NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

VI. ĐỚI NGHIỆP, TIÊU NGHIỆP SINH TỊNH ĐỘ
Siêng niệm Phật, siêng tu cúng dường, rộng gieo ruộng phước, không những đời này có thể tiêu trừ một phần tội nghiệp, mà phẩm vị hoa sen ở phương Tây cũng được cao lớn hơn.
  • 1. TU TỊNH NGHIỆP VÀ TIÊU TỘI NGHIỆP
Quý vị thiện tri thức thân mến, chúng ta trong thời gian Phật thất, mỗi chiều sau khi tiến hành đại hồi hướng đều có lễ bái phát nguyện cầu sinh Tịnh Độ. Như vậy có thể sinh Tịnh Độ không? Đương nhiên không cho phép hoài nghi, thế nhưng người tu pháp môn Tịnh Độ, thiện căn có sai biệt sâu cạn, thời gian tu hành có khác là sớm hay muộn, công phu tu trì có siêng năng hoặc biếng nhác, nghiệp chướng cũng có nhiều ít không đều. Cho nên, lúc phàm phu vãng sinh Phật quốc, trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói, hoa sen chia ra làm chín phẩm. Kinh Vô Lượng Thọ nói, những chúng sinh vãng sinh Phật quốc chia làm hai loại hoa sen hóa sinh và biên địa thai sinh. Hoa sen hóa sinh chia làm ba hạng; còn Biên địa thai sinh là tiếp nhận người không tin Phật trí, nhưng tin tội phước mà nguyện sinh về nước kia. Vãng sinh Phật quốc có cao, hạ, trung biên bất đồng, điều kiện vãng sinh tự nhiên cũng có tiêu nghiệp vãng sinh và đới nghiệp vãng sinh không đồng.

Căn cứ theo yêu cầu của kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật thì: "Tất cả phàm phu, muốn tu tịnh nghiệp, để được sinh về cõi nước Cực Lạc phương Tây, phải tu ba phước". Ba phước tức là nhân chính tịnh nghiệp để được vãng sinh Tịnh Độ. Ba phước tịnh nghiệp ấy là:
  • (1) Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười thiện nghiệp.
    (2) Thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, không phạm uy nghi.
    (3) Phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành.
Phần phát Bồ đề tâm trong mục thứ ba, y cứ vào "Tịnh Độ Luận" của Ca Tài đời Sơ Đường nói là hàm nhiếp toàn bộ nội dung tam tụ tịnh giới, dừng tất cả việc ác, tu tất cả điều thiện, hóa độ tất cả chúng sinh.

Trong kinh A Di Đà cũng nói: "Không thể có chút ít nhân duyên phước đức căn lành mà được sinh về cõi kia". Tuy có các vị Đại đức xưa kia cho rằng, chỉ cần nhất tâm niệm Phật liền có được nhiều nhân duyên phước đức thiện căn. Nhưng nếu đối chiếu với ba phước tịnh nghiệp đã nêu trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, thì đó chính là phước đức căn lành trong kinh A Di Đà. Đủ chứng tỏ điều kiện tiên quyết để được vãng sinh về cõi kia là tự tu ba phước tịnh nghiệp và khuyên người khác cùng tu ba phước tịnh nghiệp. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật phần Thượng phẩm thượng sinh có nói: "Nếu có chúng sinh, nguyện sinh về cõi nước kia phát ba loại tâm thì được vãng sinh". Ba loại tâm ấy là:
  • a. Chí thành tâm.
    b. Thâm tâm.
    c. Hồi hướng phát nguyện tâm.
Kinh cũng nói: "Có ba loại chúng sinh sẽ được vãng sinh".
  • (a) Từ tâm bất sát, đủ các giới hạnh.
    (b) Đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương Đẳng.
    (c) Tu hành lục niệm (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên) hồi hướng phát nguyện nguyện sinh cõi nước Cực lạc. Một ngày cho đến bảy ngày liền được vãng sinh. Điều kiện vãng sinh của hạng mục này, ngoài việc dụng tâm và tu lục niệm ra, cũng cần phải trì giới, để trợ giúp cho phước đức căn lành thêm lớn.
Đương nhiên điều kiện vãng sinh cũng vẫn còn có xưng danh niệm Phật như trong ba kinh Tịnh Độ cùng đề xướng, cho đến quán tượng, quán tưởng trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã nêu. Pháp môn chỉ dẫn trong ba kinh này, dù pháp môn niệm Phật quán tượng, quán tưởng, thật tướng hoặc xưng danh đều có công năng tiêu trừ tội chướng. Nếu ta quán thành tựu thì có thể tiêu trừ bao nhiêu kiếp tội nặng trong đường sinh tử. Cho đến nghe được đề kinh xưng danh hiệu Phật cũng có thể tiêu nghiệp. Như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật phần Hạ phẩm thượng sinh có nói: "Như người ngu này tạo nhiều điều ác, không biết hổ thẹn, lúc sắp mạng chung, gặp được thiện tri thức, vì người ấy mà nói danh tự đầu đề của mười hai bộ kinh Đại thừa, người ấy nghe được tên của các kinh này rồi có thể trừ được hàng ngàn kiếp nghiệp ác cực nặng. Người trí lại dạy chắp tay xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, người ấy xưng danh hiệu Phật rồi, trừ được tội trong đường sinh tử năm mươi ức kiếp". Kinh lại nói: "Người ấy xưng danh hiệu Phật rồi, các tội tiêu diệt, ta đến đón tiếp người ấy". Từ kinh văn mà xét thì tựa hồ như nói, phàm là chúng sinh vãng sinh Tịnh Độ, trong khoảng một niệm trước lúc vãng sinh Phật quốc, tất cả tội nghiệp đều đã tiêu diệt hết. Tuy nhiên, một số câu cuối trong phần Hạ phẩm hạ sinh của kinh lại nói, sau khi vãng sinh Phật quốc, ở trong hoa sen trụ mãn mười hai đại kiếp, hoa khai được thấy hai vị đại BồTát là Quán Âm và Thế Chí, vì người ấy mà rộng nói thật tướng các pháp, cách trừ diệt tội chướng. Như thế đủ biết, chúng sinh ở Hạ phẩm hạ sinh lúc vãng sinh cõi nước Cực Lạc tội nghiệp vẫn chưa tiêu hết. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, bộ kinh này cũng gọi là kinh Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sinh Chư Phật Tiền, vả lại còn có một quyển Thần Chú Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sinh Tịnh Độ Đà La Ni do Tam Tạng Cầu Na Bạt Đà La xứ Thiên Trúc dịch từ thời đại Lưu Tống, dạy người ta thọ trì pháp môn A Di Đà Phật, thọ trì chú pháp này, "nên súc miệng sạch sẽ, ở trước tượng Phật quỳ gối chắp tay, ngày đêm sáu thời, mỗi lần tụng ba mươi bảy biến diệt được bốn tội nặng (Tỳ kheo giới), ngũ nghịch, thập ác, hủy báng Đại thừa, đều được diệt trừ, hiện đời sở cầu đều được như ý đến lúc lâm chung theo nguyện vãng sinh". Tụng đủ hai mươi vạn biến, cảm được mầm Bồ đề sinh trưởng, nếu tụng đủ ba mươi vạn biến liền thấy được Phật A Di Đà. Đây là sự cường điệu về việc dụng tâm trì tụng chú này, có thể hiện tại bạt trừ tất cả nghiệp chướng, hiện đời được lợi ích, vị lai được vãng sinh Phật quốc. Thảo nào gần đây có một vị học giả tạng Mật tên là Trần Kiện Dân chủ trương tiêu nghiệp vãng sinh, rất phù hợp với tinh thần trên.

Bậc Thánh giả Đại Tiểu thừa đồng ý rằng sau khi tiêu diệt tội nghiệp vãng sinh Tịnh Độ, người ấy thành tựu tam muội, thành tựu lý sám thân chứng thực tướng vô tướng, tiêu nghiệp vãng sinh, còn có thể lý giải được. Đến như kẻ phàm phu phiền não ràng buộc chỉ nhờ niệm danh hiệu Phật, tín nguyện vãng sinh về nước kia, cũng có thể tiêu nghiệp vãng sinh, càng không dễ gì được người ta chấp nhận. Cho nên, chỉ có cách cường điệu nương nhờ vào bản thệ nguyện lực của đức Phật A Di Đà cứu giúp và cả sự gia trì của thần chú Mật thừa.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 2. TIÊU NGHIỆP, ĐỚI NGHIỆP ĐỀU ĐƯỢC ĐỘ
Căn cứ vào bốn loại Tịnh Độ mà tôi đã giảng thì chúng ta hễ tin Phật, học Phật đều có thể sinh Tịnh Độ. Thế nhưng, Tịnh Độ ở thế giới Cực Lạc phương Tây là do nguyện lực của Phật A Di Đà mà hình thành, nên phải nương nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà mới có thể vãng sinh. Như vậy có phải ai cũng đều được vãng sinh không? Căn cứ vào lời nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện mà kinh Vô Lượng Thọ chép thì: "Muốn cầu sinh Tịnh Độ của Phật A Di Đà, cho đến chỉ cần niệm danh hiệu Phật mười lần, nhất định được vãng sinh, đó là nhờ nguyện lực gia trì của Phật A Di Đà". Thế nhưng, nếu căn cứ vào kinh A Di Đà thì phải niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, kinh còn nói: "Không thể có chút ít nhân duyên phước đức căn lành mà được sinh về cõi nước kia". Ý nói nếu có người niệm Phật chưa được nhất tâm bất loạn, lại thêm căn lành cạn cợt, phước đức thiếu kém thì không thể sinh Tịnh độ của đức Di Đà. Nguyện thứ mười chín trong kinh Vô Lượng Thọ có nói: "Trừ người phạm tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp, tất cả chúng sinh hễ muốn sinh về nước kia đều được như nguyện vãng sinh". Tuy nhiên, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật lại nói, người phạm ngũ nghịch thập ác tu pháp môn niệm Phật A Di Đà cũng được Hạ phẩm hạ sinh ở cõi nước Cực Lạc. Do đó, trong pháp môn Tịnh Độ sản sinh quan niệm của hai phái. Một phái cho rằng, người ta có thể đới nghiệp vãng sinh Hạ phẩm hạ sinh nơi cõi Phật, phái khác thì cho rằng lúc vãng sinh nghiệp chướng phải được tiêu trừ hết.

Có một ông cư sĩ nói với tôi: "Kính bạch thầy! Sau khi con chết, con hy vọng sẽ được vãng sinh thế giới Cực Lạc". Tôi hỏi: "Đi như thế nào?". "Xin thầy trợ giúp cho con". "Ai đi trước?". Ông ta suy nghĩ một lát rồi nói: "Bạch thầy, đương nhiên là thầy phải đi trước". Ông mong muốn tôi vãng sinh trước rồi sau đó đem ông cùng sinh về Tịnh Độ phương Tây. Kỳ thật chỉ có Phật A Di Đà mới có loại sức mạnh ấy. Kinh Vô Lượng Thọ nói, đó là do kiếp lâu xa về trước, thời đức Phật Thế Tự Tại Vương, có một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng, đã phát lời thệ nguyện ấy, nguyện rằng sau khi thành Phật thành tựu quốc độ thanh tịnh, tiếp dẫn tất cả chúng sinh và Pháp Tạng chính là Phật A Di Đà.

Câu "Nguyện sinh chín phẩm sen ở phương Tây". Ý nói hoa sen chín phẩm đều nương nhờ bản nguyện của Phật A Di Đà, tiếp dẫn chúng sinh phàm phu, vì thế giới hóa thân bằng hoa sen, là thế giới sinh tồn của phàm phu, đương nhiên vẫn còn phiền não, đó tức là đới nghiệp vãng sinh, chứ không phải tiêu nghiệp vãng sinh. Phải nhờ nguyện lực cứu bạt của Phật A Di Đà, dù tự mình tu hành không đầy đủ, không thể giải thoát, nhưng vẫn có thể vãng sinh Tịnh Độ. Thật ra được sinh về Hạ hạ phẩm trong chín phẩm hoa sen còn tốt hơn không.

Nếu tín tâm của chúng ta không đủ, thời thường có ý nghĩ không biết có thế giới Cực Lạc phương Tây không. Nửa tin nửa nghi, rồi cũng theo gót người khác hành thiện, niệm Phật, tu cúng dường bố thí. Xin hỏi loại người này có thể vãng sinh Tịnh Độ phương Tây được không? Đương nhiên là có thể, nhưng chỉ có thể vãng sinh ở biên địa của Tịnh Độ. Thế nào là biên địa? Là thai cung, cũng là thai sen, tức là chỉ cho hoa sen vẫn chưa nở, ngồi trong thai hoa sen thời gian rất lâu dài. Không có tội báo, hưởng phước như cõi trời, nhưng lại thiếu cơ duyên nghe pháp tu hành.

Tuy nói lúc lâm chung niệm danh hiệu Phật A Di Đà mười lần thì có thể vãng sinh Tịnh Độ. Nếu chúng ta bình thời không tin Phật, không niệm Phật, không tu cúng dường, không trồng căn lành, chỉ chờ đến lúc lâm chung cầu nguyện được vãng sinh là điều rất mạo hiểm. Lúc sống không niệm Phật, khi sắp chết thỉnh đoàn trợ niệm đến trợ niệm cầu vãng sinh, đương nhiên cũng có tác dụng nhưng rốt ráo không bằng tự mình kịp thời niệm Phật vẫn tốt hơn. Một khi chúng ta nghe được Phật pháp dù tuổi già hay trẻ nên lập tức niệm Phật, trì giới, tu cúng dường, trồng căn lành, tu phước đức mới có hy vọng vãng sinh phẩm vị sen cao.

Người tu hành pháp môn Tịnh Độ không nên tự tư tự lợi chỉ cầu cho mình được vãng sinh Tịnh độ, mà không thiết gì đến thế gian này còn có rất nhiều chúng sinh đang chịu khổ nạn, chúng ta cần phải lấy từ bi và trí tuệ để giúp đỡ cứu tế họ. Đó chính là phát tâm Bồ đề, thực hành tam tụ tịnh giới của Bồ tát đạo.

Các vị Tổ sư đời xưa giải thích thiện căn, phước đức trong kinh A Di Đà là muốn chúng sinh niệm Phật nhiều, niệm Phật thường và niệm Phật chuyên cần. Niệm Phật cũng có hai loại phương pháp:

(1) Dùng miệng niệm ra tiếng, là niệm Phật hữu tướng.
(2) Dùng tâm tưởng niệm, thời thời khắc khắc cùng với lòng từ bi và trí tuệ của Phật tương ưng. Dù niệm Phật ra tiếng hay không, niệm niệm cùng với Phật tương ưng mới gọi là chân thật niệm Phật.[/list]
Công phu sâu sẽ thành niệm Phật thật tướng, niệm Phật vô tướng. Niệm Phật hữu tướng vẫn là niệm đới nghiệp, niệm Phật vô tướng thì thành tiêu nghiệp vãng sinh.

Thật ra người chuẩn bị đới nghiệp vãng sinh cũng cần nên học tiêu nghiệp, tiêu trừ dần dần chút nào hay chút đó, đời nay tuy không có biện pháp toàn bộ đoạn trừ tội nghiệp đã có, nhưng tội nghiệp tiêu trừ càng nhiều thì phẩm vị sen lên càng cao. Trái lại, thiết nghĩ được Hạ phẩm hạ sinh vẫn có vấn đề.

Có một nữ cư sĩ đến hỏi tôi rằng: "Bạch sư phụ, có người nói định nghiệp không thể chuyển được, nếu quả thực như thế thì chúng con sám hối, niệm Phật, tu thiện đều không có tác dụng, lúc thọ quả báo vẫn phải thọ, vậy thì tu hành căn bản không có tác dụng sao?". Tôi hỏi cô ta: "Lời hỏi này là ý gì?". "Bạch sư phụ, cha của con bệnh đã hơn một năm nay, con đã làm mọi thứ như đến chùa dâng hương cầu nguyện, thếp vàng lên tượng Bồ tát, cúng dường Tăng chúng, thỉnh thầy tụng kinh Địa Tạng, lễ lạy kinh Thủy Sám, cũng tích cực tham gia pháp hội Lương Hoàng Bảo Sám, thế nhưng cha của con vẫn không thuyên giảm". Tôi hỏi: "Cha của cô hiện nay bao nhiêu tuổi?". "Dạ thưa tám mươi ba tuổi". Tôi nói: "Nghiệp tuy có hữu định và bất định, nhưng tính tội vốn không, bản tính của tội nghiệp là không, chỉ vì tâm của mình chẳng không cho nên phải thọ báo. Nếu tâm của ta thật chứng chư pháp vô ngã thì không tội, không nghiệp ngay lúc ấy là giải thoát".

Vì thế, cô muốn tôi dạy cho cha cô phương pháp tâm không, nếu tâm không nghiệp tiêu thì bệnh sẽ dứt. Vấn đề là ở chỗ cha của cô có thể quán sắc tức là không? Có thể quán pháp vô ngã được không? Nếu không thể quán được thì tâm chẳng không, nghiệp cũng chẳng thể tiêu. Như bóng theo hình, không thể nói chỉ quan trọng nơi thân thể mà không quan trọng nơi hình bóng. Trừ phi tâm không chấp trước, không phân biệt, cũng không hữu tâm, vô tâm là vô ngã, đã vô ngã đương nhiên cũng không có quả báo của tội nghiệp, một khi tâm bệnh trị khỏi thì bệnh của thân cũng sẽ chuyển biến tốt đẹp. Đó là pháp môn tối cao để tiêu tai kéo dài tuổi thọ. Vị nữ cư sĩ sau khi nghe xong rất vui mừng, hy vọng trở về nhà sẽ nói lại cho cha cô biết, tâm không là phương pháp tốt có thể tiêu nghiệp trừ bệnh. Song tôi cũng nói với cô ta, nếu theo pháp môn niệm Phật, dù chưa được tâm không, cũng có thể nghiệp tiêu bệnh trừ.

Đối với người thường, hy vọng cầu sinh thế giới Cực Lạc phương Tây, thì lúc sống cần phải niệm Phật, siêng tu cúng dường, rộng gieo ruộng phước, dùng quan niệm báo ân để tiêu nghiệp chướng của mình. Đó cũng là lý tưởng mà Pháp Cổ Sơn chúng ta đề xướng "Đề cao phẩm chất con người, kiến thiết Tịnh Độ nhân gian". Dùng pháp này để trợ giúp cho phàm phu tiêu trừ một ít tội nghiệp, lúc sống tiêu trừ được một phần tội nghiệp thì phẩm vị hoa sen ở phương Tây cũng cao thêm một tí và rộng lớn ra thêm.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

VII. TỊNH ĐỘ PHƯƠNG TÂY VÀ TỊNH ĐỘ NHÂN GIAN
Không buông bỏ được thì tự mình không có trí tuệ, không buông bỏ được thì đối với người sẽ không có từ bi. Nếu như không vì một mục đích nào, luôn luôn đem lòng giúp đỡ và cảm thông để đối đãi với người, đó chính là học tập từ bi và trí tuệ của đức Phật. Người niệm Phật đến lúc từ bi và trí tuệ viên mãn cũng chính là Phật.
KHAI THỊ 1: PHẬT THẤT THANH MINH BÁO ÂN
  • 1. DÙNG KHĂN BÔNG ĐỂ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Để bảo vệ môi trường, trong trai đường có đề xướng dùng loại khăn bông bền chắc thay thế cho khăn ăn bằng giấy, sau khi sử dụng xong, giặt sạch phơi khô, rồi lại dùng tiếp, không chỉ sử dụng trong thời gian Phật thất, khi Phật thất viên mãn đem về nhà, lúc trở lại Nông Thiền Tự cũng đem theo mình. Rất mong quý vị đến nơi nào ăn uống cũng nên tập thói quen dùng khăn bông và những dụng cụ ăn uống đem theo bên mình.

Trong kỳ Phật thất, khăn tay tặng không để kết duyên. Bình thời đến chùa nên tự mua sắm, xử dụng đến khi nào hư thì thôi. Nếu dùng xong vất đi, sẽ trái ngược với nguyên tắc đạo lý tiếc phước được phước, tận dụng đồ vật, không nên xài phung phí, tự nhiên sẽ khá.
  • 2. THỜI THỜI CHỖ CHỖ ĐỀU NIỆM PHẬT
Hôm nay là ngày nghỉ có thể có rất nhiều Bồ Tát tùy hỷ hoặc thân hữu của quý vị đến chùa tham gia niệm Phật, có thể gặp mặt nhưng không nên nói chuyện. Tối hôm qua tôi đã khai thị, quý vị dù ở chỗ nào, thời gian nào trong tâm trong khẩu chỉ có một tiếng niệm Phật. Ở trên chính điện, khi kinh hành niệm Phật ra tiếng chậm rãi, sau khi ngồi xuống, trước là dùng tiếng niệm nhanh, càng niệm càng nhanh, sau đó dừng lại, dùng lối mặc niệm. Lúc niệm Phật ra tiếng không luận là nhanh hay chậm đều nên đem tâm đặt nơi danh hiệu Phật, cùng với chúng niệm Phật. Lúc mặc niệm cũng lấy tốc độ như thế dùng tâm mặc niệm. Dù làm việc, kinh hành, uống nước, ăn cơm, rửa tay, lúc nào cũng đều niệm Phật.
  • 3. PHƯỚC LỢI XÃ HỘI
Mười sáu giờ chiều, thị trưởng thành phố Đài Bắc là ông Hoàng Đại Châu đến thăm chúng ta, chúng tôi thay mặt cho toàn thể đại chúng, tín đồ Nông Thiền Tự sẽ đem số tiền phước lợi xã hội trong một năm quyên góp linh tinh chia làm ba khoản chi.
  • (1) Cục Xã hội của chính phủ tại thành phố Đài Bắc.
    (2) Khoa xã hội khu Bắc Đầu mà Nông Thiền Tự trực thuộc.
    (3) Đội cứu hỏa của làng Kim Sơn tại Pháp Cổ Sơn.

Ba đơn vị này có khoảng mười người đến chùa tham gia nghi thức thọ quyên, do thị trưởng họ Hoàng thay mặt nhận tiền. Đây là sự phụng hiến của tín đồ Phật giáo chúng ta đối với xã hội, bao gồm toàn thể tín chúng bản tự và quý vị, do việc làm này cũng được vô lượng công đức.
  • 4. KHÓ TU, DỄ TU
Niệm Phật là phương pháp dễ hành, cũng là phương pháp khó tu hành. Nói dễ là chỉ cần niệm hồng danh sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật thì có thể tu hành được. Nói khó là chỉ cho phải niệm đến tâm không tạp niệm. Ngày đêm hai mươi bốn giờ không rời Phật hiệu, đó chính là hoàn thành niệm Phật tam muội, điều này rất khó.
  • 5. SAU BỮA ĂN TRƯA NGHỈ MỘT CHÚT
Chúng ta thức dậy lúc bốn giờ sáng, đi ngủ lúc mười giờ tối, chỉ có khoảng sáu giờ ngủ, nếu người thể lực yếu cảm thấy rất mệt. Sau khi ăn cơm trưa, lúc công việc kết thúc có thể đến liêu phòng nghỉ hai mươi phút. Sau ngọ trưa mà mệt mỏi ngủ gật, thà đi ngủ một giấc còn hơn. Nếu sau khi ăn xong không muốn nghỉ, thì nên vào chính điện lễ Phật, kinh hành, không nên đi chơi hoặc nói chuyện. Có rất nhiều Bồ tát tùy hỷ niệm Phật, xin quý vị hãy lợi dụng thời gian ngắn ngủi này niệm Phật rất tốt, không nên nói chuyện với nhau, để khỏi ảnh hưởng đến việc dụng công tu hành của người khác. Nếu muốn nói chuyện, để về nhà hãy nói.
  • 6. CHỈ NIỆM PHẬT KHÔNG NÓI CHUYỆN
    • Các vị Bồ Tát thuộc tổ tinh tấn trong thời gian Phật thất cần làm cho được việc thấy mà không thấy, nghe mà không nghe, tuyệt đối không được nói chuyện.

      Nguyên nhân của việc cấm nói chuyện có hai:
      • (1) Nói ở trong tâm không nên hướng ra ngoài nói, dưỡng thành tập quán không nói ra miệng. Cho nên có câu: "Bệnh tự miệng mà vào, họa từ miệng mà ra". Cấm nói chuyện là dạy chúng ta không chỉ cẩn trọng lời nói, mà còn tiêu trừ được phiền não bên trong. Không gây ảnh hưởng đến người khác, cũng không gây khổ não cho chính mình.

        (2) Chúng ta đến đây để niệm Phật tu hành, bình thời đã nói chuyện quá nhiều rồi, trong tâm cũng loạn tưởng quá nhiều rồi, không dễ gì có cơ hội chuyên tâm niệm Phật bảy ngày như vầy. Thật là nhân duyên khó được nên cố gắng tranh thủ niệm Phật nhiều không nên để phí thời gian nói chuyện.
Đêm thứ nhất tôi đã nói, dù thời gian nào cũng đều nên niệm Phật, hoặc ra tiếng hoặc mặc niệm, trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu mà thôi. Nghe người khác nói chuyện, hoặc những tạp âm khác, trong tâm phải vừa niệm Phật vừa quán tưởng đó là y chính trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, tất cả âm thanh nghe được đều là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Nếu bạn nói không cẩn thận, hoặc giả trong tâm cũng quên cả niệm Phật, thì phải khởi tâm hổ thẹn, nói với chính mình: "Ta đến đây để niệm Phật tu hành, không phải đến nghe người ta nói chuyện, tự mình nói tạp, nghĩ tưởng lung tung". Khởi tâm hổ thẹn lập đi lập lại như vậy, cải sửa chính mình, dần dần tự nhiên có thể chuyên tâm niệm Phật.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 7. DÙNG TÂM HỔ THẸN MÀ NIỆM PHẬT
Thời thời khắc khắc dùng khẩu niệm, dùng tâm niệm. Dùng tâm của mình chiếu cố đến âm thanh niệm Phật của mình với tâm niệm Phật. Chiếu cố là quán chiếu chính ta có đang niệm Phật không. Khi phát hiện mình đang xa rời danh hiệu Phật liền khởi tâm hổ thẹn, rồi chú tâm niệm Phật trở lại. Tâm hổ thẹn không phải là chúng ta quá hối hận buồn rầu, mà chính là sau khi biết liền sửa đổi cho tốt. Đương nhiên khởi tâm hổ thẹn để rồi sau đó sám hối. Nếu biết mà không thể cải tiến được thì phải dùng tâm sám hối mà lễ Phật.
  • 8. HỒI HƯỚNG NHƯ THẾ NÀO?
Có người niệm Phật hy vọng mình được tiêu trừ tai nạn, được thỏa mãn tâm nguyện. Có người niệm Phật nguyện đem công đức hồi hướng cho sự nghiệp của mình hoặc của người nhà được thành tựu, nghiệp chướng tiêu trừ, gia quyến bình an, thân thể kiện khang. Hồi hướng hiện đời được lợi ích cũng là chính đáng, nhưng trong bảy ngày này không phải lúc nào cũng đều hồi hướng, vì quý vị đến tham gia Phật thất là đã có tâm hồi hướng rồi. Vả lại mỗi ngày tại thời khóa niệm Phật đã có đọc kệ hồi hướng, mỗi tối lại có đại hồi hướng, cho nên phải chí tâm niệm Phật không ngừng, không thể cứ hồi hướng mãi làm mất thời gian niệm Phật, nhiễu loạn công phu chuyên tâm niệm Phật.
  • 9. THẾ GIỚI THANH LƯƠNG (trong sạch mát mẻ)
Khí hậu hôm nay rất mát, mát là đại biểu cho tâm trong sạch ít dục, đại biểu cho cảnh giới trong sạch mát mẻ, cũng là đại biểu cho trí tuệ. Phiền não càng ít thì cảm giác thế giới càng trong mát, phiền não càng nhiều thì nhìn thế giới giống như ngọn lửa lớn đang thiêu đốt. Cho dù khí hậu nóng bức, nhưng nếu có thể niệm Phật đến mức tâm không lo nghĩ thì sẽ cảm được thế giới này là vô ưu vô lự, tự do tự tại. Cũng có thể thể hội được khoảng cách Tịnh độ cõi Phật ngày càng đến gần.

Bởi vì tin Phật càng khẩn thiết, xưng niệm Phật hiệu càng thâm trầm, phiền não cũng sẽ càng ít đi. Chỉ cần nguyện sinh Tịnh độ phương Tây, lúc sắp mạng chung đức Phật A Di Đà nhất định sẽ đến tiếp dẫn, phẩm vị hoa sen hóa sinh cũng càng cao càng lớn, đó tức là thế giới thanh lương.
  • 10. CHUYÊN TU TRÌ DANH NIỆM PHẬT
Pháp môn niệm Phật vốn có bốn loại: quán tượng, quán tưởng, thật tướng và trì danh. Đại sư Trí Giả tông Thiên Thai chủ trương từ thiền quán mà vào thật tướng. Đến đại sư Liên Trì cuối đời Minh chủ trương thể cứu niệm Phật, khuyên tu niệm Phật tam muội. Đời Thanh vẫn có nhiều vị đại sư tu Ban Chu tam muội thiền tịnh song tu. Tuy nhiên, đến ngài Ấn Quang năm đầu Dân quốc, đặc biệt chú trọng chấp trì danh hiệu trong kinh A Di Đà, cho rằng thật tướng niệm Phật rất khó thực hành, người hạ căn ngày nay chẳng thể theo kịp. Vì thế, đại sư chủ trương trì danh niệm Phật, hạ thủ dễ mà thành công cao, ấy là toàn sự tức lý, toàn vọng tức chân, có thể khiến cho người niệm Phật, hiện đời dự nhập dòng Thánh, lâm chung theo Phật vãng sinh, khai tri kiến Phật, đồng Phật thọ dụng. Ngài đã dùng phong khí khéo léo quét sạch thiền tịnh lẫn lộn, đem lý làm sự. Ngài cho rằng thời đại mạt pháp hiện nay, muốn ra khỏi đời ác năm trược, ngoài việc chuyên tu trì danh niệm Phật Tịnh Độ phương Tây, không có pháp môn nào khác có thể nương dựa. Đó cũng chính là lý do khoảng mười năm gần đây, phong khí niệm Phật của giới Phật giáo Trung Quốc rất phổ biến.
  • 11. ChÂN THẬT TRÌ DANH NIỆM PHẬT
Tôi cũng khuyên quý vị nên chí thành tu hành pháp môn niệm Phật trì danh, pháp môn này có thể giúp chúng ta lúc sắp mạng chung quyết định vãng sinh cõi Phật. Trong hiện đời cũng có thể nâng cao nhân phẩm, tiêu trừ nghiệp chướng, tự lợi lợi người. Nếu có thể niệm Phật khẩn thiết, công phu miên mật, cũng có khi xuất hiện cảnh giới hoát nhiên tâm khai. Bởi vì bản thân trì danh niệm Phật tức là một trong những phương pháp tu hành thiền quán. Cho nên, trong "Nhập Đạo An Tâm Yếu Phương Tiện Môn" của ngài Đạo Tín Tổ thứ tư Thiền tông, đặc biệt dẫn dụng pháp tu Nhất hạnh tam muội nêu trong kinh Văn Thù Thuyết Bát Nhã là: "Cột tâm vào một vị Phật, chuyên xưng danh hiệu ngài". Ngay như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là kinh điển của Tịnh độ nói: "Tâm này làm Phật, tâm này là Phật". Cũng được đại sư Đạo Tín dẫn dụng. Đủ chứng tỏ hai môn thiền tịnh vốn là một nhà. Phương pháp có thể hỗ thông, chỉ là không được dùng tâm gian dối để trục lợi mà thôi.

Trì danh niệm Phật, nghiệp tiêu chướng nhẹ, trong tâm tự nhiên an tĩnh, nhìn thế giới cũng sẽ tự nhiên thanh tịnh, nhìn mọi người dù nhân duyên thuận nghịch cũng có thể xem là chư thượng thiện nhân trợ giúp thành đạo lớn Bồ đề. Dù họ dùng thái độ nào đối đãi với chúng ta cũng đều có thể làm tăng trưởng tư lương Tịnh Độ của chúng ta.

Nếu có thể dùng tâm trạng chân thật niệm Phật như lời đại sư Liên Trì đã dạy mà trì danh niệm Phật, tuy không cầu lợi ích và an lạc cho mình, trên thực tế sẽ khiến cho bạn thuận lợi mọi bề, được người đắc đạo trợ giúp, dù cho có gặp nghịch cảnh cũng có thể biến xấu thành tốt. Đó chính là hiện đời niệm Phật đạt được an toàn bảo đảm, vị lai nhất định vãng sinh Tịnh Độ.

Dùng tâm thanh tịnh chân thật niệm Phật, đem tâm chấp trước và tâm tự tư mà mình có, dần dần buông bỏ để chuyên tâm nhất ý niệm Phật, cảm thọ và quan niệm tự nhiên sẽ được cải biến, chuyển nhà lửa tam giới thành thế giới trong mát, biến vô minh phiền não thành biển trí tuệ, hóa tham dục sân nhuế thành tấm lòng từ bi. Lúc ấy thấy chúng sinh hiện hữu ở thế giới này đều là Bồ tát, hiện đời đã thể hội được y chính trang nghiêm của thế giới Cực Lạc phương Tây. Cho nên, công đức niệm Phật thực tại rất tốt đẹp, rất to lớn, mong quý vị nên chân thật niệm Phật.
  • 12. PHẬT A DI ĐÀ CÓ MƯỜI BỐN DANH HIỆU
Quý vị liên hữu thân mến, chúng ta mỗi ngày niệm Phật A Di Đà, mà ý nghĩa danh hiệu của ngài có thể vẫn có những người chưa biết được. Y cứ vào sự giới thiệu trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật A Di Đà lại có tên là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Đối Quang, Phật Diệm Vương Quang, Phật Thanh Tịnh Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Phật Trí Tuệ Quang, Phật Nan Tư Quang, Phật Bất Đoạn Quang, Phật Vô Xưng Quang, Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang, tổng cộng mười bốn tôn hiệu, đều đại biểu cho trí tuệ rộng lớn và từ bi rộng lớn của Phật A Di Đà. Cũng có thể nói, nếu hay tu trì pháp môn niệm Phật của Phật A Di Đà và được đức Phật chiếu cố, thì có thể ở mọi lúc mọi nơi, ánh sáng trí tuệ và lòng từ bi của Phật mãi mãi trợ giúp cho chúng ta được bình an, dũng khí, nghị lực, kiện khang, hạnh phúc, hoan hỷ, khoái lạc, thanh tịnh, không gì có thể so sánh được, rất tốt, không thể nghĩ bàn. Dù có chúng sinh ngu muội cự tuyệt ngài, nhưng ngài vẫn mãi mãi không để cho bất kỳ chúng sinh nào thất vọng. Nếu có chúng sinh phiền não chướng ngại, có nghiệp chướng hiện tiền, chỉ cần trì danh xưng niệm Thánh hiệu Phật A Di Đà, sẽ được tâm khai ý giải, cõi lòng cởi mở.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 13. PHẬT A DI ĐÀ LÀ TRÍ TUỆ VÀ TỪ BI

Tất cả trạng huống sự vật của thế gian, đều do mối quan hệ nhân quả trước sau tạo thành, cũng là do mối quan hệ nhân duyên bất đồng mà hình thành, cho nên nói nhân quả bất khả tư nghị, nhân duyên bất khả tư nghị. Phàm tất cả sự việc chúng ta chỉ biết tận lực mà làm, nhưng không thể tùy tâm mong muốn cái gì liền được cái đó. Người phàm phu ngu si không hiểu được đạo lý này, cho nên cứ mong muốn mọi việc đều được như ý, nếu không được bèn quay trở lại, không oán trời trách người, thì cũng mất tự tin, sinh khởi phiền não. Cho nên, cần phải niệm Phật để nhờ sức Phật đem đến ánh sáng trí tuệ cho ta.

Không buông bỏ được thì tự mình không có trí tuệ, không buông bỏ được thì đối với người sẽ không có từ bi. Hay nghĩ tưởng như thế đối với tất cả người sẽ sinh khởi tâm thông cảm và tâm tôn kính. Thông cảm vì người ta cũng là phàm phu trói buộc, tôn kính vì người ta cũng có nhân cách độc lập. Như đối với sự khổ nạn rắc rối của người khác ra tay cứu giúp không có điều kiện, đó chính là tâm từ bi. Nếu như không vì mục đích nào hết, lúc nào cũng dùng tâm trợ giúp và cảm thông đối đãi với người, tức là tấm lòng của Bồ tát, cũng là từ bi của Bồ tát, Bồ tát là giai đoạn dự bị để thành Phật, người tu hành gọi là Bồ tát, tức là học tập từ bi và trí tuệ của đức Phật. Người niệm Phật đến lúc từ bi và trí tuệ viên mãn cũng tức là Phật.

Trong "Tứ Chúng Phật tử cộng miễn ngữ" của tôi viết có hai câu: "Từ bi không có người thù địch, trí tuệ không khởi lòng phiền não". Trên thực tế nếu có thể đem câu này phát huy rộng rãi thì chính là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Trí Tuệ Quang của Phật A Di Đà. Dùng thọ mạng vô lượng mãi mãi cứu độ chúng sinh, dùng trí tuệ vô lượng phổ chiếu chúng sinh, dùng từ bi vô lượng bình đẳng thương xót chúng sinh.

Tu hành pháp môn niệm Phật, phải nên biết ý nghĩa của Phật A Di Đà. Nếu muốn đích thân mình thể nghiệm ý nghĩa này, nên dùng trí tuệ và từ bi để phát nguyện hồi hướng cho mình được sinh Tịnh Độ cõi Phật, cũng phát nguyện mong muốn cho tất cả chúng sinh nhờ công đức niệm Phật của chúng ta mà được vãng sinh Tịnh độ cõi Phật, đó chính là tâm phát nguyện hồi hướng.
  • 14. TỊNH NIỆM TƯƠNG KẾ NHẬP LƯU VONG SỞ
Nếu dùng thâm tâm niệm Phật, ngay đó xa lìa được thống khổ phiền não. Nếu dùng chuyên tâm niệm Phật, thì sẽ phát hiện phiền não vốn không trụ tại trong tâm. Nếu dùng nhất tâm niệm Phật, niệm niệm đều là Phật A Di Đà, đó là "tịnh niệm tương kế" như trong kinh Lăng Nghiêm đã nói. Nếu dùng vô tâm niệm Phật, lập tức mất cả tự mình năng niệm và Phật hiệu sở niệm, đó là "nhập lưu vong sở" như kinh Lăng Nghiêm đã nói. Niệm Phật mà được nhất tâm như đại sư Liên Trì nói có sự nhất tâm và lý nhất tâm. Tâm không vọng tưởng là sự nhất tâm, trong tâm vô ngã tức là lý nhất tâm thân chứng thật tướng Bát nhã. Đại sư Trí Giả tông Thiên Thai sáng lập thuyết "một niệm ba ngàn", y cứ vào Sám nghi Pháp Hoa Tam muội do Ngài soạn. Một niệm của đại sư Trí Giả là thông cả phàm Thánh mười pháp giới. Một niệm vọng tâm của phàm phu cũng tức là đầy đủ ba ngàn công đức. Đủ biết Thiên Thai tuy lập bốn loại Tịnh Độ, nhưng trong một độ nào cũng nhiếp cả ba độ khác, trong một niệm nào cũng thường có đầy đủ sự lý. Không cần phải quan tâm chúng là sự nhất tâm hay là lý nhất tâm, cũng không cần phải quan tâm chúng là phàm hay Thánh, chỉ cần nắm chắc một niệm tâm ngay lúc đó chính là toàn thể đại dụng của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. Dùng cách này để quán sát công đức niệm Phật, dù tán tâm niệm Phật hay nhất tâm niệm Phật, đều có vô lượng công đức, đều có thể “hiện đời dự vào dòng Thánh” như đại sư Ấn Quang đã nói. Đây cũng tức là viên giáo sở nhiếp của tông Thiên Thai.

Đến như làm thế nào để nắm chắc một niệm tâm hiện tiền, vẫn là phải tu quán hạnh, thường hành tam muội trong bốn loại tam muội của tông Thiên Thai, tức là lấy bốn mươi chín ngày làm kỳ hạn, hằng trì danh hiệu Phật A Di Đà, ngày đêm không có dừng nghỉ.
  • 15. BA LOẠI NGƯỜI NIỆM PHẬT

Mục đích niệm Phật có ba loại:
  • (1) Có một loại người niệm Phật để cầu tiêu tai sống lâu, lành bệnh, kiện khang, siêu độ người mất.
    (2) Có một loại người niệm Phật là để cầu lúc lâm chung được vãng sinh về Tịnh Độ Cực Lạc phương Tây.
    (3) Có một loại người lúc niệm Phật, niệm niệm Phật hiệu niệm niệm Tịnh Độ, niệm niệm Phật hiệu trong mỗi niệm thể hiện vô lượng công đức của Phật.
Ba loại người này, loại trước không bằng sau. Loại sau toàn nhiếp trước. Nếu chúng ta lấy việc kiếm tiền làm thí dụ thì loại người thứ nhất là kiếm được tiền sắt, loại người thứ hai là kiếm được tiền đồng và tiền bạc, loại người thứ ba là kiếm được tiền vàng và kim cương. Nếu chỉ lấy tiền sắt, nhất định không đổi được tiền bạc và tiền vàng. Nếu đã lấy được tiền vàng và kim cương, đương nhiên có thể mua được tiền sắt, tiền đồng, tiền bạc. Cho nên, tôi muốn khuyên quý vị đã đến tham gia Phật thất, nghe được pháp môn niệm Phật cần phải có mục tiêu, không nên dừng lại ở loại một.

Làm thế nào để lấy được tiền vàng? Phải có đại nguyện, ra sức quyết tâm, dùng thâm tâm niệm Phật, chuyên tâm niệm Phật, nhất tâm niệm Phật, cho đến tiến một bước nữa đạt đến trình độ vô tâm niệm Phật.
  • 16. MỘT NIỆM NIỆM PHẬT THỜI MỘT NIỆM THẤY TỊNH ĐỘ
Đương nhiên không nên nóng vội, vì nhất tâm niệm Phật và vô tâm niệm Phật là việc so ra không dễ gì làm. Ngay như tâm trạng và quan niệm của người niệm Phật loại ba thì có thể dùng tín tâm để thử thể hội. Ít nhất cũng phải hiểu, trong miệng niệm Phật ra tiếng trong tâm biết là đang niệm Phật, một niệm tiếp nối một niệm, một tiếng liền nhau một tiếng, tin rằng mình đang niệm Phật A Di Đà, công đức bổn nguyện của Phật A Di Đà, đều ở trong mỗi tiếng Phật hiệu, cũng đều ở trong một niệm niệm Phật mà mình đang niệm. Đây là điều có thể làm được. Nếu chúng ta làm được như vậy thì lúc một niệm niệm Phật, một niệm thấy Tịnh Độ. Thấy Tịnh Độ nào? Đương nhiên là Tịnh độ của Phật A Di Đà, đó là Tịnh Độ trong tâm mình, cũng chẳng lìa Tịnh Độ phương Tây, đấy chính là Tịnh Độ nhân gian cùng với bốn loại Tịnh Độ có mối quan hệ mật thiết, không một cũng không khác.
  • 17. QUÝ TIẾC TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Quý vị Bồ Tát, sau ngọ xin quý vị chịu đựng một chút, bởi vì cúp nước, cho nên không được tắm rửa, giặt quần áo, đi vệ sinh cũng phải hết sức tiết kiệm nước, nếu không ngày mai sẽ thiếu nước dùng. Hiện tại chúng ta đang sử dụng nước trong bồn chứa, lượng nước không còn nhiều, chỉ nên dùng vào việc ăn uống mà thôi. Nguồn tài nguyên thiên nhiên của thế giới này có hạn, lúc được ăn no mặc đẹp phải nghĩ đến ngày đói khổ bần cùng, lãng phí thì toàn bộ nguồn tài nguyên của địa cầu sẽ bị giảm thiểu. Nước cũng là phước báo của chúng ta, lúc có nước dùng, tuy biết nước không giá trị bằng tiền, nhưng lúc thiếu nước, nước so với vàng còn quý hơn. Không có vàng người ta không chết, không có nước uống thì người ta khó mà sống được. Lúc đại hạn hán đến, một giọt nước khó tìm. Cầu trời trời không ứng, kêu đất đất cũng làm ngơ, đó đều là do nơi phước báo không đủ, mới có tai nạn giáng lâm. Trái lại, hôm nay lại là giáo trình giảng dạy rất tốt, trong kỳ Phật thất này bị cúp nước, chính là dạy cho chúng ta từ nay về sau phải tiết kiệm dùng nước, cũng cần phải quý tiếc tài nguyên vốn có.
  • 18. CẢM ÂN VẦ BÁO ÂN
Phật thất lần này chúng ta tham dự là Phật thất báo ân. Nếu chúng ta dùng tâm báo ân để sinh hoạt, làm việc, tu hành nhất định sẽ được cảm kích và sẽ không có ý niệm oán hận, thất vọng, không tin phục, không công bình. Dù làm việc gì đều là vì báo ân, báo đáp ân huệ của cha mẹ, sư trưởng, Tam bảo, quốc gia, xã hội và tất cả chúng sinh. Trả tất cả, dù là trách nhiệm hay nghĩa vụ, cho đến các thứ lừa gạt vơ vét tài sản không hợp tình lý, đều xem là không phải bị hại, cũng không phải trả nợ, mà phải xem đó là hoàn nguyện báo ân. Lúc chúng ta ăn uống, thời khắc dùng cho thân thể, lúc dùng đến tài nguyên xã hội và tài nguyên thiên nhiên đều phải có tâm cảm ân. Trường hợp gặp được bất kỳ người nào cũng phải quý tiếc nhân duyên này, gặp bất kỳ việc gì phát sinh, có lợi cũng không nên mừng quá, có hại cũng không nên oán hận. Nếu siêng niệm Phật tất nhiên đối với các cảnh thuận nghịch, nhất luật dùng tâm bình thường để đối xử, dùng tâm cảm ân để xử lý. Nếu dùng tâm cảm ân đối mặt với cuộc sống, thì sẽ có các loại thiện pháp, thiện cảnh giới xuất hiện. Sẽ cảm nhận được pháp hỷ sung mãn. Ít nhất lúc đối với cảnh ác hiện tiền không đến nỗi mất đi sự chọn lọc của trí tuệ và tấm lòng từ bi.
  • 19. BÁO ÂN NHƯ THẾ NÀO?
Sau khi Phật thất viên mãn, mỗi người đều phải lập chí làm một người báo ân. Trước tiên làm sao cho gia đình chiếu cố đến nhiều hơn và ít phiền toái hơn. Dùng bố thí và cúng dường Tam bảo để hỗ trợ cho người tiếp thụ Phật pháp, tu học Phật pháp càng nhiều hơn. Sắp xếp thời gian nhàn rỗi tham gia các công tác phúc lợi. Tự mình tu trì Phật pháp được lợi ích, cũng nên hỗ trợ cho nhiều người tu học Phật pháp đạt được lợi ích.

Thời gian tôi còn là chú tiểu sa di, không có ai cúng dường, mùa Đông không có áo bông lại do cha mẹ nghèo khổ nên phải bán lúa mạch khẩu phần ăn của gia đình, để đổi lấy áo bông đem đến chùa cho tôi. Lúc ấy tôi nghĩ: "Sau này khi tôi trưởng thành nhất định sẽ báo đáp ân đức cha mẹ". Nhưng báo ân bằng cách nào đây? Đến nay thì cha mẹ đã qua đời, chỉ còn cách dùng thân thể mà cha mẹ đã sinh ra mình, tu học Phật pháp, hoằng dương Phật pháp cho tốt, khiến cho người tu học Phật pháp, hoằng dương Phật pháp càng nhiều, giúp cho chúng sinh lìa khổ được vui để báo ân cha mẹ. Tôi cũng mang rất nhiều ân của bậc thầy thế độ, bao quát trước sau hai lần xuất gia, các ngài đã dẫn dắt tôi ra khỏi trần thế, đi trên con đường học Phật tu hành, ân sâu hơn biển, đức dày hơn trời, lại còn có Hòa thượng truyền pháp, thầy dạy đạo, giới sư truyền giới v.v… đều là ân nhân đại đức của tôi, không làm sao báo đền hết, chỉ biết mỗi ngày vào lúc khóa tụng vì các ngài mà lễ bái, đem ân đức thọ nhận từ các Ngài, phổ thí cho tất cả chúng sinh hữu duyên để làm sự báo ân.
  • 20. BỒ TÁT VẠN HẠNH KẾT THIỆN DUYÊN VỚI VẠN NGƯỜI
Trong kỳ Phật thất lần này có rất nhiều Bồ Tát đến làm việc trợ duyên như: phụ giúp hướng dẫn nơi nhà khách, quét dọn sửa sang cảnh chùa, mỗi tối ở bên ngoài cổng lớn vì các Bồ Tát đến tùy hỷ niệm Phật mà xông pha mưa gió để chỉ huy giao thông, lại có những Bồ Tát phát tâm lo việc nhà bếp rất khổ cực, mỗi ngày phải dậy sớm làm cho đến tối, vì số lượng chúng ta cả ngàn người ăn uống. Họ chỉ hy vọng đem sự thành tựu tu hành của chúng ta để báo ân Tam bảo, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân chúng sinh và ân quốc gia. Bởi vì sự tu hành của chúng ta là cải biến tự thân của chúng ta, đối với thân hữu và xã hội quảng đại, sẽ có ảnh hưởng tích cực trực tiếp, sẽ đem lại lợi ích cho rất nhiều người. Cho nên, các vị Bồ Tát công quả đó hộ trì đạo tràng, hộ trì Phật thất, cũng là tu hành Phật pháp và hoằng dương Phật pháp. Chúng ta thường chỉ nghĩ đến người niệm Phật trên chính điện mới là báo ân, mới là tu hành. Kỳ thật, các vị Bồ Tát đó hộ trì chúng ta tu hành cũng là tu hành, mà còn là đại tu hành nữa. Cho nên, rất mong những vị đến niệm Phật lần này, lần sau cũng nên phát tâm đến trợ duyên công quả hộ thất. Trong đoàn thể Pháp Cổ Sơn của chúng ta nơi đây được tôn xưng Bồ Tát vạn hạnh, mọi người đều đem sở tri sở năng và sở hữu sở trường của mình để kết thiện duyên với vạn người, cũng là để cho vạn người kết thiện duyên với chính họ. Tịnh Độ nhân gian của chúng ta, chính là phải dựa vào niềm tin và hành động như thế để kiến thiết.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

KHAI THỊ 2: PHẬT THẤT THANH MINH BÁO ÂN
  • 1. KHẨN THIẾT, HOAN HỶ, KHỒNG LÌA DANH HIỆU PHẬT
Quý vị liên hữu thân mến, A Di Đà Phật! Chúng ta hiện tại bắt đầu đi vào giai đoạn tu hành Phật thất Thanh Minh, mong quý vị dùng tâm khẩn thiết, tâm hoan hỷ để tu hành pháp môn niệm Phật bảy ngày, tốt nhất nên xem niệm Phật thất như là bắt đầu lại một đời sống mới. Chúng ta bình thường dùng tán tâm niệm Phật, trong thời gian Phật thất phải dùng chuyên tâm niệm Phật, sau đó đến nhất tâm niệm Phật. Vì sao phải hoan hỷ? Vì có thể niệm Phật được, lại có thể tham gia niệm Phật bảy ngày, là nhờ bản thân bạn có đại phước báo, căn lành sâu dầy, rất nhiều người không được mà bạn được, cho nên phải hoan hỷ. Đồng thời lúc niệm Phật phải đem tâm niệm của bạn và danh hiệu Phật gắn liền với nhau, tạo thành một khối. Danh hiệu Phật chính là bản thân bạn, bản thân bạn chính là danh hiệu Phật, tâm của bạn phải tương ứng với danh hiệu của Phật A Di Đà. Ở trên Phật điện niệm Phật, ở trong trai đường niệm Phật, lúc ngủ cũng niệm, khi đi làm lễ cũng niệm, cho đến khi rửa tay cũng niệm, dù niệm thầm hay niệm ra tiếng trong tâm lúc nào cũng có danh hiệu Phật.
  • 2. TRÍ TUỆ VÔ LƯỢNG
Ý nghĩa Phật A Di Đà là vô lượng thọ, vô lượng quang, tức là thọ mạng vô lượng và ánh sáng vô lượng. Phật A Di Đà có thể ở trong khoảng thời gian dài vô tận, tiếp dẫn chúng sinh vô lượng, cho nên gọi là vô lượng thọ, hay dùng trí tuệ vô biên và lòng từ bi vô tỉ, chiếu cố đến chúng sinh trong biển khổ vô cùng, cho nên gọi là vô lượng quang. Lúc chúng ta niệm Phật, trong tâm phải tương ưng với từ bi và trí tuệ, cũng tức là phải tương ưng với vô lượng quang của Phật A Di Đà, tâm của chúng ta vĩnh viễn không được xa lìa trí tuệ và từ bi. Tâm của chúng ta cũng vĩnh viễn không được xa lìa danh hiệu Phật A Di Đà, đó cũng là vô lượng thọ.
  • 3. KHÔNG MỘT, KHÔNG HAI, SINH MẠNG VÔ THƯỜNG
Lúc niệm Phật, Phật A Di Đà với chúng ta hiệp làm một, không một không hai, cũng không phải một cũng không phải hai. Bởi vì ngay lúc chúng ta niệm Phật, Phật A Di Đà là danh hiệu Phật mà chúng ta phải niệm, cho nên không phải là một, thế nhưng lúc niệm Phật A Di Đà, tâm chúng ta với Phật A Di Đà hợp làm một, cho nên không phải một cũng không phải hai.

Chúng ta cùng niệm Phật chung với người một chỗ, cũng là không một không hai. Bởi vì mọi người cùng niệm Phật A Di Đà, bạn niệm Phật A Di Đà của bạn, tôi niệm Phật A Di Đà của tôi, mà không phải cá nhân nào niệm; thế nhưng mọi người ở một chỗ cùng chung niệm Phật A Di Đà, trong tâm chỉ có một Phật A Di Đà chung, cho nên cũng không thể tách rời được.

Nếu thể nghiệm được đạo lý này, chúng ta có thể tin tưởng đang lúc bản thân mình tham gia Phật thất niệm Phật, những oán thân trái chủ của chúng ta, cha mẹ và thân hữu của chúng ta hiện còn, tiên vong quyến thuộc của chúng ta cũng với chúng ta không một không hai, cũng với chúng ta niệm Phật một chỗ. Chúng ta được lợi ích về niệm Phật, họ cũng được lợi ích về niệm Phật, cho nên Phật thất Thanh Minh báo ân, một mặt tự mình được công đức tu hành, đồng thời cũng đem công đức tu hành này chia cho thân hữu trái chủ của chúng ta. Dù là người còn sống hay đã chết họ đều nhờ công đức niệm Phật của chúng ta mà hưởng được lợi ích rất lớn.

Trong quá trình tu hành Phật thất kỳ này, điều cần nhất là yêu cầu quý vị không nên nói chuyện, cho đến cũng không nên đối thoại với chính mình, chỉ chuyên tâm niệm Phật. Đồng thời phải lợi dụng thời gian nhàn rỗi, vừa niệm Phật vừa lễ Phật, mỗi ngày ít lắm cũng phải được ba trăm lạy. Hy vọng quý vị không nên lãng phí thời gian, sinh mạng vô thường, thời gian có hạn.
  • 4. THAM GIA PHẬT THẤT CHÍNH THẬT LÀ BÁO ÂN
Tham gia tu hành Phật thất Thanh minh là vì báo ân, vậy báo ân ai? Phật dạy có bốn ân, Thanh Minh chủ yếu là báo ân cha mẹ và ân chúng sinh.

Người Trung Quốc trong một năm thông thường có ba lần cúng tổ tiên: Thanh Minh, Trung Nguyên và Tết. Đây chính là uống nước nhớ nguồn, biểu đạt tấm lòng đối với tổ tiên, biểu thị sự tưởng nhớ và lòng biết ơn.

Đây chính là phong tục tập quán của dân tộc Trung Hoa do lịch sử tạo thành. Người Trung Quốc xem trọng việc cúng tổ tiên nên ấn định một năm ba tiết như vậy. Đối với Ấn Độ và Âu Mỹ thì không như thế. Như trước đây có một vị cư sĩ quốc tịch Mỹ tham dự Phật thất tại Nông Thiền tự, nếu đem việc cúng tế Thanh Minh mà nói với ông ta thì không thích hợp lắm, thế nhưng lấy phong tục của người Trung Quốc để nói thì Thanh Minh báo ân là rất trọng yếu. Phật giáo từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc đã không phế bỏ phong tục tập quán của người Trung Quốc, trái lại còn thích ứng với văn hóa bản địa của Trung Quốc, tín đồ Phật giáo cũng tế tự tổ tiên giống như người Trung Quốc vậy.

Người Trung Quốc bình thường chỉ biết cúng tế một lần vào dịp Tết, như vậy có tác dụng không? Có, đấy chính là một loại thăm hỏi đối với tiên vong quyến thuộc, cho đến đối với những cô hồn vất vưởng biểu thị sự quan tâm, cho nên có tác dụng, thế nhưng không phải là nhiều lắm. Nếu có thể vận dụng Phật pháp để siêu độ tiên vong, thì mới có tác dụng lớn lao chân chính. Bởi vì dùng Phật pháp để hóa giải phiền não, oán kết trong tâm của họ, khiến họ có thể ly khai quỷ đạo mà sớm sinh về thiện đạo, hoặc sinh thiên quốc, hoặc vãng sinh Tịnh Độ cõi Phật. Đem công đức niệm Phật và năng lực niệm Phật của chúng ta hồi hướng cho họ, đồng thời cũng dẫn dắt họ cùng niệm Phật, giúp cho tiên vong quyến thuộc và những cô hồn không người thờ cúng được siêu sinh lìa khổ. Đó chính là dùng Phật pháp để làm Phật sự siêu độ, so với việc biểu lộ bằng hình thức lễ cúng tảo mộ hoặc đốt giấy tiền vàng bạc v.v… có tác dụng hơn nhiều.

Cho nên, chúng ta gặp lúc tiết Thanh Minh, dùng công đức tu hành Phật thất để báo ân, có lợi cho người chết mà cũng có ích cho người sống, mới là hữu dụng chân thật. Bao quát cả chúng sinh hữu hình và vô hình đều được lợi ích. Họ từ vô thủy đến nay đối với chúng ta đều có ân, cho nên cũng dùng công đức niệm Phật để hồi hướng cho họ, đồng thời cũng dùng oai lực Tam bảo dẫn dắt họ cùng tu hành.

Tôi xin hỏi quý vị, hiện tại có bao nhiêu chúng sinh tham gia Phật thất này? Người thì không có bao nhiêu, đang nghe tôi khai thị không đến một ngàn vị. Thế nhưng, quý vị có thấy không? Trên vách tường chúng ta thấy có cả ngàn bài vị thờ, lại thêm hàng trăm ngọn đèn. Trên mỗi bài vị, mỗi ngọn đèn, có viết một tên người, biết bao nhiêu là tên, viết rất nhiều lịch đại oán thân trái chủ, còn viết cả lịch kiếp oán thân trái chủ và cô hồn không người thờ cúng. Cho nên, chúng ta phải biết, ngày nay tại chỗ niệm Phật này, không chỉ có một số người chúng ta, còn có vô số chúng sinh mà mắt thịt không thể thấy được, cũng đang niệm Phật nghe pháp. Nếu oán thân trái chủ đã chuyển sinh và không đến được, cũng sẽ do công đức niệm Phật của chúng ta mà được lợi ích.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 5. Ý NGHĨA VÀ CÔNG NĂNG CỦA SIÊU ĐỘ
Hiện tại tôi cũng căn cứ Phật pháp giới thiệu với quý vị về ý nghĩa siêu độ chúng sinh, công năng siêu độ chúng sinh.

Ý nghĩa siêu độ là dùng Phật pháp thanh tịnh hóa giải khổ nạn chúng sinh, khiến cho chúng sinh ra khỏi biển khổ phiền não sinh về Tịnh độ Phật quốc. Mục đích chúng ta tu học Phật pháp chính là muốn từ bờ khổ nạn bên này siêu độ đến bờ giải thoát bên kia. Nhiều người hiểu lầm cho là Phật pháp chỉ siêu độ người chết, siêu độ vong linh, kỳ thật Phật pháp tuy có công năng độ vong, nhưng tác dụng lớn nhất của nó là siêu độ người sống tu hành Phật pháp. Tu hành Phật pháp thì có thể từ trong ngu si, vô minh, phiền não đạt được giải thoát. Dùng năng lực tu hành giới định tuệ, có thể khiến cho chúng ta từ phàm phu sinh tử đạt đến cảnh giới Bồ tát, Phật bất sinh bất tử, đó mới là siêu độ chân chính.

Công đức siêu độ có cạn có sâu. Trên đường tu hành Phật pháp, đi một bước là siêu độ một bước, đi hai bước là siêu độ hai bước. Chúng ta mỗi khi niệm một câu danh hiệu Phật thì ở trong biển khổ di chuyển đến bờ một bước. Cho nên, tín đồ Phật giáo trong địa vị phàm phu là đang siêu độ, Phật Bồ tát trong địa vị Thánh giả là đã siêu độ. Chúng ta mỗi khi niệm một câu danh hiệu Phật đều đang siêu độ chính mình. Tổ tiên hoặc oán thân trái chủ của chúng ta, cho đến những cô hồn vô tự đối với chúng ta có duyên nhờ sự niệm Phật của chúng ta mà được lợi ích, được siêu độ. Đó là chúng ta báo ân, kết duyên, hoàn nguyện, có sự quan tâm, cũng tức là thực hành đạo Bồ Tát tự lợi lợi tha. Dùng Phật pháp để trợ giúp vong linh, khiến cho họ nghe được Phật pháp, cũng có thể được tâm ý khai mở, phát sinh trí tuệ, cầu sinh Tịnh Độ Phật quốc. Đó gọi là siêu độ chúng sinh.

Từ quan điểm Phật pháp để lý giải, chúng sinh đều ở trong ngũ thú lục đạo từ sinh đến tử, tử rồi lại sinh, gọi là sinh tử lưu chuyển, không phải vĩnh viễn làm quỷ, không phải vĩnh viễn làm người, cũng không phải vĩnh viễn làm súc sinh, hay làm thiên thần. Bởi vì người phải chết, ngũ thú chúng sinh đều phải chết. Họ chết rồi sau này làm gì? Đi chuyển sinh. Chuyển sinh đến đâu? Là y theo nghiệp nhân của chính họ từ vô thủy đến nay, mà sinh đến chỗ phải sinh. Nhân duyên lành thì sinh đến chỗ lành, nhân duyên ác thì sinh đến chỗã xấu. Nếu tu nhân duyên Bồ đề vô lậu, nương nhờ nguyện lực của Phật thì sẽ sinh về Tịnh Độ cõi Phật. Chiếu theo lời giảng trên thì tổ tiên của chúng ta, oán thân trái chủ lịch kiếp không nhất định đều ở trong quỷ thú. Bởi vì từ vô thủy kiếp đến nay, chúng ta với rất nhiều chúng sinh phát sinh quan hệ ân oán với nhau. Cho nên, chúng ta vẫn không biết được có bao nhiêu chúng sinh có quan hệ với chúng ta ở trong quỷ đạo, thần đạo hoặc thiên đạo, và chúng ta cũng không biết có bao nhiêu oán thân trái chủ ở trong địa ngục đạo và súc sinh đạo. Để báo ân họ, chúng ta nhất định phải dùng Phật pháp, đem công đức tu học Phật pháp, hoằng dương Phật pháp, hộ trì Phật pháp để hồi hướng cho họ, khiến cho họ được lợi ích, có thể lìa khổ được vui.
  • 6. QUỶ VÀ THẦN
Chúng sinh thuộc quỷ đạo chia làm ba loại: vô tài, thiểu tài và đa tài. Vô tài vô phước là ngạ quỷ không có tự do. Thiểu tài thiểu lực là quỷ thần nương gá nơi cỏ cây. Đa tài đại phước là quỷ thần tự do đại lực. Quỷ không tự do là chúng sinh ở địa ngục. Nhưng cũng có một số quỷ thần, tuy không có phước báo, nhưng cũng không có tội báo lớn lắm. Hoặc giả có một loại linh thể, chúng có tội báo và phước báo vẫn chưa có thọ báo, đang đợi nhân duyên đi thọ báo, vẫn ở trong vòng quỷ đạo. Những hồn ma này lơ lửng ở không trung, trôi nổi tại nhân gian mà mắt thịt của người không thể nhìn thấy được. Những quỷ thần nầy rất dễ kết duyên với người, có một số cũng quấy phá người. Do đó, nếu chúng ta dùng Phật pháp kết duyên với họ, đối với họ có lợi ích rất lớn, giúp họ sau khi tâm ý khai mở có thể được siêu độ.

Quỷ thần tự do và không tự do ở chỗ là quỷ thần phước báo lớn thì phạm vi tự do của họ lớn tương đương. Quỷ Trung Quốc có thể đi Mỹ quốc, quỷ Mỹ quốc cũng có thể đến Đài Loan. Họ có một số thần thông lực muốn đi đâu liền đến đó. Nhưng có một số quỷ thần phước đức kém, chỉ có thể ở địa phương, chẳng hạn họ ở Bắc Đầu chỉ có thể hoạt động ở khu vực Bắc Đầu. Như ở thành phố Đài Bắc có một khu vực hai mươi mươi năm về trước là pháp trường xử bắn phạm nhân, hiện nay nơi này đã xây dựng một cơ quan lớn, các nhân viên nhà nước lúc mới dọn đến phát hiện rất nhiều chuyện, chẳng hạn như không ai khởi động thang máy, tự động nó đi lên đi xuống. Có người nghe trong phòng trống có tiếng dọn đồ đạc, ngoài ra có những lúc đột nhiên cúp điện, cũng có lúc nghe tiếng hô khẩu lệnh, tiếng súng bắn, miêu tả đủ thứ chuyện kỳ lạ, do đó có người muốn tôi đến đó xem thử. Tôi đã đến một lần rồi và tin rằng đối với những linh thể đó sẽ có được một ít trợ giúp. Bởi vì tôi đến đó niệm Phật A Di Đà, mời họ về Nông Thiền Tự tham gia niệm Phật thất Thanh Minh. Chúng ta dùng công đức niệm Phật để siêu độ họ và kết thiện duyên với họ.

Họ rất đáng thương, vì không có xác thân cho nên rất khó lưu lại đây bảy ngày mà không phải đi. Lúc quý vị niệm Phật, tuy muốn dừng vọng tưởng, nhưng tâm vẫn cứ trôi nổi bên ngoài, cũng như hồn ma trôi nổi Đông Tây, mà thân thể thì vẫn đang ở đây niệm Phật vậy. Thế nhưng, những quỷ thần này rất đáng thương, niệm được vài câu Phật, nghe được vài câu Phật pháp, chỉ một thoáng là bay đi mất. Do phước báo của họ không lớn bằng chúng ta, chính bản thân họ cũng không có biện pháp nào, vẫn phải nhờ chúng ta dùng công đức niệm Phật hồi hướng cho họ. Qua đó đủ biết, nếu chúng ta lúc sống biết niệm Phật, tự tu tự độ là tốt nhất, để đợi chết rồi sau đó nhờ người nhà siêu độ thì cũng giống như những người kia vậy. Phật nói: "Thân người khó được", chỉ có thân người mới thực sự có đủ điều kiện tu tập.

Tôi ở phương Tây, đối với người phương Tây không nói như vậy, bởi vì quỷ phương Tây không có tiết Thanh Minh, cũng không mong người nhà cúng tế, nguyên nhân là họ đã thành tập quán, cho nên sẽ không có vấn đề. Thế nhưng, quỷ thần của Trung Quốc thì không như vậy. Người Trung Quốc có tập quán của người Trung Quốc, đến lúc Thanh Minh bạn không cúng tế cho họ, họ cũng sẽ thắc mắc. Phong tục tập quán và tín ngưỡng nhân gian của Trung Quốc, khiến cho linh thể của một số người đã chết mà vẫn chưa chuyển sinh, hoặc làm chúng sinh ở trong quỷ đạo, thiết tha mong đợi người sống chăm lo cho họ. Cho nên, người Trung Quốc có tiết Thanh minh, đặc biệt còn có thuyết mở cửa ngục rằm tháng bảy âm lịch nữa.

Tôi giảng hôm nay, không chỉ thăm hỏi an ủi vong linh, mà cũng muốn khuyến khích mọi người dùng tu hành Phật pháp để báo ân tổ tiên, báo ân chúng sinh, và dùng công đức thuyết pháp, nghe pháp, niệm Phật để siêu độ họ.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

VIII. NGUỒN GỐC CỦA PHẬT THẤT
Khóa tu Phật thất pháp môn Tịnh Độ, bắt nguồn từ kinh A Di Đà mà thiết lập, như câu: "Nghe nói Phật A Di Đà, niệm danh hiệu của Ngài từ một ngày đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, người ấy đến lúc lâm chung, Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mặt người ấy".

Tu Phật thất, tu Thiền thất vì sao dùng bảy ngày làm kỳ hạn, xuất xứ từ sách nào?

Vấn đề này có quan hệ mật thiết với bảy đại hành tinh trong thể của vũ trụ. Ở thời đại Đường Tống, từ trong kinh điển Mật bộ Phạn văn dịch ra, có một vài loại dùng thất diệu, thất tinh hoặc Bắc đẩu làm tên. Loại tín ngưỡng này tại Ấn Độ có rất sớm. Tương truyền, đức Thích Ca ở trên tòa Kim cang dưới cây Bồ đề, tu thiền bảy lần bảy bốn mươi chín ngày, liền được khai ngộ thành đạo. Trong bảy ngày đầu sau khi thành đạo, một mặt hưởng thụ niềm vui giải thoát, đồng thời cũng suy nghĩ nên dùng phương tiện thiện xảo nào để tuyên thuyết Phật pháp cho chúng sinh.

Sau khi đức Thích Ca thành lập giáo đoàn, theo trong Luật tạng, những vị Tỳ kheo nếu trong ba tháng an cư kiết hạ, có công việc của Tăng đoàn thì có thể xin phép đại chúng tối đa là bảy ngày, gọi là "thọ thất nhật pháp". Lại do Tỳ kheo không được phép cất chứa thực vật qua đêm để ăn lại, nhưng do có Tỳ kheo bệnh, vì làm thuốc chữa bệnh nên có thể để dành bơ, sinh tố, mật, đường mật, nhưng không được vượt quá bảy ngày, gọi là "thất nhật dược". Đủ chứng tỏ, cơ cấu thời gian bảy ngày làm kỳ hạn, từ đức Thích Ca về trước đã lưu hành tại Ấn Độ rồi. Cựu Ước, Sáng Thế Ký của Cơ Đốc giáo nói Thượng đế dùng ngày bảy sáng tạo hoàn thành vũ trụ và loài người, vạn vật cũng phát nguồn từ lý do nêu trên.

Do đó, ở trong kinh Phật có đề xướng phương pháp tu hành dùng bảy ngày làm kỳ hạn. Chẳng hạn như kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni quyển I ghi chép, làm thế nào tu trì Phương Đẳng Đà La Ni chương cú? Kinh chép: "Nếu muốn thực hành, cần phải bảy ngày trường trai, mỗi ngày ba lần tắm gội, mặc áo sạch sẽ, ngồi trước hình tượng Phật, làm lọng ngũ sắc, tụng câu chú này, một trăm hai mươi biến, đi nhiễu một trăm hai mươi vòng". Cũng trong kinh này quyển III, đức Phật nói với ông Văn Thù Sư Lợi rằng: "Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào đi đến chỗ ông, muốn cầu kinh Đà La Ni, ông nên dạy cầu mười hai vị mộng vương, nếu thấy được một vị vương, ông nên giảng dạy hành pháp bảy ngày".

Nhưng trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát có nói: "Muốn tu kinh Pháp Hoa này, trong ba lần bảy (hai mươi mốt ngày) nên nhất tâm tinh tấn. Mãn hai mươi mốt ngày rồi, ta sẽ cỡi voi trắng sáu ngà… hiện ra trước người ấy mà nói pháp". Cho nên, trong Sám Nghi Pháp Hoa Tam Muội của đại sư Trí Giả cũng quy định "trong hai mươi mốt ngày, nhất tâm tinh tấn". Đó là lấy hai mươi mốt ngày làm kỳ hạn tu hành.

Trong kinh Ban Chu Tam Muội thuộc pháp môn Tịnh Độ Phật A Di Đà có nói: "Có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, như pháp tu hành, trì giới đầy đủ, ở yên một chỗ, niệm Phật A Di Đà ở phương Tây, hiện tại… nhất tâm niệm ngài, một ngày một đêm, đến bảy ngày bảy đêm, qua bảy ngày rồi, sẽ thấy Phật A Di Đà". Tiếp đến liên tục tu hành, tất cả ba tháng, lấy chín mươi ngày làm kỳ hạn, kinh còn nói: "Không được ngủ ba tháng, như khoảng khảy móng tay". Lại nói: "Kinh hành không được nghỉ, không được ngồi ba tháng, ngoại trừ lúc ăn cơm". Cách thức này gần giống với lối tu Pháp tướng Phương Đẳng tam muội, lấy bảy ngày đầu làm giai đoạn dự bị.

Lại như kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, ngoài việc chủ trương siêu độ người mất trong vòng bảy ngày đầu tốt nhất, và còn cho rằng chậm nhất là bốn mươi chín ngày, là rất thỏa đáng. Nguyên nhân này có thể thấy trong quyển I Du Già Sư Địa Luận: "Người ta sau khi chết trở thành thân trung hữu (cũng gọi là thân trung ấm), nếu chưa vãng sinh ngay về cõi trời hoặc cõi người, hoặc vẫn chưa đủ nhân duyên đầu thai chuyển thế, thân trung hữu này. Nội trong bảy ngày không nhất định được chuyển sinh. Nếu trong bảy ngày mà chưa đủ duyên chuyển sinh chết rồi sống lại, cứ lần lượt như vậy mà chưa được chuyển sinh thì đến bốn mươi chín ngày, từ đó về sau sẽ quyết định chuyển sinh. Lại nữa, thân trung hữu này sau khi chết bảy ngày, hoặc lập tức sinh vào cõi người, nếu do những nghiệp khác chuyển, chủng tử trung hữu chuyển thì sinh vào các loài khác". Đủ chứng tỏ thân trung hữu lại còn gọi là thân trung ấm, mỗi bảy ngày chết một lần, chỉ có bảy lần, sau đó tùy theo nghiệp mà thọ sinh, do đó mới có hoạt động tu hành siêu độ bốn mươi chín ngày làm kỳ hạn. Điều này cũng có liên quan đến bốn mươi chín ngày thành đạo của đức Thích Ca Mâu Ni.

Chẳng qua tu Phật thất theo pháp môn Tịnh Độ là y cứ vào kinh A Di Đà mà thiết lập như câu: "Nghe nói Phật A Di Đà, trì niệm danh hiệu của ngài từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, người ấy đến lúc sắp mạng chung, đức Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mặt người ấy". Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng nói: "Một ngày cho đến bảy ngày thì được vãng sinh".

Các tùng lâm Thiền tông xưa nay chỉ có Thiền kỳ, chẳng hạn như Hạ kỳ, Đông kỳ, những khóa tu này có liên quan với việc an cư tu hành trong luật của Tỳ kheo. Như nay các phái Thiền tông từ thời đại Tống Minh truyền đến Nhật Bản đều không có tên gọi đả thiền thất, chỉ có tu hành định kỳ gọi là tiếp tâm hoặc nhiếp tâm, quá nửa là hoạt động tu thiền tinh tấn bảy ngày. Đủ chứng minh danh xưng đả thiền thất đối với lịch sử Trung Quốc, sớm nhất cũng không quá cuối đời Minh đầu đời Thanh. Tôi tìm trong các tư liệu cuối đời Minh vẫn chưa thấy danh từ này.

Có thể có bảy ngày tinh tấn niệm Phật gọi là đả Phật thất, lịch sử của nó cũng không phải là sớm lắm, chẳng qua loại hoạt động tu hành này lấy bảy ngày làm kỳ hạn thủ chứng, rất có ý nghĩa, vả lại thời gian cũng ngắn nên đáng được thi hành rộng rãi.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

XI. PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT
Pháp môn niệm Phật vốn xuất phát từ chữ Phạn "Phật Đà Na Tức Lặc Đế", ý là nhớ niệm đức Phật, chuyển dần thành phương pháp tu trì quán tướng hảo Phật, xướng danh hiệu Phật v.v… Tại các tông phái Đại thừa Phật giáo Trung Quốc, ngoài các Thiền sĩ phái Tam Luận (Trung Quán) cho đến bộ phận tông Lâm Tế ra, không một phái nào không học pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ Cực Lạc phương Tây.
  • 1. NIỆM PHẬT LÀ PHÁP TU CỘNG ĐỒNG ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC
Phật giáo Đại thừa dù là hiển hay mật gần như đều xiển dương pháp môn Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Mật giáo có nghi quỹ tu trì của họ. Hiển giáo chủ yếu y cứ vào kinh điển như ba bộ kinh nói về Tịnh Độ là:
  • (1) Phật thuyết A Di Đà Kinh.
    (2) Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh, cũng gọi là Thập Lục Quán Kinh.
    (3) Phật thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, lại còn gọi là Đại A Di Đà Kinh. Kinh này từ đời Hán đến đời Tống trước sau cộng có mươi hai bản dịch, từ Tống Nguyên về sau chỉ còn năm bản, Cư sĩ Vương Nhật Hưu triều Tống, y cứ vào bốn bản dịch trong số đó, tổng hợp thành "Phật thuyết Đại A Di Đà Kinh". Năm Dân Quốc thứ 35 (1946) lại có Cư sĩ Hạ Liên Cư tập hợp năm bản dịch đời Hán, Ngụy, Ngô, Đường, Tống thành Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh tổng cộng bốn mươi tám chương. Kinh này giới thiệu rất tường tận y chính trang nghiêm, nhân quả sự lý đối với pháp môn Tịnh Độ của Phật A Di Đà.

Lại có học giả Tịnh Độ khác như đại sư Ấn Quang cho rằng, chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm, cho đến phẩm Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện trong kinh Hoa Nghiêm cũng thuộc kinh điển trọng yếu hoằng dương pháp môn Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Do đó, cùng với ba kinh trên hợp lại gọi là năm kinh Tịnh độ.

Tại Trung Quốc các tông phái Đại thừa Phật giáo, ngoài các thiền sĩ phái Tam Luận (Trung Quán) cho đến bộ phận tông Lâm Tế ra, không dùng pháp môn niệm Phật Tịnh Độ, còn lại những nhà khác gần như không một phái nào không học pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ Cực Lạc phương Tây. Do đó đủ biết niệm Phật là pháp tu cộng đồng đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc.
  • 2. PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT TRONG KINH A HÀM
Pháp môn niệm Phật vốn xuất phát từ Phạn ngữ Phật Đà Na Tức Lặc Đế (Buddhanusireti), ý là nhớ niệm đức Phật, chuyển dần thành phương pháp tu trì quán tướng hảo Phật, xướng danh hiệu Phật v.v… Trong kinh Tạp A Hàm thứ 33, niệm Phật thuộc về pháp môn lục niệm. Trong kinh Tăng Nhất A Hàm thứ 2 thuộc về pháp môn thập niệm, phương pháp niệm Phật ấy là:

"Thân ngay ý chính, ngồi thế kiết già, buộc niệm phía trước, không nghĩ gì khác, chuyên tinh niệm Phật, quán hình tướng Phật, chưa từng rời mắt. Đã không rời mắt, lại còn nhớ công đức của Như Lai. Thể của Như Lai, do kim cương tạo thành, đầy đủ thập lực, tứ vô sở úy, dũng kiện trong chúng. Diện mạo Như Lai, đoan chính vô song, nhìn không biết chán, thành tựu giới đức, cũng như kim cang, không thể hoại được. Thanh tịnh không tỳ vết, cũng như lưu ly. Tam muội Như Lai, chưa từng có giảm, đã thường tịch tịnh, không một niệm khác, kiêu mạn hung tàn, các thứ lo sợ, ý muốn oán giận, tâm ngu mê hoặc, đều được trừ hết. Huệ thân Như Lai, trí không ngằn mé, chẳng còn chướng ngại. Thân của Như Lai, thành tựu giải thoát, dứt bặt các đường, không sinh trở lại, vì nguyện độ sinh, mới sinh trở lại. Thân của Như Lai, vượt thành tri kiến, biết căn cơ người, nên độ hay không, chết đây sinh kia, xoay vần qua lại, trong khoảng sinh tử, có người giải thoát, người không giải thoát, đều biết rõ hết. Cho nên, tu hành niệm Phật, sẽ được khen ngợi, thành quả báo lớn, điều lành đều đến, được cam lộ vị, đến chỗ vô vi, thành tựu thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa môn, đến nơi Niết Bàn".

Phương pháp niệm Phật này là buộc tâm nhớ niệm, chuyên tâm quán tưởng công đức vô lượng của Phật, bao quát quán tưởng thân thể, nhan sắc của Phật và năm phần pháp thân Phật như: giới đức, tam muội, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Nếu có thể theo đó mà tu hành pháp môn niệm Phật, thì được thành tựu quả báo lớn, cho đến tự đến Niết bàn, tự được giải thoát. Đây là pháp môn niệm Phật của Tiểu thừa.
  • 3. PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT TRONG KINH BAN CHU TAM MUỘI
Nếu y theo Hành Phẩm trong kinh Ban Chu Tam muội đã nêu thì: "Trì pháp nào được vãng sinh Cực Lạc quốc?" Phật A Di Đà nói rằng: "Muốn sinh về nước kia, nên niệm danh hiệu ta, không lúc nào dừng nghỉ, thì sẽ được vãng sinh". Phật lại nói rằng: "Chuyên niệm thì sẽ được vãng sinh. Thường nhớ thân Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, quang minh chiếu suốt, đoan chính không thể sánh, ở trong Bồ tát Tăng mà nói pháp… Muốn thấy được mười phương chư Phật hiện tại nên nhất tâm niệm cõi Phật kia, không được nghĩ khác, như thế sẽ thấy được".

Qua kinh Ban Chu Tam Muội ta thấy, phương pháp tu hành là niệm danh hiệu Phật, niệm thân Phật tướng hảo quang minh, niệm tưởng cõi Phật. Nếu thành tựu được Tam muội, thì sẽ thể nghiệm được "Điều ta hằng tâm niệm là thấy tâm thành Phật. Nếu tâm tự thấy biết chính nó thì tâm ấy chính là Phật, tâm Phật ở ngay nơi thân của ta. Nếu tâm còn thấy Phật (bên ngoài), thì tâm ấy không tự biết không tự thấy chính mình, tâm mà có tưởng thì đó là si tâm. Tâm không có tưởng chính là Niết Bàn". Đó là pháp môn Đại thừa từ niệm Phật mà thật chứng chân như thật tướng.
  • 4. PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT TRONG KINH VÔ LƯỢNG THỌ
Căn cứ vào quyển hạ kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ có nói rằng: "Có chúng sinh nào, nghe danh hiệu Phật A Di Đà, tín tâm hoan hỷ, cho đến một niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sinh về nước kia, liền được vãng sinh, trụ nơi bất thối chuyển, chỉ trừ kẻ ngũ nghịch hủy báng chính pháp". Theo kinh này thì điều kiện vãng sinh cõi nước Cực lạc rất giản đơn, không giống như kinh Ban Chu Tam Muội cần phải niệm danh hiệu Phật không được dừng nghỉ mới được vãng sinh Phật quốc. Chỉ cần nguyện sinh cõi nước kia, ngoại trừ người phạm tội ngũ nghịch (giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng) và người hủy báng chính pháp Đại thừa, thậm chí chỉ cần một niệm tin nguyện đều có thể vãng sinh về cõi kia.

Chẳng qua kinh này dạy vãng sinh nước Cực Lạc có ba hạng người thượng, trung, hạ; hai hạng thượng và trung điều kiện niệm Phật vãng sinh là "chuyên niệm một hướng, đức Phật Vô Lượng Thọ", điều kiện niệm Phật vãng sinh của bậc hạ là "chuyên ý một hướng, cho đến mười niệm, niệm đức Phật Vô Lượng Thọ… thậm chí một niệm niệm đức Phật kia, dùng tâm chí thành, nguyện sinh về nước của Phật A Di Đà, người này lúc lâm chung, mộng thấy đức Phật A Di Đà cũng được vãng sinh". Từ "chuyên niệm một hướng" đến "thậm chí một niệm", đều có thể vãng sinh nước Phật. Vậy phải niệm Phật như thế nào? Phải chí thành tưởng nhớ Phật, buộc tâm vào danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ (Phật A Di Đà).

Nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện của kinh này tại quyển thượng có nói: "Khi ta được thành Phật, chúng sinh trong mười phương, chí tâm tín nguyện, muốn sinh về nước ta, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh, ta không thành Chánh giác". Lúc đức Phật A Di Đà phát nguyện này, vẫn còn ở giai đoạn hành đạo Bồ Tát. Nay đã thành Phật, nguyện lực của ngài đương nhiên biến thành sự thật, cho nên khuyến khích chúng sinh, chỉ cần mười niệm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nhất định vãng sinh về cõi Phật, nhưng kinh này cũng hai lần nêu thêm "thậm chí một niệm" cũng được vãng sinh nước Phật.
  • 5. PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT TRONG KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT VÀ CÁC KINH KHÁC
Căn cứ theo yêu cầu trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, đầu tiên là: "Cột niệm quán kỹ tịnh nghiệp của cõi Cực Lạc", kế đến dạy: "Cột niệm một chỗ, tưởng cõi Tây phương". Rồi tưởng mặt trời, tưởng nước, tưởng đất, tưởng bảy hàng cây, tưởng ao nước bát công đức, tổng quán cây báu, ao báu cõi nước kia, quán y báo trang nghiêm của Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ Tát, quán thân pháp giới của chư Phật Như Lai nhập trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh (quán tưởng thành tựu, ngay trong đời hiện tại, được niệm Phật tam muội, tức là thân chứng thật tướng). Quán ánh sáng thân Phật Vô Lượng Thọ, quán Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí, quán ngồi ở trong hoa sen và tưởng hoa sen khép nở, quán thân tướng Phật Vô Lượng Thọ một trượng sáu đang đứng trên ao nước.

Phần trên là tiêu chuẩn niệm Phật quán tưởng, niệm Phật quán tượng, niệm Phật thật tướng, kế đến kinh này lại nói pháp môn niệm Phật vãng sinh chín phẩm, trong đó đề cập chỗ niệm Phật có:

- Thượng phẩm thượng sinh, tu hành lục niệm (niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thiên, niệm giới, niệm thí) hồi hướng phát nguyện một ngày cho đến bảy ngày liền được vãng sinh.

- Bậc Hạ phẩm thượng sinh, nghe được đầu đề của mười hai bộ kinh Đại thừa, trừ được ngàn kiếp ác nghiệp cực nặng, lại dạy: "Hai tay chắp lại xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, xưng danh Phật rồi". Phật A Di Đà dùng hóa Phật, hóa Quán Thế Âm, hóa Đại Thế Chí, đến trước người ấy nghinh tiếp vãng sinh về cõi Phật.

- Bậc Hạ phẩm hạ sinh, "Hoặc có chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, ngũ nghịch thập ác, đủ các điều bất thiện", đến lúc lâm chung, gặp được thiện tri thức vì người ấy nói diệu pháp, chỉ dạy niệm Phật, nếu chúng sinh này bị khổ bức bách, "không thể niệm đức Phật kia, nên xưng danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ chí tâm niệm Nam mô A Di Đà Phật, niệm liên tục không dứt, đầy đủ mười niệm, xưng danh hiệu Phật rồi, ở trong mỗi niệm trừ được tội nặng trong đường sinh tử tám mươi ức kiếp… ở trong khoảng một niệm liền được vãng sinh thế giới Cực lạc, ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen mới nở". Thấy được hai vị đại Bồ Tát là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí vì người ấy mà nói pháp.

Theo kinh văn đã nêu, trừ ba loại niệm Phật quán tưởng, quán tượng và thật tướng, đối với chúng sinh phàm phu nói chung vẫn có thể dùng pháp môn lục niệm, xưng danh niệm Phật, đặc biệt đối với chúng sinh vãng sinh Hạ phẩm nên dùng xưng danh niệm Phật là thích hợp nhất.

Phương pháp xưng danh niệm Phật, như phẩm Phương tiện trong kinh Pháp Hoa có nói: "Chỉ xưng Nam mô Phật, đều đã thành Phật đạo". Lại nói: "Tiếng vi diệu rất tịnh, xưng Nam mô chư Phật".

Trong kinh Phật Thuyết A Di Đà thì nói: "Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân nào, nghe nói Phật A Di Đà, chấp trì danh hiệu của Ngài" một ngày cho đến bảy ngày đạt đến trình độ "nhất tâm bất loạn" thì lúc lâm chung, liền được Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng đến trước người ấy tiếp dẫn vãng sinh về cõi Cực Lạc. Cho nên, có người dùng tâm ghi nhớ niệm Phật, xưng danh hiệu Phật, trì danh niệm Phật đều gọi là pháp môn niệm Phật.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 6. PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT TỪ MỘT ĐẾN MƯỜI NIỆM
Trong nhiều đời các vị đại sư ở Trung Quốc, người tuyên dương pháp môn niệm Phật tương đối nhiều, vả lại mỗi vị tự đề xuất phương pháp cụ thể niệm Phật sinh Tịnh Độ.

Đại sư Đàm Loan thời Bắc Ngụy, chú giải "Vãng sinh luận" của ngài Thế Thân giải thích mười niệm vãng sinh như sau: "Tâm không nghĩ gì khác, nhất tâm tương tục, niệm Phật A Di Đà đủ mười số gọi là mười niệm". Lại nói: "Niệm mười niệm này, dùng ghi nhớ niệm làm nghĩa, duyên theo tướng hảo của Phật, xưng danh hiệu Phật, dùng tâm niệm mười niệm tương tục, chuyên tâm vào Phật A Di Đà, rất là quan trọng".

Trong An Lạc Tập quyển thượng của đại sư Đạo Xước triều Đường có nói: "Chỉ nhớ niệm Phật A Di Đà, hoặc tổng tướng hoặc biệt tướng, tùy duyên mà quán, thẳng tắt mười niệm, không xen tạp niệm khác gọi là mười niệm".

Tập "Vãng Sinh Lễ Tán Thích Bổn Nguyện Văn" do đại sư Thiện Đạo triều Đường viết có nói: "Mười phương chúng sinh xưng danh hiệu ta, cho đến mười tiếng, nếu không được vãng sinh, ta không thành chính giác". Tức là dùng miệng niệm mười tiếng Phật, để giải thích phép tu mười niệm.

Trong "Vô Lượng Thọ Kinh Tông yếu" của đại sư Tân La Nguyên Hiểu, giải thích mười niệm tức là xưng niệm danh hiệu, duyên theo tướng hảo, không tạp niệm khác, không chút gián đoạn, niệm đủ mười số. Thuyết này với thuyết của ngài Đàm Loan giống nhau.

Học giả Nhật Bản cận đại là Vọng Nguyệt Tín Hạnh khảo sát chữ niệm dùng trong niệm Phật bằng chữ Phạn ý là tâm niệm (chữ Phạn là Citta), ở trong kinh Vô Lượng Thọ nói chỗ của ba hạng niệm Phật vãng sinh, chữ niệm trong niệm Vô Lượng Thọ Phật ý là Tùy niệm (chữ Phạn là Anusmrti) hoặc có ý là tư duy (chữ Phạn là Mansikr).

Đủ chứng tỏ chữ niệm trong mười niệm cho đến một niệm vốn là tâm ghi nhớ, tư duy thêm vào xưng danh niệm hoặc trì danh niệm, tức là trong miệng tuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, đồng thời ở trong tâm cũng biết rõ là đang tuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, trong tâm rõ ràng không có vọng tưởng tạp niệm, chỉ biết từ trong miệng mình đang tuyên xưng danh hiệu Phật, một tiếng Phật hiệu này cũng là một niệm niệm Phật, trong miệng niệm liên tục không gián đoạn cho đủ mười tiếng, trong tâm không có xuất hiện tạp niệm nào khác, đó là mười niệm tương tục cũng là niệm Phật mười niệm.
  • 7. NGŨ NIỆM MÔN
Đại sư Đàm Loan thời Bắc Ngụy được tôn là thủy tổ tu pháp Tịnh Độ tại Trung Quốc có chú thích "Vãng sinh luận" của Bồ Tát Thế Thân, giải thích Ngũ niệm môn của Bồ Tát Thế Thân chủ trương như sau:
  • (1) Lễ bái môn: Trong tâm nguyện sinh về cõi nước an lạc, cần phải lễ bái Phật A Di Đà.
    (2) Tán thán môn: Xưng niệm danh hiệu Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai (tên khác của Phật A Di Đà)
    (3) Tác nguyện môn: Như thật tu hành Xa Ma Tha (tu chỉ).
    (4) Quán sát môn: Như thật tu hành Tỳ Bà Xá Na (tu quán).
    (5) Hồi hướng môn: Đem tất cả công đức căn lành có được, vì muốn bạt trừ tất cả khổ của chúng sinh, mà nguyện nhiếp thủ họ đồng sinh về cõi nước an lạc.[/b]
Phương pháp niệm Phật ngũ niệm môn này kỳ thật là: lễ bái đức Di Đà tin nguyện được vãng sinh, xưng danh niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, phát tâm Bồ đề quảng độ chúng sinh.
  • 8. NGŨ PHƯƠNG TIỆN NIỆM PHẬT MÔN
Ngũ phương tiện niệm Phật môn của đại sư Trí Khải tông Thiên Thai triều Tùy giới thiệu tu pháp niệm Phật môn như sau:
  • (1) Xưng danh vãng sinh niệm Phật tam muội môn: Hành giả lúc miệng xưng Nam mô A Di Đà Phật, tâm phải nguyện sinh về Tịnh Độ nước Phật. Môn này là vì chúng sinh thích xưng danh hiệu Phật mà nói.

    (2) Quán tướng diệt tội niệm Phật tam muội môn: Hành giả tưởng hình tượng Phật chuyên chú không thôi, bèn được thấy Phật, các tội chướng đều được tiêu diệt. Môn này là vì người ưa thích thấy thân Phật, lo sợ tội chướng mà nói.

    (3) Chư cảnh duy tâm niệm Phật môn: Hành giả quán tưởng thân Phật là từ tự tâm sinh khởi, không cócảnh giới nào khác. Môn này là vì người tâm mê chấp cảnh mà nói.

    (4) Tâm cảnh câu ly niệm Phật môn: Hành giả quán tưởng tâm này, cũng không phải tự mình có thể được. Môn này là vì người hay suy tính tự tâm thật có mà nói.

    (5) Tính khởi viên thông niệm Phật tam muội môn: Hành giả lúc này vào sâu định vắng lặng, sắp nhập Niết Bàn, nương nhờ vào sự gia bị hộ niệm của chư Phật mười phương, hưng khởi công năng trí tuệ, trong khoảng một niệm thanh tịnh cõi nước của Phật, thành tựu chúng sinh. Môn này là vì người ưa thích định vắng lặng nhập cảnh giới Niết bàn mà nói.
Ngũ phương tiện niệm Phật môn đã nêu trên, thứ nhất là xưng danh niệm Phật, thứ hai là quán tướng niệm Phật, thứ ba và thứ tư là nhân hành và quả cảnh của thật tướng niệm Phật, thứ năm là phát đại Bồ đề tâm.

Đại sư Trí Giả từ trong văn này, đặc biệt cường điệu: "Nếu dùng một lời nói mà đầy đủ các môn, thì không gì qua niệm Phật". Lại nói: "Nếu lúc niệm Phật, nên biết người này, cùng với đức Văn Thù Sư Lợi không có khác biệt".
  • 9. PHÁP TU TRÌ NIỆM PHẬT TAM MUỘI
Trong Đại Tạng Kinh, giới thiệu kinh luận về niệm Phật tam muội và các trứ thuật của lịch đại Tổ sư tương đối nhiều, chẳng hạn như: Ban Chu tam muội trong kinh Ban Chu Tam muội, kinh Đại A Di Đà quyển hạ, phẩm Nhập pháp giới trong kinh Hoa Nghiêm dịch đời Tấn, Nhất Hạnh tam muội trong kinh Văn Thù Sư Lợi sở thuyết Ma ha Bát nhã Ba la mật, Đại Trí Độ Luận quyển 21, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận quyển 12, Tư Duy Lược Yếu Pháp, Nhiếp Đại Thừa Luận quyển hạ, Ngũ Phương tiện niệm Phật môn của Trí Khải tông Thiên Thai, Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện phẩm Biệt hành sớ sao quyển 4 của Ngũ Tổ Tông Mật tông Hoa Nghiêm, An Lạc Tập quyển hạ của Đạo Xước, Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận quyển 7 của Hoài Cảm.

Y cứ theo các tư liệu trên thì tu pháp niệm Phật tam muội phải đầy đủ:
  • (1) Phải có chỗ nhất định, kỳ hạn nhất định.
    (2) Phải có tín nguyện vãng sinh cõi Phật.
    (3) Phải dùng tâm chí thành thường niệm Phật không dứt.
    (4) Niệm Phật phải có thứ lớp tiến dần, có thể chia làm bốn cấp:

    a. Xưng danh niệm Phật: Buông bỏ các ý tạp, mỗi tiếng mỗi câu, niệm niệm tương tục, miệng niệm danh hiệu Phật, tâm buộc vào tiếng niệm Phật.
    b. Quán tượng niệm Phật: Buông bỏ các tạp ý, niệm niệm quán sát ba mươi tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của thân hình đức Phật, phóng ra ánh sáng lớn, ở trong chúng nói pháp.
    c. Quán tưởng niệm Phật: Buông bỏ các ý tạp, niệm niệm hướng tâm về cõi nước của Phật, quán tưởng y chính trang nghiêm của Tịnh Độ Phật quốc, cùng tất cả công đức pháp thân, bi trí giải thoát của Phật, Bồ Tát và La hán.
    d. Thật tướng niệm Phật: Buông bỏ các ý tạp, không giữ tướng mạo trong ngoài, niệm niệm tương tục, quán tưởng thể nghiệm, tâm Phật chúng sinh, tất cả các pháp, thật tướng vô tướng, chân tâm vô tâm, chẳng không chẳng có, tức không tức có, chân tục không hai, vạn pháp bình đẳng.
Bốn thứ lớp nêu trên, hàng phàm phu tốt nhất nên từ xưng danh niệm Phật khởi tu, nếu được thân tâm an ổn tiến tu tầng cấp thứ hai, thứ ba, cho đến thật tướng niệm Phật thì tương đương với minh tâm kiến tánh của Thiền tông. Cần phải tiêu trừ nghiệp chướng, thân tâm an ổn, không sinh phiền não nhân ngã mới có thể tu trì được, trái lại chỉ luống công nhọc mệt, lại còn tự dối mình dối người. Làm thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng? Xưng danh niệm Phật, lễ bái, sám hối, phát tâm Bồ đề là phương pháp tốt nhất.

Tuy nhiên, đại sư Ấn Quang thời gần đây cho rằng người hạ căn ở thời đại mạt pháp này, trong bốn loại niệm Phật nói trên, thật tướng niệm Phật là pháp môn khó trong khó. Thế nhưng, đời Minh Thanh, vẫn có không ít Tăng tục đại đức, chuyên tu niệm Phật tam muội như đại sư Liên Trì (Vân Thê Châu Hoằng) cuối đời Minh, ngài Tỉnh Am (Thật Hiền) triều Thanh đều từng khắc kỳ tu trì niệm Phật tam muội, lấy một trăm ngày làm kỳ hạn. Đại sư Liên Trì từng nói: "Một câu A Di Đà Phật, gồm đủ tám giáo, viên nhiếp năm tông, nên biết niệm Phật tam muội tức là căn nguyên một đời giáo hóa của Phật". Lại đem trì danh niệm Phật chia làm:
  • (a) Minh trì, niệm ra tiếng.
    (b) Mặc trì, niệm không ra tiếng.
    (c) Bán minh bán mặc trì (giống như Kim Cang trì của Mật tông) niệm hơi khẽ động môi. Hoặc ký số niệm, hoặc không ký số niệm đều được.
Đại sư Liên Trì lại chủ trương chấp trì danh hiệu trong kinh A Di Đà. Chấp là nghe danh hiệu, trì là nhận và giữ lấy danh hiệu Phật, không lúc nào quên, mà chấp trì này cũng có thể chia ra:
  • * Sự trì, nhớ niệm không gián đoạn.
    * Lý trì, thể cứu không gián đoạn.

Cùng cực của chấp trì là được nhất tâm, cũng có thể chia làm:

- Sự nhất tâm, tức là nghe danh hiệu Phật, thường nhớ thường niệm, chữ chữ phân minh, tương tục không dứt, chỉ có một niệm này.

- Lý nhất tâm, nghe danh hiệu Phật, không chỉ nhớ niệm, mà còn nên phản quan, xem xét tỉ mỉ, nguồn gốc sâu xa, nơi bản tâm mình, hốt nhiên được khế hợp.

Còn đại sư Ngẫu Ích thì giải thích chấp trì danh hiệu là chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn. Nếu có thể niệm niệm hằng nhớ danh hiệu Phật tạm không lúc nào quên gọi là chấp trì. Cũng có thể chia làm hai giai đoạn:

- Sự trì, chưa đạt được lý tâm này là Phật, tâm này làm Phật như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nêu.

- Lý trì, tin đức Phật A Di Đà ở phương Tây trong tâm ta vốn đủ, là do tâm ta tạo, đem danh hiệu vốn đầy đủ trong tâm mình mà làm cảnh để buộc tâm, khiến cho tạm không quên. Nếu từ chỗ hàng phục được phiền não cho đến kiến hoặc tư hoặc trừ hết, đều gọi là sự nhất tâm, nếu niệm đến chỗ tâm khai, thấy được bản tánh Phật, đều gọi là Lý nhất tâm. Ngài không đồng ý cái lý thể cứu của đại sư Liên Trì, vì cho rằng lý nhất tâm đem làm phương pháp thể cứu niệm Phật hoặc tham cứu niệm Phật, chẳng qua là một loại phương tiện nhiếp Thiền tông về Tịnh độ mà thôi.

Trên sự thật đại sư Liên Trì dựa vào kinh nghiệm tu thiền mà đem lý nhất tâm và lý trì, giải thích cho là minh tâm kiến tánh của Thiền tông. Đại sư Ngẫu Ích thì từ trên lý luận phân biệt thuyết minh Thiền là Thiền, Tịnh độ là Tịnh độ, không nên lẫn lộn. Lời pháp của đại sư Liên Trì là từ sự kết hợp thể nghiệm tu chứng và luận điểm Thiền Tịnh, mà đưa ra pháp môn tu niệm Phật như thế nào để không trái với pháp môn tu Thiền.

Lại do đại sư Trí Giả tông Thiên Thai từng nói: "Có bốn loại tam muội (thường đi, thường ngồi, nửa đi nửa ngồi, chẳng đi chẳng ngồi), đồng gọi là niệm Phật tam muội, niệm Phật tam muội là vua trong tam muội". Vì thế, đại sư Ngẫu Ích cuối đời Minh cũng nói: "Niệm Phật tam muội gọi là Bảo Vương tam muội, là vua trong tam muội", còn cho rằng niệm Phật Tịnh độ của phái Lô Sơn là niệm tha Phật (Phật ngoài), còn Đạt Ma truyền lại là niệm tự Phật (Phật chính mình), phái của Vĩnh Minh Diên Thọ là niệm tự tha Phật lý sự song tu, Thiền Tịnh đều đủ. Chẳng qua bản thân của đại sư Ngẫu Ích chưa điều lý được phương pháp thật tiễn của niệm Phật tam muội, Ngài từ chỗ tổng hợp quan điểm của các nhà Thiền Tịnh lại mà nói.

Tóm lại, niệm Phật tam muội là Bảo Vương tam muội, vua trong tam muội. Chúng ta nên khuyến khích hành giả tịnh nghiệp nên tu hành theo pháp niệm Phật này. Hành pháp chín mươi ngày theo Ban Chu tam muội thì phải thường đi, không nằm, không ngồi, không được nghỉ, đối với người bình thường mà nói rất khó mà hành trì được. Nhưng ở vào thời đại của đại sư Liên Trì từng khích lệ không ít cư sĩ tu hành niệm Phật tam muội đạt được kết quả, cũng lấy chín mươi ngày làm kỳ hạn.

Do đó, nên đem bốn cấp tu pháp niệm Phật tam muội như đã nêu trên, phối hợp với kỳ hạn chín mươi ngày để tu tập rất thích hợp.

(Còn tiếp)

kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: NIỆM PHẬT SINH TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 10. NIỆM PHẬT LỚN TIẾNG (cao thanh niệm Phật)
Xưng danh niệm Phật lại còn gọi là trì danh niệm Phật, xưng danh cần dùng miệng niệm ra tiếng, trì danh hoặc có thể ra tiếng cũng có thể niệm thầm, hoặc có thể khẽ động môi. Xưng danh niệm Phật tại Trung Quốc thực hành đã lâu. Đại sư Phi Tích đời Đường có soạn quyển Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận. Trong quyển Trung của luận này đặc biệt đề xướng phương pháp "niệm Phật lớn tiếng". Tiếng vang của âm thanh niệm Phật được hình dung là "tiếng vang dội thôn xóm, chấn động cả núi rừng". Xét về lý thì phương pháp niệm Phật lớn tiếng có năm đặc điểm như sau:

"Điều cốt yếu của sự nhiếp tâm hay tán loạn chính là ở âm thanh. Sự phát thanh mà không cố gắng dụng công thì tâm thức sẽ nông nổi, hời hợt, phiêu dạt khó có thể kiên định được. Nếu khi phát thanh mà cố gắng dụng công âm thanh dìu dặt, đôn đốc nhau, sau đó đạt đến chỗ dốc cạn hết bình sinh, buông xả bao phiền muộn. Đó là đặc điểm thứ nhất, nếu nói một cách đơn giản trước mắt thì khi âm hưởng của câu niệm Phật rền trong tâm khảm, muôn ngàn tai họa thảy tiêu trừ, công đức tu hành vòi vọi như đỉnh tùng trên Thiên lãnh. Đó là đặc điểm thứ hai. Nếu nói xa hơn nữa, niệm Phật lớn tiếng có thể chiêu cảm từ quang rạng ngời chiếu diệu, tầng không hoa báu như mưa, tất cả đều nhờ âm thanh mà cảm được như thế. Đó là đặc điểm thứ ba. Lại nữa, giống như người lăn đá, hòn đá quá nặng không dễ gì nhích tới được. Nếu họ hét to lên một tiếng thì có thể nhấc lên dễ dàng hơn. Đó là đặc điểm thứ tư. Khi cùng chiến đấu với ma quân, cờ xí phất phới, tiếng chiêng vang vọng, dùng thanh thế hiên ngang để phá tan cường địch. Đó là đặc điểm thứ năm. Đầy đủ năm nghĩa này thì còn sợ gì nữa? Nếu không thể song toàn ở hai trạng thái tĩnh và động thì song tu chỉ quán, hiệp với Phật ý há chẳng được sao? Khi định huệ quân bình thì đó chính là Phật tâm bặt hết năng sở?

Ngài Phi Tích cường điệu niệm Phật lớn tiếng có năm nghĩa, chứng minh công năng kỳ diệu của tiếng, có thể định được tâm, trừ lo âu, tiêu tai họa, nhấc vật nặng, hàng phục ma, thậm chí đạt được trình độ thật tướng niệm Phật, chỉ quán song vận, định tuệ ngang nhau, tâm Phật đều quên v.v…
  • 11. NIỆM PHẬT NGŨ HỘI
Đại sư Pháp Chiếu triều Đường y cứ vào kinh Vô Lượng Thọ quyển thượng, có soạn một quyển "Tịnh Độ ngũ hội niệm Phật lược pháp sự nghi tán”, đề xướng niệm Phật ngũ hội.

"Hoặc có cây báu, xa cừ làm gốc, vàng tía làm thân, bạch ngân làm nhánh, lưu ly làm cành, thủy tinh làm lá, san hô làm hoa, mã não làm quả. Hàng cây trồng đều nhau, thân đối với nhau, cành có khoảng cách đều nhau, lá cùng hướng, hoa trổ có thứ lớp, quả ra đều đặn, sắc tươi tỏa sáng, nhìn không thể xiết, gió thường nổi lên, phát ra năm thứ tiếng, cung thương vi diệu, hòa hợp tự nhiên".

Lại kinh A Di Đà cũng miêu tả các thứ động thực vật trong nước Cực Lạc giống như kinh Vô Lượng Thọ như: "Gió nhẹ thổi động các hàng cây báu, và lưới báu, phát ra tiếng vi diệu, ví như trăm ngàn thứ nhạc, phát ra cùng lúc, người nghe âm thanh này đều sinh tâm niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng". Đại sư Pháp Chiếu dựa theo đây mà đề xướng phát minh phương pháp niệm Phật ngũ hội.

Kỳ thật trong kinh chỉ nói: "Phát ra năm thứ tiếng" là chỉ cho "cung, thương, giốc, chủy, vũ" loại âm nhạc xưa dùng để phổ nhạc, chứ không có ý là ngũ hội.

Ý của ngài Pháp Chiếu sử dụng ngũ hội có nghĩa là: "Ngũ là số, hội là tập họp. Năm loại âm thanh ấy từ hưỡn đến gấp, chỉ niệm Phật Pháp Tăng, không có tạp niệm, niệm tức là không niệm, Phật không có hai môn, tiếng thì vô thường là đệ nhất nghĩa". Ngài lại nói: "Người nghe âm thanh ấy được vào sâu pháp nhẫn, trụ nơi bất thối chuyển, cho đến thành Phật đạo".

Đủ biết niệm Phật ngũ hội chính là dùng năm thứ âm phổ nhạc niệm Phật, trầm bổng, ngừng ngắt hưỡn gấp, khiến cho người niệm Phật không đến nỗi rơi vào hôn trầm tán loạn, mà còn tùy theo tiết tấu âm nhạc, sản sinh cảm giác thú vị khiến cho tâm thần an định và vui vẻ. Nếu có thể chuyên tinh trì danh niệm Phật liên tục cũng có thể hoàn thành niệm Phật tam muội. Ngũ hội là theo thứ tự từng giai đoạn niệm Phật, tiến hành theo phương pháp như sau:
  • - Hội thứ nhất, niệm chậm tiếng bình Nam mô A Di Đà Phật.
    - Hội thứ hai, niệm chậm tiếng cao Nam mô A Di Đà Phật.
    - Hội thứ ba, niệm không chậm không nhanh Nam mô A Di Đà Phật.
    - Hội thứ tư, niệm nhanh dần Nam mô A Di Đà Phật.
    - Hội thứ năm, chuyển niệm nhanh bốn chữ A Di Đà Phật.
Thật ra, phương pháp niệm Phật của các tự viện tại Trung Quốc hiện nay, trên đại thể đều áp dụng giống như niệm Phật ngũ hội này, chẳng qua có đôi chút khác biệt mà thôi. Có một số nơi tổ chức tương đối khá, khiến người ta đến tham dự cộng tu niệm Phật, cảm được trạng thái an lạc và mát mẻ. Thế nhưng, hiện nay tại Đài Loan cũng có phổ thành nhạc khúc, do niệm Phật ngũ hội đệm nhạc cụ vào, khiến cho người nghe có cảm giác thư thái nhẹ nhàng, hưng phấn đầy đạo vị, nhưng dường như lại đánh mất đi phong cách Phạm Ca, khiến cho người ta rất khó thành tựu được niệm Phật tam muội.
  • 12. NIỆM PHẬT KÝ SỐ MƯỜI NIỆM
Đại sư Ấn Quang năm đầu Dân Quốc, là vị Tổ sư vĩ đại sau cùng hoằng dương Tịnh độ Di Đà tại Trung Quốc cho đến nay, trong Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, có một chương "chỉ bày phương pháp tu trì", rất thực dụng đối với người tu tịnh nghiệp, mà Ngài đã đặc biệt khai thị về phương pháp niệm Phật. Độc giả nên tìm đọc để hiểu thêm. Hiện tại, chỉ rút ra hai loại phương pháp niệm Phật mà người niệm Phật hiện nay đều có thể ứng dụng được:

- Pháp môn mười niệm: Nếu vì công việc đa đoan, không có cách gì sinh hoạt theo thời khóa công phu sớm tối như tự viện được, nên vào lúc sáng sớm thức dậy súc miệng xong, lễ Phật ba lễ, ngồi ngay thẳng chắp tay, niệm Nam mô A Di Đà Phật, dứt một hơi là một niệm, niệm đến mười hơi, rồi niệm văn Tịnh độ ngắn, hoặc chỉ niệm bốn câu kệ: "Nguyện sinh Tây phương Tịnh độ trung, cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh, bất thối Bồ tát vi bạn lữ". Niệm xong lễ Phật ba lạy là hoàn thành công khóa pháp môn mười niệm buổi sáng. Nếu không có tượng Phật thì xoay mặt về hướng Tây xá ba xá. Pháp này do ngài Tuân Thức triều Tống sáng lập, vì đương thời vua quan quá bận rộn với việc triều đình nên ngài mới soạn ra phương pháp này. Pháp này có thể giúp cho tâm gom về một chỗ, nhất tâm niệm Phật, quyết định được vãng sinh.

- Pháp môn niệm Phật ký số mười niệm: Nhiều người niệm Phật thích dùng chuỗi hạt dài hoặc ngắn để ký số, thế nhưng đại sư Ấn Quang dạy hành giả tịnh nghiệp ký số mười niệm là không nên lần hạt, chỉ dùng tâm ghi nhớ.

Đại sư Ấn Quang nói: "Ký số mười niệm là dùng sức toàn tâm để vào một tiếng Phật… đây là diệu pháp cứu cánh nhiếp tâm niệm Phật, các vị hoằng dương pháp môn Tịnh độ xưa kia chưa từng nói đến". Ngài lại nói: "Bậc lợi căn thì không phải nói, như đối với hàng độn căn chúng ta, bỏ qua pháp ký số mười niệm này, muốn nhiếp được sáu căn, tịnh niệm nối luôn, thật là khó lắm". Ngài lại nói: "Cái mầu nhiệm của pháp này là thực hành nhiều thì hiệu nghiệm nhiều". Thế nào là ký số mười niệm? Tức là đang lúc niệm Phật, từ khi xưng niệm câu thứ nhất Nam Mô A Di Đà Phật đến câu thứ mười Nam Mô A Di Đà Phật, mỗi lần xưng niệm một câu phải niệm cho được rõ ràng, ghi nhớ cho được rõ ràng, niệm cho đến mười câu là hoàn tất, rồi lại ký số niệm Phật từ câu thứ nhất đến câu thứ mười, cứ như thế dứt mười câu rồi lại niệm từ một đến mười.

Nếu suốt mười câu thấy khó nhọc thì có thể chia làm hai hơi, từ một đến năm, từ sáu đến mười. Nếu lại tổn sức thì chia làm ba hơi, từ một đến ba, từ bốn đến sáu, từ bảy đến mười. Xưng niệm danh hiệu Phật như thế, niệm cho được rõ ràng, nghe cho được rõ ràng, vọng niệm sẽ không còn chỗ đứng, lâu dần sẽ tự nhiên đạt được nhất tâm bất loạn.

Phương pháp ký số mười niệm này, lúc tôi hướng dẫn tu thiền và phương pháp niệm Phật cũng thường giới thiệu cho những học giả mới, những người tu thiền nếu tu pháp sổ tức thấy khó thì nên dùng pháp ký số mười niệm này rất là thuận lợi. Cho nên, bản thân tôi cũng rất cảm ân đại sư Ấn Quang đã phát minh ra diệu pháp niệm Phật ký số mười niệm này.
  • Dịch xong ngày 10 tháng 08 năm 2001.
- HẾT -
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Bing [Bot]27 khách