

Nếu người niệm Phật A Di Đà muốn mau chóng vãng sinh Tịnh Độ, cần phải thành tựu ba nghiệp.
  • - Một là tâm chỉ sâu.
    - Hai là miệng xưng niệm.
    - Ba là thân chỉ kính lễ.
Chẳng luận tôn ti, già trẻ, lúc có người hay không có người, ngày đêm thường không bê trễ, gọi là thành tựu sự kính lễ.

Chẳng bàn việc tốt xấu của người khác, chẳng xem họ tu hay không tu. Miệng chỉ niệm Phật, mỗi tiếng không ngừng, gọi là thành tựu sự xưng niệm.

Không rơi vào các phiền não tham sân, tranh đấu, đánh mắng, oán hận, tật đố, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối. Đó là nhân đọa vào ba đường đen tối, không phù hợp với phép niệm Phật.

Nên chỉ tin sâu niệm Phật, chẳng phân biệt là người tu hay kẻ tục, chẳng hỏi nam nữ, sang hèn, chẳng luận tội nặng hay nhẹ, chỉ cần có lòng tin là cội gốc. Nếu người thành tựu lòng tin, thì bệnh gì cũng hết, không nhờ vào y dược thế gian ; muôn điều thiện tự thành, không nhờ kinh giáo của thế gian mà mau chóng có thể thành tựu. Sự thành tựu muôn điều thiện ấy chẳng phải sức tu hành.

Nếu căn cứ vào kinh văn, từ phàm phu đến bậc Sơ địa phải trải qua một A tăng kỳ kiếp. Nếu nhờ vào sức của Tam Bảo thì không phải trải qua nhiều kiếp.

Lại y theo kinh văn, nếu nghe nói về Phật A Di Đà cho đến chỉ có một tâm, một niệm hoan hỷ vui thích, chí tâm hồi hướng, liền được vãng sinh ở bậc Bất thối.

Kinh Pháp Hoa nói: "Những người có trí do ví dụ mà được hiểu". Trong thế gian chỉ có mẹ mới hay làm cho con được an ổn. Trong xuất thế gian chỉ có chư Phật mới làm cho chúng sinh ra khỏi sự đau khổ nơi ba cõi, được vãng sinh Tịnh Độ, thấy Phật nghe pháp.

Lại theo kinh văn, đức Phật luôn có từ bi hỉ xả. Từ là ban cho niềm vui; bi là giải thoát, sự cứu khổ. Không phân biệt là nỗi khổ trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hay trong loài người, nếu phân biệt thì không gọi là đại từ bi. Cũng như người mẹ đối với con dù có bao nhiêu gian khổ nhưng rốt cuộc cũng chẳng từ lao, không biết mệt mỏi, chỉ lấy niềm vui của con làm cội gốc.

Chư Phật là bậc đại Thánh, đại bi, chẳng phân biệt oán thân, Tăng tục, nam nữ, đều bình đẳng cứu hộ. Cứu hộ những nỗi khổ gì?

Nỗi khổ ở địa ngục gấp trăm ngàn muôn lần ở thế gian, chư Phật còn cứu ngay, huống gì nỗi khổ của loài người rất bé nhỏ. Nếu chư Phật không cứu hộ tất trái ngược với kinh giáo rồi.

Những nỗi khổ trong loài người, nếu biết phát tâm hối lỗi, thực hành những giới hạnh, làm các công đức, thì đau khổ nhanh chóng tiêu tan. Lòng tin vừa thành tựu, sự sinh tử liền thối thất, thì biết rõ không vào địa ngục nữa.

Những nỗi khổ sở dĩ không tiêu diệt được, tật bệnh sở dĩ không được lành là do trong muôn người chẳng có một người có lòng tin, dù có người tin cũng không quá mười ngày hoặc một tháng liền lui sụt trở lại. Họ chẳng xem kinh văn, thế nên chẳng biết nỗi khổ ở tương lai, vì vậy trong lòng còn do dự. Nỗi khổ ở hiện tại lại không được diệt trừ nên chúng sinh nên chúng sinh khởi sự chê bai. Nếu họ biết thực hành y theo kinh văn, nỗi khổ trong hiện tại nhất định diệt trừ, thống khổ trong vị lai ắt phải không còn.

Hiện nay, người tu hành có những hành vi khác lạ hợp với triều đình, tuy cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa nhưng không có giới hạnh. Trong thế gian, trên đến quốc vương dưới đến cha mẹ đều trở lại cung kính họ. Đó là sức của ai? Đâu chẳng phải đều do sức Tam bảo. Chẳng luận sang hèn, nam nữ, ai nấy đều cúng duờng cơm áo để họ an nhàn thảnh thơi, không từ lao nhọc. Vì ý nghĩa đó nên biết sức Tam Bảo chỉ tin mới hiểu rõ, người không tin không sao hiểu nổi, chẳng khác gì như mù như điếc.

Thế nên, người niệm Phật mỗi câu mỗi câu không dứt thì không bệnh gì chẳng lành, không tội nào chẳng diệt, an định không sợ sệt cũng không thối chuyển. Mỗi ngày mắt tâm tự mở sáng, càng thêm chuyên ý đều phù hợp với kinh giáo. Đi, đứng, ngồi, nằm tâm không tán loạn, cũng không mất oai nghi. Dù nghe các kinh luận đều tuơng ứng với tâm hạnh, càng thêm hoan hỷ, lần lượt dẫn dắt những người có lòng tin, như mẹ cứu con chẳng từ nam nhọc, mỏi mệt.

Người không tin thà nên im miệng, cho đến chết cũng đừng nói, làm cho người khác sinh khởi sự chê bai. Vì điều ấy chẳng phải là che bai người mà là chê bai đức Phật.

Ngay lúc nói kinh Di Đà, đức Phật Thích Ca vì tất cả chúng sinh nói về pháp khó hiểu. Nếu có người tin, chư Phật trong sáu phương đều biết. Đây là pháp rất khó tin, e chúng sinh về sau nghi ngờ phỉ báng cho nên các ngài hiện tướng lưỡi để chứng minh, biểu thị kinh này nhất định không giả dối.

Lại nghe gần đây, các hành giả đều phát sinh tâm nghi ngờ, lo sợ và có người phỉ báng. Vì lý do đó nên chư Phật biết trước, đinh ninh dặn bảo rằng những chúng sinh trong thời mạt pháp sẽ không tin. Nếu người có lòng tin, tất cả chư Phật đều hộ niệm. Tự mình không tin lời Phật, tự mình không khéo để được bậc Bất thối chuyển. Đây đều là lời nói trong kinh A Di Đà, nếu không làm theo ắt tự chướng ngại Thánh đạo. Kinh giáo kia đây đều là lời Phật nói, là giáo pháp tự tu hành, giáo pháp thiện thần hộ trợ, nếu sinh lòng tin sâu và tôn kính tu hành theo thì chư Phật hộ niệm.

Giáo pháp bản nguyện của chư Phật, nay nếu nghe mà không tin, vào thẳng địa ngục không có ngày ra. Như thế không phải sai lầm hay sao?

Nếu thấy kinh này nên suy xét thật kỹ mới tương ứng với môn Niệm Phật. Chỉ quyết định tin sâu, chí thành không thối lui, niệm niệm không dừng, câu câu xưng danh hiệu Phật. Chẳng phân biệt Tăng tục, sang hèn, giàu nghèo, đẹp xấu, trai gái, có tội nặng hay nhẹ, chỉ cần thành tựu lòng tin là được.

Nếu không tin chư Phật từ bi, dù các ngài có thương xót chúng ta như cha mẹ thương con, nhưng cũng không thể cứu vớt, chẳng được vãng sinh.

Chỉ cần thành tựu lòng tin chư Phật thường trụ bất diệt không thối chuyển. Tin đức Phật là bậc Đại Thánh, là bậc tối thượng, tối thắng, tối đại trong tất cả Hiền Thánh, gọi là bậc Thế Tôn. Chẳng luận quá khứ, tương lai, hiện tại, có bao nhiêu chúng sinh, chẳng luận tâm lớn nhỏ, thiện ác bao nhiêu chư Phật đều biết rõ. Nếu có người tin Phật là bậc đại từ, đại bi hay cứu khổ chúng sinh thì dù những chúng sinh có nhiều tội ác nghiệp chướng, nhưng nếu biết phát tâm hối lỗi, các ngài đều biết rõ liền đến cứu độ không sai lời. Như thế gọi là lòng đại từ bi.

Ví tợ bà mẹ thấy con ở trong phân nhơ, đói lạnh đau khổ hoàn toàn chẳng rời bỏ, gọi là bà mẹ từ bi. Người ở đời không thể báo đáp hết ân đức của bà mẹ. Bà mẹ chỉ có lòng từ bé nhỏ, đối với con chẳng nệ khó nhọc, huống gì chư Phật là bậc đại từ bi gấp trăm ngàn muôn lần bà mẹ. Các ngài không chỉ cứu tế nỗi khổ của thế gian mà còn hay cứu độ nỗi khổ lớn của sự sinh tử. Thế nên, ở đời nếu có người tin được, các ngài liền cứu độ, chẳng phân biệt tội nặng hay nhẹ. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật nói: "Tất cả chúng sinh đều là con ta. Ta là cha. Các con nhiều kiếp bị mọi thứ khổ đau thiêu đốt, ta đều cứu vớt cho ra khỏi ba cõi".

Lại không phân biệt Tăng tục, nam nữ, sang hèn, giàu nghèo, già trẻ, đẹp xấu và tội nặng hay nhẹ. Vì lý do đó, nên chỉ nói về người có lòng tin, người biết hối lỗi, thanh tịnh lòng tin sâu, niệm danh hiệu Phật không dứt.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

Kinh nói: "Tất cả chư Phật hộ niệm đều được bất thối chuyển". Còn nói rằng: "Đây là pháp hiếm có khó tin".

Chỉ cần lòng tin, không nói về người có tội lỗi hay không, cũng không nên nói người nữ không được vãng sinh, chỉ bàn về tín tâm. Nếu người thành tựu giới hạnh đều được vãng sinh.

Thế nên, đâu phải là pháp khó tin, cũng đâu phải là pháp hiếm có. Thiện nam tử, thiện nữ nhân có thể tin không mê mờ thì chẳng phân biệt tội nặng hay nhẹ, bệnh tật đều lành, tội lỗi đều hết, bất luận xa hay gần, chỉ cần có lòng tin, nhanh chóng dứt trừ mọi nghi hoặc, mau chóng biết niệm Phật. Việc này cũng giống như bà mẹ cứu giúp con, nên gọi là pháp hiếm có khó tin.

Lúc nói kinh này, chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài để chứng minh. Do đó biết rằng, chúng sinh đời quá khứ, hiện tại, vị lai khi nghe kinh này đều sinh tâm nghi ngờ chê bai, không tin Phật có năng lực như thế, nên nói đây là pháp hiếm có khó tin.

Chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, đều hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp ba ngàn Đại thiên thế giới để chứng minh. Nếu người tin được, chẳng phân biệt kẻ oán người thân đều được cứu độ.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Niệm một câu A Di Đà tiêu diệt tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp". Kinh còn nói: "Tất cả chư Phật cùng hộ niệm".

Chư Phật từ bi, tâm bình đẳng, cứu độ khắp tất cả, chẳng phân biệt Tăng tục. Nếu người biết hối lỗi, phát nguyện hồi hướng, nhất định sẽ được các ngài tiếp độ. Như thế gọi là chư Phật bình đẳng cứu độ chúng sinh.

Nếu niệm Phật thành tựu, không tội lỗi gì không tiêu diệt, không bệnh tật gì chẳng lành, không đau khổ gì chẳng hết, không ưu sầu nào chẳng tiêu tan lại còn trở thành hoan hỷ.

Người sợ hãi vô thường, liền tự phân định thời khóa tu hành. Tinh tấn, nhẫn nhục được thành tựu thì giới hạnh không bị khuyết phạm, khi ngủ siêng năng cảnh sách chính mình, cũng không cảm thấy mỏi mệt. Nói ra lời gì y theo chánh pháp, khiến mọi người ưa nghe những hạnh mà mình thực hành. Cho nên, những người hiếu thảo đều học theo. Tâm ý trong sạch, chí hướng cao thượng, tự tại vô ngại. Những điều như thế chẳng phải là sức tu tập của chính mình, đều là do sức mạnh từ bi của đức Phật.

Nếu có người nghe liền sám hối, liền học theo, liền thực hành, liền niệm Phật, đó là do sức mạnh của chư Phật, người tin được mới hiểu rõ.

- Thứ nhất: Thân không được sát sinh, trộm cắp, dâm dục, cũng không được đánh đập tổn hại tất cả chúng sinh, cũng không được xúc chạm những thứ gấm vóc, lụa là sặc sỡ, trơn mịn, tốt đẹp v.v... Dù gặp giá buốt, lạnh rét đến chết rốt cuộc cũng không mặc. Những thứ ấy hay làm chướng ngại đạo nghiệp về sau, hay khiến chìm trong bể khổ, hay làm cho thế gian nghi ngờ chê bai, cũng khiến cho mọi người oán hận, lại khiến cho người khác khởi tâm yêu thích.

Người nữ mặc áo đẹp ra vào, dạo chơi, tô điểm trang sức, khiến cho phóng túng nhiều. Nam tử luôn luôn nhìn theo không rời, cha mẹ lo lắng bèn sinh khởi nóng giận, anh em âu sầu nhiều nên phát khởi sân hận. Người đời thấy qua liền nghi ngờ, chê bai; sư tăng nếu thấy thì phá tịnh giới; kẻ cắp khi thấy sinh khởi tâm trộm cắp. Những chướng ngại như thế đều do lỗi lầm của y phục tốt đẹp, không thể nói hết. Nếu là người hiếu hạnh, đến chết cũng không mặc áo đẹp. Hiếu hạnh thành tựu thì thân thực hành chánh hạnh, lễ nghi không thiếu.

Ra vào, tới lui không được đi nhanh, tay đánh đàng xa, cũng không được xoay đầu nhìn trở lại. Nếu ngồi chẳng được duỗi chân ra, chẳng được nương dựa đồ vật mà ngủ, trừ nhiều người già bệnh.

Nếu khi ngủ không được cởi y phục, cũng không được nằm ngửa, duỗi chân ra nói chuyện. Đó là phóng túng, lười biếng, chỉ trừ người già bệnh và lúc khốn khó thì tạm được. Nên tự cảnh sách ngủ trễ dậy sớm, mỗi ngày càng mạnh mẽ, tinh thần sáng suốt, trí tuệ mỗi ngày tăng thêm.

Nếu không y theo đây thực hành, gọi là người phóng túng, không có niềm tin. Như vậy tội lỗi chẳng tiêu diệt, muôn việc chẳng thành công, huống gì mong giải trừ bệnh khổ. Như thế làm sao được vãng sinh?

- Thứ hai: Miệng không được uống rượu, ăn thịt và ngũ tân, cùng gạo, nếp ngon, men sữa, tô lạc, mật... những thượng vị của thế gian. Dù đói khát đến đâu nên chịu đựng, giả sử chết cũng không ăn.

Những lời nói về sát sinh, trộm cắp, dâm dục, dối trá, lời nói tật đố, sân hận, ngã mạn, lời nói khinh bỉ, lời nói oán hận, lời nói cầu mong tiền của, lời nói hai lưỡi, lời nói tốt xấu, tranh đấu với người khác, lời nói nịnh hót, lời nói ngu si dèm pha, lời nói chửi rủa hung ác, những lời nói như thế nhiều không thể nói hết.

Nếu như nghe lời nói thiện ác của người khác, thì không được nói. Vì đó là điều vô ích, không bao giờ kết thúc. Lời nói đấu tranh phần nhiều vướng vào ma sự, cũng khiến cho người phát bệnh. Nếu không đáp trả lại thì hợp với lời Phật dạy.

Chẳng nhọc đọc kinh sách, chỉ cần niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi đều chẳng ngại trong sự sinh hoạt. Mỗi tiếng, mỗi tiếng chẳng dứt, chẳng dời đổi, chỉ khẩn thiết niệm lớn, cần phải mỗi chữ rõ ràng.

Giáo pháp này cũng như con trẻ kêu mẹ, khẩn cấp không được tán loạn, trừ bỏ những duyên xấu ác bên ngoài, đó là định tâm tọa thiền niệm Phật. Có nhiều môn cho người tu và người đời, chỉ cần được tâm thanh tịnh. Chẳng luận nam nữ, sang hèn, chỉ cần người kính tin, hiếu thảo. Nếu người làm được, bệnh khổ đều tiêu diệt, đạo nghiệp đươc thành tựu.

- Thứ ba: Ý chẳng được tham, sân, si phi lý, chẳng được sinh tâm nghi ngờ phỉ báng, chẳng được sinh tâm khinh khi oán hận, chẳng được sinh tâm ác sát sinh, trộm cắp, tà dâm, chẳng được sinh tâm cống cao ngã mạn khinh khi người khác, cho rằng mình phải người sai, đam mê tiền của sắc đẹp.

Nếu sinh khởi những tâm như thế, buông lung, phóng túng, giả mừng, giả giận, lòng không chân thật, chư Phật tất biết rõ không đến cứu độ.

Nếu có Tăng tục, sang hèn, giàu nghèo, đều phải xem bình đẳng, chẳng phân biệt kẻ oán, người thân mới hợp với lời Phật dạy. Nếu không có tâm này nên phát lồ sám hối, lấy trọn đời làm kỳ hạn, dù sống hay chết cũng chẳng đổi dời. Những người như thế, niệm trước hướng về, niệm sau giác ngộ, như con nhớ mẹ, mẹ nuôi con chẳng từ cực nhọc, chẳng tránh khó khổ, con kêu lập tức qua xem. Nếu được vậy, mới là đại từ đại bi, ý nghiệp thanh tịnh bình đẳng như hư không.

Ba nghiệp sáu căn như thế, y theo giới luật, đúng như pháp tu hành.

Những điều sai trái không thể nhứt nhứt nêu rõ. Chỉ mong chánh niệm, chánh hồi hướng, từ bi, tin sâu quyết định, chí thành không lui sụt. Nếu không hợp với lời dạy bảo, dù chỉ niệm Phật cũng chẳng thể cứu tế, tội lỗi vẫn không được tiêu diệt, bệnh khổ khó trừ. Tham tiền của, bại hoại đạo đức là nền tảng phát sinh tai họa, lấy của phi lý là cội gốc của việc ác.
  • "Tất cả việc ác thệ nguyện dứt trừ.
    Tất cả việc lành thệ nguyện tu tập.
    Hằng sa công đức thệ nguyện viên mãn.
    Phật đạo vô thượng nguyện thành tựu".
Đệ tử... cúi đầu kính lễ tất cả chư Phật, mười hai phần giáo, chư Đại Bồ tát, Thanh văn, tất cả Hiền Thánh cùng tận hư không, khắp pháp giới.

Xin tiếp nhận lời thỉnh cầu của đệ tử vào đến đạo tràng chứng minh. Đệ tử hôm nay hiện thời được thiện tri thứ dạy bảo, phát lồ sám hối. Khi con chưa giác ngộ và đã giác ngộ đến nay, ở trong khoảng giữa ba nghiệp tạo tội:

- Thân nghiệp bất thiện: Sát hại chúng sinh chẳng biết là bao. Trộm cắp của cải như cát sông Hằng. Dâm dục mạnh mẽ làm ô uế những hạnh thanh tịnh.

- Khẩu nghiệp bất thiện: Lời nói dối trá, lời nói thêu dệt, lời nói hung ác, nói hai lưỡi, chê bai Tam bảo, tranh đấu quấy rối vô biên.

- Ý nghiệp bất thiện: Tham cầu danh lợi như biển thu nạp mọi dòng, lửa dữ sân hận thiêu đốt mọi công đức.

Tội lỗi của mười nghiệp ác gây ra, tự làm lại dạy bảo người làm, thấy nghe vui theo. Bất luận tội lớn hay nhỏ đều chẳng dám che dấu. Nay xin sám hối tất cả, mong đức Phật từ bi chứng minh nhiếp thọ cho con được toại nguyện. Hôm nay, hiện giờ những tội lỗi được sám hối, nguyện theo đó liền tiêu diệt.

Đệ tử đem công đức niệm Phật này, đền ơn oan gia trái chủ, đều được nhận lấy công đức, rời khỏi nhau chẳng còn yêu thương, thù hận, đồng vãng sinh Tịnh Độ.

Chí tâm quy mạng đảnh lễ Phật A Di Đà:
  • Cõi sinh tử trước nay
    Khi chưa biết Phật, Tăng
    Tạo ra những nghiệp ác
    Nhân đây nguyện tiêu diệt.
    Vi trần chứa cõi Phật
    Phật quá khứ, hiện tại
    Con đem ba nghiệp tịnh
    Ở lâu trong cõi này.
    Phàm và Thánh thành kính
    Đều biết cõi Tịnh Độ
    Hoan hỷ đều đảnh lễ
    Lạy khắp người niệm Phật.
    Viết "Niệm Phật Cảnh" này
    Mừng kết nạp nhân lành
    Hồi hướng mọi chúng sinh
    Cùng sinh cõi An lạc.
    Từ nay đến viên mãn
    Thọ sinh ở nơi đâu
    Thường nhớ rõ đời trước
    Niệm Phật chẳng đổi thay.
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • PHỤ LỤC
    LÂM CHUNG CHÁNH NIỆM VÃNG SINH
Tri Quy Tử hỏi Hòa thượng Thiện Đạo:

- Việc quan trọng ở đời không gì hơn sinh tử, một hơi thở không trở lại liền qua đời sau, một niệm sai lầm liền rơi vào luân hồi.

Con trước đã nhiều lần được nghe dạy bảo pháp Niệm Phật vãng sinh, nghĩa lý rất rõ ràng, nhưng lại e khi bệnh chết đến tâm thức tán loạn, đồng thời cũng lo người khác làm loạn động chánh niệm mà quên mất nhân duyên Tịnh độ. Cúi mong thầy chỉ dạy phương pháp thẳng tắt để thoát khỏi nỗi khổ trầm luân!

Sư đáp:

- Hỏi rất hay! Phàm tất cả người mạng chung muốn vãng sinh Tịnh độ, cần phải không được sợ chết. Thường nghĩ thân này nhiều đau khổ, bất tịnh, nghiệp ác trùng trùng xen tạp. Nếu bỏ được thân hình nhơ nhớp này, siêu sinh Tịnh Độ thì thọ hưởng vô lượng niềm vui, giải thoát con đường đau khổ sinh tử. Như vậy mới vừa ý, ví tợ cởi bỏ chiếc áo nhơ xấu được thay vào y phục quý đẹp. Chỉ nên buông bỏ thân tâm đừng sinh lòng lưu luyến.

Hễ gặp lúc có bệnh thì nghĩ nhớ về vô thường, một lòng đợi cái chết đến. Dặn dò người nhà và người lo bệnh, người tới lui thăm viếng rằng: "Phàm khi đến chỗ tôi nên vì tôi niệm Phật, không được nói việc tạp nhạp hàng ngày, việc tốt xấu trong nhà, cũng không nên dùng lời an ủi chúc nguyện an vui. Đó đều là những lời văn hoa, giả dối vô ích. Nếu lúc bệnh nặng sắp chết, không được khóc lóc rơi lệ và phát ra những lời than thở áo não, hoặc loạn tâm thần mất đi chánh niệm. Chỉ nên đồng thanh niệm Phật trợ giúp vãng sinh, đợi khi hơi ấm hết rồi, lâu sau mới có thể bi ai, than khóc".

Vừa có mảy may tâm luyến tiếc thế gian liền trở thành chướng ngại chẳng được giải thoát. Nếu được người hiểu rõ Tịnh độ thường đến sách tấn thì rất may mắn.

Người y theo đây quyết định siêu sinh không nghi!

Lại hỏi: Tìm thầy uống thuốc có được không?

Đáp: Tìm thầy uống thuốc ban đầu không ngại, nhưng uống thuốc chỉ có thể trị bệnh. Mệnh nếu hết, thuốc làm gì được. Nếu giết hại sinh vật để làm thuốc, quyết định không được.

Hỏi: Việc tế tự cầu phước thì thế nào?

Đáp: Mạng người lâu dài hay ngắn ngủi khi sống đã định, sao lại nhờ quỷ thần kéo dài được? Nếu mê hoặc tin theo tà sát hại chúng sinh, tế tự quỷ thần chỉ tăng thêm tội lỗi nghiệp chướng, trở lại tổn thọ thôi. Sinh mạng nếu hết, tiểu quỷ làm gì được? Tự sợ hãi vô ích, đều không giúp được chi cả. Phải rất cẩn thận, nên chép văn này dán trước người bệnh cho họ thường thấy, để đến khi lâm chung khỏi quên mất chánh niệm.

Hỏi: Người bình thường chưa từng niệm Phật có dùng pháp này được không?

Đáp: Pháp này Tăng tục, nam nữ chưa niệm Phật sử dụng đều được vãng sinh. Quyết định không nghi!

Tôi không thấy người đời trong khi bình thường phần nhiều niệm Phật, lễ bái phát nguyện cầu sinh Tây Phương, nhưng đến khi bệnh lại sợ chết, hoàn toàn chẳng nói đến vãng sinh giải thoát, đợi mãi đến hơi dứt mạng hết, thần thức đi vào cõi U minh mới đánh chuông nệm Phật. Như vậy cũng giống như kẻ cướp ra khỏi nhà rồi mới hô hoán lên thì làm được việc gì? Nên xét kỹ điều đó! Nếu lúc rảnh rang nên dùng pháp này tinh tấn niệm Phật, dốc sức thọ trì.

Đó là việc lớn lúc lâm chung, có thể gọi là:
  • Một đường Tây Phương rộng thênh thang
    Thẳng tắp về nhà không cần hỏi.
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

MƯỜI HAI GIỜ TU TÂY PHƯƠNG
- Sáng sớm Dần:
  • Mặc áo ra cửa chỉnh tâm thần
    Chắp tay dâng hương trông Cực Lạc
    Ân cần xa lễ Tử kim thân.
- Bình minh Mão:
  • Niệm Phật chẳng nên luận nhiều ít
    An trụ chuyên tâm buộc một duyên
    Chớ để vịnh cảnh làm quấy nhiễu.
- Điểm tâm Thìn:
  • Niệm Phật trước phải dẹp ngã nhân
    Nếu đem niệm Phật cậy nhân ngã
    Bao giờ mới thành Tịnh Độ nhân.
- Gần giờ Tỵ:
  • Tiến tu Tịnh Độ phải quyết chí
    Như uống cam lộ tự biết ngon
    Thôi đừng chê người đạo chẳng đúng.
- Đứng bóng Ngọ:
  • Tưởng niệm Di Đà như mắt thấy
    Vô biên nghiệp chướng tự nhiên tiêu
    Há lại bảo rằng luống gian khổ!
- Buổi trưa Mùi:
  • Sinh tử mênh mông thật đáng sợ
    Chẳng chọn Tây Phương nhanh chóng qua
    Trần sa kiếp hải phải chìm đắm.
- Xế chiều Thân:
  • Gấp gấp phải trì Tịnh Độ nhân
    Khoẻ mạnh nếu không siêng niệm Phật
    Một hôm bỗng thành đống bui trần.
- Tà dương Dậu:
  • Biết rõ quang cảnh chẳng thể lâu
    Xem xem vô thường liền chợt đến
    Chớ để Phật hiệu lìa tâm khẩu.
- Hoàng hôn Tuất:
  • Chớ để thân tâm nhiều lầm lỗi
    Thập ác tuy nhiên cũng vãng sinh
    Sao bằng Thượng phẩm sen nhanh nở!
- Đêm về Hợi:
  • Thân tâm niệm Phật chơn Tam muội
    Thập địa cao nhân còn phải tu
    Nên biết không tin ắt mang tội.
- Canh khuya Tý:
  • Sớm sớm niệm Phật thường như thế
    Đều nương hoa sen để vãng sinh
    Từ đây quyết định không sinh tử.
- Gà gáy Sửu:
  • Tráng kiện bỗng nhiên thành suy lão
    Mênh mông biển cả chẳng ai thân
    Chỉ có Di Đà riêng vẫy gọi.
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT CẢNH

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

MƯỜI LỜI KHUYÊN TU TÂY PHƯƠNG
- Một khuyên anh:
  • Luôn luôn niệm Phật phải chân thật
    Y theo lời Phật chớ hồ nghi
    Điều phục tâm viên, đừng phóng dật!
- Hai khuyên anh:
  • Chỉ nhớ niệm Phật không việc khác
    Lắng tâm quyết định nguyện về Tây
    Lâm chung tự thấy Như Lai đến.
- Ba khuyên anh:
  • Niệm Phật trước phải trừ tham ái
    Lâm chung tâm định thấy Di Đà
    Tợ trăng sáng tỏ, soi đầm biếc.
- Bốn khuyên anh:
  • Chớ để lãng quên tâm niệm Phật
    Lâm chung Cực Lạc sen báu rước
    Quán Âm Thế Chí đều lai nghinh.
- Năm khuyên anh:
  • Chớ ngại niệm Phật nhiều khó khổ
    Tư duy muôn kiếp dòng sinh tử
    Lại hướng về ai cầu ra khỏi?
- Sáu khuyên anh:
  • Trong khi niệm Phật luôn tiếp nối
    Nếu như không niệm thuận tình phàm
    Bao giờ ra khỏi ngục sinh tử?
- Bảy khuyên anh:
  • Niệm Phật chớ để ba nghiệp lỗi
    Chuyên cần kính lễ nguyện Tây Phương
    Thấy Phật Di Đà vầng tuệ Nhật.
- Tám khuyên anh:
  • Dạy tu niệm phật, pháp Mâu Ni
    Phải nên vâng theo Bổn sư chỉ
    Mạng chung vãng sinh cõi Di Đà.
- Chín khuyên anh:
  • Niệm Phật chân thành là trước nhất
    Lâm chung Hóa Phật đến đón đưa
    Hoa sen bảy báu tùy nguyện nở.
- Mười khuyên anh:
  • Niệm Phật thường phải tâm niệm gấp.
    Tư duy biển nghiệp khổ thâm sâu.
    Sinh tử rối ren, hối khó kịp!

    Ngũ ấm hư vọng, mộng huyễn thân
    Nhờ duyên bồi đắp đống bụi trần
    Tử thần chợt đến sao chống đỡ
    Gấp niệm Di Đà gắng chuyên cần!

    LỜI BẠT
Trong Trúc Song Tùy Bút, Đại sư Liên Trì nói:

"Ngài Đạo Cảnh và Thiện Đạo biên tập Niệm Phật Cảnh, đem pháp Niệm Phật so sánh với các pháp môn khác, đều quyết đoán rằng: "Sánh với công đức niệm Phật trăm ngàn muôn ức phần cũng chẳng bằng một". Thật đáng gọi là dốc lòng tin tưởng, phân biệt rõ ràng, có công rất lớn đối với Tịnh Độ.

Riêng một chương đối với Thiền tông bảo rằng: "Quán tâm, Quán vô sinh so với công đức niệm Phật trăm ngàn muôn ức phần cũng chẳng bằng một". Người học nghi ngờ chỗ này, tôi do đây mà đính chính.

Trong Tứ Liệu Giản nói có Thiền Tịnh Độ, chính là nói chỗ này. Chỉ chấp vào quán tâm không tin có Cực Lạc Tịnh Độ, chỉ chấp vào Vô sinh không tin có sự vãng sinh Tịnh Độ, thế là chưa thấu suốt ngay nơi tâm là Tịnh Độ, chẳng biết sinh tức là Vô sinh. Cái nhìn nghiêng lệch về Không như thế, chẳng phải là Thiền viên đốn.

Trái lại, chẳng bằng người tuy chưa thấu suốt lý tánh mà niệm Phật được thành tựu Tam muội. Thế thì đâu có gì đáng trách.

Nếu như Quán tâm mà triệt ngộ tự tâm, Quán vô sinh mà được Vô sinh nhẫn, đây chính là chỗ đồng với Thượng phẩm Thượng sinh của người niệm Phật. Được như vậy, nào có cao thấp gì đâu.

Gần đây, Đại sư Thái Hư đối với vấn đề này cũng đã đưa ra một nhận xét rất hợp lý hợp tình: "Các bậc Cao đức ngày xưa chẳng qua là giúp người học giải tỏa nghi ngờ, kiên định lòng tin, chẳng phải bảo rằng bỏ hết các pháp môn khác".

Qua nhận xét của hai vị Cao tăng xưa nay ở trên, chúng ta thấy được tinh thần viên dung vô ngại và tính nhất quán trên phương diện lợi tha trong Phật Pháp. Tùy theo bệnh mà cho thuốc, lành bệnh là chỗ nhắm duy nhất của bác sĩ. Và cũng chính do điểm này, thầy thuốc được khen ngợi là lương y như từ mẫu.
  • Chùa Bửu Liên 22/09/2003
    Thích Minh Thành
    Kính ghi.
- HẾT -
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.24 khách