LUẬN TỊNH ĐỘ

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

LUẬN TỊNH ĐỘ
Nguyên tác: Thích Ca Tài
BAN DỊCH THUẬT HÁN TẠNG PHÁP ÂM
Dịch và chú thích: Chúc Đức -– Diệu Thảo - Giới Niệm
Hiệu đính: Định Huệ
Nhà xuất bản Tôn giáo Hà Nội - 2009

LỜI NÓI ĐẦU

Cùng với những dịch phẩm khác, dịch phẩm nhỏ này cũng nằm trong khuôn khổ kế hoạch phiên dịch do các vị thầy đáng kính của chúng tôi đề ra.

Nguyên tác chữ Hán của sách này có tên Tịnh Độ Luận do Thích Ca Tài soạn vào đời Đường, được xếp vào Đại Chính Tạng tập 47, No. 1963, tr. 83-104. Khoảng năm 627 – 645, ngài Ca Tài trụ ở chùa Hoằng Pháp, kinh đô nhà Đường. Cũng như người cùng thời là Đại sư Thiện Đạo, chịu ảnh hưởng của thiền sư Đạo Xước, Sư hoằng dương giáo nghĩa Tịnh Độ, soạn và hiệu đính nhiều bộ luận. Tịnh Độ Luận là tác phẩm được Sư biên soạn dựa vào bộ An Lạc Tập của ngài Đạo Xước, nhưng công phu hơn nhiều, đã làm nổi bật tư tưởng của An Lạc Tập. Bộ luận gồm ba quyển chia thành chín chương, dùng hình thức hỏi đáp trình bày đầy đủ và mạch lạc các nghĩa Báo thân Tịnh độ, Hóa thân Tịnh độ, các phẩm và căn cơ vãng sinh, lý luận về vãng sinh, nêu các trường hợp thực tế vãng sinh, đồng thời so sánh Tịnh độ Cực Lạc với Tịnh độ Đâu Suất, nhấn mạnh và xác quyết khả năng vãng sinh của phàm phu. Rất nhiều hành giả tông Tịnh Độ ở Trung Quốc và Nhật Bản đã sử dụng bộ luận này.

Khi phiên dịch sách này, chúng tôi giữ nguyên nội dung và bố cục của nguyên tác, chỉ thay đổi một ít từ cho phù hợp về thời gian tính, đặt lại tên một số chương cho gọn hơn, đồng thời, đưa cước chú vào để người đọc đỡ công tra cứu. Phần lớn cước chú chúng tôi đều căn cứ vào Từ Điển Phật Học Huệ Quang, Phật Quang Đại Từ Điển là chính, ngoài ra còn tham khảo Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phúc Bảo, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết (phẩm 11 - Bồ tát Hạnh) v.v...

Mặc dù chúng tôi đã cố gắng hết sức với hy vọng giúp ích chút ít cho người muốn tìm hiểu sâu về pháp môn Tịnh Độ. Tuy vậy, bản dịch Việt ngữ này chắc khó tránh khỏi khuyết điểm. Kính mong các bậc thức giả hoan hỉ chỉ bảo cho.

Nhóm phiên dịch.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

LỜI TỰA

Đời Đường, Thích Ca Tài ở chùa Hoằng Pháp, Kinh đô soạn.

Cửa huyền Tịnh Độ, mười phương đều khen; cõi báu Di Đà, phàm thánh chung vui. Thế nên, mười sáu phép quán(1) rộng lớn hưng thịnh ở Ấn Độ, giáo lý cửu phẩm(2) được mong cầu mãnh liệt tại Trung Hoa. Tôi thường mở kinh sách ra đọc, suy xét kỹ lời của Phật, mạo muội cho rằng tông này là con đường tu tập thiết yếu. Người lĩnh hội được tông này thì dập đầu mong cầu, người chưa thông hiểu thì xem qua còn do dự. Nếu ai không để tâm nơi tông này thì e rằng cuối cùng phải mãi bị trôi chìm trong bóng đêm sinh tử.

Nay tôi xem các kinh, đọc các luận, rút ra những điều cốt yếu, soạn thành bộ Luận Tịnh Độ. Các bậc tiên hiền đời xưa như pháp sư Huệ Viễn(3), Tạ Linh Vận(4), v.v... tuy đều cầu sinh về Tây phương, nhưng cuối cùng chỉ tự lợi cho riêng mình, nên người học đời sau không có chỗ nương theo tu tập. Đời gần đây có thiền sư Đạo Xước(5) soạn bộ An Lạc Tập (một quyển), tuy có dẫn nhiều kinh để trình bày sơ lược đạo lý, nhưng văn nghĩa xen tạp, chương phẩm lộn xộn, khiến người đọc đời sau cũng do dự mà không quyết định. Còn nay bộ sách này do tôi sưu khảo các sách, dẫn đầy đủ lý lẽ, biên thành chín chương, văn nghĩa rõ ràng, phẩm mục rành mạch, khiến cho người đọc thấy rõ ràng như thấy vật ở trong lòng bàn tay. Điều nguyện của tôi là giáo lý Tam phúc(6) mãi mãi được truyền bá, lời kinh Tứ thệ(7) vĩnh viễn là khuôn phép, mười sáu phép quán được xiển dương, mọi người đều sinh về nơi chín phẩm, ngõ hầu khiến cho chúng sinh trong sáu đường(8) thăm thẳm bỏ hẳn chốn Uế, bốn loài xao động mãi ở đài sen, dù chưa bì kịp tiền hiền, cũng đều đến được cõi Tịnh.

Kính lễ đức Phật A Di Đà
Ở thế giới Tây phương Cực lạc
Khéo lập thệ rộng cứu chúng sinh,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.

Vương tòa đài sen, Ngài đoan tọa,
Thân phóng diệu quang chiếu tám phương,
Ngũ nhãn(9) thấy khắp tất cả cõi,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.

Ngũ phần(10) tròn sáng tính thường trụ,
Đại bi tiếp độ, thọ vô lượng,
Lòng từ vô duyên(11) độ chúng sinh,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.

Cõi báu trang nghiêm ngàn vạn sắc,
Đều từ Như ý châu sinh ra,
Thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ, tội diệt.
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.

Suối, chim, rừng, sáo vang tiếng ca,
Âm thanh diễn nói pháp sâu xa.
Chúng sinh nghe chứng liền Bất thoái,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.

Bồ tát Quán Âm đại từ bi,
Xem khắp chúng sinh như con một,
Tay báu tiếp dẫn tợ mẹ hiền,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.

Bồ tát Thế Chí đại tự tại,
Bước, ngồi chấn động cõi Đại thiên,
Hóa Phật, Bồ tát đều qui tụ,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.

Thánh chúng tụ hội đông dường biển,
Như các sao chầu về Bắc đẩu,
Bình đẳng cứu khổ khắp ba cõi,
Con nguyện vãng sinh, dập đầu lễ.

Nay con xem khắp Đại Tạng Kinh,
Tóm chung nghĩa lý làm chín chương,
Người đọc đều phát tâm Bồ đề,
Nguyện đồng vãng sinh nước An Lạc.

GHI CHÚ:

(1) Mười sáu pháp quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ: Nhật tưởng quán, Thủy tưởng quán, Địa tưởng quán, Bảo thụ quán, Bào trì quán, Bảo lâu quán, Hoa tọa quán, Tượng quán, Châu thân quán, Quán Âm quán, Thế Chí quán, Phổ quán, Tạp tưởng quán, Thượng bối quán, Trung bối quán, Hạ bối quán.

(2) Cửu phẩm: Theo Quán Kinh, do căn cơ và hành nghiệp khác nhau, người nguyện vãng sanh có chín bậc khác nhau được sanh theo chín phẩm khác nhau ở cõi Cực Lạc: Phẩm thượng bậc thượng, Phẩm thượng bậc trung, Phẩm thượng bậc hạ. Phẩm trung bậc thượng, Phẩm trung bậc trung, Phẩm trung bậc hạ. Phẩm hạ bậc thượng, Phẩm hạ bậc trung, Phẩm hạ bậc hạ.

(3) Pháp sư Huệ Viễn (334-416): Cao Tăng Trung Quốc, sống thời Đông Tấn, họ Giả, người Lâu Phiền, Nhạn Môn (huyện quách, tỉnh Sơn Đông), là Sơ tổ của tông Tịnh Độ Trung Quốc.

(4)Tạ Linh Vận: Cư sĩ Phật giáo nổi tiếng Trung Quốc thời Lưu Tống, người Dương Hạ, thông hiểu kinh sách,thư họa,thi văn, làm quan đến Thái úy tham quân, Thái phó Vĩnh Gia, bị vua hãm hại chết ở Quảng Châu năm 433.

(5) Thiền sư Đạo Xước: Tức Thiền sư Tây Hà (562-645), họ Vệ, người Vấn Thủy, Tinh Châu (tức huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây ngày nay). Sư là tổ thứ 2 của tông Tịnh Độ Trung Quốc, soạn các tác phẩm: Luận Tịnh Độ (2 quyển), An Lạc Tập (2 quyển).

(6) Tam phúc: Ba phúc nghiệp thanh tịnh mà hành giả tu hành để được vãng sinh Cực Lạc gồm:

a. Thế phúc: hiếu dưỡng cha mẹ, hầu hạ sư trưởng, rèn luyện tâm từ không giết hại các loài, tu tập mười thiện nghiệp.

b. Giới phúc: thụ trì Tam qui và đầy đủ các giới, oai nghi không phạm lỗi.

c. Hành phúc: phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyên người tiến tu.
(7) Tứ thệ: Tức Tứ hoằng thệ nguyện: Thệ nguyện độ vô số chúng sinh, thệ nguyện trừ vô tận phiền não, thệ nguyện học vô lượng pháp môn, và thệ nguyện thành Phật đạo vô thượng.

(8) Sáu đường: Sáu đường thụ sinh tùy theo nghiệp lực của chúng sinh, gồm: Trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỉ và địa ngục. Ba đường đầu là đường thiện, ba đường sau là đường ác.

(9) Ngũ nhãn: Năm loại mắt gồm: nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.

(10) Ngũ phần: Tức năm phần pháp thân gồm: Giới thân, Định thân, Huệ thân, Giải thoát thân, và Giải thoát tri kiến thân.

(11) Lòng từ vô duyên: Theo Luận Đại Trí Độ quyển 40 và kinh Đại Bát Niết bàn quyển 15, Vô duyên từ là lòng từ bình đẳng tuyệt đối khởi ra từ tâm không phân biệt và lìa xa tri kiến sai biệt.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

QUYỂN THƯỢNG

Có công tử Trệ Tục hỏi tiên sinh Tịnh Độ:

- Tôi từng nghe rằng đạo Phật cao siêu, dứt đường ngôn ngữ, pháp môn sâu kín, bặt chỗ tâm hành. Đó là vì ngôn ngữ đều sinh ra từ tình thức hư vọng, mọi tâm hành đều là ý tưởng điên đảo. Nhưng nay nói muốn sinh về Tây phương thì chuyên xưng tán danh hiệu Phật A Di Đà, thế thì, lẽ nào những lời "dứt đường ngôn ngữ" là sai, "bặt chỗ tâm hành" chẳng đúng? Tôi vì tình thức còn vướng chấp, chưa lĩnh hội được nghĩa rộng lớn, xin gõ cửa nhờ ngài cao minh mở bày lý sâu kín. Nhưng cõi chẳng phải nhơ nhiễm, mà thanh tịnh do tự tâm, nay lại nghe dạy chuyên chú nhớ tưởng Tây phương, tôi muốn lĩnh hội được chỗ chưa hiểu này. Mười phương đều thanh tịnh, nhưng chỉ cầu sinh về một phương. Nay tôi đem tâm thức còn bị ràng buộc này đến xin ngài tháo mở giúp cho.

Tiên sinh nói:

- Hay thay câu hỏi của ông! Nếu không phải bậc minh triết thì ai giải đáp được? Nhưng pháp môn sâu mầu thật đúng là tâm ý của Như Lai, còn tôi thì thẹn mình không sáng suốt, nên chỉ thử bàn luận thôi! Người thông đạt nhờ hiểu biết bén nhạy, nhìn qua liền thấy đúng; kẻ phàm phu do trí tuệ cạn cợt, đụng đâu cũng vướng mắc. Tuy Thánh đạo thật rộng lớn, thứ bậc có tám muôn, nhưng nói tóm lại, chẳng ngoài Sự và Lý. Hai yếu tố này giống như hai bánh của cỗ xe, hai cánh của con chim, nếu thiếu một thì xe không thể đi xa, chim không thể bay cao được. Như Luận Khởi Tín có hai môn Chỉ và Quán; Chỉ thì duyên Lý, Quán thì duyên Sự. Nếu chưa thông suốt hai môn này thì sẽ sinh giả dối và vướng mắc mà thôi; còn dứt sạch nói năng, bặt hết suy tưởng là Lý, cầu sinh Tây phương, trì niệm hiệu Phật là Sự. Nhưng ba cõi chỉ do tâm biến hiện, trong mọi cõi đều chẳng phải nhơ, cho nên nếu chưa lên hàng Thập địa thì hãy tạm dùng cảnh để tịnh hóa tâm mình. Tuy nhiên, mười phương đều thanh tịnh, mà cảnh giới trải quá rộng, do đó, muốn khiến tâm ý chuyên nhớ tưởng đến việc vãng sinh, chỉ nên cầu sinh về một phương.

CHƯƠNG I
XÁC ĐỊNH THỂ TÍNH CỦA CÕI NƯỚC

Gồm hai phần:

1. Thể tính.
2. Thuộc hay không thuộc Tam giới.

- Hỏi: Cửa của cõi ấy phàm thánh cùng vào, cõi báu A Di Đà mười niệm được lên. Đức Phật A Di Đà đã chấp nhận cho hàng Đại thừa, Tiểu thừa đều đến được cõi của Ngài, muôn loài đều được vãng sinh, nhưng tôi chưa biết hình tướng và thể tính cõi ấy thế nào?

- Đáp: Thường thì màu sắc sặc sỡ làm lóa mắt người, lời văn hoa mỹ che lấp lý lẽ. Nay vì muốn khiến cho kẻ ngu và người trí đều hiểu, nên ở đây bỏ hết những lời phù phiếm, chỉ trình bày điều thiết thực.

1. THỂ TÍNH

Có ba thứ Tịnh độ là Pháp thân tịnh độ, Báo thân tịnh độ, và Hoá thân tịnh độ.

(1) Pháp thân Tịnh độ:
Có hai nghĩa: Thể của Năng trụ nhân(12), và thể của Sở trụ độ(13).

a. Thể của Năng trụ nhân:

Theo Luận Khởi Tín giải thích, đó là Như Lai Tạng, thể ấy có đủ ba nghĩa đại.

(a) Thể đại: Tất cả pháp đều là Chân như bình đẳng không thêm bớt, tức là Chân như một vị. Thể này đâu chỉ bao hàm cả trong lẫn ngoài, mà cũng chung cho phàm và thánh.

(b) Tướng đại: Như Lai Tạng có đầy đủ công đức tính vô lậu, tức là có vô số công đức khác nhau. Tướng đại này chỉ loài hữu tình mới có, loài vô tình thì không. Cho nên, kinh Niết bàn ghi: "Loại không có Phật tính là những vật vô tình như tường, vách, ngói, sỏi, v.v..."

(c) Dụng đại: Vì Như Lai Tạng có thể sinh nhân quả thiện thế gian và xuất thế gian, nên đó chính là dụng của Tướng đại nói ở trên.
Nay hai nghĩa Tướng đại và Dụng đại đã là thể của Năng trụ nhân, nhưng lại nói chúng khác nhau, bởi vì căn cứ vào nghĩa Chân như một vị.

b. Thể của Sở trụ độ:

Lấy nghĩa Thể đại của Chân như một vị làm thể của Sở trụ độ, nghĩa là làm chỗ nương cho vô số đức.

Như thế, ở Tịnh Độ này, nhân và độ cùng một thể mà chia ra hai nghĩa.

(2) Báo thân Tịnh độ:

Có hai loại: Thật báo độ và Sự dụng độ.

a. Thật báo độ:

Nhân và độ cũng có cùng một thể, nghĩa là muôn đức khởi ra lúc ban đầu là thể của độ ấy. Như phần Thập bát viên tịnh của luận Nhiếp Đại Thừa ghi: "Đại không, vô tướng, v.v... làm cửa, Tam tuệ(14) làm đường", và kinh Duy Ma ghi: "Tổng trì là vườn, pháp vô lậu là rừng cây". Nếu nói Nhân năng trụ là người thâu tóm muôn đức mà thành Phật, thì nhân và độ ở đây, tất cả Bồ tát từ địa vị Kim cương tâm(15) trở xuống đều không thấy được, vì chỉ có Phật và Phật mới thấy mà thôi.

b. Sự dụng độ:

Nhân và độ khác thể, nghĩa là thế giới Pha Lê kha Liên Hoa Tạng, v.v... là thể của Sở trụ độ. Do đó, luận Nhiếp Đại Thừa ghi: "Tịnh Độ lấy Liên hoa vương làm chỗ nương; đại định, đại bi, vẻ đẹp, tướng quí, v.v... làm thể của Nhân năng trụ". Luận Nhiếp Đại Thừa cũng ghi: "Ứng thân lấy đại định, đại bi làm thể". Nhân và độ này, các Bồ tát từ Sơ địa trở lên cho đến Thập địa thấy được tùy theo mức chứng ngộ của mình. Sự thấy ấy không như nhau, nghĩa là các Địa có cao thấp khác nhau thì sự thấy cũng có thô diệu sai biệt. Cho nên, luận Nhiếp Đại Thừa ghi: "Nếu lìa Ứng thân thì Bồ tát từ Sơ địa trở lên, sẽ không đủ hành trang Bồ đề". Thân đó gọi là Báo thân, hoặc Thọ dụng thân, hoặc Ứng thân. Hoàn trả gọi là báo, đáp lý gọi là ứng. Vì người khác mà hưởng pháp vị thì gọi là thọ dụng. Do đó, có thể gọi Báo thân là Thực thân, vì cũng giống như Thọ dụng thân.

(3) Hoá thân Tịnh độ:

Cũng có hai loại:

a. Thân thành tựu hạnh lợi tha trong ba đại a tăng kỳ(16) kiếp, tức là Hóa thân tùy cơ. Thân và Độ ở đây thường thị hiện không ngừng ở cõi khác trong một kiếp, hoặc trăm năm..., có đủ ba mươi hai tướng quí và tám mươi vẻ đẹp tùy hình, nghĩa là kiếp sống luôn luôn đổi mới, mà thường xuyên bát Niết Bàn.

b. Hóa thân đang không mà chợt có, tức là nương vào Hóa thân này lại hóa hiện nhiều Hóa thân khác. Như Phật Thích Ca là Hóa thân tùy cơ lại phân thành các Hóa thân, tức là Hóa thân đang không có mà chợt có; có thể hiện làm vượn, khỉ, ngựa v.v..., không phải chỉ hiện thân Phật. Thân đã có hai, độ cũng như thế, giống như các hoa sen vi diệu ở thế giới Diệu Hỷ, đây là Hoá tịnh độ tùy cơ; cũng như trong kinh Duy Ma Cật, Như Lai ấn ngón chân xuống đất thì Tam thiên thế giới(17) đều thanh tịnh, tức là Hóa tịnh độ đang không mà chợt có. Hai thân và hai độ này, hàng Bồ tát Địa tiền(18), hàng Nhị thừa và phàm phu đều thấy được. Do đó, luận Nhiếp Đại Thừa ghi: "Nếu lìa Hóa thân, hàng Thanh Văn độn căn và người mới phát tâm tu hành ưa thích giai vị đều không thành tựu được quả vị". Pháp thân và Pháp thân tịnh độ thì chỉ tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn mới thấy được. Báo thân và Báo độ thì nhục nhãn và thiên nhãn cũng thấy được.

GHI CHÚ:

12): Ở đây, Năng trụ nhân là chính báo người giáo hóa ở Tịnh Độ tức là Phật.

(13): Sở trụ độ là y báo nơi trụ của Năng trụ nhân, tức Tịnh Độ.

(14): Văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.

(15): Bồ tát địa vị Kim cương tâm tức là Bồ tát Đẳng giác, hoặc Bồ tát Nhất sinh bổ xứ.

(16): Một đơn vị số lượng (thứ 52 trong hệ thống có 60 đơn vị số lượng) của Ấn Độ có giá trị cực lớn. Một a tăng kỳ = 1049.

(17): Theo vũ trụ quan của Ấn Độ xưa, một thế giới gồm núi Tu Di ở giữa, xung quanh có 4 đại châu, 9 lớp núi, và 8 lớp biển, từ trời Sơ thiền của cõi Sắc đến lớp phong luân dưới đáy mặt đất, trong đó bao gồm mặt trời, mặt trăng, núi Tu Di, trời Tứ thiên vương, trời Đao lợi, trời Dạ ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, Phạm thiên... 1000 tiểu thế giới này hợp thành Tiểu thiên thế giới, 1000 Tiểu thiên thế giới hợp thành Trung thiên thế giới, 1000 Trung thiên thế giới hợp thành Đại thiên thế giới, hay Tam thiên đại thiên thế giới, hay Tam thiên thế giới.

(18): Bồ tát ở giai vị Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng chưa vào đến Thập Địa.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

- Hỏi: Tịnh Độ đã có ba, nhưng tôi chưa biết Tây phương thuộc Tịnh Độ nào?

- Đáp: Cõi Tây phương cũng có ba thứ. Nếu là cõi mà Bồ tát từ Sơ địa trở đi dùng Chính thể trí(19) thấy được thì đó chính là Pháp thân Tịnh Độ; nếu là cõi mà Bồ tát ở Gia hạnh vị(20) dùng Hậu đắc trí thấy được thì chính là Báo thân Tịnh Độ; nếu là cõi mà Bồ tát Địa tiền cùng hàng Nhị thừa và phàm phu thấy thì chính là Hóa thân Tịnh Độ. Ví dụ các Bồ tát như Long Thọ v.v... vãng sinh thì đều thấy cả ba thứ Tịnh Độ Hóa thân, Pháp thân và Báo thân, vì bậc ở giai vị cao thấy được giai vị thấp. Vì nghĩa này, nên trong các kinh luận phán cõi Tây phương là Báo độ hoặc là Hóa độ, đều chẳng sai.

- Hỏi: Đã biết Tây phương có đủ ba cõi, nhưng tôi chưa biết ngày nay phàm phu niệm Phật nguyện vãng sinh, sẽ được sinh về đâu?

- Đáp: Theo Nhiếp Luận, người ấy chỉ sinh về Hoá thân Tịnh Độ, không thấy được Pháp thân Tịnh Độ và Báo thân Tịnh Độ. Trong Hoá thân Tịnh Độ này, có hai loại chúng sinh là thai sinh và hóa sinh.

a. Thai sinh lại có hai loại:

(a) Người nghi ngờ: Theo kinh Vô Lượng Thọ, người này sinh trong cung điện bảy báu ở biên thành của cõi Cực Lạc, trong năm trăm năm không được thấy Phật, gọi là thai sinh.

(b) Người thật có cha mẹ, gọi là loại thai sinh. Như kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà la ni ghi, Phật A Di Đà cũng có cha mẹ. Kinh ghi: "Thành ấy tên là Thanh Thái, rộng mười ngàn do tuần, trong đó có rất đông tầng lớp Sát đế lợi. Cha Ngài là Chuyển Luân Thánh Vương Nguyệt Thượng, mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan, con tên Nguyệt Minh, đệ tử hầu hạ tên Vô Cấu Xưng, đệ tử trí tuệ tên Lãm Quang, đệ tử thần túc tên Chủ Hóa, ma tên Vô Thắng, Đề Bà Đạt Đa tên Tịch Tĩnh. (Đó là những chúng sinh tự hóa sinh, không phải là người ngày nay niệm Phật được vãng sinh. Thế tức là nơi chốn chỉ có một, mà mọi người đều thấy khác nhau).

b. Cõi hóa sinh: Theo các kinh luận, có ba: Cõi thuần Đại thừa, cõi thuần Tiểu thừa, và cõi Đại thừa xen lẫn Tiểu thừa.

(a) Cõi thuần Đại thừa: Chúng sinh sinh ở chỗ này chỉ học Đại thừa. Như trong chín phẩm vãng sinh, thì những người này thuộc ba phẩm bậc thượng. Cho nên Luận Vãng Sinh ghi: "Cõi của hàng thiện căn Đại thừa không có hạng người chê bai, nghi ngờ Phật pháp. Cõi này cũng không có người nữ, hàng Nhị thừa và kẻ khuyết tật".

(b) Cõi thuần Tiểu thừa: Hạng chúng sinh chỉ học Tiểu thừa thì sinh về đây. Nếu xét theo chín phẩm vãng sinh, thì những người này thuộc hai phẩm bậc trung. Do đó, luận Đại Trí Độ ghi: "Có cõi Diệu Tịnh ở ngoài ba cõi, các A la hán sẽ sinh về đấy".

(c) Cõi Đại thừa xen lẫn Tiểu thừa: Chúng sinh học cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa thì sinh về đây. Nếu xét theo chín phẩm vãng sinh, những người này thuộc phẩm hạ bậc trung và ba phẩm bậc hạ. Như người sinh về phẩm hạ bậc trung, trong kinh ghi, đó là người hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, làm việc nhân từ thế gian, gặp thiện tri thức giảng cho nghe bốn mươi tám lời đại nguyện của Phật A Di Đà, đã được nghe những lời nguyện ấy, lại còn học pháp Đại thừa lẫn pháp Tiểu thừa, cho đến người dù đã chứng quả A la hán, nhưng rồi lại hồi tâm hướng về Đại thừa. Còn người sinh về ba phẩm bậc hạ là người cũng nhờ nghe bốn mươi tám đại nguyện của Phật A Di Đà, hoặc nghe mười hai thể loại kinh, hoặc niệm Phật A Di Đà, mà sinh được về cõi ấy, đều phát tâm Bồ đề.

Nói sơ lược thì có ba Tịnh Độ, nhưng nếu phân biệt rõ ràng thì chúng sinh khởi hạnh có nhiều trường hợp khác nhau, cho nên cõi thấy được khi vãng sinh cũng khác nhau rất nhiều. Nếu hiểu như thế, thì trong kinh luận phán định cõi Tây phương là Báo độ hay là Hóa độ, ta đều chẳng thấy trở ngại. Nhưng ta biết chư Phật tu hành cảm được cả hai độ Báo và Hóa. Như Nhiếp Luận ghi: "Bậc Gia Hạnh cảm được Hóa thân, bậc chứng được Chính thể trí cảm được Báo thân". Song dù Báo thân hay Hóa thân, cũng đều nhằm thành tựu chúng sinh. Thế thì, độ chẳng dối bày, hạnh không luống tu, chỉ tin lời Phật, y theo kinh mà chuyên niệm Phật thì sẽ được vãng sinh, cũng chẳng cần mưu cầu Báo thân với Hóa thân làm gì!

- Hỏi: Có thể biết, Pháp thân Tịnh Độ, theo lý, bao trùm khắp nơi, còn Báo độ và Hóa độ lẽ ra phải có ranh giới. Nhưng nói cõi Tây phương đã có đủ Báo độ và Hóa độ thì căn cứ vào văn kinh nào để chứng minh?

- Đáp: Báo độ và Hóa độ có thể có ranh giới hoặc không có ranh giới. Như Thật báo độ, ở trong Báo độ, không có ranh giới. Nghĩa là Đức Như Lai tu hành trọn vẹn tám muôn hạnh, trải qua ba a tăng kỳ kiếp, đầy đủ Nhị giáo(21), Ngũ phần pháp thân sáng rỡ, tướng quí soi tận từng giọt nước biển, vẻ đẹp trải khắp hết bụi núi non, Tam minh(22) sáng suốt, Nhị trí(23) cùng soi, cũng giống như rồng gầm mây hiện, cọp rống gió nổi. Thế thì, đâu thể đem báu vật để trang nghiêm cõi này, cũng không thể dùng ranh giới để hạn định cõi này được. Chỉ Phật mới thấy được vẻ đẹp của cõi này, Bồ tát chưa ghé mắt đến được. Còn ở Sự dụng độ, dưới có trụ kim cương nâng đỡ, trên có đất lưu ly óng ánh, bên ngoài có lan can bằng bảy báu vây quanh, bên trong có ao nước tám công đức lấp lánh, châu báu trang hoàng rừng cây xinh đẹp, lưới báu giăng trên cung điện nguy nga. Thân đã đủ muôn đức, độ cũng đầy vẻ đẹp; cõi như thế thì có ranh giới.

Trong Hóa độ, căn cứ vào sức nguyện đại bi của chư Phật, cõi này bao trùm khắp chúng sinh giới, tức là không có ranh giới. Còn căn cứ theo lý vì giáo hoá chúng sinh, nên thân luôn luôn đổi mới sinh mạng mà thường xuyên nhập Niết bàn, thì cõi này có ranh giới.

Nghĩa "Cõi Tây phương là Báo độ" xuất xứ từ kinh Đại Thừa Đồng Tính. Kinh ghi:

Bồ tát Trí Thông hỏi Đức Phật: "Báo thân của Như Lai như thế nào?" Đức Phật nói: "Thân ta mà hiện ông đang thấy đây chính là Báo thân của Như Lai. Lại ở cõi nước thanh tịnh, có thân đã thành Chính giác, và có thân sẽ thành Chính giác, tất cả đều là Báo thân của Như Lai".

Kinh giải thích rằng thân ở trong Tịnh Độ thành Phật gọi là Báo thân, thì đó chính là Thọ dụng thân, không phải Thật báo thân; nếu bảo là Hóa thân thì đó là Hóa thân vi tế.

Kinh ghi: "Thân ta mà ông hiện đang thấy đây chính là Báo thân", nghĩa là ở trong Uế độ cũng thấy được Báo thân.

Kinh này lại ghi: "Thân thành Phật ở trong cõi năm trược có chính pháp, tượng pháp, mạt pháp chính là Ứng hóa thân", tức là kinh ấy nói thân thành Phật trong Uế độ đều là Hóa thân. Nhưng kinh lại nói "Thân ta mà ông hiện đang thấy đây chính là Báo thân", nghĩa là ở trong Uế độ cũng được thấy Báo thân. Vậy tại sao trong Tịnh Độ không được thấy Hóa thân? Do đó, có thể biết rằng hai cõi Uế và Tịnh đều có đủ hai thân Báo và Hóa.

Nói Tây phương là Hóa độ, bởi kinh Quán Thế Âm Thọ Ký ghi:

- Này thiện nam tử, Phật A Di Đà có tuổi thọ vô lượng, đến trăm ngàn ức kiếp mới hết. Sau khi Phật nhập Niết bàn, chính pháp tồn tại ở đời lâu bằng tuổi thọ của Phật. Thiện nam tử, ngay khi chính pháp của Phật A Di Đà hủy diệt quá nửa đêm, ánh mặt trời vừa xuất hiện, Bồ tát Quán Thế Âm thành bậc Đẳng chính giác dưới cội Bồ đề, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai. Cõi nước của Phật này tên là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm, cõi này không có Thanh Văn, Duyên Giác. Sau khi Đức Phổ Quang Công Đức Như Lai nhập Niết bàn và chính pháp đã hoại diệt, Bồ tát Đại Thế Chí liền thành Phật hiệu là Thiện Trụ Bảo Vương Như Lai. Cõi nước, ánh sáng, tuổi thọ, cho đến chính pháp của Phật này cũng giống như vậy.

Hơn nữa, kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni ghi: "Phật A Di Đà có cha mẹ, con, các đệ tử như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đề Bà Đạt Đa, v.v..."

GHI CHÚ:

(19): Tức Căn bản trí.

(20): Tức Tứ gia hạnh vị, gồm: Noãn pháp, Đảnh pháp, Nhẫn pháp và Thế đệ nhất pháp.

(21): Hai loại giáo pháp. Theo ý nghĩa nội dung của giáo thuyết, phương pháp thực hành, hình thức thuyết pháp, người thuyết pháp và người thụ pháp, có thể phân chia giáo pháp của Phật thành Bán tự giáo và Mãn tự giáo, hoặc Đốn giáo và Tiệm giáo, Tiểu thừa giáo và Đại thừa giáo...

(22): Còn gọi là Tam đạt, Tam chứng pháp, gồm Túc mệnh trí chứng minh, Sinh tử trí minh và Lậu tận trí chứng minh, tức là trí tuệ thông đạt không trở ngại ba việc túc mệnh, thiên nhãn, và lậu tận.

(23): Hai loại trí tuệ của bậc thánh xuất thế. Có 6 thứ: Tận trí và Vô sinh trí, Căn bản trí và Hậu đắc trí, Quyền trí và Thật trí, Như lý trí và Như lượng trí, Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí, Quán sát trí và Thủ tướng trí.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

2. THUỘC HAY KHÔNG THUỘC TAM GIỚI

(1) Thuộc Tam giới:

- Hỏi: Báo độ thuần tịnh và vi diệu vượt xa ba cõi, những chúng sinh được giáo hóa ở đây đều đã vượt khỏi Phần đoạn sinh tử(24). Về lý, cũng dễ tin rằng cõi này vượt ngoài ba cõi. Dù cõi này thanh tịnh, song sự thanh tịnh chưa vi diệu, vì chúng sinh được giáo hóa ở đây là những Bồ tát Địa tiền. Thế thì, cõi này đúng ra là thuộc Tam giới hay không thuộc Tam giới?

- Đáp: Nếu xét về Phật thì cõi này vi diệu vượt ngoài Tam giới. Nếu xét về chúng sinh thì cõi này có đủ hai nghĩa: thuộc Tam giới và không thuộc Tam giới. Trước hết, nói về trường hợp thuộc Tam giới, căn cứ lẽ hàng phàm phu và Thánh Hữu học thuộc ba quả(25) được vãng sinh về đây, thì cõi này thuộc Tam giới, vì những chúng sinh như thế chưa ra khỏi Tam giới.

- Hỏi: Làm sao biết được nghĩa này?

- Đáp: Như kinh Vô Lượng Thọ ghi: "A Nan bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn, cõi này đã không có núi Tu di, v.v... thì Tứ Thiên Vương và trời Đao Lợi trụ ở đâu?

Phật đáp:

- Nương theo nghiệp mà trụ".

Vậy, cõi này đã có người rồi, lại có Tứ Thiên Vương, nên biết đó là cõi Dục. Kinh này lại ghi: Đức Phật bảo ngài Di Lặc:

- Ông thấy tất cả những thứ trang nghiêm từ mặt đất lên đến cõi trời Tịnh Cư(26) chăng?

Ngài Di Lặc đáp:

- Con đã thấy rồi.

Thế thì, nên biết Báo độ này có trong hai cõi Dục và Sắc, nhưng không nói gì đến cõi Vô sắc.

- Hỏi: Tại sao không nói đến cõi Vô sắc?

- Đáp: Vì ý kinh muốn khen ngợi sự trang nghiêm, vi diệu của Tịnh độ, nhằm khuyên mọi người cầu vãng sinh về đó, cho nên không bàn đến cõi Vô sắc, nhưng thể của nó có.

- Hỏi: Thân này và cõi kia đều thuộc cõi Dục, sao Phật lại khuyên người cầu vãng sinh?

- Đáp: Tuy có cùng tên gọi là cõi Dục, nhưng nghĩa khác nhau. Cõi Dục ở đây có hai nghĩa: Có Thượng tâm dục(27), và có Chủng tử dục. Bởi cõi Dục có đủ hai nghĩa nên nam và nữ ở đây mê đắm nhau, khởi lòng tham chạy theo sắc và thanh, ưa thích ở nhà lửa trong ba cõi. Tây phương dục giới chỉ có Chủng tử dục, không có Thượng tâm dục. Đã không có Thượng tâm dục, thì không có những lỗi lầm nói trên, cũng không có tâm ác và tâm vô ký, chỉ có tâm thiện. Do đó, phần Thập Bát Viên Tịnh của Nhiếp Luận ghi: "Tịnh độ chỉ có lạc thọ, không có khổ thọ và xả thọ". Như kinh Đại Pháp Cổ ghi: "Khổ thọ là bất thiện, lạc thọ là thiện, xả thọ là vô ký". Đã chỉ có tâm thiện, thì không có chỗ nào phát sinh việc ác. Do đó, kinh Vô Lượng Thọ ghi: "Trong cõi nước Phật A Di Đà không có chỗ nào cho làm ác". Cho nên, tuy nói là Tây phương Dục giới, nhưng đâu thật giống cõi Dục? Cõi Sắc cũng như thế.

- Hỏi: Tịnh Độ vi diệu, nên chúng sinh đều ưa thích. Đã muốn khuyên người cầu vãng sinh, sao lại phải nói chỗ ấy thuộc Tam giới?

- Đáp: Đó là điều kinh nói, chẳng liên can đến người. Hơn nữa, nếu chỗ ấy thuộc Tam giới thì chúng sinh chưa dứt sạch phiền não thuộc Tam giới được sinh về. Nếu chỗ ấy ở ngoài Tam giới thì bậc Thánh hữu học và phàm phu chẳng có phần, vì không thể khiến cho chúng sinh ở trong Tam giới còn đầy phiền não được sinh vào Báo độ ở ngoài ba cõi. Do nơi ấy ở trong ba cõi nên dễ vãng sinh; nơi ấy lại không có Thượng tâm dục, nên chúng sinh ở đấy hoàn toàn không bị lui sụt.

- Hỏi: Tịnh Độ ấy đã thuộc Tam giới thì lẽ ra phải có sự lui sụt, nhưng sao lại gọi là Bất thoái chuyển?

- Đáp: Tam giới là tên gọi chung, chẳng phải là tên của một cõi. Như thế giới Diệu Hỷ ở Đông phương có châu Diêm Phù Đề, có trời Đao Lợi, có nam, có nữ, nhưng lại được gọi là Tịnh Độ, thì đâu có ra ngoài Tam giới? Cõi ấy đã ở trong Tam giới, và có người nữ, nên cũng gọi là cõi Dục, thế thì có thể cho là giống với cõi Dục Ta Bà được sao?! Cõi ấy là Tịnh Độ, cõi này là Uế Độ. Nay phán Tịnh Độ ấy chỉ là Hóa thân Tịnh Độ, thì chúng sinh trong Hóa độ ấy đều ở trong Tam giới. Còn nếu Tịnh Độ ấy là Báo thân Tịnh Độ, thì chúng sinh nơi ấy đều ở ngoài Hóa độ, tức là ở ngoài Tam giới. Sở dĩ như thế, bởi Tịnh Độ có ba phẩm hơn kém nhau. Như thế giới Diệu Hỷ ở Đông phương là Tịnh Độ hạ phẩm, vì có nam và nữ lẫn lộn. Thế giới Cực Lạc ở Tây phương là Tịnh Độ trung phẩm, vì có cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Thế giới Chúng Hương ở phương Trên là Tịnh Độ thượng phẩm, vì không có Nhị thừa. Ba phẩm Tịnh Độ này đều ở trong cõi Dục, bởi vì có chỗ ở riêng của người và trời. Thế giới Diệu Hỷ có trời và người, như kinh Duy Ma Cật ghi: "Từ cõi Diêm phù đề cho đến trời Đao Lợi". Thế giới Cực Lạc có trời và người, như kinh Vô Lượng Tho ghi: "Phật bảo ngài Di Lặc: Ông có thấy những việc trang nghiêm từ mặt đất trở lên đến trời Ngũ tịnh cư chăng?". Thế giới Chúng Hương có người và trời, như kinh Duy Ma Cật ghi: "Khiến cho trời và người đều được vào, tuân giữ giới luật mà tu hành". Những thế giới ấy đã có chỗ ở riêng của trời và người, thì đều ở trong cõi Dục. Nếu những thế giới ấy thuộc cõi Dục, dù có cả trời, thì chỗ ở của trời ấy, nên biết, phải ở trong cõi Dục. Nếu những thế giới ấy ở cõi Sắc, tuy có trời, nhưng không có người, vì cõi Sắc ở trên cao nên người không thể lên được. Nếu những thế giới ấy ở ngoài Tam giới, thì không có chỗ ở riêng của người và trời.

Giống như Tịnh Độ có ba phẩm, Uế độ cũng có ba phẩm, như Kinh ghi: "Từ đây đi về phía đông, có một thế giới tên là Tư Kha, đất đai ở đó có lẫn cát và đá hình tam giác, mỗi năm có hai trận mưa, nước thấm ướt chưa quá năm tấc đất. Chúng sinh nơi ấy chỉ ăn cỏ, mặc vỏ cây, mong sống không được, cầu chết chẳng xong. Đó là Uế Độ trung phẩm. Lại có một thế giới có các loài cọp, sói, thú dữ, cho đến rắn, rít đều bay được, gặp người liền ăn thịt, chẳng phân biệt là người tốt hay người xấu. Đó là Uế Độ hạ phẩm. Thế giới Ta Bà thường có chư Phật xuất hiện, có chúng sinh phát tâm Bồ đề, từ đất sinh ra lương thực, người có lễ, nghĩa. Đó là Uế Độ thượng phẩm.

Tịnh Độ tuy có ba phẩm, nhưng người vãng sinh về đấy đều được Bất thoái chuyển, bởi bốn lý do:

a. Do tuổi thọ lâu dài, nên không thoái chuyển, như Kinh ghi: "Ở Tịnh Độ, chúng sinh có tuổi thọ đến vô lượng a tăng kỳ kiếp". Chỉ cần tu hành trong ba a tăng kỳ kiếp thì được thành Phật, huống gì đến vô lượng a tăng kỳ kiếp. Ở Uế Độ, tuổi thọ ngắn, nên chúng sinh bị thoái chuyển.

b. Có chư Phật và Bồ tát làm thiện tri thức nên không thoái chuyển, như Kinh ghi: "Chúng sinh ở Tịnh Độ được cùng các thượng thiện nhân tụ tập một chỗ". Còn ở Uế Độ, do chúng sinh gặp nhiều ác tri thức, nên bị thoái chuyển.

c. Ở Tịnh Độ không có người nữ, đối tượng của sáu căn đều là duyên giúp tiến đạo, cho nên chúng sinh nơi ấy không bị thoái chuyển, như kinh Vô Lượng Tho ghi: "Mắt thấy sắc, liền phát tâm Bồ đề, cho đến ý duyên với pháp, cũng liền phát tâm Bồ đề". Ở Uế Độ, do có người nữ, và đối tượng của sáu căn đều là duyên gây thoái đạo, cho nên chúng sinh nơi đây bị thoái chuyển.

d. Ở Tịnh Độ chỉ có tâm thiện, nên không có sự thoái chuyển, như Kinh ghi: "Ở Tịnh Độ không có chỗ nào làm ác". Còn ở Uế Độ, do có cả tâm ác và tâm vô ký, nên chúng sinh ở đây bị thoái chuyển.

(2) Không thuộc Tam giới:

Nếu người vãng sinh là Bồ tát từ Sơ địa trở lên, hoặc A la hán, hoặc Bích chi Phật thì Tịnh Độ này không thuộc Tam giới, bởi các vị ấy đã dứt sạch Chính sử(28), nên đã thoát khỏi Tam giới. Như luận Đại Trí Độ ghi: "Có Tịnh Độ vi diệu vượt ngoài Tam giới, các A la hán sẽ sinh về đấy”". Trong luận ấy ghi "A la hán", không nói đến bậc Thánh Hữu học, cho nên biết, bậc Thánh Hữu học phải sinh trong Tam giới.

GHI CHÚ:

(24): Sự luân hồi sinh tử trong sáu đường mà chúng sinh trong Tam giới có thân tướng và thọ mạng khác nhau phải chịu.

(25): Bậc thánh thuộc ba quả vị Tu đà hoàn, Tư đà hàm, và A na hàm, vì chưa đoạn hết phiền não, cần phải tiến tu tiếp để chứng quả vị A la hán sạch phiền não, nên gọi là Hữu học.

(26): Tức 5 cõi trời thuộc Tứ thiền, gồm: trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, và trời Sắc Cứu Cánh.

(27): Tức ái dục.

(28): Chủ thể phiền não hiện khởi, trái với tập khí là dạng phiền não do thói quen (huân tập nhiều đời) còn sót lại.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

XÁC ĐỊNH NGƯỜI VÃNG SINH

- Hỏi: Tôi đã biết thể của Tịnh Độ gồm cả Báo độ và Hóa độ, nhưng chưa biết người thuộc giai vị nào mới được vãng sinh?

- Đáp: Theo các kinh và luận, người tu hành, bất kỳ là nam hay nữ, thánh nhân hay phàm phu, cho đến người phạm tội thập ác(29) và ngũ nghịch(30), lúc lâm chung giữ được chính niệm hiện tiền, tâm không loạn, đều được vãng sinh. Theo Quán Kinh, chỉ trừ người phỉ báng Đại thừa không được vãng sinh; còn theo kinh Vô Lượng Thọ, lại trừ cả người phạm tội ngũ nghịch.

- Hỏi: Hai kinh này đều do Phật giảng, nhưng tại sao kinh Vô Lượng Thọ nói trừ hai hạng người, còn Quán Kinh chỉ nói trừ một hạng?

- Đáp: Kinh trước nói hạn chế, kinh sau nói mở rộng, đó là cách thuyết pháp thông thường của chư Phật. Kinh Vô Lượng Thọ được giảng trước, nói kỹ về nhân duyên của tỳ kheo Pháp Tạng và kể về việc vãng sinh. Quán Kinh giảng sau, chỉ luận về việc vãng sinh.

- Hỏi: Như kinh Vô Lượng Thọ ghi: "Những chúng sinh vãng sinh Tịnh độ đều trụ ở Chính định tụ", kinh A Di Đà lại ghi: "Này, Xá Lợi Phất! Những chúng sinh sinh về cõi nước Cực Lạc đều là hàng A bệ bạt trí"(31). Căn cứ vào hai kinh này, từ hàng Thập Trụ trở lên mới được vãng sinh, nhưng tại sao lại nói rằng cho đến người phạm tội thập ác và ngũ nghịch đều được vãng sinh?

- Đáp: Chính định và A bệ bạt trí đều là Bất thoái. Bất thoái là nói chung, không giới hạn ở hàng Thập Trụ, nay theo các kinh và luận giải thích thì có bốn loại: Một là, Niệm bất thoái, từ bậc Bát địa trở lên; hai là, Hạnh bất thoái, từ bậc Sơ địa trở lên; ba là, Vị bất thoái, từ bậc Thập Trụ trở lên; bốn là, Xứ bất thoái, những người ở Tây phương Tịnh Độ. Do đó, kinh Vô Lượng Thọ ghi: "Ở cõi nước ấy không có hạng Tà định và Bất định". Trong bốn mươi tám lời đại nguyện của Phật A Di Đà có ghi: "Nếu sau khi ta thành Phật, trời và người trong cõi nước của ta không trụ trong Chính định tụ cho đến lúc diệt độ, thì ta không giữ quả Chính giác". Bất thoái đã có đến bốn loại, lẽ nào ông chỉ nêu một loại Xứ bất thoái, mà bỏ ba loại kia!

- Hỏi: Luận về Bất thoái, cần căn cứ vào địa vị tu hành, nhưng tại sao nương vào nơi chốn mà được Bất thoái?

- Đáp: Bất thoái về địa vị tu hành là do ở địa vị ấy không còn phiền não trong tâm. Bất thoái về nơi chốn (Xứ bất thoái) bởi ngoài nơi đó không có cảnh giới nào khác. Mỗi loại Bất thoái căn cứ vào một nghĩa, đâu có gì lạ!

- Hỏi: Ba loại Bất thoái đầu đều được các kinh và luận chứng minh, nhưng Xứ bất thoái đã không có văn chứng minh, thì có thể tin được chăng?

- Đáp: Nay tôi dẫn luận Tì Bà Sa để chứng minh. Luận ấy nêu ra sáu chủng tính là thoái, tư, hộ, vị, thăng tiến, và bất động. Như người chủng tính thoái, dù có chứng được quả A la hán, cũng bị lui sụt, thậm chí còn sinh khởi phiền não của giai vị Tu đạo thuộc Tam giới, bởi vì họ có căn tính yếu kém. Người như thế tuy thuộc thể thoái căn, nhưng nếu gặp đủ năm thoái duyên ở trong hàng người Dục giới thì mới bị lui sụt. Nếu người này sinh trong sáu tầng trời Dục giới, hoặc Sắc giới, hoặc Vô sắc giới, không có năm thoái sự, thì không bị lui sụt. Như vậy, do chỗ ở không có thoái sự nên vĩnh viễn không bị lui sụt. Năm thoái sự là bệnh dai dẳng, đi xa, tụng kinh, quản lý công việc, giải hòa sự tranh cãi. Năm việc này chỉ loài người mới có, chư thiên không có. Ba duyên tụng kinh, quản lý công việc, và hoà giải sự tranh cãi tuy là việc thiện, nhưng khiến phải bỏ dở việc thực hành phép quán, cho nên gây lui sụt. Căn cứ vào trường hợp ba duyên này, các duyên khác cũng giống như thế. Như tất cả phàm phu, tuy có niệm Phật, nhưng chưa đến địa vị Thập trụ, vẫn còn ở hàng Ngoại phàm(32), cho nên bản chất đều là người còn lui sụt. Người này nếu ở cõi Ta bà nhơ uế, do còn gặp năm thoái duyên, nên bị lui sụt. Nếu người này sinh về Tây phương thì do không có năm thoái duyên nên không bị lui sụt. Năm thoái duyên là:

(1) Yểu mạng và lắm bệnh.

(2) Có người nữ và sáu trần gây nhiễm ô.

(3) Giao du với người làm ác, tức là gặp ác tri thức.

(4) Có tâm bất thiện và tâm vô ký.

(5) Thường không gặp Phật.

Ở Tịnh độ không có năm thoái duyên này, cho nên chúng sinh ở đấy đều được Bất thoái.

Đây là dẫn lời Phật để chứng minh Xứ bất thoái.

Thêm nữa, căn cứ hai kinh đều ghi rằng người vãng sinh Tịnh Độ đều được Bất thoái, nhưng không ghi rằng người ở giai vị Bất thoái mới được vãng sinh. Do đó, kinh Vô Lượng Thọ ghi: "Người sinh về cõi ấy đều trụ trong Chính định tụ". Tại sao? Vì cõi ấy không có hạng Tà định và Bất định. Kinh A Di Đà (Tiểu bản) ghi: "Chúng sinh sinh về Tịnh Độ đều là bậc Bất thoái", chứ không ghi rằng bậc Bất thoái mới được vãng sinh; cũng như người ở cõi này có đủ ba thọ, nếu sinh về cõi kia thì không có khổ thọ và xả thọ, chỉ có lạc thọ.

- Hỏi: Như Quán Kinh ghi: "Người Thượng phẩm thượng sinh sinh về cõi kia liền ngộ Vô sinh pháp nhẫn". Nên biết đấy chính là Bồ tát Bát địa. Như thế, người Hạ phẩm sinh phải ở bậc Thập trụ trở lên? Bởi nếu là hàng Thập trụ trở xuống thì không những trái với kinh, mà giai vị cũng quá cách biệt.

- Đáp: Không phải như thế. Vô sinh pháp nhẫn cũng có bốn loại:

Một là, nhờ kinh giáo mà chứng được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là tất cả phàm phu và hàng Thập tín, do đọc kinh và luận Đại thừa mà ngộ được vô sinh, tức là bậc Văn tuệ.

Hai là, nhờ phép quán mà chứng được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là bậc Thập trụ trở lên đến Thập hồi hướng, do thực hành phép quán về Tam vô tính(33) mà ngộ lý vô sinh của muôn pháp, tức là bậc Tư tuệ.

Ba là, do chứng lý mà ngộ được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là bậc Bồ tát Sơ địa trở lên, do chứng ngộ Nhị không chân như trùm khắp pháp giới, tức là bậc Tu tuệ.

Bốn là, nương vào giai vị mà chứng được Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là Bồ tát Bát địa trở lên, do chứng được lý Chân đế và Tục đế đồng thời hiện hành, tức là chứng được trí Vô công dụng, tức là bậc Tu tuệ.

Vô sinh pháp nhẫn đã là tên chung của bốn loại, lẽ nào chỉ căn cứ vào một loại mà đề cao cả ba loại còn lại? Như pháp sư Huệ Viễn cho rằng bậc Thượng phẩm thượng sinh là Bồ tát từ Tứ địa đến Bát địa, còn luận Nhiếp Đại Thừa lại cho rằng bậc đó là Bồ tát Tứ địa. Những Bồ tát ấy tùy theo nhân duyên mà thọ Biến dịch sinh tử(34), trong khi Tây phương là cõi còn chịu Phần đoạn sinh tử(35); thế thì, điều gì khiến Bồ tát có Thân biến dịch(36) trở lại mang Thân phần đoạn(37)? Do đó, kinh Quán Thế Âm Thọ Ký ghi: "Phật A Di Đà có tuổi thọ lớn vô lượng, cuối cùng sẽ nhập Niết bàn". Nên biết rằng chúng sinh ở đó tuy tuổi thọ cũng lớn vô lượng, song cuối cùng phải chết, vì kinh A Di Đà (Tiểu bản) ghi: "Chúng sinh ở Tịnh Độ cũng được gọi là A Di Đà". Dựa vào đoạn nói về người vãng sinh Cửu phẩm trong Quán Kinh, các bậc Đại đức từ xưa như pháp sư Huệ Viễn, v.v... xét quả mà phán, thì cho rằng người vãng sinh (Thượng phẩm) có giai vị quá cao. Nay căn cứ vào nhân mà phán, thì giai vị của người vãng sinh (Thượng phẩm) khá thấp, như người phát ba thứ tâm liền được vãng sinh Thượng phẩm thượng sinh. Ba thứ tâm ấy là Chí thành tâm, Thâm tâm, và Hồi hướng phát nguyện tâm. Ba tâm này, theo Luận Khởi Tín chính là ba tâm đầu tiên của Thập trụ; luận này ghi: "Tín thành tựu phát tâm là tâm cuối cùng của Thập tín, lúc này phải phát ba thứ tâm mới vào đựơc giai vị Thập trụ". Ba tâm ấy là:

(1) Trực tâm: Tâm chính niệm về pháp Chân như, tức là Chí thành tâm trong Quán Kinh. Chí thành tâm và Trực tâm có nghĩa như nhau, nhưng khác tên. Kinh Duy Ma Cật nói: "Bước đầu tiên của hai hạnh thuộc đạo tràng Tịnh Độ đều có ba tâm", nghĩa là giống với Quán Kinh.

Xét các kinh luận, đều thấy chỉ nói bước đầu tiên của tất cả các hạnh đều phải phát ba tâm ấy. Vậy, nên biết, ba tâm ấy là khởi đầu của muôn hạnh. Ba tâm ấy đã là khởi đầu của muôn hạnh, thì lẽ nào người được sinh về Thượng phẩm kia liền chứng được Vô sinh, cho đến thuộc hàng Bát địa?

(2) Thâm tâm: Quán Kinh cũng gọi tâm này là Thâm tâm.

(3) Đại bi tâm: Quán Kinh gọi tâm này là Hồi hướng phát nguyện tâm. Nếu không có tâm Đại bi thì không thể phát nguyện hồi hướng, do đó, đây là hai từ đồng nghĩa.

Ba tâm trong Luận Khởi Tín đã là tâm phát khởi cuối cùng của hàng Thập tín, thế thì, rõ ràng người Thượng phẩm thượng sinh ghi trong Quán Kinh chính là bậc Sơ tâm của Thập trụ.

GHI CHÚ:

(29): Mười điều ác gồm có: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế,tà kiến. Mười điều ác này là nghiệp nhân của khổ báo, nên còn gọi là 10 ác nghiệp, hay 10 nghiệp bất thiện.

(30): Năm tội cực ác trái đạo lý. Theo kinh Tăng Nhất A hàm, đó là giết mẹ, giết cha, giết A la hán, làm thân Phật ra máu và phá hòa hợp tăng. Người phạm năm tội này sẽ bị đọa địa ngục Vô gián. Theo Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ 5, năm tội nghịch là giết cha mẹ, giết A la hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng và phỉ báng Đại thừa.

(31): Tức bậc Bất thoái chuyển, chỉ địa vị của người tu hành không còn bị lui sụt cho đến khi thành Phật. Bất thoái vị còn gọi là Bất thoái chuyển địa. Tùy chủ trương của từng tông phái, Bất thoái vị có thể chỉ Nhẫn vị trong Tứ thiện căn của Hữu bộ, hoặc giai vị Kiến đạo đã được Vô sinh pháp nhẫn, hoặc Đệ thất trụ trong Thập trụ, hoặc Bồ tát Sơ địa, hoặc Bồ tát Thất địa.

(32): Chỉ chung các giai vị phàm phu (chưa kiến đạo) trong Phật đạo. Bồ tát thừa cho Phục nhẫn vị của Thập tín là Ngoại phàm.

(33): Phép quán về Tướng vô tính, Sinh vô tính và Thắng nghĩa vô tính.

(34): Sự tiến chuyển thân biến dịch theo hướng diệt dần vô minh, tăng dần sự chứng ngộ cho đến quả vị Phật của A la hán, Bích Chi Phật và Bồ tát đại lực sạch phiền não ở tứ trụ địa.

(35): Sự sinh tử luân hồi của các chúng sinh có thân mạng và quả báo khác nhau trong sáu đường.

(36): Chính báo của A la hán, Bích Chi Phật và Bồ tát đại lực ở Tịnh Độ.

(37): Thân phần đoạn sinh tử phải chịu luân hồi trong sáu đường, chịu các quả báo khác nhau của phàm phu.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

Kinh nói ngộ được Vô sinh pháp nhẫn, đây là do hành quán mà ngộ được Vô sinh pháp nhẫn. Còn pháp sư Huệ Viễn cho rằng Bồ tát Tứ địa là người được Thượng phẩm thượng sinh, thì lẽ nào được đến địa này rồi, không cần trải qua thời gian mà liền ngộ được Vô sinh pháp nhẫn? Vì Bồ tát từ Tứ địa tiến đến Bát địa còn phải trải qua nửa a tăng kỳ kiếp.

Người Thượng phẩm trung sinh ở bậc sơ tâm của Thập tín. Kinh ghi: "Người được Thượng phẩm trung sinh là nhờ tin sâu nhân quả và không phỉ báng pháp Đại thừa". Bởi nếu người ấy chưa đến bậc Thập tín, thì phải thuộc Tà định tụ, tức là người không tin nhân quả và phỉ báng pháp Đại thừa. Hơn nữa, giai vị Thập tín có mười tâm, tâm đầu tiên là Tín tâm.

Kinh nói sinh về cõi ấy trải qua một tiểu kiếp thì ngộ được Vô sinh pháp nhẫn, đây là nhờ hiểu lý mà ngộ được Vô sinh pháp nhẫn. Bởi vì ngày tháng ở cõi ấy dài, nên Kinh ghi: "Một ngày một đêm ở thế giới Cực Lạc bằng một kiếp ở thế giới Ta Bà". Nếu người được Thượng phẩm trung sinh đúng là Bồ tát Sơ địa như pháp sư Huệ Viễn nói, tại sao người ấy trải qua một kiếp ở đó liền đạt được quả Bát địa? Bởi vì từ Sơ địa đến Bát địa phải trải qua một đại a tăng kỳ kiếp.

Người Thượng phẩm hạ sinh là tất cả phàm phu hướng thiện trước Thập tín, nhưng qui y Tam bảo, và thọ giới Bồ tát. Kinh ghi: "Người Thượng phẩm hạ sinh cũng tin nhân quả, không phỉ báng Đại thừa, lại phát tâm Vô thượng đạo", nghĩa là mới phát tâm Bồ đề ở giai vị Thập tín, được vào giai vị Bất định. Người ấy sinh về cõi kia, trải qua ba tiểu kiếp thì được vào Sơ địa, nghĩa là thường lấy kiếp ở cõi kia mà tính, chứ không tính theo kiếp ở cõi này. Như một kiếp ở thế giới Ta Bà bằng một ngày một đêm ở cõi An Lạc. Người Thượng phẩm hạ sinh đã trải qua ba tiểu kiếp, theo lý, được lên Sơ địa. Nếu người ấy, đúng là hàng Thập trụ như pháp sư Huệ Viễn nói, thì tại sao trải qua ba tiểu kiếp liền đến được Sơ địa? Bởi vì thời gian từ Thập trụ đến Sơ địa là a tăng kỳ kiếp thứ nhất.

Ba phẩm nói trên đều là hàng Đại thừa, còn người ở ba bậc Trung phẩm phần nhiều là hàng Tiểu thừa. Người Trung phẩm thượng sinh là hàng bốn phương tiện sau cuối trong địa vị Thất phương tiện của Tiểu thừa(38), nghĩa là ở địa vị Noãn, Đảnh, Nhẫn, và Thế đệ nhất pháp. Kinh ghi: "Người Trung phẩm thượng sinh là người thọ trì năm giới, cho đến không tạo tội ác". Người ấy nhờ được Tứ đạt phần(39) và Vị lai thiền(40), hàng phục được phiền não của cõi Dục, cho nên không khởi các phiền não phá giới và ác nghiệp, bởi vì các phiền não phá giới và ác nghiệp chỉ có ở cõi Dục. Người Trung phẩm thượng sinh sinh về cõi ấy liền chứng quả A la hán, nghĩa là vừa sinh về liền được bốn quả sa môn, tức là người nhập Niết bàn trong đời hiện tại. Như pháp sư Huệ Viễn phán, đó là bậc Thánh Hữu học thuộc ba quả Tu đà hoàn, v.v... Hàng Tiểu thừa đắc quả tuy không có thời gian cố định, nhưng rốt cuộc lại phán định giai vị quá cao.

Người Trung phẩm trung sinh ở hàng Ngũ đình tâm quán(41) trở lên, tức là thuộc hàng ba phương tiện đầu của Thất phương tiện Tiểu thừa. Kinh ghi: "Người Trung phẩm trung sinh là người một ngày một đêm giữ tám trai giới(42), cho đến một ngày một đêm giữ giới Cụ túc(43), oai nghi đầy đủ". Bởi vì người ấy ở địa vị tán tâm, chưa được định, cho nên không có cách đối trị được phiền não phá giới, không thể giữ giới được lâu. Người ấy, ít nhất, phải giữ đầy đủ oai nghi trong một ngày một đêm, sau đó dù có phạm giới nhỏ, cũng được vãng sinh. Người ấy sinh về cõi kia, trải qua nửa kiếp thì chứng quả A la hán. Đây cũng là người nhập Niết bàn trong hiện tại, bởi vì người ấy có tuổi thọ cao. Như pháp sư Huệ Viễn giải thích, đó là hàng Tứ gia hạnh vị như Noãn v.v...; người ở địa vị thứ tư trong Tứ gia hạnh vị này chứng được Vị lai thiền, hàng phục được phiền não thuộc cõi Dục. Tại sao Kinh ghi người ấy trì giới không phạm chỉ được một ngày một đêm? Như vậy, ở đây pháp sư Huệ Viễn cũng phán định quá cao.

Người Trung phẩm hạ sinh là tất cả phàm phu ở trước địa vị Ngũ đình tâm quán của Tiểu thừa, thọ năm giới trở lên. Kinh ghi: "Đó là người hiếu dưỡng cha mẹ, thực hành hạnh nhân từ của thế gian". Người ấy đã chưa thực hành phép quán của hàng nhập đạo, song thực hành được hạnh nhân từ của thế gian; ngoài ra, đều như trên đã nói. Nếu pháp sư Huệ Viễn phán, người ở ba địa vị từ Ngũ đình tâm quán đến Tổng tướng niệm xứ, hoặc được văn tuệ, hoặc được tư tuệ, hoặc tu tuệ, tại sao chỉ thực hành hạnh nhân từ của thế gian, và hiếu dưỡng cha mẹ (như Kinh ghi)? Như thế, pháp sư Huệ Viễn cũng đã phán định quá cao.

Nếu luận về ba bậc Hạ phẩm, nói chung đó là tất cả phàm phu làm ác, chỉ tạo tội Thập ác và Ngũ nghịch, cho đến dùng đồ của Thường trụ tăng mà không biết xấu hổ, dù cho phép họ thọ giới, nhưng vừa thọ xong, họ liền phá giới. Những người như thế, khi lâm chung nếu gặp thiện tri thức chỉ dạy, phát tâm Bồ đề cực mạnh, giữ chính niệm tương tục hiện tiền, liền được vãng sinh. Nếu không gặp thiện tri thức, không thể phát tâm Bồ đề cực mạnh, chắc chắn đọa vào địa ngục. Do đó, Quán Kinh ghi: "Người ấy phải đọa địa ngục trong nhiều kiếp chịu khổ vô cùng". Nhưng lúc báo nghiệp của chúng sinh hết, oan gia, ác nghiệp và các thứ khổ đua nhau kéo đến, nên rất khó thành tựu mười niệm xưng danh hiệu Phật A Di Đà; nếu thành tựu được, chắc chắn được vãng sinh Tịnh độ. Hơn nữa, hai đường thiện và ác sít sao như trở bàn tay, ngửa thì được vãng sinh, sấp thì vào địa ngục. Trong lúc ấy, chỉ cần sức của thiện tri thức, nếu người phá giới thì tâm liền sinh hổ thẹn, sám hối theo kinh Đại thừa, liền diệt được tội, chuyên tâm niệm Phật, và thực hành phép quán, thì đều sinh vào hai bậc trên của Hạ phẩm, chứ không sinh vào bậc hạ của Hạ phẩm. Theo pháp sư Huệ Viễn nói, đó là hàng phàm phu thường tục.

- Hỏi: Cửa cõi Tịnh, phàm và thánh cùng vào. Tôi chưa biết ý câu này chính là chỉ cho ai?

- Đáp: Xét đoạn bà Vi Đề Hi thưa hỏi và Như Lai đáp, ý chỉ nói Phật giảng về Tịnh Độ cho tất cả phàm phu đời vị lai bị giặc phiền não làm hại, và khuyên họ vãng sinh, chứ không nói Bồ tát. Nếu là Bồ tát thì vị đó đã phát tâm, nguyện sinh vào đường ác, không nguyện sinh Tịnh độ. Như Bồ tát Thập trụ trở lên, thường giữ hoặc mà thọ sinh, nguyện sinh vào đường ác để cứu chúng sinh đau khổ, mà không nguyện sinh Tịnh độ. Văn nói về giữ hoặc, như kinh Duy Ma Cật ghi: "Đó là Bồ tát có bệnh, không có chỗ thọ mà thọ các thọ, chưa thông hết Phật pháp, cũng không diệt thọ mà thủ chứng". Đó là văn nói về Bồ tát giữ hoặc(44) mà thọ sinh.

Ngoài ra, Luận Địa Trì và Luận Nhiếp Đại Thừa đều có nói về việc giữ hoặc mà thọ sinh. Tóm lại, bậc Thánh tam thừa và hàng Thất phương tiện Tam thừa(45), cho đến hàng Phương tiện đạo tiền(46), dù nam hay nữ, không căn, hai căn, cho đến tám bộ quỉ và rồng, nhưng phát tâm Bồ Đề, chuyên niệm Phật A Di Đà, chán cõi nhơ ác, ưa thích Tịnh Độ, lúc lâm chung giữ chính niệm hiện tiền, đều được vãng sinh. Nếu là người tinh tấn mạnh mẽ, quán hạnh rõ ràng, tâm cuối cùng lúc lâm chung không loạn, đều được vãng sinh. Cho đến người lúc lâm chung giữ được mười niệm cuối cùng tương tục hiện tiền, đều được vãng sinh. Trong đó, Bồ tát vãng sinh có chín phẩm ba bậc. Hàng Nhị thừa vãng sinh có ba bậc thượng, trung và hạ. Phàm phu vãng sinh cũng có ba bậc thượng, trung, hạ. Các bậc đều có chín phẩm, nhưng trong kinh không thể phân biệt chi tiết, nên luận chung hàng phàm phu Tiểu thừa và Đại thừa có chín phẩm, song thực ra có vô lượng phẩm khác nhau. Xem kỹ bốn mươi tám đại nguyện của Phật A Di Đà và Quán Kinh, chủ ý nói phàm phu là người vãng sinh chính, bậc Thánh là người vãng sinh phụ. Vì phàm phu đọa vào đường ác, nên ở trong Uế Độ không thể tu đạo và phát tâm được. Chỉ những phàm phu phỉ báng Đại thừa không được vãng sinh, vì họ đã đoạn thiện căn. Bậc thánh Nhị thừa Hữu học ngu pháp(47) không vãng sinh được, vì không tin mười phương Tịnh Độ. Bồ tát không phát nguyện cầu vãng sinh cũng không được vãng sinh, vì không có tâm ưa thích Tịnh Độ. Nếu bậc thánh Nhị thừa Vô học, không kể là ngu pháp hay không ngu pháp, cầu hay không cầu vãng sinh, đều được vãng sinh, vì họ không thọ sinh trong các Uế độ thuộc ba cõi. Luận Trí Độ ghi: "Có Tịnh Độ vi diệu vượt ngoài Tam giới, các A la hán sẽ sinh trong đó", mà không nói đến thánh Hữu học.

GHI CHÚ:

(38): Bảy địa vị Kiến đạo của hàng Thanh văn, gồm:

(a) Ngũ đình tâm quán.
(b) Biệt tướng niệm trụ.
(c) Tổng tướng niệm trụ.
(d) Noãn pháp.
(e) Đảnh pháp.
(f) Nhẫn pháp.
(g) Thế đệ nhất.
(39): Tức là Tứ gia hạnh, gồm Noãn, Đảnh, Nhẫn, và Thế đệ nhất pháp.

(40): Thiền chứng được ở địa vị Thế đệ nhất pháp trong Tứ gia hạnh. Loại Thiền này hàng phục được phiền não ở cõi Dục.

(41): Năm pháp quán để dứt trừ phiền não mê hoặc, gồm Bất tịnh quán, Từ bi quán, Duyên khởi quán, Giới phân biệt quán và Sổ tức quán.

(42): Tức Bát quan trai giới, gồm năm giới tại gia và ba giới: Không trang sức hương hoa; không xem nghe ca múa; không ăn phi thời. Trong đó, bảy giới đầu đúng là giới, giới cuối là trai pháp.

(43): Tức giới Tỳ kheo.

(44): Vì tâm nguyện từ bi nên Bồ tát không trừ sạch phiền não, mà giữ lại để thụ sinh vào đường ác cứu độ chúng sinh.

(45): Hạnh vị thuộc địa vị Kiến đạo của Bồ tát, tức bảy giai vị Hiền.

(46): Giai vị trước khi vào Phương tiện đạo.

(47): Kiến chấp về pháp.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

CHƯƠNG III.
XÁC ĐỊNH NHÂN VÃNG SINH

- Hỏi: Tôi đã biết phàm và thánh đều được vãng sinh, nhưng chưa biết những người này tu hạnh nghiệp gì mà được vãng sinh?

- Đáp: Dựa theo các kinh luận, xin nêu ra đây hai nhân, và trình bày theo hai phần:

1. Dẫn kinh luận để trình bày đầy đủ các nhân ấy.
2. Bỏ bớt lời lẽ rườm rà, để trình bày gọn về các nhân.

1 DẪN KINH LUẬN:

Như kinh Vô Lượng Thọ ghi:

"Có ba bậc người sinh về cõi nước ấy. Bậc sinh Thượng phẩm có ba nhân là: phát tâm Bồ đề, xuất gia, và chuyên tâm niệm danh hiệu Phật. Đồng thời, người ấy phải tu thêm các phước nghiệp khác, hồi hướng và phát nguyện thì được vãng sinh".

Như thế, xét ra, kinh này có ý nói ba bậc sinh Thượng phẩm chỉ là người xuất gia.

Người sinh Trung phẩm cũng có ba nhân là: phát tâm Bồ đề, chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, và giữ gìn trai giới. Đồng thời, người ấy còn phải dựng chùa, tạo tượng, cúng dường thức ăn uống cho tăng chúng, đốt hương, rải hoa, thắp đèn, treo phan cúng dường chư Phật và các việc khác như ở trên đã nói. Như vậy, người này chỉ là người tại gia. Kinh ghi: "Tuy không xuất gia để tu hành làm sa môn...".

Người sinh Hạ phẩm cũng có ba nhân là: phát tâm Bồ đề, chuyên tâm niệm danh hiệu Phật cho đến mười niệm, nghe giáo nghĩa sâu xa, tin ưa mà không nghi ngờ. Theo ý kinh Vô Lượng Thọ, điều này chung cho cả người xuất gia và tại gia.

Kinh Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác ghi:

- Có ba bậc muốn sinh về cõi báu Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng. Người bậc thượng là người bỏ vợ con, đoạn ái dục, làm sa môn, không quan hệ với người nữ, thực hành sáu Ba la mật, giữ trai giới thanh tịnh, dốc lòng tu không gián đoạn, trong mộng thấy Phật thì được vãng sinh. Người bậc trung là người trì kinh, thọ giới, cúng dường thức ăn uống cho sa môn, tu tập tâm từ, không giận hờn, treo phan và dâng hoa cúng dường, trong một ngày một đêm không gián đoạn, thì vãng sinh cõi ấy. Người bậc hạ là người đang đoạn ái dục, tu tập tâm từ, không giận hờn, giữ gìn trai giới thanh tịnh, nhất tâm niệm Phật trong mười ngày mười đêm không gián đoạn, thì được vãng sinh.

(Những điều này đều được trình bày trong kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác và kinh Vô Lượng Thọ).

Kinh A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương ghi:

- Nếu có người thọ trì danh hiệu Phật A Di Đà với tâm bền chặt, luôn nhớ nghĩ không quên, mười ngày mười đêm không tán loạn, siêng năng tu tập Niệm Phật Tam muội, biết được đức Như Lai kia thường trụ ở thế giới An Lạc, liên tục nhớ tưởng Ngài, không gián đoạn, thọ trì, đọc tụng kinh Cổ Âm Thanh Vương này suốt ngày đêm, sáu thời chuyên tâm tu tập, năm vóc gieo sát đất kính lễ đức Phật kia, niệm niệm không dứt, trong vòng mười ngày chắc chắn thấy được đức Phật kia; chỉ trừ người bị tội chướng nặng.

Quán Kinh ghi: "Một là, phải tu ba phúc nghiệp thanh tịnh, hai là, phải thực hiện mười sáu phép quán...". Đây là nhân hạnh được nói trong Quán Kinh, vì quá rộng, không thể dẫn đầy đủ ở đây, nên chỉ nêu tổng quát thôi.

Kinh A Di Đà (Tiểu bản) ghi:

- Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe nói Phật A Di Đà, liền nhớ lấy danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, cho đến bảy ngày, niệm Phật A Di Đà, nhất tâm không loạn, thì người ấy lúc lâm chung, Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ở trước mặt người ấy. Khi người ấy qua đời, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh.

Kinh Đại Tập ghi: Phật bảo ngài Hiền Hộ:

- Tại sao gọi là Hiện tiền tam muội? Nếu có tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di giữ giới thanh tịnh, ở một mình chỗ vắng vẻ, tuỳ phương diện mà được nghe nói về Đức Phật A Di Đà ở Tây phương. Nghe rồi, người ấy nghĩ như vầy: "Như điều ta được nghe, Phật A Di Đà hiện đang ở Tây phương, thuyết pháp cho các Bồ tát". Người ấy y theo những điều được nghe, buộc niệm tư duy, quán sát không ngừng, một cách rõ ràng, cuối cùng được thấy đức Phật kia. Ví dụ như một người nam hoặc nữ, ở trong mộng thấy các việc, nào là vàng, bạc, đồ quí báu, v.v...; những cảnh người ấy thấy trong mộng, có khi nghịch, có khi thuận, hoặc vui, hoặc buồn. Khi tỉnh dậy rồi, kể lại đầy đủ cho người khác nghe, nhớ lại cảnh buồn vui trong mộng, người ấy liền thấy buồn vui theo. Cũng như thế, Hiền Hộ! Người thiện nam, thiện nữ kia nghĩ tưởng đến Phật A Di Đà kia tướng hảo như vậy, oai nghi như vậy, Thánh chúng như vậy, thuyết pháp như vậy... Nhờ buộc niệm tư duy, hoặc một ngày, hoặc một đêm, nhớ đầy đủ, nên người ấy chắc chắn thấy được Phật A Di Đà. Nếu ban ngày không thấy được, thì trong giấc ngủ ban đêm chắc chắn người ấy sẽ thấy Phật A Di Đà hiện đến.

(Đây là kinh Bồ tát Hiền Hộ thuộc kinh Đại Tập – Kinh này dạy mọi người quán tưởng Phật thì chắc chắn được thấy Phật).

Luận Vãng Sinh ghi: "Tu tập năm niệm thì sẽ được vãng sinh. Năm niệm là gì? Đó là lễ bái, tán thán, phát nguyện, quán sát, và hồi hướng".

Luận Đại Thừa Khởi Tín ghi:

- Hơn nữa, chúng sinh lúc mới học pháp này, tâm yếu đuối, lo sợ khó thành tựu được tín tâm, ý muốn lui sụt. Đức Như Lai có phương tiện ưu việt giữ gìn tín tâm cho người tu hành. Đó là dùng nhân duyên tín tâm niệm Phật, tùy nguyện được vãng sinh cõi Phật kia. Kinh ghi: "Nếu người chuyên niệm Phật A Di Đà ở Tây phương, hồi hướng thiện căn đã tạo, nguyện cầu sinh về thế giới kia, liền được vãng sinh".

(Đây là luận Đại Thừa Khởi Tín do Bồ tát Mã Minh soạn, dạy người niệm Phật, phát nguyện và hồi hướng thì được vãng sinh).

Luận Đại Thừa Thập Trụ Tỳ Bà Sa, do Bồ tát Long Thọ soạn, dạy người lễ lạy và xưng tán Phật A Di Đà thì được vãng sinh. (Văn lễ tán này sẽ nói đầy đủ ở phần V. Dẫn Chứng Kinh Luận. Ở đây chỉ dẫn chứng vài đoạn kinh luận nói về ý của môn đầu tiên).

2. VẮN TẮT VỀ NHÂN VÃNG SINH

- Hỏi: Văn của những kinh luận dẫn ra như trên có nội dung quá rộng, khó tham cứu. Nay xin ngài nói vắn tắt những điều cốt lõi về nhân vãng sinh để các hành giả dễ tu học.

- Đáp: Đúng thế! Những kinh luận được dẫn ra như trên đều là giáo nghĩa đối cơ, nên khó tham cứu. Nay, để đơn giản, tôi bỏ bớt văn từ rườm rà, chỉ trình bày gọn về nhân vãng sinh. Có hai loại nhân là nhân chung và nhân riêng.

(1) Nhân chung:

Như trong kinh Vô Lượng Thọ, ba bậc người vãng sinh đều phải phát tâm Bồ đề, và trong Quán Kinh, người ấy còn phải tu đủ ba phúc nghiệp thanh tịnh thì mới được vãng sinh. Những nhân như thế đều là nhân chung. Nhân chung có hai loại là Cảm ứng chung với mười phương Tịnh độ, và Cảm ứng chung với ba đời Tịnh độ.

Do đó, Quán Kinh nói: Ba loại phúc nghiệp này là chính nhân Tịnh nghiệp của chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, và vị lai.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

(2) Nhân riêng:

Có vô số, nhưng quan trọng chỉ có hai, là Sở cầu và Năng cầu.

a. Sở cầu:

Cũng có hai thứ. Một là, phải nêu riêng một phương để hướng tâm về. Như nêu riêng thế giới Cực Lạc ở Tây phương và cầu vãng sinh về đó, tức là nêu Khí thế gian thanh tịnh. Hai là, niệm riêng một Đức Phật, tôn Ngài là thầy, mình xin làm đệ tử, gần gũi thờ phụng, cúng dường, tức là Chúng sinh thế gian thanh tịnh.

b. Năng cầu:

Đúng ra nhân này có sáu thứ: Phải niệm riêng danh hiệu Phật A Di Đà, phải lễ lạy, phải ca ngợi, phải phát nguyện, phải quán sát, và phải hồi hướng.

(a) Niệm Phật:

Có hai cách là tâm niệm và khẩu niệm.

* Tâm niệm: Có hai trường hợp:

- Niệm sắc thân Phật: Nghĩa là niệm sắc thân Phật A Di Đà có tám mươi bốn ngàn tướng quí, mỗi tướng có tám mươi bốn ngàn vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp có tám mươi bốn ngàn tia sáng.

- Niệm trí thân Phật: Nghĩa là niệm Phật A Di Đà có ngũ phần pháp thân, đại từ, đại bi, Thập lực(48), Tứ vô úy(49), v.v...

* Khẩu niệm: Nếu tâm yếu thì phải nhờ miệng giúp, dùng miệng dẫn tâm, khiến cho tâm không tán loạn. Như Kinh nói: Nếu người niệm Phật A Di Đà được trăm vạn biến trở lên, chắc chắn được vãng sinh thế giới Cực Lạc. Từ kinh này, Thiền sư Đạo Xước nghiệm ra được rằng nếu có thể chuyên tâm niệm Phật trong bảy ngày thì niệm được một trăm vạn biến. Vì thế, đa số các kinh đều nói niệm Phật bảy ngày thì được vãng sinh.

(b) Lễ lạy:

Phải quay mặt về hướng Tây, quán tưởng Phật A Di Đà như ở truớc mắt mình, cung kính dâng hương, hoa, miệng xưng niệm danh hiệu Phật, năm vóc sát đất, dập đầu ba lần, nguyện sinh về cõi kia. Nên tụng bài Thập Nhị Lễ của ngài Long Thọ do Tam Tạng Thiền Na dịch ra chữ Hán:

Đảnh lễ Phật A Di Đà
Bậc Đại Tiên, Lưỡng Túc Tôn(50)
Được trời và người cung kính
Ở nước An Lạc vi diệu
Vô lượng đệ tử vây quanh.

(c) Ca ngợi:

Phải ca ngợi riêng Phật A Di Đà, hoặc thân, hoặc tâm, hoặc y báo, hoặc chính báo của Ngài. Đứng, hoặc ngồi nhìn thẳng hướng Tây, quán tưởng như Phật A Di Đà và cảnh Tây phương ở trước mắt, tâm ca ngợi, nguyện sinh về Tịnh Độ ấy. Nên tụng bài kệ của Bồ tát Long Thọ ở trong luận Đại Thừa Thập Trụ Tỳ Bà Sa và bài văn tán trong luận Vãng Sinh.

(d) Phát nguyện:

Phải phát nguyện chỉ cầu vãng sinh cõi Cực Lạc. Có thể nguyện chính mình vãng sinh, hoặc nguyện chúng sinh vãng sinh, hoặc nguyện Phật Thích Ca đưa tiễn, hoặc nguyện Phật A Di Đà đến đón, hoặc nguyện thường dạo chơi Tịnh độ, hoặc nguyện mãi mãi lìa bỏ thân thai sinh, hoặc nguyện lâm chung được an ổn, hoặc nguyện được chính niệm hiện tiền. Những nguyện như thế đều phát khởi tùy tâm, như luận Bảo Tính ghi:

Nương những công đức này,
Nguyện lúc con qua đời,
Được thấy Phật A Di Đà,
Thân vô biên công đức.
Con và người tín tâm,
Được thấy Phật ấy rồi,
Nguyện được Ly cấu nhãn(51),
Chứng Vô thượng Bồ đề.

(e) Quán sát:

Phải nêu riêng các việc thuộc y báo và chính báo của cõi Tây phương để quán sát. Như trong mười sáu phép quán của Quán Kinh, bảy phép quán đầu là quán y báo, chín phép quán sau là quán chính báo. Lại, như trong luận Vãng Sinh, y báo có mười bảy việc trang nghiêm, còn trong chính báo, Phật có tám việc trang nghiêm, Bồ tát cũng có bốn việc trang nghiêm. Đối với những thứ ấy, thực hiện quán sát từng thứ một, thành tựu được bất kỳ một phép quán nào, cũng chắc chắn được vãng sinh.

(f) Hồi hướng:

Có hai điều, một là, đem công đức của mình hồi hướng cho chúng sinh cùng được sinh về Tịnh Độ; hai là, đem tất cả công đức của mình từ vô thỉ đến nay, và tất cả công đức trong đời này, dù nhiều hay ít, dù là phúc hay trí, nguyện hồi hướng, để cầu sinh về Cực Lạc.

- Hỏi: Hai thứ nhân chung và riêng vừa nói như trên, khó tu tập được đầy đủ. Hàng phàm phu trí cạn sức mỏng, e rằng trong lòng nảy sinh ý nghĩ mình chẳng có phần. Nay, xin Ngài tóm lại mà nói đại khái về những điều cốt lõi.

- Đáp: Hai thứ nhân chung và riêng, tôi vừa trình bày ở trên, có đủ ở người thượng căn. Người trung căn và hạ căn chỉ cần có năm việc:

1. Phải sám hối những nghiệp ác làm chướng đạo từ vô thỉ đến nay, vì sợ chúng gây trở ngại cho hạnh Tịnh độ, như những việc được nói trong kinh Phương Đẳng, và kinh Phật Danh.

2. Phải phát tâm Bồ đề. Nếu không phát tâm Bồ đề thì chỉ là tự tránh khổ mà tìm vui, e rằng sẽ không được vãng sinh. Tâm Bồ đề, nói vắn tắt, có ba thứ: Một là, tâm đoạn trừ tất cả điều ác; hai là, tâm tu tập tất cả việc lành; ba là, tâm hóa độ tất cả chúng sinh. (Theo kinh Vô Lượng Thọ, ba bậc vãng sinh đều phải phát tâm Bồ đề).

3. Phải chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Phải lập riêng một đạo tràng, đốt hương, rải hoa, treo phan, thắp đèn... Thỉnh một pho tượng Phật A Di Đà, tôn trí trong đạo tràng. Mặt tượng nhìn về phía đông, người tu nhìn về phía tây, hướng đến tượng. Có thể tu bảy ngày kinh A Di Đà (Tiểu bản), hoặc mười ngày kinh Cổ Âm Thanh Vương và kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, giảm bớt ngủ nghỉ, dẹp bỏ tán loạn. Chỉ trừ lúc đi đại, tiểu tiện, và ăn uống, thời gian còn lại phải chuyên tâm niệm Phật. Nếu buồn ngủ thì đứng dậy niệm. Không cần phải lễ lạy hoặc nhiễu quanh Phật, nhưng chỉ cần niệm Phật cho đủ bảy ngày. Sau đó, ra khỏi đạo tràng, song vẫn niệm Phật trong mọi lúc đi, đứng, nằm, ngồi, hoặc rảnh rỗi. Thường xuyên niệm danh hiệu Phật có ba điều lợi ích: Một là, do thường niệm nên các ý nghĩ xấu hoàn toàn không sinh, lại còn tiêu trừ được nghiệp chướng; hai là, do thường niệm nên căn lành phát triển, lại còn gieo trồng được nhân duyên thấy Phật; ba là, do thường niệm nên huân tập được sự bén nhạy và thành thục, đến lúc lâm chung sẽ được chính niệm hiện tiền.

4. Phải quán sát toàn cảnh (tổng tướng) thế giới Cực Lạc: Đất như vậy, ao như vậy, lầu gác như vậy, rừng cây như vậy; Phật A Di Đà ngồi trên tòa hoa sen như vậy, tướng hảo như vậy, đệ tử như vậy, thuyết pháp như vậy. (Đây là lời Phật dạy chúng sinh trong kinh Hiền Hộ thuộc kinh Đại Tập). Thực hiện phép quán toàn cảnh (quán Tổng tướng) như vậy, chắc chắn được vãng sinh, bởi vì Tam giới chỉ do tâm biến hiện.

5. Công đức tạo được, dù trong đời quá khứ hay hiện tại, đều phải nguyện hồi hướng để cầu sinh về nước An Lạc.

Nếu tu tập đầy đủ năm hạnh kể trên, chắc chắn được vãng sinh. Mong các vị chớ nghi! Bởi vì kinh Pháp Hoa ghi: Nay ta bảo đảm với các ông việc này hoàn toàn không giả dối. Tôi cũng như vậy, thề bảo đảm việc này hoàn toàn không giả dối.

GHI CHÚ

(48) Mười trí lực của Như Lai, cũng gọi là thập thần lực, gồm:

1. Xứ phi xứ trí lực.
2. Nghiệp dị thục trí lực.
3. Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực.
4. Căn thượng hạ trí lực.
5. Chủng chủng thắng giải trí lực.
6. Chủng chủng giới trí lực.
7. Biến thú hành trí lực.
8. Túc trụ tùy hành trí lực.
9. Sinh tử trí lực.
10. Lậu tận trí lực.

(49) Tức Tứ vô sở úy: Là bốn sự tự tin, an ổn, không sợ hãi và dũng mãnh khi thuyết pháp. Tứ vô úy của Như Lai gồm:

1. Chư pháp hiện đẳng giác vô úy.
2. Nhất thiết lậu tận trí vô úy.
3. Chướng pháp bất hư quyết định thụ kí vô úy.
4. Vị chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tính vô úy.
Ngoài ra, còn có Tứ vô úy của Bồ tát.

(50) Một trong nhiều danh hiệu của Phật, nghĩa là bậc tôn quí có đầy đủ phúc và trí.

(51) Tức pháp nhãn thanh tịnh nhờ lìa phiền não, cấu nhiễm, chứng được Thánh đạo.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

QUYỂN TRUNG
CHƯƠNG IV
LÝ LUẬN

1. LÝ LẼ CỦA VIỆC VÃNG SINH TỊNH ĐỘ

- Hỏi: Nghiệp và hạnh rối rắm, phàm phu chẳng biết được đầu mối. Khổ và vui khác biệt, Nhị thừa không hiểu rõ cội nguồn. Đối với người tại thế, nghiệp chia sáu nẻo; đối với hàng xuất thế, đạo phân ba thừa. Theo lý, muôn pháp đều cùng một khuôn thước, nhưng xét về giáo, có lời dạy liễu nghĩa và lời dạy không liễu nghĩa. Nay Tịnh Độ Tây phương được thành tựu là nhờ lời thệ nguyện rộng lớn của tỳ kheo Pháp Tạng; nhờ tâm Đại từ đại bi, Ngài bước lên ngôi Pháp vương. Thế giới ấy óng ánh hàng ngàn thứ báu, đức Phật ấy hiển bày cả vạn tướng quí. Thân và độ ấy, bậc ở Địa dưới(52) chẳng thấy được. Tuy các kinh luận nói là "được vãng sinh", nhưng e rằng đó là ý nói vãng sinh vào lúc khác. Nay dựa vào lý lẽ nào mà nói được vãng sinh ngay? Cả người xuất gia và tại gia đều nghi điều này. Xin ngài cho tôi nghe nghĩa ấy.

- Đáp: Thánh giáo mở bày mênh mông, thực khó xem hết; hạnh nghiệp ràng buộc chằng chịt, đâu thể dò tìm. Nay tôi góp nhặt lời Phật, suy xét các lý lẽ, để thấy được con đường vãng sinh rõ như thấy vật trong lòng bàn tay. (Đoạn sau sẽ dẫn chứng kinh Phật, ở đây chỉ bàn về lý lẽ). Như luận Nhiếp Đại Thừa ghi: "Để chứng minh, phải cần cả Kinh và Luận. Luận trội về lý, Kinh trội về giáo. Giáo phải có lý, lý cần thuận hợp với giáo". Nay hãy xét lý, sau đó sẽ dẫn giáo. Xét về lý, xem trong kinh tạng, thấy có hai giáo thuyết ẩn và hiển, nghĩa là kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa thì hoàn toàn không bị đả phá; kinh không liễu nghĩa, cho đến hội Niết Bàn, đều có dẫn đến nhưng không quyết định đả phá. Chỉ có giáo nghĩa Tịnh Độ không thuộc phạm vi bị đả phá, cho nên biết đó chính là kinh liễu nghĩa. Hơn nữa, Bồ tát soạn luận để giải thích kinh Phật, nếu là kinh không liễu nghĩa thì các ngài đả phá, còn kinh liễu nghĩa thì ca ngợi. Tất cả kinh giảng về Tịnh Độ đều được ca ngợi trong các luận, không bị luận nào đả phá, cho nên, ta biết đó là những kinh liễu nghĩa.

- Hỏi: Theo Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, việc vãng sinh là vào lúc khác, thì đó chẳng phải là đả phá sao?

- Đáp: Luận ấy cho rằng có trường hợp vãng sinh vào lúc khác và có trường hợp vãng sinh không phải vào lúc khác. Nếu chỉ phát nguyện suông thì chính là vãng sinh vào lúc khác. Nếu gồm tu cả hạnh và nguyện thì chẳng phải vãng sinh vào lúc khác. Nếu ngài Thiên Thân cho việc vãng sinh là vào lúc khác, tại sao đoạn văn sau của Nhiếp Đại Thừa Luận Thích ghi: "Đem công đức tạo luận hồi hướng cho chúng sinh, nguyện họ được vãng sinh Tịnh độ". Và tại sao ngài lại soạn luận Vãng Sinh? Vì ngài muốn khuyên người cầu vãng sinh.

Hơn nữa, Phật giảng Quán Kinh là bởi nguyên nhân: Bà Vi Đề Hi sinh ra A Xà Thế, một đứa con phạm tội ngũ nghịch, nên bà chán cõi đời ngũ trược(53), muốn sinh về Cực Lạc, mới cầu thỉnh đức Phật, Ngài liền giảng cho bà nghe ba phúc nghiệp thanh tịnh và mười sáu phép quán. Trong kinh, đức Phật khuyên chúng sinh cầu vãng sinh, ngay cả người phạm tội thập ác và ngũ nghịch cũng đều được vãng sinh. Như thế, người cầu thỉnh pháp Tịnh độ (bà Vi Đề Hi), thân đã ở trong cõi ngũ trược, lại sinh đứa con ngỗ nghịch, mà Phật còn nói bà ta được vãng sinh. Thế nên, có thể biết rõ được lý này: Phàm phu hiện đang ở trong ngũ trược đều được vãng sinh.

- Hỏi: Bà Vi Đề Hi chính là đại Bồ tát, vì chúng sinh mà thị hiện thụ thân người nữ và sinh ra đứa con ngỗ nghịch, chứ đâu phải thực là phàm phu?

- Đáp: Dù thực sự là Bồ tát thị hiện thụ thân nữ để giáo hóa chúng sinh đi nữa, bà ta cũng cần phải đấu thật đức của mình, mà thị hiện giống như phàm phu để giáo hóa đồng loại như năm trăm thị nữ của bà ta, và họ đều được Phật thụ ký sẽ vãng sinh. Tất cả người nữ, và người nam ở đời vị lai, đều là phàm phu, đều được Phật A Di Đà nhiếp độ, cũng đều được vãng sinh. Như các Bồ tát, có vị thị hiện thân ở địa ngục như Tiên nhân Bà Tẩu, v.v... trong kinh Phương Đẳng, để tiếp dẫn chúng sinh ở địa ngục; có vị thị hiện thân súc sinh như ong chúa, ngỗng chúa, kiến chúa, v.v... trong kinh Niết Bàn để dẫn dắt chúng sinh thuộc loài súc sinh; có vị thị hiện phạm tội ngũ nghịch như vua A Xà Thế, Đề Bà Đạt Đa, v.v... để dẫn dắt chúng sinh ngũ nghịch. Đó đều là người hóa độ là giả, và người được hóa độ là thật. Bà Vi Đề Hi đã thị hiện thân phàm phu ở trong cảnh ngũ trược để dẫn dắt phàm phu ở trong cảnh ngũ trược vãng sinh Cực Lạc. Cho nên Quán Kinh ghi: "Phật bảo bà Vi Đề Hi: Bà là phàm phu chưa được thiên nhãn nên không nhìn thấy xa được. Như Lai có phương tiện khác khiến cho bà thấy được xa". Hơn nữa, tỳ kheo Pháp Tạng lập bốn mươi tám đại nguyện, trước hết vì tất cả phàm phu, rồi sau mới gồm vì cả các Thánh Tam thừa. Do đó, có thể biết, chủ ý của giáo nghĩa Tịnh Độ vốn là vì phàm phu, nhưng cũng gồm vì cả Thánh nhân. Ngoài ra, như hàng Bồ tát Thập trụ trở lên thường giữ lại phiền não để thụ sinh vào đường ác, nguyện cứu chúng sinh đau khổ, mà không sinh về Tịnh Độ, vì nếu tùy ý thụ sinh theo nghiệp lực của mình thì các vị ấy càng không đọa vào đường ác. Thế thì, có thể biết được, phàm phu do còn bị đọa đường ác, nên cần cầu sinh Tịnh Độ; còn hàng Bồ tát Thập trụ trở lên, vì không sợ sinh vào đường ác, nên không nguyện sinh về Tịnh Độ. Cho nên biết, việc lập giáo nghĩa Tịnh độ vốn là vì hàng phàm phu, chẳng phải vì Bồ tát. Hơn nữa, pháp môn Tịnh Độ này được nhiều kinh luận trình bày; nếu pháp môn ấy là giáo thuyết không liễu nghĩa, thì sao chư Phật và Bồ tát giảng dạy ân cần như thế? Ngay cả các đức Phật trong mười phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài để chứng thật những lời Phật Thích Ca Mâu Ni nói và khuyên chúng sinh tu tập. Thế thì, Tịnh Độ đâu phải là giáo thuyết không liễu nghĩa! Ngoài ra, từ xa xưa đến nay, các bậc danh tăng thạc đức và những nho sĩ thông minh ở đời đều tu tập hạnh Tịnh Độ, như pháp sư Huệ Viễn ở Lô Sơn, pháp sư Tăng Duệ, ông Lưu Di Dân, ông Tạ Linh Vận..., cho đến thiền sư Đạo Xước. Những vị ấy khi lâm chung đều cảm được cảnh lạ đài sen rực rỡ ánh sáng, Thánh chúng đến rước. Những việc ấy được ghi trong Biệt truyện. Những bậc Đại đức có trí tuệ ấy đều ưa thích Tịnh Độ. Người học đời sau hãy nên noi theo những bậc tiên đức ấy. Không nên nghi ngờ!

Trở lại câu hỏi trước rằng thế giới ấy óng ánh ngàn châu báu, thân Phật hiển bày muôn tướng quí... Người và cõi ấy (Thân và độ) đều chẳng phải là cảnh mà bậc ở Địa dưới thấy được, nay tôi giải đáp nghĩa ấy: Nếu luận về người và cõi Thật báo, thì đúng như lời đã nói. Nếu luận về Sự Tịnh Độ và Hóa Tịnh Độ, thì lý không phải như thế. Nếu là Báo thân ở Sự độ thì chỉ bậc ở Địa thượng (tức Thập thánh) mới thấy được. Nếu là Ứng thân ở Hóa độ thì bậc ở Địa tiền (tức Tam hiền) có thể thấy được. Nếu tất cả đều chẳng phải là cảnh giới Địa dưới thì Thánh nhân không thể giáo hóa chúng sinh được, và chúng sinh cũng chẳng có phần bước vào hàng Thánh.

Tóm lại, tất cả chúng sinh nếu hội đủ hai yếu tố sau đây thì được vãng sinh:

- Nhân duyên: Tu hành.
- Tăng thượng duyên: Bản nguyện của Phật A Di Đà.

Do đó, luận Khởi Tín ghi:

Có pháp của chư Phật,
Có nhân và có duyên,
Có đầy đủ nhân duyên,
Thì mới được thành tựu.

Đã có lý lẽ như thế, cho nên tất cả chúng sinh tu hành đều được vãng sinh.

GHI CHÚ:

(52) Xem giải thích ở lời đáp câu hỏi 3, trang 84.

(53) Năm thứ cặn đục trong Kiếp giảm. Theo kinh Bi Hoa 5, Pháp Uyển Châu Lâm 98, ngũ trược gồm:

a. Kiếp trược: khi tuổi thọ con người giảm còn ba mươi tuổi thì có nạn đói kém, khi giảm còn hai mươi tuổi thì có nạn bệnh tật, khi giảm còn mười tuổi thì có nạn chiến tranh, tất cả chúng sinh đều bị hại.

b. Kiến trược: chính pháp đã diệt, tà pháp khởi lên, tà kiến tăng mạnh, con người không tu tập pháp lành.

c. Phiền não trược: chúng sinh có nhiều ái dục, tham lam, bỏn xẻn, thích đấu tranh, dua nịnh, dối trá, học theo tà pháp, nên tâm thần não loạn.

d. Chúng sinh trược: chúng sinh thường độc ác, không hiếu kính cha mẹ, người lớn tuổi, không sợ quả báo ác, không tạo công đức, không tu huệ thí, không giữ gìn trai giới.

e. Mạng trược: do ác nghiệp tăng, đời nay tuổi thọ con người giảm dần, hiếm người được trăm tuổi.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

2. PHÂN TÍCH VÀ GIẢI THÍCH NHỮNG ĐIỂM KHÓ HIỂU

- Hỏi: Pháp do chư Phật tùy nghi giảng dạy, nghĩa lý cao xa khó hiểu. Nếu không có Luận giải thích, khó thể thông hiểu được ý nghĩa sâu kín của Kinh. Như luận Thành Thật ghi: "Nhờ Luận nên nghĩa kinh dễ hiểu". Do đó, Bồ tát Vô Trước hiểu sâu tâm ý Phật, suy xét ý nghĩa các kinh, lập bày sơ lược nghĩa Tứ ý(54) và Tứ y(55). Như pháp môn Tịnh Độ được cho là có ý nói vãng sinh vào lúc khác, nhưng nay lại nói chúng sinh tu hành thì được vãng sinh ngay. Vậy nghĩa ấy thế nào?

- Đáp: Như luận kia nói, pháp môn Tịnh Độ nêu ý vãng sinh vào lúc khác, nhưng các kinh khác lại cho không phải vãng sinh vào lúc khác. Đâu được đem cái ý vãng sinh vào lúc khác để gạn hỏi cái ý không phải vãng sinh vào lúc khác?!

- Hỏi: Tại sao luận nói là vãng sinh vào lúc khác, còn các kinh khác nói không phải vãng sinh vào lúc khác?

- Đáp: Luận kia chỉ căn cứ vào người phát nguyện suông, không bàn đến việc tu hành; còn các kinh khác lại luận cả việc tu hành. Nếu trong kinh Phật nói chúng sinh phát nguyện thì được vãng sinh, thì đó đều là ý nói vãng sinh vào lúc khác, những chúng sinh ấy không được vãng sinh ngay. Như kinh A Di Đà (Tiểu bản) ghi: Nếu có người đã phát nguyện, nay đương phát nguyện, sẽ phát nguyện, thì đã sinh, hoặc nay đương sinh, hoặc sẽ sinh về cõi nước ấy. Những người như thế, kinh nói, đều sẽ được vãng sinh vào lúc khác, mà không được vãng sinh ngay. Còn như các kinh Tịnh Độ, hoặc nói về ba phúc nghiệp và mười sáu phép quán, hoặc bảo mọi người phát tâm Bồ đề và niệm Phật bảy ngày, hoặc dạy phát nguyện hồi hướng và mười niệm vãng sinh. Những người thực hành theo những kinh ấy đều được vãng sinh ngay, tức là không phải lúc khác. Vì thế nên, luận kia nói: Do chỉ phát nguyện thôi, nên là ý biệt thời. Đã phát nguyện suông, theo lý, chính là vãng sinh lúc khác.

- Hỏi: Như luận Vãng Sinh nói: "Các loại: người nữ, hàng Nhị thừa và kẻ khuyết tật không vãng sinh được". Tại sao nay lại nói ba loại: Người nữ... cũng được vãng sinh?

- Đáp: Đúng vậy! Ba loại ấy, theo lý, không được vãng sinh. Nếu không phải ba loại ấy thì chắc chắn được vãng sinh. Ba loại ấy là gì? Đó là:

(1) Người nữ: Nếu người nam hoặc người nữ ở cõi này gieo trồng nhân người nữ, chắc chắn sẽ được báo thân nữ. Dù người ấy tu hạnh Tịnh Độ, cũng không được vãng sinh. Vì ở Tịnh Độ không có người nữ. Đây là định nghiệp, không thể thay đổi được, tức là nghiệp chướng.

(2) Kẻ khuyết tật: Nếu người ở cõi này đã trồng nhân đui, điếc, v.v... cũng không được vãng sinh. Vì ở Tịnh Độ, người nào cũng có ba mươi hai tướng đại trượng phu. Đây cũng là nghiệp chướng.

(3) Hàng Nhị thừa: Nếu là bậc Thánh Nhị thừa và hàng Phương tiện đạo Nhị thừa đã trồng định nhân Nhị thừa, không tin rằng có pháp Đại thừa và mười phương Tịnh Độ, thì cũng không được vãng sinh. Vì những người này là hàng Nhị thừa ngu pháp, không tin có chư Phật và Tịnh độ trong mười phương, nên không chịu phát nguyện hồi hướng. Đây là Tiểu thừa kiên cố làm chướng ngại Đại thừa.

Những loại người mà luận ấy nói đến đều là loại người mang định nghiệp(56). Chỉ những người không có ba định nghiệp ấy sẽ được vãng sinh.

- Hỏi: Nếu người ở cõi này có ba thứ định nghiệp thì không được vãng sinh. Nhưng tại sao Quán Kinh nói những người thụ trì năm giới, v.v... thì được vãng sinh? Cho đến người nghe nói về Tứ đế liền chứng ngộ quả La hán, v.v... đâu chẳng phải là định tính Tiểu thừa?!

- Đáp: Đấy là người không ngu pháp, tin có chư Phật và Tịnh Độ trong mười phương, phát nguyện hồi hướng, nên mới được vãng sinh. Nếu đã chứng ngộ quả Thánh rồi, được nghe Phật giảng kinh Pháp Hoa, những người ấy liền hồi tâm hướng về Đại thừa. Đây là lời của luận Trí Độ. Còn luận về bậc Thánh vô học thuộc Nhị thừa, không kể là ngu pháp hay không ngu pháp, đều sinh về Tịnh độ. Vì các vị ấy thụ thân Biến dịch sinh tử, nên không sinh trong Tam giới.

- Hỏi: Ác nghiệp của chúng sinh cũng giống như núi cao. Những ác nghiệp ấy gây chướng ngại hạnh Tịnh Độ, việc thiện nhỏ chẳng thể trừ được chúng, nhưng tại sao Quán Kinh nói xưng danh hiệu Phật mười niệm lúc lâm chung liền được vãng sinh?

- Đáp: Tâm là chủ của nghiệp, là gốc của việc dẫn đi thụ sinh. Tâm lúc lâm chung cũng giống như con mắt, có thể dẫn dắt tất cả các nghiệp. Nếu tâm lúc lâm chung ác thì có thể dẫn dắt tất cả ác nghiệp, khiến sinh trong đường ác. Nếu tâm lúc lâm chung thiện thì có thể dẫn dắt tất cả thiện nghiệp, khiến sinh trong đường thiện. Giống như rồng di chuyển thì mây đi theo, nếu tâm hướng về Tây phương thì nghiệp cũng hướng theo về đấy. Đấy là lời các kinh và luận.

- Hỏi: Như kinh Di Lặc Sở Vấn nói về mười niệm: Chẳng phải niệm phàm phu không xen lẫn niệm kết sử(57). Nay chúng sinh ở cõi này đều có thân phàm phu, phiền não chưa đoạn trừ, tại sao niệm Phật được vãng sinh?

- Đáp: Nếu đúng theo kinh ấy, người không còn kết sử mới được vãng sinh, thì chỉ một mình Phật được vãng sinh, mọi chúng sinh khác đều không được vãng sinh, vì Bồ tát ở tâm sau cùng của Thập địa cũng còn có hai thứ vô minh. Nay tôi xin giải thích:

a. Niệm mà kinh kia nói là niệm phàm phu: Nếu không phát tâm Bồ đề, cầu ra khỏi Tam giới làm Phật, mà chỉ niệm Phật cầu sinh Tây phương, thì chỉ là vì sự tốt đẹp riêng cho một thân mình, mà lánh khổ tìm vui. Đấy là niệm phàm phu, cũng không được vãng sinh. Cho nên ba bậc người vãng sinh trong kinh Vô Lượng Thọ đều phải phát tâm Bồ đề.

b. Không xen lẫn niệm kết sử: Chỉ cần nhất tâm liên tục quán tướng hảo của Phật. Nếu miệng niệm Phật mà tâm duyên Ngũ dục thì đó là xen niệm kết sử. Niệm Phật với tâm thuần tịnh thì trái ngược với kết sử; nếu hay thực hiện như thế thì phù hợp với kinh kia.

GHI CHÚ:

(54): Những lời Phật giảng đều được quyết đoán bởi Tứ bí mật và Tứ ý thú. Tứ ý thú (S: catvāro ‘bhiprāyaḥ) cũng gọi Tứ ý, là ý nghĩa vượt ngoài ngôn từ trong những lời Phật giảng, gồm có:

a. Bình đẳng ý thú.
a. Biệt thời ý thú.
c. Biệt nghĩa ý thú.
d. Chúng sinh ý nhạo ý thú.

(55): Hành tứ y, Pháp tứ y, Nhân tứ y, và Thuyết tứ y; hoặc Y pháp bất y nhân, Y kinh liễu nghĩa không y kinh bất liễu nghĩa, Y nghĩa bất y ngữ, và Y trí bất y thức.

(56) Định nghiệp: Nghiệp nhất định chịu quả báo không thể thay đổi được. (Nhưng theo Pháp Hoa Văn Cú Kí quyển X, nếu chúng sinh có cơ cảm sâu dày với Phật và Bồ tát, khởi niềm tin, thanh tịnh tu hành thì cũng có thể chuyển được định nghiệp).

(57) Kết sử (hay kiết sử): Là tên gọi khác của phiền não. Vì các phiền não trói buộc chúng sinh trong sinh tử, nên gọi là kết; các phiền não cũng sai khiến và gây khổ não cho chúng sinh, nên gọi là sử.

(Còn tiếp)


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LUẬN TỊNH ĐỘ

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

CHƯƠNG V
DẪN CHỨNG KINH LUẬN

Về Kinh, dẫn mười hai bộ là:

- Kinh Vô Lượng Thọ.
- Quán Kinh.
- Kinh A Di Đà (Tiểu bản).
- Kinh Cổ Âm Thanh Vương.
- Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Đức.
- Kinh Phát Giác Tịnh Tâm.
- Kinh Đại Tập.
- Kinh Thập Phương Vãng Sinh.
- Kinh Dược Sư.
- Kinh Bát Chu.
- Kinh A Di Đà (Đại bản).
- Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Giác.

Về Luận, dẫn bảy bộ là:

- Luận Vãng Sinh.
- Luận Khởi Tín.
- Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa.
- Luận Nhất Thiết Kinh Trung Di Đà Kệ.
- Luận Bảo Tính.
- Luận Long Thọ Thập Nhị Lễ.
- Luận Nhiếp Đại Thừa.

- Hỏi: Qua lý lẽ trình bày ở trên, tôi đã biết, do nguyện và hạnh hỗ trợ nhau mà được vãng sinh Tịnh Độ thì không phải là ý vãng sinh vào lúc khác. Nhưng tôi vẫn chưa biết có Kinh hay Luận nào làm chứng cứ?

- Đáp: Nay tôi sẽ dẫn lời kinh và luận để làm chứng cứ.

1. DẪN CHỨNG KINH:

(1) Kinh Vô Lượng Thọ quyển I ghi:

- Nếu tôi thành Phật, trong cõi nước của tôi có các loài địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

- Nếu tôi thành Phật, người và trời trong cõi nước của tôi còn nghe danh từ bất thiện, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

- Nếu tôi thành Phật, trời và người trong cõi nước của tôi sau khi qua đời lại bị đọa ba đường ác, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

- Nếu tôi thành Phật, trời và người trong cõi nước của tôi không ở trong chính định tụ cho đến diệt độ, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

- Nếu tôi thành Phật, trong cõi nước của tôi, trời và người, trừ người có bản nguyện riêng tùy ý có tuổi thọ dài ngắn, không có được tuổi thọ vô hạn lượng, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

- Nếu tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa, muốn sinh vào cõi nước của tôi, cho đến người xưng danh hiệu mười niệm, mà không được vãng sinh, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác. Chỉ trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp (thì không được vãng sinh).

- Nếu tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương phát tâm Bồ đề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện, muốn sinh vào cõi nước của tôi, khi lâm chung, mà không có tôi và Thánh chúng vây quanh hiện trước người ấy, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

- Nếu tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương nghe danh hiệu tôi, liền buộc niệm nhớ nghĩ đến cõi nước của tôi, gieo trồng các gốc công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sinh vào cõi nước của tôi, nhưng không được toại nguyện , thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

- Nếu tôi thành Phật, các loài chúng sinh trong vô lượng không thể nghĩ bàn thế giới chư Phật ở mười phương nghe danh hiệu tôi, mà không chứng được Vô sinh pháp nhẫn, và các pháp tổng trì sâu kín của Bồ tát, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

- Nếu tôi thành Phật, trong vô lượng không thể nghĩ bàn thế giới chư Phật ở mười phương có người nữ nghe danh hiệu tôi, vui mừng tin ưa, phát tâm Bồ đề, chán ghét thân nữ, sau khi qua đời, lại còn làm người nữ, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

- Nếu tôi thành Phật, người và trời trong cõi nước của tôi không được vui sướng bằng vị tỳ kheo hết sạch phiền não, thì tôi không giữ ngôi Chính Giác.

Giải thích: Xét văn bốn mươi tám Đại Nguyện này, có hai lời nguyện đều nói đến trời và người, cho đến người nữ ở mười phương, mà không luận đến hàng Bồ tát từ giai vị Bất thoái trở lên, những lời nguyện khác đều vì Bồ tát. Vì vậy, nên biết, pháp môn Tịnh độ chính yếu vì hạng phàm phu, chỉ phụ thêm hàng Bồ tát.

- Kinh Vô Lượng Thọ quyển II ghi:

- Phật bảo ông A Nan: "Những chúng sinh nào sinh về nước kia đều trụ ở Chính định tụ(58). Vì sao vậy? Vì trong nước của Phật kia không có Tà định tụ và Bất định tụ. Vô số chư Phật trong mười phương cùng khen ngợi Phật Vô Lượng Thọ có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn. Những chúng sinh nghe danh hiệu Phật ấy, khởi lòng tin, vui mừng, ngay đến chỉ một niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sinh vào cõi nước của Phật ấy, liền được vãng sinh, và được Bất thoái chuyển. Chỉ trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch, và phỉ báng chính pháp".

Phật lại bảo ông A Nan: "Trong mười phương thế giới, người và trời chí tâm nguyện sinh vào cõi nước kia có ba bậc. Bậc thượng là người lìa bỏ gia đình, dứt trừ ái dục, trở thành sa môn, phát tâm Bồ đề, một mực chuyên tâm niệm Phật Vô Lượng Thọ, tu tập các công đức, nguyện sinh về nước ấy. Những chúng sinh này đến lúc lâm chung, Phật Vô Lượng Thọ và Thánh chúng hiện ra trước mặt. Họ bèn nương theo đức Phật ấy vãng sinh về cõi nước của Ngài, liền được tự nhiên hóa sinh ở trong hoa sen bảy báu, trụ ở giai vị Bất thoái chuyển, có phúc tuệ đầy đủ, thần thông tự tại. Thế nên, này A Nan! Những chúng sinh nào muốn được thấy Phật Vô Lượng Thọ trong đời này, phải nên phát tâm Vô thượng Bồ đề, tu hành các công đức, nguyện sinh về nước kia".

Phật bảo ông A Nan: "Bậc trung là người và trời trong mười phương thế giới chí tâm phát nguyện sinh về cõi nước kia, tuy chưa thể tu tập hạnh sa môn, thực hành các công đức lớn, nhưng nên phát tâm Vô thượng Bồ đề, một mực chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, tu tập một số hạnh lành, giữ gìn trai giới, dựng tháp, tạo tượng, cúng dường thức ăn cho sa môn, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương, hồi hướng những công đức ấy nguyện sinh về nước kia. Người ấy lúc lâm chung, Phật Vô Lượng Thọ hóa ra thân đầy đủ ánh sáng và tướng hảo như Phật thật, cùng với Thánh chúng hiện đến trước mặt. Người ấy liền theo Phật kia vãng sinh về nước của Ngài, trụ ở ngôi Bất thoái chuyển, công đức và trí tuệ kém hơn người bậc thượng".

Phật lại bảo ông A Nan: "Bậc hạ là người và trời trong mười phương thế giới dốc lòng muốn sinh về cõi nước kia, nếu không thể tạo các công đức, thì nên phát tâm Vô thượng Bồ đề, một mực chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, cho đến được mười niệm (tâm bất loạn), và nguyện sinh về nước kia; hoặc là người nghe được diệu pháp thì vui mừng, tin ưa, không nghi ngờ, ngay đến chỉ niệm Phật kia được một niệm, và chí thành nguyện sinh về cõi nước kia. Người ấy lúc lâm chung mộng thấy đức Phật kia thì cũng được vãng sinh, công đức và trí tuệ kém hơn người bậc trung".

(2) Quán Kinh ghi:

"Bấy giờ, Đức Phật bảo bà Vi Đề Hi:

- Nay bà có biết chăng? Cõi Phật A Di Đà ở cách đây không xa. Bà nên chú tâm quán kỹ cõi ấy thì Tịnh nghiệp sẽ thành tựu. Nay ta giảng rộng về các ví dụ cho bà nghe, đồng thời khiến cho tất cả phàm phu muốn tu Tịnh nghiệp ở đời vị lai đều được sinh về cõi Cực Lạc. Người muốn sinh về cõi nước ấy, nên tu ba phúc nghiệp. Một là, hiếu dưỡng cha mẹ, hầu hạ sư trưởng, rèn luyện tâm từ không giết hại các loài, tu tập mười thiện nghiệp. Hai là, thụ trì Tam qui và đầy đủ các giới, oai nghi không phạm lỗi. Ba là, phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyên người tiến tu. Ba việc như thế gọi là tịnh nghiệp.

Phật dạy tiếp:

- Nay bà biết chăng? Ba tịnh nghiệp này là chính nhân Tịnh nghiệp của chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.

Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hi:

- Người Hạ phẩm hạ sinh gồm chúng sinh tạo các nghiệp bất thiện: ngũ nghịch, thập ác, và đủ các việc bất thiện khác. Người ngu như thế, vì tạo ác nghiệp nên đáng phải đọa vào đường ác trải qua nhiều kiếp chịu khổ không ngừng. Nhưng nếu người ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng mọi cách an ủi, giảng cho nghe diệu pháp, dạy niệm Phật. Nhưng người ấy bị đau khổ bức bách, không rảnh tâm để niệm Phật. Vị thiện tri thức ấy bảo: "Nếu ông không niệm Phật được thì nên xưng danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, chí tâm xưng danh như thế, giữ cho tiếng không dứt, được đủ mười niệm xưng Nam mô A Di Đà Phật". Nhờ xưng danh hiệu Phật nên người ấy trong mỗi niệm tiêu trừ được tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp, đến khi qua đời, được thấy hoa sen vàng to như mặt trời hiện ở trước mặt, trong khoảng một niệm liền được vãng sinh thế giới Cực Lạc. Người ấy ở trong hoa sen, qua đủ mười hai đại kiếp, hoa mới nở. Bấy giờ người ấy được Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí giảng cho nghe đầy đủ thật tướng các pháp, và pháp diệt tội, nghe xong thì vui mừng, liền phát tâm Bồ đề ngay lúc ấy. Đó là người Hạ phẩm hạ sinh. Phép quán tưởng như thế gọi là Hạ bối sinh tưởng, là phép quán thứ mười sáu".

Giải thích: Căn cứ nhân chín phẩm vãng sinh, ba phúc tịnh nghiệp trên được xác định là nhân của chín phẩm. Một người cũng không cần tu đủ cả ba phúc tịnh nghiệp ấy.

(3) Kinh A Di Đà (Tiểu bản) ghi:

- Này Xá Lợi Phất! Chúng sinh nào nghe được phải nên phát nguyện sinh về cõi nước kia. Vì sao? Vì sẽ được tụ họp một nơi với những bậc Thượng thiện(59). Xá Lợi Phất! Không thể nhờ một nhân duyên nhỏ, một chút phúc đức, hoặc căn lành nhỏ mà được sinh về cõi nước kia. Xá Lợi Phất! Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào nghe nói về Phật A Di Đà, liền nhớ nghĩ danh hiệu Phật ấy, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm không loạn, người ấy lúc lâm chung, Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ở trước mặt. Người ấy khi qua đời, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà. Xá Lợi Phất! Ta thấy điều lợi ích như thế, nên nói những lời này. Nếu chúng sinh nào nghe nói những lời này, phải nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy.

Giải thích: Theo kinh này, căn lành chút ít nghĩa là phát nguyện suông, căn lành rộng lớn nghĩa là niệm Phật bảy ngày. Nếu có thể niệm Phật bảy ngày đủ một triệu biến, liền được vãng sinh.

GHI CHÚ:

(58): Về lập trường tu hành thành chính quả, chúng sinh được phân thành ba nhóm (tam tụ, hay tam định tụ, tam tế): Chính định tụ, Tà định tụ và Bất định tụ. Theo luận Thích Ma Ha Diễn I, giai vị dưới Thập tín là Tà tụ, Thập tín là Bất định tụ, trên Thập tín là Chính định tụ.

(59): Tức các bậc Bất thoái chuyển và Bồ tát ở Tịnh Độ.

(Còn tiếp)


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.34 khách