Tác giả: THÍCH MINH THÀNH
Ý NGHĨA NIỆM PHẬT
PL. 2556 - DL. 2012
LỜI MỞ ĐẦU:
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệm sư an lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều người chưa thật sự hiểu thấu đáo ý nghĩa của việc niệm Phật. Vậy ý nghĩa của việc niệm Phật là gì? Niệm Phật với mục đích gì? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cặn kẽ hơn để việc niệm Phật thật sự đúng nghĩa và có lợi ích thiết thực trong cuộc sống ngay phút giây hiện tại.Ý NGHĨA NIỆM PHẬT
PL. 2556 - DL. 2012
LỜI MỞ ĐẦU:
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC NIỆM PHẬT:
- - Niệm Phật tâm yên tĩnh, trong sáng:
Khi lăng xăng, xao động thì tâm mờ tối, nếu được yên lặng thì tâm sáng suốt. Giống hồ nước trong thì có thể phản chiếu rõ ràng cảnh vật xung quanh. Ngược lại, nước có chứa nhiều cặn bã, lại bị khuấy động liên tục thì khó có thể chiếu soi rõ ràng.
- Thanh châu gieo vào nước đục,
Nước đục không thể không trong.
Phật hiệu gieo vào tâm loạn,
Tâm loạn tất nhiên an định.
Khi tâm đã tỉnh sáng, thì làm việc gì cũng đều đạt kết quả cao. Người thợ may nếu biết niệm Phật cho tâm tỉnh sáng, thì từng đường kim, mũi chỉ sẽ đều đặn rất đẹp. Người thợ mộc nếu biết niệm Phật với tâm tỉnh sáng, thì những tác phẩm làm ra sẽ có tính thẩm mỹ và có giá trị cao. Người làm ăn mua bán nếu biết niệm Phật, thì làm đâu trúng đó, tính đâu được đấy. Tại sao? Vì tâm tỉnh sáng thì làm việc chính xác, không quên sót. Như vậy niệm Phật cũng có thể làm giàu đồng thời niệm Phật cũng để làm Phật vậy!
- - Niệm Phật Để Trừ Phiền Não:
- Sân si nghiệp chướng không chừa
Bo bo mà giữ tương dưa ích gì?
- Niệm Phật Để Được Nhất Tâm:
Nếu phân tích kỹ thì tâm mình có đủ mười pháp giới, hay còn gọi là mười trạng thái. Có lúc thì từ bi giống như Phật, muốn đem mọi điều tốt đẹp nhất đến cho người. Nhưng có lúc thì sân si, gặp ai cũng muốn cự cãi, đó là tâm của A tu la. Hoặc có lúc tham muốn không ngừng, đến khi gần chết vẫn còn tham tiếc, đó là trạng thái tâm của Ngạ quỷ. Hoặc có lúc muốn giữ tròn năm giới, đó là tâm của loài người.
Cũng có lúc thấy thế gian chịu biết bao tai ương đau khổ, con người đau khổ cùng cực, thì cảm thấy buồn chán muốn đi tu để giải thoát, đó là tâm của bậc Thanh văn. Nhưng cũng có lúc muốn vào khóa tu Phật thất, chuyên tâm niệm Phật để khi về có thể hóa độ người thân trong gia đình cùng niệm Phật giải thoát. Đó là tâm rộng lớn của Bồ tát.
Trong một ngày chúng ta khởi nghĩ tâm Phật và Bồ tát rất ít, mà tâm xấu ác của súc sanh, ngạ quỷ thì rất nhiều cho nên luôn bị khổ đau trói buộc. Niệm Phật là dùng danh hiệu Phật để thu nhiếp tâm an trú ngay nơi pháp giới của Phật. Khi đó tâm mình an tỉnh sáng suốt, đau khổ sẽ tự nhiên rơi rụng hết .
Lâu nay niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà, nhưng mọi người có biết chữ A Di Đà có nghĩa là gì không? A Di Đà là Vô lượng thọ, Vô lượng quang và Vô lượng giác. A Di Đà là Vô Lượng; Phật tức là Giác. Giác nghĩa là tỉnh thức, rõ biết. Mọi người đều có cái biết, nhưng thường đi theo hai chiều: một là chiều đi lên - chiều Tịnh. Hai là chiều đi xuống - chiều Nhiễm. Niệm Phật tức là tâm đi theo chiều Tịnh đến cõi nước của đức Phật A Di Đà.
Tại sao gọi là Vô Lượng Giác? Chúng ta thấy mặt trời chỉ chiếu sáng ban ngày, còn mặt trăng chiếu sáng ban đêm. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng thì giới hạn, còn ánh sáng của tâm thì không giới hạn. Lúc nào chúng ta cũng biết nghe, biết nhìn, biết ngửi, vừa nhìn liền biết đỏ, xanh, vàng, trắng. Vừa nghe liền biết tiếng nam, tiếng nữ. Khi vừa nhìn thấy hình sắc hoặc nghe âm thanh tâm liền bám vào những thứ đó để phân biệt đẹp hay xấu, ngon hay dở, rồi sanh tâm yêu hoặc ghét. Đẹp thì muốn chiếm đoạt về cho mình, xấu thì hất hủi, chê bai,...Từ đó mà tạo ra bao nhiêu nghiệp khổ.
Nếu khi nhìn thấy hình sắc hay nghe âm thanh rõ ràng mà tâm không khởi niệm phân biệt, thì đó chính là cái biết sáng suốt rõ ràng của mỗi người. Niệm Phật chính là trở về với bản tâm thanh tịnh giác hay bản tánh Di Đà sẵn có ở nơi mình. Như vậy, bản tánh Di Đà không xa, chỉ cần chịu khó ngồi yên niệm Phật, thì sẽ nhìn thấy đức Phật Di Đà phóng hào quang ngay nơi tâm của mỗi người.
Từ trước đến nay, nhiều người có quan niệm chưa đúng về pháp môn niệm Phật. Họ thường xem niệm Phật là pháp môn bậc thấp chỉ dành cho hàng căn cơ bậc hạ, hay các bà già trầu ít học ứng dụng. Nhưng nếu xét kỹ thì sẽ thấy trong một câu niệm Phật bao trùm cả Tam học, Tứ đế, Lục độ và tám muôn bốn ngàn pháp môn của đức Phật Thích Ca. Tất cả đều dung nhiếp trong một câu Phật hiệu.
- - A Di Đà Là Tam Học:
Ngay lúc ngồi niệm Phật, thân ngồi trang nghiêm, miệng niệm danh hiệu Phật, tâm chuyên nhất trong từng câu, không làm điều sai trái. Ngay khi đó, cả ba nghiệp đều thanh tịnh, nên gọi là Giới.
Khi niệm Phật, tâm chuyên nhất vào câu Phật hiệu. Do đó tâm không tán loạn, yên tĩnh lặng lẽ, nên gọi là Định.
Ngay khi niệm Phật, từng chữ sáng ngời nơi tâm, miệng niệm tâm nghe rõ ràng. Từng câu, từng chữ đều đặn soi sáng không quên sót, không mê lầm, chính khi đó là Huệ.
Như vậy chỉ trong một câu niệm Phật mà bao gồm cả ba môn học: Giới, Định, Huệ.
- - A Di Đà Là Tứ Đế:
Vì thấy cuộc đời quá khổ, nên không còn muốn tranh giành, tham chấp những thú vui tạm bợ vô thường để chuốc them đau khổ. chỉ muốn vào chùa niệm Phật tu hành, cầu sự an vui chân thật vĩnh cữu. Đó là thấy rõ Khổ đế.
Tham lam, nóng giận, si mê, ngã mạn, nghi ngờ,...là những nguyên nhân đưa đến đau khổ. Chẳng phải tại một đấng thần linh nào ban phước hay giáng họa cho mình. Tất cả giàu nghèo, sang hèn, cao thấp, mập ốm, sướng khổ..., đều là từ nơi ba nghiệp của mình tạo ra trong quá khứ mà có. Nghiệp phát xuất từ nơi tâm. Bởi vì tâm chứa đầy những thứ phiền não cấu nhiễm, cho nên ngày nay chúng ta phải gánh chịu những quả báo khổ đau. Niệm Phật mà thấy được như vậy là hiểu rõ Tập đế.
Lúc đang niệm Phật, không khởi tâm tham muốn và cũng chẳng thấy tâm tham ở đâu? Như vậy ngay lúc niệm Phật, diệt được tâm tham. Lúc niệm Phật thì không cự cãi, sân si. Cho nên, ngay lúc niệm Phật là diệt được tâm nóng giận. Ngay lúc niệm Phật, tai nghe rõ ràng từng câu, từng chữ, tâm tỉnh sáng, không mê lầm là diệt trừ được si mê. Diệt trừ được những nguyên nhân chính gây ra khổ đau. Đó là thực hành Diệt đế.
Khi tâm tham dục, sân hận và si mê bị tiêu diệt hết rồi, thì lúc đó ta đang trong cảnh giới Niết Bàn an lạc, thanh tịnh. Chẳng cần phải đợi tu mấy chục năm hoặc khi chết mới được Niết Bàn. Chính ngay lúc niệm Phật rõ ràng, tâm sáng suốt thanh tịnh là Niết Bàn. Đó chính là đạt được Đạo đế. Như vậy lúc niệm Phật cũng thực hành và thấy rõ được Tứ đế vậy.
- - A Di Đà Là Lục Độ:
Phần đông Phật tử chúng ta thường nghĩ chỉ có bậc đại Bồ tát mới có thể tu hành Lục độ, còn mình là hạng phàm phu làm sao dám mơ tới. Nhưng thật không ngờ khi niệm Phật là đã thực hành Lục độ.
Trước tiên niệm Phật là pháp Bố thí. Ngay lúc niệm Phật, buông bỏ hết thân, tâm và cảnh duyên bên ngoài, chỉ còn một câu Phật hiệu. Khi chuyên chú vào câu Phật hiệu mà không còn quan tâm đến tấm thân này nữa, thì đó là buông xả thân. Cũng không quan tâm đến những ý niệm buồn, thương sanh diệt, chỉ an trú trong câu danh hiệu Phật sáng ngời, nên gọi là buông xả tâm.
Ngồi trang nghiêm, mắt nhìn xuống đất, không nhìn đông ngắm tây, chạy theo cảnh vật ở bên ngoài hoặc năm thứ dục lạc: tài, sắc, danh, thực, thùy. Tất cả đều quên hết, chỉ còn nhớ danh hiệu Phật, là buông xả được cảnh duyên. Ngay lúc niệm Phật là lúc thực hành Bố thí.
Thân ngồi trang nghiêm trước bàn Phật, miệng niệm, tâm lắng nghe từng tiếng một. Thân không sát sanh, trộm cắp cũng không tà dâm. Miệng không nói dối hay uống rượu. Năm giới đều không có sai phạm, nên ngay lúc niệm Phật là Trì giới trọn vẹn.
Trong khi ngồi niệm Phật thì không có phải quấy, hơn thua,... chịu được mọi sự đau nhức, mỏi mệt của thân thể. Chỉ nhiếp tâm nhẹ nhàng trong câu danh hiệu Phật. Vì vậy niệm Phật là lúc thực hành được sự Nhẫn nhục.
Khi niệm Phật, tâm không tán loạn, không có xen tạp vọng tưởng, chỉ thuần nhất một câu: "A Di Đà Phật". Niệm niệm tiếp nối nhau liên tục, không gián đoạn. Đó chính là Tinh tấn.
Ngay khi niệm Phật, vì tâm duyên theo câu danh hiệu Phật không nghĩ tưởng lăng xăng những việc phàm tình thế gian. Vì thuần nhất một niệm, nên tâm vắng lặng, an tĩnh. Đó chính là Thiền định.
Lúc ngồi niệm Phật, từng câu từng chữ phân minh. Mọi sự việc gì xảy ra, tâm đều nhận biết rõ ràng theo đúng lẽ thật, mà không bị phân tán, tạp loạn. Tâm luôn sáng suốt, thanh tịnh là có được Trí tuệ.
Chính vì những điểm trên, nên nói: "Khi niệm Phật cũng là lúc tu hành pháp môn Lục độ".
Hỏi rằng:
- Người tu thiền, khi làm việc gì, họ chỉ chú tâm vào công việc ấy. Ngoài ra họ không để ý đến việc gì khác, nên có thể làm được tốt. Nhưng người tu Tịnh độ, vừa phải niệm Phật và vừa phải lái xe. Như vậy có trở ngại gì không?
Đáp rằng:
- Không có trở ngại. Càng nhiếp tâm niệm Phật thì lái xe càng chuẩn xác. Không vi phạm luật giao thông hoặc gây tai nạn cho người khác. Làm việc gì cũng chính xác, đạt hiệu quả cao. Tại sao? Bởi vì khi tâm không niệm Phật, thì cũng nghĩ tưởng chuyện này chuyện kia, chẳng chịu ở yên.
Niệm Phật là dùng "nhất niệm phá đa niệm", tức là dùng một niệm để dẹp trừ nhiều niệm. Khi các ý niệm lăng xăng lắng xuống hết, chỉ còn một câu Phật hiệu hiện tiền, thì lúc đó trí của mình sáng suốt thanh tịnh. Vì vậy mà làm việc gì cũng dễ dàng và thành công. Cho nên nói khi niệm Phật là lúc có được trí tuệ là như vậy.
- - A Di Đà Bao Gồm Tám Muôn Bốn Ngàn Pháp Môn:
Tất cả chư Phật ở quá khứ, hiện tại và vị lai thị hiện ra đời cũng chỉ vì một nhân duyên lớn, đó là chỉ bày cho chúng sanh thấy được "Tri kiến Phật" sẵn có trong mỗi người.
Tất cả các đức Phật Thế Tôn ra đời cũng chỉ vì một đại sự nhân duyên, khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật (kinh Diệu Pháp Liên Hoa).
"Tri kiến" là thấy biết; "Phật" là giác. Tức là tâm thanh tịnh giác và đó cũng chính là bản tánh Di Đà của mỗi người. Niệm Phật là trở về với tâm thanh tịnh giác của mình.
Đây chính là cốt lõi của tám muôn bốn ngàn pháp môn. Tất cả các pháp môn như: Thiền, Tịnh, Giáo, Mật..., tuy khác nhau về hình thức tu hành, nhưng cuối cùng đều gặp nhau ở chỗ tâm thanh tịnh và giải thoát tất cả phiền não khổ đau đạt đến an vui, hạnh phúc.
(Còn tiếp)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.