Hán 61:
- Nhứt cú Di Đà
Diệu viên chỉ quán
Tịch tịch tĩnh tĩnh
Vô tạp vô gián.
Dịch:
- Một câu A Di Đà
Môn chỉ quán mầu tròn
Lặng lặng tĩnh tĩnh niệm
Không xen tạp nối luôn.
Lược giải:
Người mới tu lúc niệm Phật lắng nghe vào trong, dứt các tạp vọng, gọi là Chỉ. Khi phát khởi trì câu hồng danh với các tâm trạng khác nhau tạm gọi là Quán. Những tâm trạng khác nhau ấy như thế nào? Có lúc trì câu hồng danh với ý tha thiết, như con nhớ mẹ, như lữ khách lâu năm hoài vọng cố hương. Đây gọi là Chí thiết niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý sám hối, bởi nghĩ mình từ vô thỉ kiếp đến giờ vì mê lầm tạo nhiều tội chướng, nay hết sức hổ thẹn ăn năn. Đây gọi là Sám hối niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý thương cảm, vì nghĩ mình nghiệp chướng sâu dày chìm đắm trong vũng bùn lầy ngũ dục ác nhơ, nay cầu mong sự cứu vớt nơi đấng đại từ bi. Đây gọi là Bi cảm niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý lo sợ, bởi nếu rời Phật lực tức sớm muộn cũng sẽ bị đọa vào ba đường ác, chịu vô lượng nỗi khổ sống chết luân hồi. Đây gọi Bố tâm niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý phân phát tự trách hờn, như một nho sinh sẵn đủ trí huệ tài ba, thi văn mẫn tiệp, bởi cậy tài nên khinh suất mãi thi rớt, cam chịu cảnh nghèo hèn. Đây gọi là Phát phẩn niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý nhàm chán lẻ loi, như bậc cao sĩ sống giữa cảnh xung quanh các đồng nhơn tranh đua sắc tài danh lợi, phi thị hơn thua, dèm pha phỉ báng giết hại lẫn nhau, riêng mình chỉ còn biết nương gần với Phật, bởi cõi trần man mác, ấy ai là bạn tri âm? Đây gọi là Cô tịch niệm.
Niệm Phật với các tâm cảnh như trên, tuy tạm gọi là có Chỉ có Quán, nhưng chưa được xưng là Diệu Viên bởi chưa đến mức tròn trặn nhiệm mầu. Hành giả dụng công lâu ngày, tâm niệm vắng lặng dứt hết muôn duyên, nơi câu Phật hiệu gồm đủ phước, huệ, hạnh, nguyện, giải thoát, sáu ba la mật, không và sắc dung thông, mới gọi là Diệu. Trong bặt thân tâm, ngoài dứt trần giới, chẳng thấy mình là kẻ hay niệm, Phật là vị được niệm, không còn lằn mức cách biệt giữa chúng sanh và phật, giữa cảnh cùng người, tất cả đều dung hợp rộng rãi, bao la, mới gọi là Viên. Nơi tâm cảnh ấy, điểm thanh tịnh lặng lặng không tán loạn là Chỉ, điểm sáng suốt tĩnh tĩnh không hôn trầm là Quán. Niệm như thế không xen tạp, hằng nối tiếp nhau, gọi là Diệu Viên Chỉ Quán.
Hán 62:
- Nhứt cú Di Đà
Hiển lộ chỉ bình
Trực để bảo sở
Bất trụ hóa thành.
Dịch:
- Một câu A Di Đà
Lối hiểm đều san bằng
Thắng về nơi bảo sở
Không trụ cảnh hóa thành.
Lược giải:
Trong kinh Pháp Hoa, nơi phẩm Hóa Thành Dụ, đức Thế Tôn có nói đại khái như sau:
"Một vị đạo sư hướng dẫn đoàn người vượt qua đoạn đường hiểm trở xa độ năm trăm do tuần, để đến nơi Bảo sở là chỗ có nhiều châu báu. Nhưng giữa đường đoàn người ấy mỏi mệt thối tâm, xin muốn lui bước trở về. Đạo sư nghe nói thương xót, dùng phương tiện biến ra một Hóa thánh cách đó ba trăm do tuần và bảo: "Các ông hãy cố gắng đến thành ấy tạm nghỉ sẽ hết nhọc mệt!" Đoàn người vui mừng tiến tới Hóa thành, cho rằng mình đã đến nơi, đã được chỗ an ổn. Khi đạo sư thấy họ đã nghỉ ngơi xong, liền diệt mất Hóa thành và bảo: "Vừa rồi là Hóa thành không phải cảnh thật. Ta vì thấy các ông mỏi mệt bỏ dở công khó muốn lui trở về, nên thương xót phương tiện hóa hiện ra. Nay đã sắp gần tới Bảo sở các ông nên cố gắng gia công tiến bước..."
Theo thí dụ trên, Đạo sư chỉ cho đức Như lai. Đoàn người chỉ cho hành giả tiến tu theo chánh pháp. Đường năm trăm do tuần, chỉ cho sự hiểm nguy khổ nạn trong Ngũ thú luân hồi là: Thiên, nhơn, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Trông đây không kể A tu la và thần tiên, vì hai đạo này nhiếp vào các nẻo kia. Như A tu la thì có thiên A tu la, nhơn A tu la, quỷ A tu la, súc A tu la. Tiên thì có thiên tiên, quỷ tiên cho đến súc tiên, chẳng hạn như hồ tiên cho đến long tiên v.v... Nếu phối hợp với các thừa, thì năm trăm do tuần là sự trải vượt qua năm thừa gồm: Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa. Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát còn kể trong giai đoạn hiểm nguy, vì nếu không nhờ sức Phật gia bị, tất bị u trệ, khó nỗi tiến lên Phật quả. Nhưng đây là luận rộng thêm đó thôi, thật ra đường hiểm năm trăm do tuần chỉ cho Ngũ thú thì thiết cận hơn.
Tiếp tục theo lời dụ, Bảo sở chỉ cho Phật quả Vô thượng đẳng giác. Cách ba trăm do tuần, chỉ cho sự vượt khỏi Tam giới. Hóa thành chỉ cho quả vị giải thoát phiền hoặc ba cõi của hàng Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác. Tổng kết đại ý, đức Thế Tôn muốn nói trong giáo pháp của ngài, chỉ duy một Phật thừa, không có sự chia riêng hai thừa như Tiểu thừa và Đại thừa, hoặc ba thừa như
Thanh văn, Duyên giác, Bố tát thừa. Những thừa trên đều toàn giả lập, quả vị Thanh văn, Duyên giác, chỉ là Hóa thành huyễn tạm mà thôi.
Đối với pháp Tịnh Độ, có người không hiểu rõ môn này, lầm cho Cực Lạc là Hóa thành, chẳng phải Bảo sở. thật ra Hóa thành cùng Bảo sở là cảnh giới tu chứng của tự tâm, không cuộc hạn nơi quốc độ. Xin nói rõ lại, Hóa thành là cảnh giới Thanh văn, Duyên giác; Bảo sở là cảnh giới Phật. Môn niệm Phật đưa chúng sanh về Cực Lạc, để mau tiến lên cảnh giới Phật, chứng thành Phật quả. Đó là đường lối thẳng tắt tiến về Bảo sở; chớ đâu phải trụ nơi Hóa thành. Đúng ra Ta Bà và Cực Lạc đều là huyễn cảnh, nhưng Ta Bà có vô lượng khổ nạn chướng duyên. Cực Lạc đủ vô lượng duyên lành tiến đạo. Bởi thế chư Phật đều khuyên nên cầu vãng sanh để dễ tiến tu, không còn thuộc giới phàm phu đầy đủ nghiệp lực mà cho Cực Lạc là Hóa thành, cam ở cảnh Ta Bà vô lượng chướng duyên hiểm nạn, rất khó được giải thoát, đó là Bảo sở đấy ư? Thật là lầm lạc và đáng buồn cười lắm vậy!
Câu "Lối hiểm đều san bằng" hàm ý nghĩa: Khi công phu niệm Phật thuần thục, từ cõi Phàm thánh đồng cư nơi Cực Lạc, thì đã thoát khỏi sự luân hồi trong đường hiểm Ngũ thú thuộc Tam giới, lại thường được gần gũi Phật cùng chư Bồ Tát, không còn bị chướng ngại và bị thối chuyển trên đường Vô thượng Bồ đề. Tóm lại một câu niệm Phật có công năng mầu nhiệm san bằng tất cả hiểm nạn trên đường tu, đưa hành giả tiến mau bề Bảo sở, nên Triệt Ngộ thiền sư mới tỏ bày khen ngợi!
(Còn tiếp)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.