ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

GIANG CÔNG VỌNG
Ông Giang Công Vọng tự Dân Biểu , ngườI Nghiêm Châu. Năm Kiến Trung nhà Tống ông đỗ tiến sĩ , phong chức Tả Tư Gián. Khi ông Thái Trung nhiếp chính, ghét các quan ngôn sự, bèn cho ông qua trấn thủ An Nam.
Ông Vọng cùng vợ là Du Thị hằng ngày ăn chay , thọ bát quan trai, tu niệm Phật tam muội. Ông có soạn bài “ Niệm Phật phương tiện “. DướI đây là lược trích một đoạn: “ Các pháp thế gian và xuất thế gian, muốn tốn ít công mà chóng thành tựu , không gì bằng cột tâm vào một việc. Như xưng niệm A-Di-Đà Phật có phương tiện rất hay : Không cần động đến môi miệng, dùng chót lưỡI động nhè nhệ nơi răng , tâm niệm ứng theo tiếng Phật rành rẽ rõ ràng . Tiếng không lọt ra ngoài, tánh nghe xoay vào trong Tâm ấn nơi lưỡI , lưỡI gợI tâm niệm . Từ nơi nghe mà quán lấy tâm , tâm trở lạI nghe lấy tự tánh. Tiếng Phật, tâm nghe, tự tánh cả ba dung hộI vớI nhau thờI niệm niệm viên thông. Lâu lâu tự thành “Duy tâm thức quán” Nếu là hạng ngườI lợI căn thờI niệm bất sanh, tâm tâm vô sở , các căn vắng bặt, hình thức tiêu trừ , pháp pháp toàn chơn, môn môn tuyệt đốI , bỗng chốc bèn thành “Chơn như thật quán”. Còn hạng ngườI sơ cơ nhứt tâm chuyên niệm Phật hiệu , nhẫn đến lúc lăn xăn công việc cũng giữ chánh niệm không cho gián đoạn , đồng thờI nhiếp cả sáu căn , tịnh niệm nốI luôn, không ngoài tuần tháng quyết tự thành chánh định Kinh nói “ Tự Tâm làm Phật, Tự Tâm là Phật, Tự Tâm thấy Phật chính là đó.
NgườI con trai ông chết, mách mộng vớI ngườI cậu, nhờ thay lờI cầu ông đến chùa Thiên Ninh vì mình mà tụng kinh Bửu Tích để được siêu độ, và nói “ Thấy nơi U Minh có tấm bia vàng đề rằng “ Ông Giang Công Vọng thân lãnh quan tước mà chí mộ xuất trần siêng lo tu hành, tâm không ái nhiễm . Lúc động, lúc tịnh đều không trái Phật pháp . Khi nói, khi nín đều hợp đạo màu. Tên họ thoát ngoài U đồ, chắc chắn sẽ về Tịnh-Độ”.
Ít lâu sau, ông Vọng được lịnh vua triệu về nước. Một hôm ông không bịnh, an nhiên vui vẻ mà từ trần.
Trích : Lạc Ban Văn LoạI
Pháp Kim Thang.



TRẦN QUYỀN
Ông Trần Quyền tự Vinh Trung ngườI Nam Kiếm Châu , triều vua Huy Tông Nhà Tống . Ông ở chức Tả Tư Gián, vì lờI ngay trái tai mà phảI bổ làm quan ở tỉnh ngoài.
Ông Quyền vốn thích kinh Hoa Nghiêm, tự hiệu là Hoa Nghiêm cư sĩ. Khi được gặp Minh Trí Pháp sư , ông hỏI tông chỉ Thiên Thai. Minh Trí Pháp sư đem môn chỉ quán bất tư nghị cảnh, dùng tánh đoạt tu thành vô tác hạnh mà giảng giảI cho ông. Ông liền thâm nhập. Từ đó ông bỏ hẳn văn chương , chuyên tu niệm Phật tam muội. Ông từng viết bài tựa bộ “Tịnh Độ Thập Nghi Luận “ của Trí Giả đạI sư : “ Tâm ngườI vô thường, pháp cũng vô định. Tâm và pháp muôn vàn sai khác chính bởI tạI đây. Tiin đây thờI tin khắp cả, nên Hoa Nghiêm nói thập tín. Nghi đây thờI nghi tất cả. Tổ Trí Giả vì thế mà giảng thập nghi. Ra khỏI lướI nghi mà vào trọn nơi tín, thờI chẳng rờI chỗ này liền đặng cứu cánh. Tịnh-Độ là nơi cứu cánh ấy. Nơi đó có đức Giáo Chủ hiện đương thuyết pháp hiệu Vô-Lượng-Thọ Phật . Đức Phật ấy thuyết pháp chưa từng gián đoạn . Vì nghi làm chướng tai mình nên tự điếc mà không nghe. Vì nghi lấy tam mình nên tự mê mà không hay biết. Vì không nghe, không biết nên chấp cứng thói quen ô trược , rồI vọng cho thác chất hoa sen là dốI bịa, mà trọn không chịu tự xét tấm thân máu thịt hiện tạI đây từ đâu mà có ? từ đâu mà đến?
Tất từ nơi thai ngục. Thai ngục uế trược ấy có chút gì là chơn thật ?Do vì dựa theo nghiệp thức nên tự cách bản chơn, ở trong một huyễn cảnh mà lạI chấp đây, chê kia, đờI đờI say mê, tuyệt hẳn thánh lộ.Vì Thế nên đức Bổn Sư Thích-Ca Như-Lai sanh lòng từ mẫn, đứng giữa cõi uế trược lên tiếng to kêu gọI , tán thán sự thanh tịnh an vui của cõi Tịnh-Độ. Ngài là vị ĐạI-Đạo-Sư ở bến sanh tử dùng pháp thoàn chở chúng sanh qua đến bờ Tịnh-Độ Nhưng bờ thanh tịnh của đức Từ Phụ A-Di-Đà vốn không phân bỉ thử, thuyền chánh pháp của Bổn Sư Thích Ca thiệt chẳng có lạI qua. Ví như lồng đèn tám mặt, một ngọn đèn mà chia chiếu tám phương , mặt kiếng có đông, tây mà ánh sáng thì vẫn một. Đức A-Di-Đà thuyết pháp vốn khắp trong ánh sáng , vì muốn có chỗ chuyên chú nên đức Thích Ca chỉ một mặt Tây. Cho nên ngườI đã được đến bờ Tịnh-Độ mớI có thể bặt dứt bỉ thử, kẻ chưa nhập pháp giớI làm gì quên được đông, tây ! ĐốI vớI pháp môn này nếu là ngườI chưa đạt tớI cứu cánh thờI chớ có sanh lòng nê chấp , cũng đừng phân tách kia đây, chỉ nên chánh niệm tin chắc mà thôi. Đây chính là thâm ý của hai Đức Giáo Chủ, mà cũng là chỗ quyết tin của Tổ Trí Giả vậy. Tín là mẹ của tất cả các pháp lành , nghi là gốc của muôn vàn ác nghiệp. Nếu có thể thuận theo tin, đào gốc nghi , thờI hạng ngườI nghiệp chướng nặng nề trước kia , kẻ điếc liền hết điếc mà được nghe, ngườI mê liền tỏ ngộ mà được biết, chưa ra khỏI sanh tử sẽ được ra khỏI, chưa sanh Tịnh-Độ tất được vãng sanh. Thuận theo lờI đức Bổn Sư mà đến ra mắt đức Từ Phụ rồI thể theo chí nguyên của Từ Phụ mà trở lạI phụ trợ Bổn Sư , không rờI Cực-Lạc mà đến khắp mườI phương, ngồI an trên liên đài mà phân thân pháp giới.
Từ khi hai đức Giáo Chủ lập pháp tớI nay, những nguowifddax được như thế nhiều như số cát sông Hằng , còn gì mà chẳng chịu tin , còn gì mà cứ nghi ngờ? Mình đã tin nên tìm phương chước dẫn dắt mọI ngườI cùng tin, đây chính là bi mẫn của tổ Trí Giả vậy”.
Về sau ông đến cất nhà ở Lô Sơn. Một hôm ông bảo ngườI nhà rằng “ Năm trước mắc nhiều hoạn nạn, tôi chỉ sợ sự chết làm gián đoạn công phu hành đạo.Đến nay thờI vòng sống chết tôi đã được ra khỏI”. Dứt lờI ông Quyền đoan tọa, an vui mà mất , thọ 65 tuổI
Trích ở bộ Đông Đo Sự Lược
Phật Tổ Thống Kỷ
Lý Trung Định Tập.


DAO ƯỚC
Ông Dao Ước ngườI Hồ Châu , thông kinh luận chuyên chí Tây Phương. Giác HảI ĐạI Sư lập thành hộI niệm Phật chính nhờ ông Ước cổ xướng.
Một hôm ông Ước nói vớI ĐạI Sư rằng “ Từ lâu tôi nhàm chán thân sống vô thường này , không còn mấy ngày nữa tôi sẽ về Cực-Lạc. Xin ĐạI Sư trợ niệm cho tôi”. Giác HảI ĐạI Sư liền mỗI ngày cùng ông Ước đồng thanh niệm hồng danh của Phậ. Ít hôm sau ông Ước đoan tọa mà từ trần. Đêm ấy Giác HảI ĐạI Sư mơ thấy ông Ước về mách rằng “ Tôi đã được vãng sanh Tịnh-Độ, đó là nhờ sức trợ niệm của ĐạI Sư”. ĐạI Sư nói “ Tôi muốn cùng đi vớI ông được không? “ Ông Ước đáp “ TuổI thọ của ĐạI Sư chưa mãn , thầy Cảnh Ý ở chùa sẽ được về trước “.
Sư Cảnh Ý là hộI viên của HộI Niệm Phật. Cách tháng sau, sư Cảnh Ý biết giờ trước, vui vẻ niệm Phật mà tịch.
Trích bộ Phật Tổ Thống Kỷ.

(Trang 24)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LÂU MÂN
Ông Lâu Mân ngườI Minh Châu , anh ruột là ông Bửu Châu thường rước chư tăng về nhà để cùng đàm luận. MỗI lúc như vậy, ông Mân ở một bên chăm chỉ lắng nghe. Do đó nên đốI vớI Phật pháp lòng tin mộ của ông ngày càng thêm sâu.
Năm 22 tuổI mang bịnh nặng, ông nguyện quyết về Tịnh-Độ, thưa vớI cha mẹ rằng “ Nếu con được sanh về Cực-Lạc để được thấy Phật, nghe pháp thờI có gì quí bằng”. Liền thỉnh chư tăng đến nhà tụng Quán-Vô-Lượng-Thọ-Phật Kinh. Ông Mân xin dọn bàn, thiết tượng Phật đốI vớI giường bịnh để ông chiêm ngưỡng , rồI ông chăm nhìn tượng Phật mắt không hề rời. Vài giờ sau ông bỗng hiện vẻ vui mừng mà rằng “ Tôi đã được ở Cực-Lạc” RồI ông xây mặt về hướng Tây , xướng hồng danh của Phật mà mất.
Trích bộ Phật Tổ Thống Kỷ.




VƯƠNG NHỰT HƯU
Ông Vương Nhựt Hưu tự Hư Trung, ngườI Lô Châu. Triều vua Cao Tông nhà Tống ông đỗ Tiến Sĩ , không chịu làm quan. Ông học rộng, quán thông cả kinh sử. Dậy truyền nho, đạo lục kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
Được ít lâu một ngày nọ ông bỏ cả thế pháp , chỉ chuyên tu niệm Phật. mặc vảI thô, ăn chay. MỗI ngày lễ Phật một nghìn lạy.
Ông có soạn bộ “Long Thơ Tịnh-Độ”. Trong đó đem pháp môn Tịnh-Độ khuyến dẫn trên từ vua, quan , sĩ đạI phu, dướI đến hàng tôi tớ, ăn mày, hàng thịt. Văn dễ, lờI cạn , rất rõ, rất thiết, như lờI phụ huyng khuyên dạy con e. Đọc đến dễ cảm, dễ hiểu.
MỗI sáng sớm ông lễ Phật, phát nguyện rằng “ Đệ tử Nhựt Hưu, kính vì tất cả chúng sanh trong pháp giớI mà thắp hương đảnh lễ thập phương chư Phật , Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng . Xin cho được thành tựu tất cả thiện nguyện , tế độ tất cả chúng sanh. Đến khi mạng chung liền sanh Cực-Lạc, thấy Phật, nghe pháp, chứng vô sanh nhẫn, ddue lục thần thông rồI trở lạI cõi trược này giáo hóa chúng sanh , lần lần làm cho chốn Diêm Phù Đề này , nhẫn đến cõi Ta-Bà và thập phương vô lượng thế giớI đều thanh tịnh như Cực-Lạc Thế-GiớI”.
Ông lạI nguyện rằng “ Đệ tử Nhựt Hưu kính vì tất cả mọI loài , niệm “Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật “ 108 biến để trồng vô thượng thiện căn , niệm “Nam mô A-Di-Đà Phật” 108 câu để kết vô thượng thiện duyên. Nguyện tất cả mọI loài đều được đượm nhuần ơn đức của Phật. Cùng thương nhau, yêu nhau, chẳng tranh giết lẫn nhau, chẳng lấn hiếp, ăn nuốt lẫn nhau. Đồng tấn tu Phật pháp , đồng thoát ly khổ hảI, đồng siêu sanh Tịnh-Độ”.
Ông lạI nguyện rằng “ Đệ tử Nhựt Hưu túc nghiệp sâu nặng xin vì những chúng sinh bị con giết ngày trước bị con ăn ngày trước nhẫn đến tất cả sanh vật bị giết, bị ăn trong cõi này , mỗI ngày niệm “Nam mô Tây Phương Cực-Lạc Thế GiớI tam thập lục vạn ức nhứt thập nhứt vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh hiệu A-Di-Đà Phật “ 120 biến , ngưỡng mong Như Lai bủa lòng đạI từ bi độ tất cả chúng sanh đồng sanh Cực-Lạc thế giớI”.
Niên hiệu Càn Đạo , tháng giêng năm Quí Tỵ Ông Lý Ngạn Bật ở Lô Lăng cho mấy ngườI con trai đến thọ giáo vớI ông Nhựt Hưu. Mùng 5 tháng 4 năm ấy, ông Bật bệnh nặng . Đêm 19 tháng 4 ông Bật mơ thấy một ngườI tự xưng là Long Thơ cư sĩ đến bảo ông rằng “Dậy ăn cháo trắng sẽ mạnh! Ông có nhớ Khuyết Trọng Mã dậy cho ông con đường tu hành mau tắt đấy không?” Ông Bật đáp “ Có, mỗI ngày tôi vẫn niệm Phật luôn”. Sau khi thức dậy, ông Bật đòi ăn chao trắng. Ăn xong bịnh liền lành.
Ít hôm sau mấy ngườI con ông Bật trở về thuật lạI rằng “Ông Nhựt Hưu đã tạ thế từ tháng trước. Ba ngày trước khi chết , ông ấy đi từ biết khắp tất cả thân hữu nói rằng mình sắp đi xa , khuyên mọI ngườI gắng tinh tiến niện Phật. Đồng thờI ông ấy hẹn ngày đi . Đến kỳ ông ấy vẫn giảng sách cho học trò học, cùng lễ Phật, tụng niệm như thường ngày . Đến canh ba ông bỗng to tiêng niệm ba lần “Nam mo A-Di-Đà Phật” rồI nói lớn rằng “ Phật đã đến rước tôi” dứt lờI ông ấy vẫn đứng ngay thẳng trước bàn Phật , chắp tay mà vãng sanh”. Thuật xong +mấy ngườI con trao lạI bức chân dung của ông Nhựt Hưu . Ông Bật xem chơn dung ấy giống hệt ngườI mà ông đã thấy trong mộng đêm hôm trước. Cảm động, ông Bật bèn khắc tượng ông Hưu và thuật việc mình vớI mọI người. Do đó nên nhiều ngườI ở Lô Lăng kính thờ tượng ông Hưu tạI nhà .
Năm Hàm Hựu, ông Lữ Mông Ích khắc bản bộ “Long Thơ tịnh-Độ” thợ khắc đến thiên “ Chúc Nguyện” trong gỗ có vật cứng chạm lưỡI đục, cậy ra được ba viên ngọc xá lợI . Ông Sư Thuyết bèn ghi việc được xá lơi để ở thiên đầu.
Trích Lạc Ban Văn LoạI
Long Thơ Tịnh Độ

trang 25


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

DIÊM BAN VINH
Ông Diêm Ban Vinh ngườI Thanh Dương . Năm ba muoi tuổI ngoài, gặp một sư tăng khuyên tu Tịnh-Độ trì chú vãng sanh. Ông liền ăn chay trường, mỗI ngày hướng về Tây Phương tụng chú một nghìn biến . Ông dốc xuất cả gia quyến của ông đồng thanh cùng tụng. Tu tập như vậy được hai mươi năm.
Triều Tống năm Thiệu Hy nguyên niên , ngày mùng một tháng giêng ông đọc kinh “ĐạI Niết Bàn” than rằng “ Nhơn sanh như mộng huyễn thôi, ta còn quyến luyến gì nữa”. Ngày mồng một tháng ba có mùi hương lạ ngào ngạt cả nhà, trọn ngày mớI tan . Đêm ấy con trai ông mơ thấy Đức A-Di-Đà Phật phóng quang minh chiếu khắp nhà cửa , nhà cửa đều biến thành màu huỳnh kim. Năm ngày sau , sáng sớm ông Vinh khóa tụng như thường. Tụng niệm xong , ông day lạI bảo quyến thuộc rằng “ Hôm nay tôi đi về , cẩn thận chớ làm rầy”. RồI ông xây mặt về hướng Tây ngồI kiết già, nhắm mắt . Đến cuốI giờ ngọ ông vụt nói “ Tôi đi “. Ông liền dứng dậy đi vài bước, giơ tay két ấn , mỉm chườI đứng yên mà mất.
Trích Lạc Ban Văn LoạI

MAI PHƯỚC
Ông Mai Phước ngườI Tòng Giang , thường ngày trai giớI tụng kinh , chú tâm nơi Tịnh-Độ . Khi lâm chung biết trước ngày giờ , ông chuyên tụng ĐạI-Thế-Chí Bồ-Tát . Đến ngày thứ bảy ông tự tắm rửa, thay y phục rồI đoan tọa mà nói vớI mọI ngườI rằng “ Đức ĐạI-Thế-Chí Bồ-Tát đến rước tôi về Cực-Lạc”. Dứt lờI ngồI yên mà mất.
Trích bộ Phật Tổ Thống Kỷ.


NGÔ KHẮC KỶ
Ông Ngô Khắc Kỷ hiệu KhảI Am cư sĩ , ngụ ở Phủ Giang. Ông bị đau mắt lâu ngày mà không lành , xốn nhức khó chịu. Có ngườI jhuyeen ông trì niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, ông nghe lờI, không bao lâu mắt được lành. Từ đó ông tín hướng Phật pháp.
Một lúc nọ ông đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm đến đoạn “Cả hư không sanh trong tâm như chút mây điểm giữa trờI” , tâm trí ông bỗng mở thông. Kế ông đọc tiếp bộ Tông Cảnh Lục lâu lâu bèn được ngộ nhập. Ông soạn bộ Pháp Hoa Khu Kiện hồI hướng công đức, nguyện sanh Cực-Lạc thế giới. Ông từng nói “Không đọc kinh Pháp Hoa , không do đâu thấu rõ diệu pháp vốn sẵn đủ nơi tâm ta. Còn chẳng sanh Cực-Lạc thờI chẳng chứng được diệu pháp vốn sẵn đủ nơi tâm mình. Đức Như Lai cặn kẽ dậy bảo, Tổ Trí Giả tha thiết hoằng truyền . Lòng từ mẫn của Phật và Tổ cũng đồng một mục đích”.
Năm Càn Đạo ông qua ngụ Tô Châu cùng vớI Thiệt Công ĐạI Sư lập hộI niệm Phật. Ông bảo vớI thợ họa đò thấp pháp giớI và Tây Phương Cửu Phẩm ở hai bên điện. Bức Thập Pháp GiớI để tiêu biểu ý nghĩa “Vạn pháp duy tâm”. Bức Cửu Phẩm để chỉ con đường giảI thoát mau, tắt. Ông Chung Ly Tòng, một hộI Hữu làm lờI ký.
Năm Gia Định thứ bảy, Ông Kỷ tạ thế tạI Bửu Tích Sơn , thọ 75 tuổI . Có lờI trốI nên làm lễ trà tỳ theo pháp của chư tăng.
Trích : Phật Tổ Thống Kỷ
Lac Ban Văn Loại.



VƯƠNG CỬU LIÊN
Ông Vương Cửu Liên ngườI triều Nguyên , siêng tu Tịnh- Nghiệp , y theo kinh mà tập quán tưởng. Nhưng mỗI khi ông mơ thấy Phật đều là hình tượng chứ không phảI Phật thiệt. Ông đem việc ấy hỏI Tịnh Công ĐạI Sư . Tịch Công bảo “ Việc ấy rất dễ, ông còn nhớ dung mạo của thân phụ ông chăng? “ Cửu Liên thưa “ Nhớ”. Tịch Công lạI hỏI “ Lúc ông chiem bao , có thấy thân phụ ông khác vớI lúc còn sống không? “ Cửu Liên thưa “ Không khác”. Tịch Công giảng giảI “ Phật vốn vô tướng, nhơn nơi tâm niệm mà thành tướng . Ông muốn thấy Phật thờI nên tưởng thân phụ ông là Phật A-Di-Đà . tưởng giữa chặng mày thành tướng Bạch Hào , thưởng mặt thành sắc chơn kim , tưởng ông ấy ngồI trên tòa sen báu . Tập như vậy lâu lâu quán tưởng sẽ thành , rồI lần lần thấy thân ông ấy càng ngày càng cao lớn khắp cả hư không thờI là được thấy Phật thiệt”. Ông Cửu Liên y theo lờI của Tịch Công đã chỉ dậy mà tu tập , từ đó về sau mỗI khi mơ thấy cha ông liền tưởng là thấy đức A-Di-Đà Phật. Ít lâu sau cha ông dắt ông ngồI lên tòa sen mà thuyết pháp cho nghe. Cửu Liên nghe pháp, tâm được khai ngộ từ đó công hạnh tu hành của ông càng thêm chuyên cần.
Ông Mã Sanh, một ngườI bạn cũ của cha ông Liên đi xa về, đến thăm ông Liên mà thuật lạI rằng: “Cách tháng trước đây, tôi mang bệnh nặng chết, bị bắt dẫn đến địa ngục. Giữa lúc kinh hoàng, Bỗng có ánh sáng vàng chiếu đến trên mình tôi . Trong ánh sáng hiện ra một ngườI kêu tên tôi .Tôi nhìn kỹ té ra thân phụ của cháu. Ông ấy bảo ngườI đưa tôi về nhờ đó tôi mớI được sống lạI Chẳng biết thân phụ cháu thuở sinh tiền tu hành thế nào mà được đến bực ấy?” Cửu Liên bèn thuật việc mình quán tưởng theo lờI chỉ dạy của Tịch Công. Mã Sanh nghe xong cảm đông lắm liền lập nguyện, bắt đầu từ ngày đó nhứt tâm chuyên tu Tịnh-Nghiệp.
Trích Lang Hoàn Ký.

trang 27


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

MÃ VINH TỔ
Ông Mã Vinh Tổ ngườI Thủy Tú ( Chiết Giang ). Năm 30 tuổI mang bịnh ói ra máu. Năm năm sau bịnh càng thêm nặng, ăn vào liền ụa mửa. Sư Tường Phong là ngườI đồng hương, lúc chưa xuất gia cùng ông Vinh Tổ có quen biết nhau. Năm ấy sư về thăm làng . Vinh Tổ thấy cử chỉ, ngôn ngữ của sư bèn sanh lòng kính mộ , mớI hỏI phương thuốc chữa bịnh. Sư Tường phong bảo “ Bịnh của anh thuốc men không thể chữa lành được. Nếu anh có thể bỏ hết việc đờI chỉ chuyên lòng tưởng Phật , niêm Phật. Lâu ngày công sâu, vô minh dứt lần , bịnh nặng sinh tử từ vô lượng kiếp tớI nay liền đặng giảI thoát , thờI còn có bịnh hoạn gì mà phảI lo sợ nữa?” Ông Vinh Tổ tỉnh ngộ, từ đó trở đi trường trai tu Tịnh-Nghiệp , không bao lâu mà bịnh lành. Trước ngày phát tâm, ông mơ thấy trên hư không hiện vô số chữ “ thọ “ chiếu sáng rực rỡ .Đến khi đọc kinh thấy câu “ Đức A-Di-Đà Phật hiệu là Vô Lượng Thọ Phật, cũng hiệu là Vô Lượng Quang Phật” rất hiệp vớI cảnh chiêm bao. Ông mừng lắm, tự cho là mình có duyên vớI Phật . RồI ông đi thọ tam qui và ngũ giới. Ông định thờI khóa biểu mỗI ngày niệm ba vạn câu Phật hiệu , tụng một biến kinh Di-Đà, một biến kinh Kim Cang, và đoan tọa quán tưởng. Thỉnh thoảng ông mờI các đạo hữu họp nhau ngày đêm niệm danh hiệu Phật.

Tháng giêng năm 48 tuổI , ông từ Tô Châu về nhà , qua tháng sau thờI nằm bịnh. Mùng một tháng ba , ông bảo ngườI nhà rằng “ Tôi từ năm 35 tuổI phát Bồ-Đề tâm chỉ cầu trang nghiêm Tịnh-Độ lợI ích quần sanh. Dầu cho tước công hầu ở đờI cũng xem như dép rách . Hiện nay dầu bịnh khổ nơi thân , nhưng trong tâm vẫn an vui không chút xao động . Ngõ hầu lúc lâm chung, chánh niệm vãng sanh Tây Phương Cực-Lạc thế giớI”. Có ngườI hỏI “ Gia nghiệp không được dư giả, ông đi những ngườI ở lạI mớI làm sao?” Ông đáp “ mỗI ngườI tự có phần nấy chẳng phảI chỗ tôi lo đến được”. Chiều ngày 18 ông nói “Sáng mai cần phảI đạI sám hốI “ Sáng sớm ông gượng bịnh, thay áo lễ Phật, rồI đoan tọa day mặt về hướng Tây tụng hiệu Phật hai trăm câu, và bài văn phát nguyện của Tổ Vân Thê
Khể thủ Tây Phương An-Lạc Quốc
Thiết vi u ám tất dao văn
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông
Nhất thiết chúng sinh thành chính giác
Tàn một cây nhang mớI đi nghỉ . Ngày 21 ông nói “ Đức Phật và hai vị ĐạI Sĩ đến thuyết pháp cho tôi nghe. Tôi luôn được ở trong quang minh của Phật”. Ngày 22 ông nói “ Quan-Thế-Âm Bồ-Tát đem tịnh thủy tắm cho tôi , rửa sạch hoặc nghiệp của tôi. Thân tâm tôi bây giờ mát mẻ lắm, vui thích không thể tả được”. Chiều lạI có ngườI bạn thân là ông Trần Hồng Điều đến hỏI thăm “ Anh có niệm Phật không?” ông đáp “ có” ông Điều bảo “ Chẳng nên trước tướng”. Ông đáp “ Tức tâm tức Phật. Nào có trước tướng”. RồI ông nằm nghiêng qua bên hữu liền tiếng niệm “Nam mô A-Di-Đà Phật” mà qua đời. Bấy giờ nhằm năm Càn Long thứ 56 ngày 29 tháng 3.

Lúc đó Thường Phong hòa thuợng đương kết thất ở Văn
Tinh Các ( Tô Châu) , tu niệm Phật tam muội. Mùa đông năm ấy , một đêm nọ ngài mơ thấy có ba ngườI dung nghi cao lớn, oai nghiêm, đầu có vầng sáng tròn đồng đi thẳng vào thất ngồI ngay thẳng, day mặt về hướng nam. Ngài Tường Phong làm lễ xong thưa rằng “ Ba vị ĐạI Đức ở đâu quang lâm đến tệ xá?” NgườI ngồI giữa đáp “ Chúng tôi từ Tây Phương đến”. Ngài thưa “ Có phảI là ngườI trong nước Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà chăng?” dấp “ phảI đấy”. Ngài hỏI “ Dám hỏI quí vị ĐạI Đức quí danh là chi?” Ba ngườI đồng thanh hỏI lạI “ Ông tên chi?” Ngài Tường Phong thưa “ Đệ tử pháp danh là Đạt Văn”. NgườI ngồI giữa nói “ Ông vọng ngữ rồI” Ngài thưa “ Đệ tử thưa thiệt chớ chẳng phảI nói dốI”. NgườI ngồI giữa hỏI “ Ông tên chi?” Ngài thưa “ Đệ tử pháp danh Đạt Văn”. NgườI ngồI giữa nói “ LạI vọng ngữ nữa”. Ngài thưa “ Chẳng phảI đệ tử nói dốI, cớ sao ĐạI Đức lạI cho là đệ tử vọng ngữ?”. NgườI ngồI giữa bảo “ Tất cả chúng sanh cho vọng là chơn , chấp giả làm thiệt , vì thế phảI bị luân hồI sinh tử. Nếu là ngườI có trí, thấu rõ là vọng, là giả liền không sanh tử. Ông chớ có mê mờ mà quên mất chơn tâm của ông PhảI biết rằng chơn tâm không tâm, chơn tri không tri. Giác tri là ma. Nơi Phật vốn không tri giác . Ông phảI tin lấy chớ có nghi ngờ”. Vừa nghe xong , ngài Tường Phong liền tỏ ngộ, tâm trí rỗng suốt, thấu bổn chơn tâm. Ngài bèn thưa “ LờI dạy của ĐạI Đức chính là Phật pháp bất khả tư nghị. Dám thưa ĐạI Đức , ĐạI Đức đã từ nước Cực Lạc đến đây chẳng biết có từng thấy đức A-Di-Đà Phật chăng?” NgườI ngồI bên tả nói “ Ông phảI tự mình thấy Phật mớI được”.



Ba ngườI đứng dậy . MỗI ngườI vỗ trên đầu ngài Tường Phong một cái mà nói kệ rằng :

NgườI thứ 1: PhảI gắng siêng tinh tiến
Tu các nghiệp thanh tịnh
Nhơn chắc thờI quả thiệt
Chớ ôm lòng nghi ngờ

NgườI thứ 2 Các pháp từ tâm sanh
Các pháp từ tâm diệt
Tâm pháp bổn lai không
Thủ xả bất khả đắc

NgườI thứ 3 Sanh, Phật, tâm, pháp đồng
Ví như cảnh trong mộng
Như huyễn tam ma đề
Ông đã hiểu đôi phần

Ba ngườI nói kệ vừa dứt, thoạt thấy ông Mã Vinh Tổ nghiêm chỉnh, oai nghi đảnh lễ ba vị ấy. Ba vị liền xẹt lên hư không, bay về hướng Tây. Đồng thờI nghe tiếng nhạc du dương, tiếng niệm Phật khắp trời.
Ông Mã Vinh Tổ lạI xây về hướng ngài Tường Phong cúi đầu lễ ba lạy rồI nói “ Nhờ thầy khuyên tôi qui y tam bảo , chuyên tu Tịnh-Nghiệp , nay tôi đã sanh về Tịnh-Độ hưởng đạI an lạc nên tôi thỉnh ba vị đạI sĩ đến đây diễn pháp màu để báo ơn thầy”. Nói xong ông Mã Vinh Tổ lễ ngài ba lạy nữa rồI chắp tay niệm Phật bay về hướng Tây. Vừa lúc tiếng hồng chung khua vang, ngài vụt choàng tỉnh dậy. Rạng ngày, hòa thượng Tường Phong chép lạI các việc nghe thấy trong đêm qua thành thiên “Mộng ký”.
Về sau ngài Tường Phong ẩn tu nơi chùa Phước Thành ở Lũ Giang, lúc lâm chung biết trước ngày giờ, đoan tọa mà tịch.
Trích các bộ: Nhứt Hạnh Cư Tập
Tây Phương Công Cứ Thơ Chứng
Nhiễm Hương Tập.

trang 28


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LỤC SĨ THUYÊN
Ông Lục Sĩ Thuyên ngườI Tô Châu , nhơn dự lễ Lương Hoàng sám để cầu cho bạn lành bịnh mà ông phát tâm tu Phật. Ông qua Thiên Ninh Am thọ Bồ-Tát giớI . Vừa gặp lúc Tịch-Căn Bồ-Tát giáng thần nơi Ngọc Đàn giảng dậy pháp môn niệm Phật khuyên mọI ngườI phải nghĩ đến sinh tử luân hồI , nhứt tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ . Bồ-Tát thuyết pháp được 11 hộI. Từ đó những ngườI dự hộI mớI bắt đầu biết hồI hướng Tịnh-Độ Ông Sĩ Thuyên cũng chuyên tâm trì niệm, quán tưởng, cùng tụng kinh Pháp Hoa. Ông trường trai được hai năm , kế mang bịnh kém ăn, ông bèn khai giớI thực nhục (tức là ăn mặn) . Bịnh ngày càng thêm nặng. Tự biết sắp chết, ông rất ăn năn hổ thẹn , liền dứt hẳn cá thịt , miệng không ngớt niệm A-Di-Đà Phật. Ông căn dặn ngườI con gái của ông phảI ăn chay niệm Phật , khi ông mất không được than khóc. Bảy ngày sau bịnh làm xung, mắt ông ngó lên hư không như thấy cái gì. Miệng thờI nói “ Bạch-liên, Bạch hạc, chư Thượng Thiện Nhoơn “ Ông lạI luôn miệng nói “ Phật! Phật! Phật ! ” . Ông trở mình nằm nghiêng phía bên hữu mà đi. Bỗng có mùi hương lạ thơm ngát cả nhà. Bấy giờ là ngày 18 tháng 5 năm Càn Long thứ 52, ông được 39 tuổi.
Qua năm sau ngày mùng 1 tháng 5 ông Sĩ Thuyên giáng thần ở ngọc Đàn bảo mọI ngườI rằng “ Ngày trước tôi sắp phảI đọa lạc . Nhờ lúc lâm chung chánh niệm kiên cố nên may mắn được đức Phật đến tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương.
Tất cả ngườI đờI đều có một việc rất khẩn yếu không nột ai trốn tránh được mà phần nhiều hay quên lãng đi , các ngài có rõ cùng chăng?
Hiện tiền đây các ngài thân thể khỏe mạnh , tinh thần khương kiện nên các ngài nào có nghĩ đến ngày mai này sẽ phảI nằm trên giường bịnh , hồn phách ly tán không biện biệt được Đông Tây, chẳng phân được Nam Bắc . Trước mắt mờ mịt, chẳng vin níu vào đâu được , rồI tất phảI theo nghệp mà luân chuyển, chịu biết bao nhiêu là thống khổ. Chỉ riêng ngườI lúc bình thờI siêng tu Tịnh-Độ đến giờ chết tự thấy Phật đến tiếp dẫn , sanh trong hoa sen báu thọ mạng vô lượng, hưởng thuần những điều vui , chứng bậc bất thoái chuyển , một mực tấn tu thẳng đến Phật quả. Nếu các ngài có lòng muốn lấp chí nơi đây tôi sẽ cùng các ngài luận về những quan điểm cốt yếu của môn Tịnh-Độ. Nghĩa là tôi muốn nói đến “ Tín” , “Hạnh”, và “Nguyện” vậy.


1) Một là lòng tin
Tin chắc Tây Phương có Cực-Lạc Tịnh-Độ như ở phía tây thành này có vườn cây, dinh thự v v … Cõi Ta-Bà đay ở phía đông như xóm nhà phía đông thành này. Ta-Bà đã là thietj có thì Tịnh-Độ cũng là có thiệt. Cùng đồng ở trong Giác-Tánh Viên-Minh, nên chuyên tưởng nhớ thờI có thể về. Cũng như ngườI ở trong thành, cất bước đến được xóm nhà phía đông, thì tất đến được công viên phía Tây.
Đã tin chắc Tịnh-Độ có thể về được, lạI phảI tin chắc pháp môn Niệm Phật như là tin vào những việc mặc áo, ăn cơm vậy.Mặc áo khỏI lạnh, ăn cơm khỏI đói, niệm Phật khỏI sanh tử. Ngày nay tin, mai không tin là chưa phảI thiệt tin. Trọn đờI mà có thoạt có một niệm ngờ cũng chưa phảI thiệt tin. Bắt đầu từ hôm nay, mãi đến hơi thở cuốI cùng , luôn luôn tin chắc không một mẩy nghi ngờ mớI là thiệt tin.
2) Hai là công hạnh
Đã tin chắc có Tây Phương Tịnh-Độ , đã tin chắc nơi pháp môn niệm Phật nhưng nếu cứ nói suông, khen luống thờI có lợI ích gì đốI vớI sự vãng sanh , giảI thoát. Cho nên hễ ngày nay tin thờI y giáo phụng hành liền nộI trong ngày nay. Ngày mai tin thờI thực hành liền trong ngày mai. Rất không nên nói “ Tôi bây giờ còn trẻ, thủng thẳng chờ khi lớn tuổI rồI tu cũng chưa muộn “. Hãy nhìn qua những nghĩa địa , bao nhiêu là mồ của những kẻ đầu xanh. Bao nhiêu là mả của những ngườI đoản mạng. Đâu có thể chắc rằng ta sẽ được thọ trường. Cũng chẳng nên nói “ Tôi bây giờ mắc bận lo việc nước, việc nhà , việc cha mẹ, việc vợ con, chờ đến lúc rảnh rang sẽ chuyên tu chẳng muộn”. Nên biết vô thường mau chóng, một mai thần chết đưa liềm vào cổ, không có thể bảo vớI nó “ chờ cho tôi rảnh việc sẽ đến”.LạI có ngườI lúc thờI tu dõng mãnh, lúc thờI tu giảI đãi cho qua giờ. PhảI biết rằng hàm dưỡng “Liên thai” cần phảI công phu miên mật. như gà ấp trứng, luôn luôn cần phảI cho hơi ấm tiếp tục mớI có thể nở con. Nếu ngày nay ấp, ngày mai bỏ đi trứng tất phảI hư thúi.
3) Ba là chí nguyện
Một chữ Nguyện rất là khẩn yếu. Trong đờI những ngườI tin Phật, niệm Phật chẳng phảI là không đông, nhưng phần nhiều hoặc là cầu cho hiện đờI được giàu sang, sống lâu, hoặc là cầu phước thọ ở đờI sau, cầu đăng thân trờI, thân ngườI cho tạm khỏi khổ . Đó là những nguyện vọng hết sức trái vớI ý chỉ của Phật. Đức Phật hết lờI bảo ngườI mau ra khỏI sinh tử, mà ngườI lạI muốn vào sâu trong luân hồI. Đức Phật cặn kẽ khuyên ngườI cầu sanh Cực-Lạc , mà ngườI lạI muốn ở mãi nơi Ta-Bà. Như thế thờI một đờI hành đạo, công phu trọn thả theo dòng. Ví như cầy ruộng mà gieo hột cỏ, công nhọc thờI có mà kết quả trọn không. Vì thế nên nếu là ngườI đã có lòng thiệt tin, phảI lập tức thực hành chơn hạnh. Đã thực hành chơn hạnh phảI luôn phát chơn nguyện : Mãn đờI sống thừa này quyết định không sanh lên trờI, không sanh nhơn gian , chỉ quyết định vãng sanh Tịnh-Độ. Lập chơn nguyện như vậy mà niệm Phật mới là thuận vớI lờI dạy của Đức Phật. MớI không đến nỗI uổng phí công phu. Luống hao thì giờ.Các ngài nên cố gắng lấy, các ngài nên tinh tấn lấy.
Bốn năm sau ông Sĩ Thuyên lạI giáng thần một lần nữa nơi nhà ông Huỳnh Kính Phu để sách tấn chư hội-hữu, lờI lẽ rất thiết yếu.
Trích các bộ Nhứt Hạnh Cư Tập
Tây Phương Công Cứ Thơ Chứng.

(TRANG 30)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NGÔ NGHIÊU CHÚC
Ông Nghiêu Chúc ở Tô Châu làm nghề đổ nến , độc thân, trường trai, ngày đêm niệm Phật, ăn ở ngay thật . Vì ông có những điểm tốt ấy nên các xưởng làm nến tranh nhau mướn ông. Trong khi làm, mỗI lần đổ một gáo dầu vào khuôn là ông niệm Phật năm, ba câu.
Năm ông 71 tuổI một hôm ông nói vớI chủ xưởng rằng “ Tôi có dành dụm được một số bạc ý định để dưỡng già. Nay tôi niệm Phật đã thành công, vài ngày nưa đây tôi sẽ vãng sanh Tịnh-Độ. Không cần đến số tiền ấy, xin kính tặng lạI ông”. Chủ xưởng hứa sẽ thay ông mà làm việc phước. Ông mừng lắm, dẫn chủ xưởng đến chỗ cất tiền. , đếm được một nghìn lạng bạc. Chủ xưởng liền chia ra đêm dâng vào các chùa để trai tăng.
Đến ngày hẹn, ông đoan tọa chắp tay niệm Phật an nhiên mà mất. Ông có lờI trốI nên dùng khánh để liệm . Ngày làm lễ trà tỳ, ngườI đua ông có cả vạn . Bấy giờ là năm Sùng Trinh thứ 7 Triều Minh.
Trích bộ Hiện Quả Tùy Lục.




CHÚC THỊ
Chúc thị là dì của ba anh em Viên-Hoằng-Đạo, nhơn thường nghe ba cháu đàm luận về Phật pháp, thị phát tâm chuyên cần niệm Phật và tụng kinh Kim Cang.
Một hôm thị bảo ngườI nhà rằng “ Đức A-Di-Đà Phật dạy , sau ba ngày sẽ đến rước tôi”. Đến kỳ thị tắm gộI , ngồI ngay thẳng giữa nhà. Các thân quyến ngồI chung quanhThij để xem chừng . Giây lất thị tự nói “ Đức Phật đã đến! Gữa chặng mày phóng bách hào quang dài chừng hai trượng”. Thị lạI nói “ Tôi thấy một ông sư cao lớn, tướng hảo trang nghiêm . Ông ấy tự xưng Tu Bồ Đề rồI hóa làm một trăm mấy mươi ông sư”. Trong hàng thân quyến có ngườI lên tiếng nói “ Trong kinh Kim Cang tất cả là 138 lần Tu-Bồ-Đề , phảI chăng là đó ư?”MọI ngườI thắp hương đồng thanh niệm Phật. Chúc Thị chắp tay mỉm cườI mà mất. Liền lúc đó một đứa tớ nhỏ 9 tuổI đang ngủ gật, bỗng nó la to rồI ôm mặt mà khóc. HỏI cớ nó nói “ Vừa rồI thấy hai ngườI cao lớn mặc giáp vàng , tay cầm phan dài dẫn đường cho bà chủ đi, cán phan quẹt nhằm mặt tôi đau quá” MọI ngườI xét coi, quả nhiên trên trán có dấu xưng bầm. Đến khi liệm, nơi thi hài của thị phát mùi thơm lạ.
Trích Viên Trung Lang Tập.


PHAN THỊ
Phan Thị Quảng Đàm vợ của Công Bộ Chủ Sự Lý-Dương-Xuân ở Dư Hà. Dương Xuân ngườI lành, thích bố thí , và mỗI ngày thường niệm A-Di-Đà Phật . Sau khi từ trần được một năm ông hiện hình cho Phan Thị thấy rồI đi thẳng lên lầu mở cửa sổ gọI to rằng “ PhảI tu hành, phảI tu hành”.
Phan Thị thông nho giáo, lúc đầu hay bắt bẻ Phật pháp, nhưng rồI qui kính Vân-Thê Liên-Trì ĐạI-Sư , ăn chay trường, tập thiền định. Ban đêm thị thường ngồI kiết già tớI sáng. Kiêm niệm Phật và làm các việc từ thiện. Cho ngườI vay mượn tiền, Thị dều không lấy lờI mà cũng không đòi hỏi.
Mùa đông năm Vạn Lịch thứ 39 thị nhuốm bịnh. Đến tháng giêng sang năm . Thị tự biết không mạnh được bèn di chúc gia tài rồI bảo gia quyến rằng “ Tôi ba đờI trước là Phạn Tăng. Nay tôi theo Quán-Thế-Âm Bồ-Tát về Tây-Phương”. RồI thị liền miệng niệm Phật không ngớt tiếng, co ba ngón tay mà qua đời. Đến khi liệm, cả mình mềm dịu nhẹ nhàng như lúc còn sống.
Trích Ngu Đức Viên Tập.



NGÔ NỮ
Ngô Nữ ngườI Thái Thương . Khi sanh cô ngồI kiết già mà lọt ra. Lơn lên cô qui kính Tam Bảo, ở vớI cha mẹ rất hiếu thảo. Cô không chịu lấy chồng, ai khuyên ép đến việc ấy, cô liền chỉ trờI mà thề. Lúc đầu cô học chữ nghĩa nơi các anh, các em, về sau cô đọc tụng kinh Phật đều hiểu thông đạI ý. Sớm tốI cô kính cẩn lễ Phật, cô mơ thấy thần truyền cho chú chẩn đề bằng chữ Phạn.Phàm có ai bị bịnh rét , cô viết chữ chú trị liền lành. Một hôm co tự biết đặng đờI trước. Cô nói “ ĐờI trước làm cao Tăng triều Tống, ĐờI nay làm con gái họ Ngô đây, mục đích là để dìu dắt cha mẹ tu hanhfthooi. Đến năm 23 tuổI tôi sẽ thành đạo quả.”
Năm Sùng Trinh thứ tư , chính là năm 23 tuổi. Cô kết thất chuyên lo niệm Phật. CuốI mùa đông năm ấy, cô nhuốm bịnh sơ sài. Co viết kệ từ thế và khuyên nhắc cha mẹ siêng năng tu trì đừng trễ biếng. Đến đúng ngọ , cô nằm nghiêng bên hữu mà tạ thế. Khi sắp liệm, có hồng quang ánh sáng trên mặt cô. Bà mẹ sửa tóc cho cô mùi thơm lạ từ đỉnh đầu cô bay ra thấu đến ngoài cửa cả đêm không tan. Quàng thây 4 năm rồI làm lễ trà tỳ, xương trong sáng như ngọc, ddinhrddaauf biến thành màu huỳnh kim. Cha mẹ cô bèn xây tháp để thờ.
Trích Tục Vãng Sanh Tập.


LƯ THỊ
Lư Thị Trí Phước, vợ của Trinh Quí Thanh ở Huy Châu . Quí Thanh vốn là một Phật tử, tinh thông giáo lý, và nhiệt tâm đốI vớI những việc phước thiện . Lư Thị luôn giúp đỡ chồng. Thị ăn chay trường , mỗI ngày niệm Phật một muôn câu. Thị tánh hiền từ, thương yêu kẻ dướI, không bao giờ mắng tôi tớ.
Năm Sùng Trinh thứ 5 , có bịnh nặng, Thị thỉnh Cổ Đức Pháp Sư truyền ngũ giớI, và bạch hỏI yếu lý Tịnh-Độ. Sau khi được pháp sư giảng giải. Thị nhứt tâm cầu về Cực-Lạc Thế-Giới. Ông Quí Thanh đặt bàn hương án tạI phòng bịnh tụng kinh Hoa Nghiêm. Đến phẩm “Nhập Pháp GiớI” ông giảng 53 đoạn tham Thi Thức của ngài Thiện Tài cho thị nghe. Thị nghe đến đâu đều lãnh hộI ý nghĩa đến đấy. Tụng kinh xong ông Quí Thanh lạI sách tấn :” Trăm kiếp nghìn đờI tạI một phen này. Gắng sức về Tịnh-Độ chớ dụ dự”. Thị liền to tiếng niệm Phật cả ngày lẫn đêm luôn đến nửa tháng. Mẹ ruột và con gái đến thăm, thị tạ lỗI mà xin lui ra, và bảo “Xin đừng làm tôi động tâm”.
Ngày mùng 8 tháng 11 thoát thấy hoa sen hiện ra trước mặt, trên không hóa Phật đưa tay, Thị mừng lắm, lật đật tắm gộI, chắp tay xây mặt về hướng Tây, niệm Phật liền miệng , rồI nằm nghiêng về bên hữu mà từ trần, được 39 tuổi.Lúc đó đương đúng ngọ trưa. Đến chiều rờ đỉnh đầu Thị, hơi nóng có thể hơ tay.
Ngẫu Ích đạI sư chép truyện vãng sanh của thị, và có lờI khen thị là hạng anh- dũng trong hàng nữ lưu tu Tịnh-Độ.
Bịnh nặng mà to tiếng niệm Phaatjluoon ngày đên cả nửa tháng là “ ĐạI Tinh Tấn”. Mẹ và con vào thăm mà khoongddoais đến là “ Dứt tình ái ân”. Hoa sen cùng Phật hiện, kiết tường niệm Phật mà đi là “ Quyết định được vãng sanh”.
Trích bộ Linh Phong Tông Luận




TỪ THỊ
Từ Thị vợ của Lục Sinh ở Gia Định. Chồng chết , thị chuyên tu Tịnh-Nghiệp . Bao nhiêu giấy nợ, có giấy tớI cả nghìn lượng bacjthij đều đem đốt hết, không đòi. Bao nhiêu tư trang, thị đem làm các việc phước thiện hết cả.
Sớm tốI thị niệm Phật, lễ Phật và tụng kinh luôn 10 năm không một ngày sót, trễ.
Một đêm nọ thị kêu ngườI nhà đến mà bảo “ Thấy phương Đông tỏa ánh sáng đó không? Đã đến giờ tôi vãng sanh”. Thi chắp tay, to tiếng niệm Phật mà qua đời.
Xả tiền của và tư trang gọI là “ Lìa tục nhiễm”. Giúp ngườI, bố thí là “ Từ tâm” MườI năm tu hành không một ngày sót trễ là “ chuyên cần” > Ôi ngườI tu Tịnh-Độ mà đủ ba điều trên có thể gọI là hy hữu, mà cũng là những ưu điểm quyết chắc được vãng sanh vậy.
Trích Vãng Sanh Tập




HAI BÀ KÉO CHỈ

BÀ PHỈ vợ của Trần Xuân Giao ở Hồ Châu, góa chồng hồI còn trẻ, mụ tự nuôi con vớI nghề kéo chỉ vải.Mụ ăn chay trường, Nhà thờ tượng Phật Tam Thánh, và cốt Quan-Thế-Âm bằng đàn hương. MỗI ngày thị Phỉ tụng kinh Kim Cang một quyển , niệm Phật một nghìn câu làm định khóa, Dầu là bận việc hay ốm đau, Phỉ cũng không để trễ thiếu.
Năm Sùng Trinh thứ 11, bịnh dịch hoành hành.Ông Trương Thế Mậu, rể của mụ rước mụ về ở nhà mình. Mụ chỉ mang theo cốt Quan-Thế-Âm Bồ-Tát. Mụ ở riêng trên một từng lầu , mỗI ngày khóa tụng hồI hướng, mụ đều nguyện khói hương bay đến chỗ Phật Tam thế, ba năm như vậy. Một hôm bỗng khói hương cuộn vòng quanh lầu của mụ luôn hai ngày đêm, rồI trên vách trắng bỗng nổI lên tượng Phật Tam Thế trang nghiêm đẹp lạ. Tiếng đồn xa gần, ngườI đến chiêm lễ mỗI ngày mỗI đông. Có ngườI lấy khăn sạch chà thử thờI tượng càng nổI rõ, màu sắc càng bóng sáng hơn.
Sau đó bốn năm mụ bảo con rể đưa mụ về nhà cũ. Mụ rướI quét, thắp hương lễ Phật tụng kinh . Sáng ngày thứ ba, mụ tắm gộI, thay y phục, ngồI ngay thẳng niệm Phật. Đến đúng ngọ, bỗng mụ gọI to “ Phật đã đến, xin từ biệt mọI ngườI”. Dứt lờI mụ niệm Phật vài tiếng mà mất, thọ 73 tuổi.
Trích Câu Ngự Thừa Tục Tập

(trang 33)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

MỤ TRẦN
ngườI ở Thường Thục, làm nghề kéo chỉ vải. Mụ qui, tín Phật pháp , niệm Phật theo tiếng kéo chỉ luôn cả ngày không ngớt tiếng . Ba mươi năm như vậy. Một ngày nọ mụ kêu con trai lạI nói rằng “ Con không thấy bảo cái tràng phan đó ư? Mẹ vãng sanh đây”. Dứt lờI mụ vỗ tay cườI lớn. Sau khi đi pha nước tắm gọI xong, mụ liền chắp tay mà mất. Bấy giờ nhằm năm Thuận Trị thứ 10
Thượng Thơ Ông Thúc Ngươn lúc đó còn hàn vi , được tin đích thân đến xem, vẫn thấy mụ còn ngồI ngay thẳng vững vàng , khắp nhà mùi hương lạ bay ngào ngạt. Về sau khi trứ tác bộ “Tịnh-Độ Ước Thuyết“ Thượng Thơ ghi việc ấy vào để làm bằng chứng.
Trích bộ Tịnh Độ Ước Thuyết.




LÝ THỊ

Lý Thị là mẹ ông Lưu Đạo Long. Năm 40 tuổI, thị ăn chay trường, niệm Phật. Thị dọn một căn nhà sạch sẽ, thờ Đức Quán-Thế-Âm , sớm tốI lễ lạy. MỗI thờI thị niệm Phật một nghìn câu, dầu lúc đạI hàn hay đạI thử , cũng y số không thiếu. Thị khắc bản kinh Kim Cang để ấn tống.
MỗI khi đến ngày sinh nhựt , thị dặn con dâu không được bầy tiệc chỉ nên cùng nhau lễ sám một ngày hay ba ngày.
Hai mươi năm sau mụ thỉnh chư tăng đến nhà tụng kinh bảy ngày đêm. Thị mơ thấy Đức Quán-Thế-Âm trao cho một xâu chuỗI và bảo : “ Cho ngướI xâu chuỗI này. Số hột chuỗI là thờI hạn ngươi được vãng sanh”. Thị tiếp lấy xâu chuỗI đếm được năm mươi ba hột.
Qua năm sau ngày mùng ba tháng năm , Thị kêu ngườI nhà mà bảo “ Hôm nay tôi về Tây Phương Cực-Lạc Thế GiớI, nên đồng thanh niệm Phật trợ tôi vãng sanh”. Bọn con dâu ngồI bên giường thị mà niệm Phật. Thị ngồI ngay thẳng trên giường , day mặt về hướng Tây mà qua đời.
Trích bộ Kim Cang Trì Nghiệm Kỷ



HAI BÀ HIỆN SỰ LẠ

LỤC THỊ ngườI Thường Thục , năm 20 tuổI qóa chồng, Thị ăn chay trường giỡ giớI, niệm Phật. Tánh tình nhã nhặn, thị không tranh cãi vớI ai. Năm 67 tuổI thị chết. Khi thiêu quần áo của thị , lửa đã tắt bỗng thấy ánh sáng màu vàng chiếu lên , trong tro hiện rõ hơn hai muoi tượng Phật Cả làng đều đua nhau đến xem, và đều cùng nhau thắp hương lễ bái. Bấy giờ là năm Khang Hi thứ ba.
Trích Quả Báo Văn Kiến Lục


TỪ THÁI NGHI mẹ của Từ Hạo Nhiên ở Tiền Đường. Bà thờ Phật rất thành kính , mỗI ngày niệm A-Di-Đà Phật. Bà họa tượng Phật, chung quanh tượng chấm vài nghìn vòng tròn để ghi số niệm . MỗI khi niệm xong một bức, bà xếp lạI đựng vào túi vảI vàng.
Năm Khang Hi thứ 34 bà từ trần. Ngày bà mất, ngườI nhà đem túi vảI vàng ấy đốt trong chậu . Bỗng nghe trong chậu có tiếng nổ, mọI ngườI bu lạI xem , thấy có ánh sáng ngũ sắc chiếu lên , lan ra thành màu nâu. Trên màu nâu ấy lạI hiện đền đài có lan can bao quanh, trong đền hiện vài mươi đóa hoa sen, trên mỗI hoa sen đều có một Đức Phật ngồI kiết già, chắp tay. Hai bên Phật có chư thiên đứng hầu. MỗI mỗI hình tượng như bức họa màu phấn trắng. Ai được mục kích cũng chép miệng cho là sự lạ trong đời. Qua ngày sau , khều tro lật phía dướI túi lên xem , thờI mặt dướI hiện hình tượng giống hệt mặt trên. Chỉ có sau lưng mỗI tượng Phật có hình một bà già cầm phất trần đứng hầu.
Trích Tinh Trưng Tập

DƯƠNG THỊ
Dương Thị ngườI Ngu Sơn .Vì bên họ mẹ đờI đờI học Phật nên thị qui kính Phật pháp từ thuở còn bé. Sau khi làm dâu nhà họ Trương, thị liền lễ sư Đức Chơn, thọ tam qui ngũ giớI, rồI đoạn tuyệt ái dục.
Năm 27 tuổI mang bịnh nặng , thị phát nguyện cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc thế giớI , thỉnh tượng A-Di-Đà Phật về thờ , ngày đêm to tiếng niệm Phật . Đến ngày thứ năm mùi hương chiên đàn thơm ngát cả nhà. Ngày thứ bảy, thị thấy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát bảo “ Liên hoa chủng tử đã được nửa phần công đức , còn nửa phần chờ xem thủ đoạn của nhà ngươi”. Thị chắp tay thưa “ Con phảI làm thế nào ?” Bồ-Tát bảo “ thả tay mà đi”. Thị bèn trổI dậy, ngồI kiết già, chắp tay niệm Phật mà vãng sanh.
Trích tập : Tục Vãng Sanh

GIANG THỊ
Giang thị, kế thất của ông Nghiêm Nhuận ở Dư Hàng. Ông Nghiêm vốn là đệ tử của Vân Thê, thực hành pháp môn Tịnh-Độ.
Giang thị từ khi về nhà họ Nghiêm, tu trì rất sốt sắng . Khuya gà vừa gáy hiệp đầu Thị đã dậy quì trước bàn Phật , niệm Phật một nghìn câu rồI tụng kinh niệm chú. Dầu là nhà quyền quí, nhưng tất cả các việc đốt đèn, thắp hương cho đến nước rửa, nước uống v v… Thị đều tự làm lấy, không bao giờ sai biểu tôi tớ.
Năm Khang Hy thứ 7 , ngày mùng 6 tháng 3 sau khi đi thờI khóa sáng sớm xong , nghe trong mình mỏI mệt Thị nằm tạm . Một lát sau thị bỗng to tiếng nói “ Đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đã đến !”.Thị hốI pha nước, tắm gộI xong lên giường nằm nghiêng bên hữu mà mất. Đến giờ liệm nhan sắc của thây thị vẫn tươi nhuần, tay chân mềm dịu.
Trích Tịnh-Độ Toàn-Thơ.
Chủ đề này chưa được bình chọn, bấm vào đây để bình chọn chủ đề


HAI MẸ CON

Mụ Diếp 40 năm ăn chay trường, quy y vớI Cổ Đàm Hòa Thượng, mỗI ngày lễ Hoa Nghiêm kinh, một chữ một lạy, được trọn ba bộ. Năm 81 tuổI mụ thấy thánh nhân hiện thân màu huỳnh kim, liền niệm Phật mà qua đời.
Con gáI mụ Diếp là Lăng Thị , vợ ông Trần Đình Biểu ở Ngô Quận, năm lên 40 tuổI cũng trường trai, qui y Cổ Đàm Hòa Thượng , ngày đêm sáu thờI thị hành ĐạI Bi Sám . Lạy kinh Hoa nghiêm được giáp hai bộ . TuổI già thị chuyên tụng chú ĐạI Bi và niệm Phật cầu vãng sanh Cực-Lạc . Một hôm thị nhuốm bịnh nhẹ, thấy đức Quán-Thế-Âm hiện thân. Thị kêu ngườI con gái lạI mà bảo rằng “Phật quang sáng cả nhà . Mẹ về Tây phương”. Dứt lờI thị nhắm mắt, thọ 69 tuổi. Bấy giờ nhằm năm Càn-Long thứ 34.
Con gái của Thị về làm dâu họ Châu cũng tinh tiến tu hành. MỗI ngày cô tụng kinh Pháp Hoa , niêm A-Di-Đà Phật. NgườI trong thân thuộc cảm hóa phát tâm, tu hành rất đông.

Trích bộ Thiện Nữ Nhơn Truyện


BÀ DƯ

Bà Dư là thân mấu của Chiêu Minh Hòa Thượng. Khi trụ trì chùa Cao Mân ở Dương Châu, Hòa thượng rước bà về ở một ngôi nhà bên cạnh chùa. Lúc đầu bà nhớ nhà lắm, hễ nói chuyện vớI hòa thượng là bà nhắc đến nhà cửa, sự sản, thân thuộc. Hòa thượng mớI giảng các pháp : Khổ, không, vô thương, vô ngã và khuyên bà nhứt tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực-Lạc thế giới.Bà không làm theo, hòa thượng bèn ẩn mặt, bà cho ngườI mờI, hòa thượng cũng không đến . Bà không biết làm sao phảI gắng gượng niệm Phật, nhưng bữa niệm, bữa không, vì việc niệm Phật vớI bà là một sự khổ. Ba năm sau, niệm Phật ngày một quen lần, bà tự phát tâm tin hướng. Thọ Bồ-Tát giớI, ngày đêm niệm Phật rất chuyên cần. Hòa thượng đến thăm, hỏI còn nhớ nhà không? Bà đáp” Niệm Phật tốt lắm! tôi không còn nhớ nhà nữa “.
Một hôm bà đương ngồI trước sân niệm Phật, Phương Tây bỗng tỏa ánh sáng , tất cả nhà vách, rừng cây đều ẩn mất , bà thấy thấu đến Cực-Lạc Thế GiớI. Mừng quá, bà đứng dậy đi thẳng qua , thoạt không còn thấy nữa. Từ đó trở đi, sáu căn của bà tịch, tịnh , trong tất cả thờI không sanh vọng niệm , chỉ một câu niệm Phật tiếp tục nơi tâm. Ít lâu sau, một đêm nọ bà mơ thấy mình đến một nhà lá , trong ấy có đàn bà đang chuyển bụng. Bà giựt mình nói “ Sao lạI đến chỗ này? Vào thai, ra thai là sanh tử khổ, thật đáng ghê, đáng sợ. Tôi luôn mong mỏI được sanh về Tây Phương Cực-lạc kia mà”. Bà vộI vàng chạy ra khỏI nhà ấy rồI vụt thức giấc.
Sáng hôm sau bà nói vớI Chiêu Minh Hòa Thượng “ TuổI đờI tôi đã mãn . Xin thỉnh chư tăng niệm Phật, trợ tôi vãng sanh”. RồI giữa lúc chư tăng đồng thanh niệm Phật , bà ngồI ngay thẳng , day mặt về hướng Tây mà tạ thế. Lúc đó nhằm năm Càn Long thứ 27.
Trích tập Thiện Nữ Nhơn Truyện.

(trang 2)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

MỤ DƯƠNG

Mụ Dương ngườI Hàng Châu. Năm trên 50 tuổI, mụ bị bịnh phong, nằm cứng lưng , ngày đêm rền rỉ . Sư Lữ Đình từ Kinh Sư về Thiên Mục ghé nhà thăm mụ . Con trai mụ thỉnh sư vào nhà sau thăm mụ . mụ sụt sùi nói vớI sư rằng “ Bịnh khổ lắm, ! thầy có phương gì cứu tôi chăng?” Sư nói “ Có nhưng sợ bà không chịu uống”.Mụ thưa “ Nếu thiệt như vậy thờI tôi xin uống “. Sư bảo “ Bà nghe kỹ đây, Bịnh từ nơi thân mà sanh, thân từ nơi giả hiệp mà có . Bà xả được thân thờI bịnh tự hết”. Mụ hỏI “ Làm sao xả được thân?” Sư bảo “ Bà đem cả thân buông bỏ, nhứt tâm tưởng Tây phương Cưc-Lạc thế giớI , chuyên niệm A-Di-Đà Phật . Đức A-Di-Đà Phật là đấng đạI y vương chữa được bịnh khổ của tất cả chúng sanh . Chí thành niệm Phật thờI Phật tự đến cứu bà”. Mụ gạn “ Thiệt Phật đến ư ?” Sư đáp “ Đén, chỉ lo bà niệm Phật không chí thiết mà thôi!”.
Sau khi sư đi, mụ liền niệm danh hiệu Phật và tưởng nhớ Tây Phương Cực-Lạc mỗI ngày một khẩn thiết. Năm tháng sau , mụ nói vớI ngườI con rằng “ Đức A-Di-Đà Phật đã đến,!Bốn ngày nữa má sẽ về Cực-Lạc. Con đón thỉnh ĐạI sư Lữ Đình cho má tạ ơn “ Lúc đó sư Lữ Đình đã về Thiên Mục rồI , đường xa không thể thỉnh được.
Đến ngày thứ tư, thỉnh mườI vị tăng đến nhà trợ niệm . Mụ Dương tự trổI dậy, đoan tọa, chấp tay niệm Phật mà mất. Bấy giờ là năm Càn Long thứ 36.
Trích Thiện Nữ Nhơn Truyện.




DƯ THỊ

Dư Thị Chơn Tu , vợ họ Châu ở Ngô Quận, năm 32 tuổI góa chồng, đến năm 36 tuổI thị ăn chay trường, thờ Phật. Năm trên 50 tuổI, thị giao cả việc nhà cho dâu con mà chuyên tu Tịnh-Nghiệp.
Năm 70 tuổI , tháng 6 thị nằm mơ thấy đi đến bờ sông, có chiếc thuyền chở Tỳ Kheo Ni và Ưu Bà Di mườI mấy ngườI. Một ngườI trong thuyền kêu thị mà bảo rằng “ Đi Tây Phương Cực-Lạc Thế GiớI “ Thị tự nghĩ thầm bây giờ chưa đi, chờ cuốI năm sẽ đi. Trong thuyền liền có tiếng bảo “ Hãy chờ thuyền sau!”.
Đến ngày mùng 6 tháng 9 Thị mơ thấy A-Di-Đà Phật hiện thân tiếp dẫn . Sau khi thức giấc, thị biết giờ vãng sanh đã đến, bèn thỉnh sư Văn Kỳ, thầy qui y cho thị đến nhà để thị tạ ơn và từ biệt. Sư khuyến tấn. Thị càng chí thiết niệm Phật, mùi hương lạ ngạt ngào , khắp trong ngoài đều nghe.
Đến sáng ngày 11, Thị tắm rửa thay y phục mớI rồI đoan tọa niệm Phật. Một lát sau thị nằm nghiêng bên hữu mà qua đời. Nhằm năm Can-Long thứ 36.
Trích bộ Tịnh-Độ Thánh-Hiền Lục


LƯƠNG NỮ

Lương Nữ ngườI Phần Dương , đôi mắt mù từ thuở trẻ. Có một sư tăng bảo Nữ niệm A-Di-Đà Phật. Nữ bèn chuyên cần niệm Phật. Ba năm sau hai mắt sáng tỏ . Từ đó lòng kính tin càng sâu , ngày đêm Nữ niệm Phật không hở.
Một hôm Nữ thấy tràng phan, bảo cái từ trên không giáng xuống, đồng thờI Phật và Bồ-Tát cũng đến tiếp dẫn, Nữ liền từ biệt thân quyến , chắp tay mà mất.
Trích bộ Phật Tổ Thống Kỷ.



TUÂN THỨC

Tuân Thức đạI sư tự Tri Bạch , ngườI Thái Châu. Mẫu thân mơ thấy nuốt minh châu mà sinh ra ngài. Lơn lên ngài đến cầu thế độ nơi Nghĩa Toàn Hòa Thượng ở Đông Dịch Sơn, chuyên cần học luật. Ngài vào chùa Quốc Thanh, ở trước tượng Phổ Hiền đốt ngón tay, thệ truyền giáo quán của Thiên Thai tông. RồI ngài qua chùa Bửu Vân y chỉ vớI Nghĩa Thông Pháp sư.
Ngài từng kết thất 90 ngày , hành Bát Chu tam muộI ngày đêm tinh tấn, tuyệt không ngơi nghỉ đến nỗI chân nứt, miệng ói ra máu , nhưng ngài vẫn lấy chết làm điểm hẹn. Thoạt thấy Đức Quán-Thế-Âm hiện thân, chỉ tay vào miệng ngài kéo ra vài con lãi. Đầu ngón tay của Bồ-Tát rịn nước Cam Lộ, nhiễu vào miệng ngài. Ngài nghe trong mình khỏe khoắn , tâm thần an tịnh, bao nhiêu bịnh khổ tự nhiên biến mất. Sau khi đó, đỉnh đầu của ngài cao thêm lên 3 ngón tay , tiếng nói thanh lớn như hồng chung. Trí tuệ, biện tài vô ngại.
Nghĩa Thông pháp sư thị tịch, ngài trở về Thiên Thai.
Năm Chí Đạo thứ hai, ngài ở Bửu Vân họp tăng tục chuyên tu Tịnh-Nghiệp , đồng thệ sanh Tây Phương Cực-Lạc . Năm Hàm Bình ngài vô Đông Dịch Sơn đốc xuất đạI chúng tu niệm Phật tam muộI . Năm Tường Phù ngài qua Tô Châu giảng kinh nơi chùa Khai Ngươn . RồI ngài trở lạI Hàng Châu , chủ Linh Sơn. Triều đình kính đức, phụng cho ngài hiệu là Từ Vân Sám Chủ. Ngài đem việc phóng sanh của Trí Giả đạI sư nói vớI Vương Khâm Nhược một quan trấn ở Hàng Châu . Khâm Nhược dâng biểu xin dùng Tây Hồ làm chỗ phóng sanh . Triều đình chuẩn y.


Ngài thể ý kinh soạn nghi lễ sám hốI, viên dung tam quán qui hướng Tịnh-Độ. LạI nhơn tri phủ Mã Lượng thư thỉnh , ngài soạn tập “ Tịnh-Độ quyết nghi Hạnh Nguyện nhị môn".
Trong tập đó, về quyết nghi đạI lược như vầy: Phật pháp có hai
A) Tiểu Thừa bất liễu nghĩa pháp
B) ĐạI thừa liễu nghĩ pháp .
Trong đạI thừa lạI có chia liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Nay luận về pháp môn Tịnh-Độ chính là pháp liễu nghĩa của ĐạI Thừa giáo. Pháp môn Tịnh-Độ viên dung cả nhơn quả, thật là thập phần thâm diệu của Phật pháp. Kinh Pháp Hoa nói ” Xét kỹ mườI phương, không thừa nào khác chỉ có một Phật thừa”. chính là nói pháp môn Tịnh-Độ vậy. Vậy tất cả các cõi uế, cõi tịnh ở mườI phương rút lạI đồng trong một sát na. Một niệm sắc và tâm bủa giăng khắp cả pháp giớI là điều thiên nhiên bổn cụ, chớ chẳng phảI duyên khởI tân thành! Một niệm đã thế, một mẩy trần cũng vậy. Cho nên trong mỗI mẩy trần có đủ tất cả cõi , trong mỗI niệm gồm tất cả tâm. MỗI tâm niệm, mỗI mẩy trần trùm chứa nhau , trùng trùng vô ngạI. Đồng thờI hiện cả, chẳng có ẩn có hiện. Tất cả đều viên mãn thành tựu, không có hơn có kém. Tâm ta đã như vậy, chúng sanh cùng vớI chư Phật vốn thể đồng . Như thế thờI tâm thần lướt qua mườI muôn ức thế giớI, kỳ thực chỉ là thác sanh trong tự tâm của mình. Chín phẩm thai sen đó đâu ra ngoài một sát na. NgườI tin hiểu lờI luận viên dung này thờI không sự lý gì mà không thấu hiểu . Kẻ mê mờ nơi lý vi diệu đây thờI đâu đâu cũng mê mờ. Cho nên trong Quán Kinh dậy “ Chư Phật Như-Lai là pháp giớI thân, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh …Tâm đó làm Phật. Tâm đó là Phật”. Nay chỉ vì giảI quyết lòng nghi cho mọI ngườI được hiểu biết rằng “ Bá Bửu trang nghiêm và cửu phẩm nhơn quả ở Tịnh-Độ đều là ở nơi tâm của chúng sanh”. Lý tánh nó đầy đủ như thế mớI được thành sự-dụng viên dung như vậy.

Và đây là hai pháp tọa thiền, quán tưởng trong môn hạnh nguyện:
NgườI muốn tu tập quán pháp vãng sanh nên ở chỗ thanh vắng, kê giường hướng về phương Tây để dễ quán tưởng và đề biểu chánh hướng. NgồI kiết già ngay thẳng, đầu và xương sống đốI nhau , không khom, không nẩy. Điều hòa hơi thở, định tĩnh tâm thần.
Trong kinh luận dậy rất nhiều pháp thiền quán, hàng sơ tâm, phàm phu đâu có thể tu tập tất cả được. Nay giảng bầy hai thứ. Trong hai thứ đây, tùy sở thích, tự chọn lấy một mà tu tập , bất tất tu cả hai. Nhưng vớI ngườI lợI căn thì vô ngại.

A – Sau khi điều thân , điều tức và điều tâm xong, tự nghĩ công phu tu tập của mình đáng được vãng sanh Cực-Lạc thế giớI. RồI tưởng là mình sanh về Tây Phương Cực-Lạc , ngồI kiết già trong hoa sen báu. Tưởng hoa sen búp lại. Tưởng hoa sen nở ra. Chính lúc hoa sen nở, tưởng có tia sáng 500 màu chiếu đến thân mình, tưởng mình mở mắt. Tưởng thấy Phật, thấy Bồ-Tát. Tưởng thấy cảnh giớI trang nghiêm. Tưởng mình dậy lễ Phật rồI ngồI nghe diệu pháp cùng nghe tất cả tiếng chim hót, tiếng lá reo , nước chảy, nhạc rung đều diễn nói thành những pháp mình vốn thích nghe. Bao nhiêu điều thấy nghe đều phảI hợp đúng vớI khế kinh lúc tưởng như trên đó rất cần phảI kiên cố chánh niệm , đừng cho tâm xao động . Tưởng hiện rõ ràng như tận mắt thấy, thật lâu sẽ xả.

B – Tưởng Đức A-Di-Đà Phật thân vàng cao mườI sáu thước , ngồI trên tòa sen lớn . Chăm nhìn một tướng lông trắng giữa chặn hai chơn mày đức Phật Lông áy dài 15 thước, chu vi 5 tấc , tám góc đều đặn giữ rỗng và trong suốt như ống pha lê, xoáy tròn về phía hữu. Lông ấy trong sáng, chiếu rĩ mặt vàng của Phật. Lúc quán tưởng như vậy, kiềm tâm chăm chú, chớ cho sao lãng.

Sau rồI lạI nên suy xét , tưởng niệm mà được thấy đó, hoặc đã thành, hoặc chưa thành đều do nhơn duyên tưởng niệm mà hiện, không có tự tánh thật, toàn thể là không. Như bóng mặt trăng trong gương, như ánh trăng dướI nước , như cảnh mộng, như huyễn thuật, tức không, tức giả, tức trung. Bất khả tư nghị. Nghĩ biết như vậy thờI tâm không thủ trước , mà tâm tưởng bèn tịch tịnh, có thể thành tựu niệm Phật tam muội.
Năm Thiên Thánh, ngài ở riêng nơi Nhựt Quán am , một sở am ở phía đông của chùa. , ngày đêm chuyên tưởng Tây Phương Cực-Lạc. Sau khi giảng kinh Duy Ma Cật xong, ngài giao phó ghế giảng sư lạI cho TổThiền ĐạI-Sư , một đệ tử cao túc của ngài. Ngài làm kệ tạ duyên tỏ ý sắp thị tịch.
Năm Minh Đạo nguyên niên, ngày mùng 8 tháng 10 , nhuốm bịnh nhẹ ngài từ thuốc, vẫn họp chúng giảng dậy pháp yếu, thuyết pháp xong ngài bảo thỉnh tượng A-Di-Đà Phật. Chúng lạI thỉnh tượng Quan-Thế-Âm đem đến. Ngài quì lạy, thắp hương nguyện rằng “ Tôi quan sát Đức Quán-Thế-Âm không sanh, không diệt, thập phương chư Phật đồng trụ thiệt tế xin thọ thọ lấy một nén hương này . Chư Phật chứng minh tôi vãng sanh Tây Phương Cực-Lạc “. Có ngườI hỏI chỗ ngài sẽ về . Ngài đáp là Tịch-Quang-Tịnh-Độ. Chiều hôm ấy ngài ngồI kiết già mà tịch . Tho 69 tuổi. NgườI ta thấy ngôi sao rất lớn sa trên chót núi Linh Thứu , hồng quang sáng chói.

Trích Phật Tổ Thống Kỷ
Lạc Ban Văn LoạI
Liên Tông Bửu Giám.

(trang 5)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TÔNG TRÁCH
Tông Trách Thiền sư ngườI Tương Dương. Thuở nhỏ ngài học nho, bác thông thế điển. Năm 29 tuổI ngài đến chùa Trương Lô ở Chơn Châu, xuất gia nơi Tú Thiền Sư. Năm Ngươn Hựu ngài trụ trì chùa Trường LôNgài rước thân mẫu là Trần Thị về ở ngôi nhà phía đông phương trượng rồI ngài khuyên mẹ xuất gia , niệm A-Di-Đà Phật. Cách 7 năm sau Trần Thị không bịnh, niệm Phật mà mất, qua ngày sau đỉnh đầu của thây Trần Thị vẫn còn hơi ấm , mặt hiện sắc trắng ánh như ngọc. Thiền sư cho rằng báo ơn mẹ đã được trọn.
Ngài thể theo qui chế Lô Sơn lập Liên Hoa Thắng HộI , hợp tăng và tục tu Tịnh-Độ quán và chuyên niệm A-Di-Đà Phật hồI hướng phát nguyện cầu sanh Cực-Lạc Thế GiớI . DướI đây là bài văn cổ xướng của ngài soạn:
Phàm ngườI ta cho niệm là niệm, cho sanh là sanh, đó là lỗI chấp thường. Còn ngườI cho vô niệm là vô niệm, vô sanh là vô sanh , đây là tà kiến mê hoặc. Nếu rõ niệm là vô niệm, sanh là vô sanh là đạt Đệ Nhứt nghĩa vậy.
Vì thế nên nơi thiệt lý chẳng chứa mẩy trần thì : Trên không Phật để niệm, dướI không sanh để độ. Nhưng trong môn Phật sự không bỏ mtj pháp thì , tổng nhiếp tất cả căn cơ bén có một môn “ Niệm Phật Tam MuộI vãng sanh Cực-Lạc “ đây chính là yếu thuật hườn nguyên. Do đó nên niệm Phật suốt ngày mà vẫn không trái vớitánh vô niệm . Châm hẩm vãng sanh mà vốn chẳng sai vớI thể vô sanh. Vì thế nên phàm. Thánh đều trụ tự vị mà cảm ứng đạo giáo. Đông Tây vốn không qua lạI mà tâm thần đến cõi Tịnh. Sự lý đương nhiên, pháp nhĩ như vậy. Cho nên trong kinh dậy “ Nếu ngườI nghe nói Phật A-Di-Đà rồI chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn . Lúc ngườI sắp chết được Đức A-Di-Đà Phật cùng thánh chúng hiên thân trước ngườI đó . Lúc chết tâm ngườI đó không điên đảo liền được vãng sanh về cõi nước Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà”.


Vả từ phụ cùng tôn sư, dầu phân thân ra hai môn “ Chiết phục “ và “ nhiếp thọ” hiện thân ở hai cõi “ trược uế “ và “ thanh tịnh “ nhưng bổn ý của Phật không phảI cho rằng Ta Bà trược ác là chỗ đáng nhàm lìa Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm là nơi đáng hâm mộ. Mà chính vì hạng ngườI sơ cơ hành đạo, trí lực chư thần cần phảI nương nơi cảnh duyên thanh tịnh để dễ thắng tấn.
Cõi Ta Bà này , đức Thích Ca đã nhập diệt, đức Di Lạc chưa giáng sinh , còn Cực-Lạc thế giớI đức A-Di-Đà Phật đang ngự thuyết pháp. Nơi Ta-Bà đốI vớI Quán-Thế-Âm và ĐạI-Thế-Chí chỉ luống mến danh đức của hai ngài. Còn Cực-Lạc thế giớI hai đạI Bồ-Tát đó là bạn đồng hành, đồng xứ. Nơi Ta-Bà các loài ma đua nhau phá rốI ngườI tu, cònCực-Lạc thế giớI trong đạI quang minh quyết không ma sự. Nơi Ta Bà khắp chốn tiếng tà nhiễu loạn, nữ sắc mê người .Còn Cực-Lạc thế giớI nước, chim, cây nhạc đều tuyên pháp mầu, thuần tướng trượng phu hẳn không thân nữ.
Cứ như trên đó mà so sánh thờI duyên tốt để giúp ngườI tu hành không đâu bằng Tây Phương Cực-Lạc thế giớI. Cũng có lắm kẻ trí kém cạn suy cứ cố chấp mà không tín thuận . Nay xin luận vài điều :
NgườI đờI nhàm chán gia đình phiền rộn , thích mến am, tự an hòa , cho nên có ai xuất gia thờI trầm trồ tán thán , nhưng những khổ cõi Ta Bà này đâu chỉ nơi phiền rộn với gia đình , còn những điều vui đẹp nơi Cực-Lạc , sự an hòa của am, tự đâu sánh kịp . Biết xuất gia là hay, là tốt mà không nguyện vãng sanh là điều mê lầm thứ nhứt.

Nghìn dặm không nệ xa, cố tìm bực minh sư để cầu chỉ dậy, hầu mong nhập thánh siêu phàm . Mà đức A-Di-Đà Thế Tôn thân trì tự tạI, nguyện lực vô biên , một khi được nghe lờI vàng , không ai chẳng được lợI ích lớn.Muốn tìm minh sư mà không mong mỏI thấy đức A-Di-Đà Phật là điều mê lầm thứ hai.
Tòng lâm nào đạI chúng đông nhiều thờI nô nức gá nương, am viện nào lẻ tẻ ít ngườI thờI không muốn đến ở. Cực-Lạc thế giớI , bực nhứt sanh bổ xứ rất đông không thể tính đếm cho xiết , chư Thượng Thiện Nhơn cùng sum họp một chỗ . Đã muốn thân cận tòng lâm mà không ham mộ hảI hùng thanh tịnh là diều mê lầm thứ ba.
NgườI cõi này thượng thọ không quá trăm tuổI , mà lúc bé thờI khờ, lúc già thờI lẫn , nào bịnh tật, nào ngủ nghỉ chiếm hết nửa phần thờI gian còn lạI của một đời. Bồ tát chưa đắc Nhẫn còn phảI mê khi đổI thân hàng Thanh Văn vẫn tốI tăm khi lọt lòng mẹ. . Thế thờI tấc bóng vàng ngọc của ngườI đờI mườI phần mất hết chín , ai là ngườI chưa chứng quả bất thốI địa thật phảI rợn lòng. NgườI Cực-Lạc thọ mạng vô lượng, vô biên, vô số kiếp, một khi gá thai sen thờI không còn bị tử khổ , mà bịnh khổ cùng lão khổ cũng đã thoát hẳn. Thân thanh tịnh, cảnh thanh tịnh, nên tâm trí tỏ thông, một mực tấn tu nên liền chứng bực bất thốI địa mà quả Phật bảo đảm sẽ thành. Bị lưu chuyển nơi đờI sống ngăn ngủI ở Ta-Bà mà không mộ sự trường tồn bất diệt ở Cực-Lạc là điều mê lầm thứ tư.



Nếu là bậc bất thốI chuyển, chứng quả vô sanh , ở trong dục mà không tưởng dục , ở trần mà không nhiễm trần , đủ khả năng như thế mớI có thể hưng vô-duyên-từ vận đồng thể bi , vào trần lao, lăn mình trong ngũ trược như ánh nắng rọI khắp mặt địa cầu phá tốI tăm mà không bị lây nhiễm . Còn nếu là hạng chưa đến bực ấy , hoặc mớI có đôi chút kiến giảI, hoặc chỉ được đôi phần thiện căn bèn vọng cho mình đã khỏI đã khỏI hẳn tứ-ưu , đồng hàng bậc thập địa rồI ngó lơ Tịnh-Độ, ham luyện Ta-Bà. Đến khi nhãn quang lạc địa thờI y nhiên là kẻ luân hồI , tất bị nghiệp lực cuốn lôi, nổI chìm trong lục đạo. Không biết tự lượng sức mình , vọng sánh vớI bực đạI quyền Bồ-Tát , đây là điều mê lầm thứ năm.
Há không nghe Phật dậy nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi Cực-Lạc đó ư ? Không chịu tỉnh lờI dậy của Phật chẳng phát nguyện cầu sanh Tịnh-Độ có phảI là mê lầm quá lắm ư? Nếu chịu tin theo lờI Phật mà được về Tịnh-Độ , thờI nhà lửa tam giớI không nhốt cầm được, khỏI hẳn tám điều khổ của nhơn gian , trọn không năm điều suy của cõi trờI , cần gì nói đến tam đồ ! Còn không danh từ ác đạo thay , huống là có sự thật. Nơi Cực-Lạc chỉ thuần giáo lý nhứt thừa , khắp cõi không có hạng quyền, tiểu . Qui kính A-Di-Đà từ phụ, thập phương chư Phật đồng được hiện tiền. Tất cả thờI trong đạI quang minh của Phật nên ngũ trụ phiền não nhiệm vận lần tiêu . Khắp mọI nơi luôn nghe tiếng giảng diễn pháp mầu mà lục thông, Phật huệ tự nhiên đầy đủ. Đồng như đức Quán-Thế-Âm phân thân khắp mườI phương thế giớI , tùy theo các loài chúng sanh hiện ba muoi hai ứng thân để cứu độ. Giống như đức ĐạI-Thế-Chí , từ niệm Phật mà chứng nhập viên thông , đem nước tam muộI rướI cùng tam giớI , dắt chúng sanh ra khỏI nhà lửa . Tất cả công hạnh tự lợI lợI tha thảy đều viên mãn . Đủ thấy rằng Tịnh-Độ chẳng ngoài bổn tâm , Di-Đà không rờI tự tánh . Là yếu môn nhứt của quả giảI thoát , là đường tắt nhứt của sự tu hành. Vì thế nên các kinh giáo thuộc đạI thừa liễu nghĩa đều chỉ quy Tịnh-Độ , mà chư thánh hiền đều tự nguyện vãng sanh, đồng thờI khuyên mọI ngườI cùng nguyện. Vì sao cần phảI vãng sanh ? Vì muốn độ ngườI trước phảI độ mình , mình có được độ mớI đủ khả năng độ ngườI được. /


(trang 7)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

HỮU NGHIÊM

Hữu Nghiêm thiền sư họ Hồ, ngườI Lâm HảI. Ngài xuất gia khi mớI lên sáu . Sau khi thọ cụ túc giớI , ngài qua Đông Sơn học vớI Thần Chiếu Bổn Như Thiền Sư, được khế ngộ tông chỉ “ Nhứt tâm Tam Quán “
RồI ngài chuyên tu Pháp Hoa Tam MuộI , thường hiện những điềm lành.
Năm Thiệu Thánh triều Tống, ngài ở ẩn trên đỉnh Có Sơn , cất am tranh bên cây tra. Nhơn đó ngài lấy tên Tra am. Ngài nghiêm trì giớI luật, ngoài ba y một bát, không cất chứa một vật chi khác. Hàng ngày thiền sư tinh tấn trang nghiêm Tịnh-Nghiệp , phàm cơ trứ tác, phần nhiều ngài đều khuyến khích vãng sanh.
Có ngườI hỏI : “ Phàm ngườI sanh lên các cõi trờI ở dục giớI do thập thiện làm nhơn. NgườI sanh lên cõi Thiền ở sắc giớI do Thiền dịnh làm nhơn . Còn ngườI sanh tịnh-Độ tất phảI tu vô sanh diệu quán mớI có thể được. Những học giả thờI nay đều mù mờ về giáo lý nên cho rằng sanh lên trờI khó mà về Tịnh-Độ dễ . Nói như thế thờI ai mà tin được.!”
Ngài bảo “ Pháp môn tu không có khó cùng dễ , khó dễ đều ở nơi ngườI tu . Khó chính là lòng nghi , thờI gang tấc thành muôn dặm .Còn dễ là tín tâm, thờI muôn dặm thành gang tấc. Về phần ngườI tu tập Vô sanh diệu quán mà được vãng sanh chỉ thuộc về thượng phẩm vãng sanh thôi. Ông không nên cố một môn thượng , mà lấp mất các môn trung và hạ. Trong An Lạc Tập có nói “ NgườI sanh Tịnh-Độ có hai hạng
A – “Hữu tướng tâm” là ngườI thích mến sự tướng Tịnh-Độ
B – “ Vô tướng tâm “ là hạng lý quán tương ưng .
Xét ngườI thờI nay phần đông thuộc trung và hạ . Căn cùn trí cạn, chướng nặng nghiệp dầy , nếu chờ đến chừng lý quán tương ưng mớI vãng sanh tất là khó có ai được. Nên biết rằng đức Phật tiếp độ chúng sanh có nhiều phương tiện , nào định thiện cùng tán thiện, ngào Phật lực cùng Pháp lực, nào sự phước nương nơi phát nguyện hồI hướng, nào đến khi lâm chung quá sợ mà chí thiết kêu cầu. Trong nghìn muôn phương như thế , chỉ y cứ được một một phương tất được vãng sanh /.
“Định Thiện” là tu Diệu quán duy tâm, chính là Thủ Lăng Nghiêm định.
“Tán thiện” là như trong Vô Lượng Thọ Kinh dậy thập niệm Phật cũng được vãng sanh.
“Phật Lực” là nhờ đạI bi nguyện lực của Phật A-Di-Đà nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật , chúng sanh nương theo nguyện lực của Phật liền được vãng sanh, như anh dân thường theo bên Chuyển Luân Vương , nộI một ngày đi khắp tứ châu thiên hạ, đó chẳng phảI là do tự lực của anh dân mà do phước lực của Luân Vương vậy.
“Pháp Lực” là như Phật bảo Liên Hoa Minh Vương Bồ-Tát tụng chú Quán Đảnh giá trị nơi cát đất rồI rảI lên thây ngườI hay phần mộ, ngườI chết ấy hoặc bị đọa vào tam đồ sẽ nương chơn ngôn này được vãng sanh Cực-Lạc thế giớI
“ Sự phước nương hồI hướng phát nguyện” là : từ tâm bất sát, đủ các giớI hạnh, trì trú tụng kinh v v…rồI hồI hướng trang nghiêm Tịnh-Độ , thờI thành nhơn Tịnh-Độ đặng sanh về Cực-Lạc .
“ Sắp chết cầu cứu “ là ngườI ác lúc chết, tưởng địa ngục hiện, nhờ sức chí thiết niệm Phật nên lửa dữ hóa làm gió mát , hóa Phật hiện thân tớI rước như : Tăng Hùng Tuấn và Duy Cung, tục như Thiện Hòa và Chung Húc. Vì thế nên trong kinh Phật có lờI huyền ký rằng “ Hàng tiểu hạnh Bồ-Tát và những ngườI tu công đức kém ít, sẽ được vãng sanh số đông không thể kể, nói “.
Phật nói dễ vãng sanh, sao ông lạI nói là khó ? Chúng ta nên thuận theo kinh giáo mà luận là dễ để mở cửa giảI thoát cho ngườI , chớ không nên nê chấp mà cho là khó , làm cho ngườI sơ cơ thốI chí.
Đầu mùa hạ năm tịnh-Quốc ngươn niên , Thiên thần hiên thân trên không mà nói vớI ngài rằng “ Tịnh-Nghiệp của đạI sư đã hoàn thành”. Kế ngài tự thấy hoa sen lớn trong Bảo Trì và nghe tiếng thiên nhạc nổI quanh mình . Ngài làm kệ tiễn biết để tạ chúng . Sau đó bảy ngày, Thiền sư ngồI kiết già mà tịch.
Trích bộ : Phật Tổ Thống Kỷ
Lạc Ban Văn LoạI



NGƯƠN CHIẾU
Ngươn Chiếu đạI sư tự Trạm Nhiên , họ Đường, ngườI Dư Hàng. Lúc đầu ngài chuyên học Luật vớI Huệ Giám luật sư . Sau theo Thần Chiếu Thiền Sư nghe giảng giáo quán Thiên Thai. Khi ngài thọ giớI Bồ-Tát nơi Quảng Từ pháp sư , giớI quang phát hiện chiếu sáng cả giớI đàn. Cảm sự linh ứng ấy, ngài chuyên nghiên cứu luật tạng , cầm bát khất thực nơi chợ. Về sau khi ngài trụ chùa Linh Chi 30 năm , truyền giớI độ tăng hơn 60 hộI . Hàng ngày ngài chuyên chí nơi Tịnh-Độ . Ngài thường nói “ Lúc sống hoằng truyền giớI luật, khi chết thờI về Cực-Lạc, đó là chỗ sở đắc của tôi”. Ngài có soạn nghi Tịnh-Độ lễ sám và viết lờI tựa rằng “ Ngươn Chiếu này từ khi đến giớI đàn , bèn biết chuyên lo học luật . Kế gặp Thiên Thai Thần ngộ Sử khiêm pháp sư hết lòng sách tấn , tôi mớI nghiên cứu Phật thừa. Và do đó mà tôi phát đạI nguyện “ Thường sanh Ta-Bà ngũ trược ác thế làm ĐạI-Đạo-Sư dìu dắt quần sanh đem vào Phật đạo.” Tôi đọc Cao Tăng truyện thấy Huệ Bố pháp sư nói Cực-Lạc dầu thanh tịnh mà chẳng phảI chỗ nguyện của tôi. Giả sử 12 kiếp hưởng vui trong hoa sen đâu bằng ở tam đồ cứu khổ chúng sanh , do đấy tôi càng nắm chặt chí hướng cũ trảI qua nhiều năm trọn không có quan niệm qui hướng nơi Tịnh-Độ , lạI thêm khinh chê ngườI tu Tịnh-Nghiệp. Năm nọ tôi mang bệnh, thân gầy yếu, tâm mê loạn , toàn không chủ định , nếu chết không biết phảI về đâu. Sau đó bịnh lành, tôi liền xét biết quan niệm ngày trước là lỗI : Chí nguyện dầu to , song mình chưa đủ khả năng. Buồn khóc cảm thương, tôi tự quở tự trách .
Tôi dở tập Thập nghi Luận ra xem thấy trong ấy nói Sơ Tâm Bồ-Tát chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn không được rờI Phật. Trong ấy lạI dẫn lờI Trí-Độ-Luận “ Cụ phược phàm phu có tâm đạI bi rồI nguyện sanh trong cõi ác trược để cứu khổ chúng sanh, quyết không nên ! Ví như trẻ thơ chẳng nên xa cha mẹ , chim non chỉ nên chuyền cành”. Từ ngày đó tôi vất cả sở học ngày trước chuyên tìm xem các bộ kinh cùng luận dạy về Tịnh-Độ . Ngót hai mươi năm chưa từng tạm hở . Tôi nghiên cứu tinh tường giáo lý, duyệt suốt cả cổ kim . Những quan niệm nghi ngờ về môn Tịnh-Độ như sương tan, lòng tin Tịnh-Độ của tôi ngày càng sâu chắc. Tôi lạI thấy lờI luận về hai môn “ Chuyên tu “ cùng “ tạp tu “ của Thiện Đạo hòa thượng. “ Nêu chuyên tu thờI trăm ngườI tu, trăm ngườI vãng sanh. Còn tạp tu thì nghìn, muôn khó được một, hai”.
Tôi tự xét mình tâm chí tán loạn quán hạnh khó thành, nên chỉ chuyên tâm trì niệm bốn chữ hồng danh. Nhiều đờI bỏ cha trốn đi, nay mớI tự thấy là biết về nhà. Tôi đem chỗ mình đườn tu tập khuyên nhắc mọI ngườI cùng tu. Pháp môn thắng diệu do tín tâm mà được thành. Như đức ĐạI-Thế-Chí. Do tâm niệm Phật mà chứng được viên thông, nhập Tam-Ma-Địa. Tôi gẫm xét mình năm xưa không tin Tịnh-Độ , hủy pháp. Khinh ngườI, tạo vô lượng tôi nghiệp. Trong lòng chẳng xiết hổ thẹn , sớm tốI lo sợ, đốI trước Phật đài phát lộ tâm can , năm vóc mọp đất tha thiết sám hối.
RồI tôi lạI phát đạI nguyện “ Nhiếp tất cả chúng sanh đồng tu môn niệm Phật, đều vãng sanh Cực-Lạc.
Muốn thường tu tập phảI lập nghi thức khoa-trình, tôi soạn văn các tiền bốI hiệp thành sám pháp này. Từ đầu tớI cuốI trình bày mườI môn . Trong đây đều chuẩn theo lờI Phật ý tổ. NgườI sau đọc đến sẽ rõ chí hướng của tôi.”.
Ngoài ra ngài có soạn Quán Kinh nghĩa Sớ , A-Di-Đà Phật Kinh ngĩa sớ. Về phần trứ thuật của ngài có cả thẩy hơn hai trăm quyển.
Năm Chánh Hòa thứ 6, mùa thu , ngài bảo tăng chúng tụng Quán Kinh và Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Ngài ngồI kiết già, yên lặng lắng nghe, rồI an nhiên mà tịch. Lúc đó mọI ngườI đồng nghe tiếng Thiên Nhạc khắp hư không.
Trích các bộ Lạc Ban Văn LoạI
Phật Tổ Thống Kỷ
Tây Hồ Cao Tăng Sử Lược




TRÍ TIÊN
Trí Tiên pháp sư họ Lý , ngườI Tiên Cư. Thuở nhỏ ngài không thích ở tục. Sau khi xuất gia, ngài du học tạI chùa Thiên Trúc, được Thủ Tọa Minh Nghĩa truyền cho chỉ thú “ Nhứt tâm tam quán “. Ngài trở về xứ, phát minh chỉ quán nơi pháp hộI của Huệ pháp sư ở chùa Bạch Liên , rồI ngài kế vị giảng tịch. Trong tất cả thờI ngài chuyên tưởng niệm Cực-Lạc.
Có ngườI gạn “ Nơi Pháp Hoa Tam MuộI , một cõi là tất cả cõi , mọt thân là tất cả thân , một Phật là tất cả Phật sao pháp sư không theo chỉ quán mà tu Pháp Hoa Tam MuộI, lạI khăng khăng cầu sinh Tịnh-Độ làm chi ?”.
Ngài đáp “ Kinh Khê đạI sư từng bảo : trong phẩm Phân Biệt Công Đức quán thẳng đồng cư độ đây thờI đủ cả bốn độ. Cho nên một đức Phật đây là cả ba thân Phật , một đạI chúng đây là tất cả đạI chúng. Vì ngũ-trược-hoặc chưa dứt sạch nên cần phảI tu về Đồng Cư Tịnh-Độ “. HỏI “ Đồng Cư Tịnh-Độ nhiều nơi, hà tất phảI Cực-Lạc thế giớI ?”.
Ngài đáp “ Phài Đồng-Tu Cực-Lạc Tịnh-Độ là bởI nhiều cớ :
A – Vì trong kinh luận, rất nhiều phen chỉ dậy.
B – Vì cơ duyên sâu dầy
C - Vì xu hướng một nơi để tâm niệm được chuyên chú
D – Vì nguyện lực của Phật nhiếp thọ
Ngài ở chùa Bạch Liên giảng dậy được mườI ba năm , hàng ngày hướng về Tây Phương lễ niệm , không một ngày bê trễ.
Một hôm nhuốm bịnh nhẹ ngài đi từ biết các nhà ngoạI hộ và khuyên nhắc tinh tấn Phật sự rồI ngài về chùa, kê giườngday mặt về hướng Tây, , thượng tượng A-Di-
Đà Phật thỉnh chúng tụng kinh A-Di-Đà Phật, chưa rồI quyển ngài đã ngồI kiết già yên lặng mà tịch.
Chúng tăng ở chùa Năng Nhơn , một ngôi chùa ở gần, đồng nghe tiếng niệm Phật đều trờI cùng tiếng thiên nhạc trổI khắp nơi, không rõ là điềm gì. Sáng ngày sau mớI được tin Trí Tiên pháp sư đã thị tịch.
Trích bộ Phật Tổ Thống Kỷ.

(trang 9)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TƯ CHIẾU
Tư Chiếu thiền sư họ Dương , ngườI Tiền Đường. Năm 14 tuổI ngài xuất gia học Pháp Hoa, phương Đẳng nơi Nam Bình. RồI ngài qua Đông Dịch Sơn tham thiền lý vớI Thần Ngộ thiền sư , được khế ngộ. Ngài hồI hướng trang nghiêm Tịnh-Độ, trọn đờI tinh tấn hành đạo. Ngài tự trích lấy máu tả kinh Pháp Hoa, cứ một chữ một lạy , được mườI bộ. Tụng rằm tạng Quán kinh, mườI tạng A-Di-Đà kinh, một nghìn bộ Pháp Hoa kinh. Lễ kinh Hoa nghiêm, kinh Phạm Võng, Tịnh-Độ thất kinhv v… mỗI chữ mỗI lạy, được cả thẩy hai trăm bảy mươi quyển. Ngài chuyên tu Niệm Phật Tam MuộI ở am riêng hiệu Đức Vân . MỗI đêm đến canh tư thờI ngài dậy, to tiếng niệm Phật . Các tỳ khưu giảI đãi nghe tiếng niệm Phật của ngài đều rùng mình hổ thẹn.
MỗI tháng đến ngày 23 họp kẻ tăng, ngườI tục cùng niệm Phật . số mực thường là một nghìn người. , trọn ba mươi năm như vậy.
Mùa xuân năm Tuyên Hoa ngươn niên triều Tống, một hôm ngài bảo đồ chúng rằng “ Đêm rồI tôi mơ thấy đức Phật hiện kim thân một trượng sáu thước, đó là triệu chứng tôi sẽ vãng sanh”. Liền ngày đó thỉnh bảy sư tăng đến am trợ niệm. Đến chiều ngày thứ bảy, ngài vụt đứng dậy, chắp tay to tiếng niệm Phật , rồI ngồI kiết già, bắt ấn mà tịch. Khi trà tỳ, răng của ngài còn nguyên , trắng sáng như ngọc.
Trích bộ Phật Tổ Thống Kỷ.

TỀ NGỌC
Tề Ngọc đạI sư họ Mạc ngườI Tập Xuyên . xuất gia thuở thơ ấu. Ngài sáng lắm. mỗI ngày học kinh thuộc vài nghìn chữ. Lúc đầu ngài tham học vớI Thần Chí pháp sư . Về sau ngài y chỉ nơi Từ Biện đạI sư , học chỉ thú nhứt tâm tam quán. Ngài trụ trì chùa Bửu Tạng ở Điêu Khê, lậphôi niệm Phật lớn . Kế đó ngài qua trụ Hoành Sơn , đúc tượng Phật mườI sáu thước, quản suất ngườI tăng kẻ tục tu hành.
Một hôm giữa thờI hành đạo ban đêm , ngài tha thiết bảo đạI chúng “ Chúng ta chưa biết niệm Phật, gây tạo vô lượng tộI ác. Kinh nói phạm tộI nhỏ kiết la phảI đọa địa ngục chín trăm nghìn năm chịu khổ , huống là phạm các tộI lớn thiên tụ ư ! Chỉ có nhứt tâm niệm Phật thờI trong mỗI niệm, diệt tộI trọng sinh tử trong tám mươi ức kiếp , nương đó ngõ hầu có thể thoát hẳn quả khổ tam đồ , thành tựu quả Tịnh-Độ. Huống chi cha mẹ cho chúng ta đi xuất gia , chúng ta phảI cố gắng hành đạo để độ ngườI, để báo ơn sanh thành dưỡng dục. Nếu phá giớI cùng biếng tu mà phảI bị sa đọa, thờI đâu đáng làm ngườI, lấy gì để trọn phận làm con !”. ĐạI chúng cảm động đều chí thiết sám hốI gieo mình lễ Phật , có ngườI đến bẻ trán, tắt tiếng.
Năm Tuyên Hòa thứ 6 ngài qua trụ chùa Trượng Thiên Trúc , đêm không nằm, giữa đêm độI tượng Phật trên đầu mà hành đạo. Một hôm có một ông tăng phạm luật, ngài quở rằng “ Sao ông quá dạI như súc sanh vậy!”. RồI ngài tự ăn năn rằng “Ông ấy dầu có lỗI, quở ông súc sanh làm nhục đến tam bảo”. Từ đó mỗI ngày ngài đốI trước Tam Bảo sám hốI trọn ba năm.
Mùa thu năm Kiến-Viêm ngươn-niên ngài nói vớI thủ tọa Tu Huệ rằng “ Tháp Đa Bửu Phật hiện ra trước giường tôi, xong không phảI chỗ tôi muốn. Tôi chỉ mong được gần đức Phật A-Di-Đà thôi! Ông nên vì tôi mà họp chúng tăng niệm Phật”.Thủ tọa bèn đánh chuông họp chúng tăng trên một trăm ngườI, đồng thanh trợ niệm . Giây lát ngài cúi đầu kính lễ và nói “ Đức Phật đã đến “ . RồI ngài ngồI ngay thẳng mà tịch.
Trích bộ Phật Tổ Thống Kỷ .


TƯ TỊNH
Tư Tịnh đạI sư họ Dụ, ngườI Tiền Đường , học Pháp Hoa vớI Đức Tạng pháp sư , khi đã tỏ ngộ diệu lý , ngài chuyên tâm niệm Phật , mỗI ngày tụng Quán Kinh , quán tưởng Tây phương. Ngài laapjkinh xá tiếp đãi chúng tăng.
Năm Tuyên Hòa, trong xứ có giặc loạn, ngài đi ngay đến chooxtuowngs giặc đóng, xin đem thân thế mạng cho tất cả ngườI trong thành. Tướng giặc cảm phục, chắp tay.
Ngài họa tượng Phật khéo lắm MỗI khi sắp họa, ngài vào tịnh thất niệm Phật, quán tưởng hồI lâu mớI cầm bút. Một hôm ngài họa tượng A-Di-Đà Phật, tượng Phật bỗng phóng ánh sáng lâu lắm mớI tắt. Giữa lúc tượng phóng quang, đạI chúng đều tựu đến chiêm lễ. Nhơn đó mọI ngườI đồng gọI ngài là Sụ Di-Đà.
Có ngườI hỏI ngài sao không tham thiền? ngài đáp “ Bình sanh chỉ biết niệm Di-Đà, chẳng biết tham thiền có sao đâu mafChinr đặng Ngũ Hồ trăng gió mát, thái bình mưa phảI khởI cam qua”.
Mùa đông năm Thiệu Hưng thứ bảy, triều Tống, ngài đoan tọa tưởng Phật. Bảy ngày sau ngài bỗng đứng dậy, thắp hương cúng Phật, rồI ngồI kiết già mà tịch. Đỉnh đầu ấm đến bảy ngày mà chưa lạnh. Mùi hương lạ cũng đến bảy ngày chưa tan.
Trích bộ: Phật Tổ Thống Kỷ.
Tây Hồ Cao Tăng Sự Lược.

NHƯ TRẠM
Như Trạm pháp sư họ Tiêu , ngườI Vĩnh Gia. Mẹ nằm mộng thấy tòa bảo tháp mà sanh ngài . Thuở trẻ ngài xuất gia vớI Xa Khê Khanh Pháp sư . Về sau ngài đến học vớI Huệ Giác Ngọc pháp sư ở Hoành Sơn. Tinh chuyên thể cứu, itslaau sau ngài thông cả giáo quán Thiên Thai . Ngài trụ trì chùa Thọ thánh ở Xa Khê. MỗI ngày ngoài giờ giảng dậy ngài tụng kinh Pháp Hoa một bộ, niệm Phật hai vạn câu.
Có ngườI muốn được chức tri sự, ngài không cho. NgườI ấy cố oán định giết ngài. Nửa đêm ngườI ấy mang dao vào thất của ngài . Thấy quan khách ngồI chật cả thất , ngườI ấy vộI tháo lui. Qua đêm sau ngườI ấy lạI mang dao vào thất thờI tốI tăm mặt mày, tìm không ra lốI đi. Ít hôm sau ngườI ấy cũng mang dao vào thất nữa thấy ngài phân thân ra hơn mườI ngườI, giống hệt như nhau. NgườI ấy kinh hãi bỏ chạy. RồI sau ngườI ấy đem truyện thuật lạI vớI bạn thân , nhơn đó mọI ngườI mớI rõ ngài là bậc thần dị.
Ngài ngủ rất ít. Những đêm mùa mưa ngài ở trần ngồI trong cỏ rậm , miệng tụng kinh Pháp Hoa, thí thân cho muỗI . ĐạI chúng bảo ngài tuổI đã cao, khuyên ngài nên bớt khổ hạnh. Ngài bảo “ Loài muỗI mòng ngu dạI không lãnh thọ được Phật thừa. Tôi chỉ trông mong rằng chúng nó hút máu tôi, nghe tôi tụng kinh để kết duyên Tịnh-Độ cho chúng nó mà thôi!” NgườI sau nêu chỗ ngồI cho muỗI cắn lafNooix Văn Đài ( Đài nuôi muỗI) để làm kỷ niệm. Ít lâu sau ngài từ tất cả việc . Ở rảnh rang nơi một cái am nhỏ , mỗI ngày tinh tiến trang nghiêm Tịnh Nghiệp.
Tháng 9 năm Thiệu Hưng thứ 10 , ngài vô bịnh, đoan tọa, niệm Phật như thường mà tịch. Khi trà tỳ được rất nhiều xá lợI ngũ sắc.
Ngài có soạn tập “ Tịnh-Nghiệp Ký “ và giảI bộ Quán Kinh sớ.
Trích bộ Phật Tổ Thống Kỷ.


ƯU ĐÀM
Ưu Đàm tông chủ họ Tưởng, ngườI Đơn Dương xuất gia ở Lô Sơn Đông Lâm tự Về sau ngài ở chùa Diệu Quả tạI Đơn Dương. Đầu năn Chí ĐạI triều Nguyên có chiếu chỉ truyền bãi bỏ Liên Tông. Ngài tự nói “ Tôi thân thọ giáo pháp Tịnh-Độ nơi Liên Tông gần ba mươi năm , có lẽ đâu lạI để tông này phảI mất nơi đờI tôi!” Ngài bèn lễ Phật phát nguyện quyết định khôi phục. RồI ngài soạn bộ Liên Tông Bửu Giám mườI quyển, nay rút lấy vài đoạn khẩn yếu trong bộ ấy :
Phàm ngườI tu Tịnh-Độ rõ ràng là phảI đốI dịch sanh tử, mà chẳng phảI nói mà không làm, PhảI coi đó là một công vụ rất quan trọng mà bổn phận mình phảI làm cho xong. Nên nghĩ đến vô thường mau chóng , ngày tháng chẳng chờ ai . Nếu mà nửa tin, nửa nghi, nửa tiến, nửa thoái lúc vô thường đến thờI làm thế nào ? Làm sao thoát khỏI luân hồI ? Nếu là ngườI tin thuận thờI bắt đầu từ ngày nay phát tâm đạI dũng mãnh , phát chí đạI tinh tấn. Không luận ngộ lý , không luận kiến tánh không kiến tánh, cứ một mặt chấp trì câu “ Nam mô A-Di-Đà Phật” vững chắc như tựa vào tòa núi to, không gì làm lay động được. PhảI chuyên tâm, phảI chú ý , hoặc tham cứu mà niệm, hoặc quán tưởng mà niệm Hoặc niệm luôn, hoặc mườI niệm, hoặc chuyên niệm thầm , hoặc niệm ra tiếng, hoặc xướng niệm, hoặc lễ niệm v v… Niệm nào cũng là Phật, tâm nào cũng không rờI Phật . Sáng cũng niệm, tốI cũng niệm, đi cũng niệm, ngồI cũng niệm. Không để tâm niệm luống qua, niệm Phật không rờI tâm Tất cả giờ, tất cả ngày không được buông rờI, kín đáo liền nhau Như gà ấp trứng, phảI cần hơi nóng nốI tiếp luôn. Niệm Phật được như vậy gọI là “ Tịnh niệm nốI luôn” ( Tịnh niệm tương tục) > Thêm dùng trí quan sát, rõ ràng Tịnh-Độ là tự tâm. Đây là công phu tấn tu của bực thượng trí. Dầu gặp những cảnh duyên khổ hay vui, nghịch hay thuận cũng chỉ niệm A-Di-Đà Phật , không một mẩy tâm biến đổI, không một chút niệm thốI đọa, cũng không một mẩy tạp tưởng. Nhẫn đến hơi thở cuốI cùng , quyết không một niệm tưởng nào khác, chỉ mong mỏI được về Tây-phương Cực-Lạc Thế-GiớI. Dụng công được như thế thờI vô minh, nghiệp chướng tự nhiên tiêu mất, trần lao, phiền não tự nhiên diệt hết. Tất sẽ tận mặt thấy Phật A-Di-Đà, khi lâm chung chắc chắn vãng sanh bực thượng phẩm .
Nếu ngườI niệm Phật mà phiền não chưa sạch, lúc tâm niệm xấu ác móng khởI phảI lập tức tự kiểm điểm. Nếu có những tâm niện : xan tham, sân hận,si ái, tật đó, khi dốI ngã nhơn, cống cao, ngã mạn, dua nịnh, tà kiến v v…phảI gấp to tiếng niệm Phật , nhiếp tâm nơi chánh niệm đừng để cho niệm xấu được tương tục, cho đến lúc chúng bị tiêu diệt, không còn sức tái khởI nữa. Nếu có những tâm niệm tốt như : Thâm tín, chí thành, hồI hướng, từ bi, khiêm hạ, bình đẳng, phương tiện, nhẫn nhục, trì giớI, hỷ xả, thiền định, tinh tiến, chánh định v v… nên phảI giữ gìn cho được tăng trưởng. Rất phảI nghiêm trì giớI hạnh, chớ làm việc quấy ác , chớ nuôi mèo, chồn, gà, lợn, chớ làm nghề săn bắn, chài lưới. Nên biết rằng các bậc Thượng Thiện Nhơn nơi Cực-Lạc đều do vứt bỏ tất cả điều ác , tu tập hạnh lành mà được sanh Tịnh-Độ, trụ bậc bất thoái chuyển nơi đạo Vô Thượng Bồ-Đề . NgườI niệm Phật phảI học đòi theo Phật, nên coi việc bỏ dữ làm lành là nhiệm vụ của mình.

NgườI niệm Phật muốn được sanh Tịnh-Độ phảI thường nghĩ “ Tất cả sự vật thế gian đều là vô thường : Có thành tất có hoạI, có sanh tất có tử , nếu không chuyên tu Phật pháp thờI chết đây, sanh kia luân chuyển trong tứ sanh, lục đạo không biết bao giờ được giảI thoát . Nay ta có duyên lành được nghe Phật pháp được tu Tịnh-Nghiệp, nên chuyên tâm niệm Phật, khi bỏ thân này sẽ sanh Tịnh-Độ, vào trong hoa sen báu thuần hưởng những điều vui thanh tịnh , thoát hẳn sinh tử, nhiệm vận chứng quả Bồ-Đề. Chính đó là công vụ của ĐạI trượng phu vậy. Khi vừa nhuốm bịnh liền phủI sạch thân tâm, không chút do dự, hướng về Tây Phương chuyên tưởng A-Di-Đà Phật, cùng Quán-Thế-Âm và ĐạI-Thế-Chí, rồI nhứt tâm niệm “ Nam mô A-Di-Đà Phật “ không ngớt tiếng. ĐốI vớI tất cả thế sự không được lo nghĩ đến , không được tham luyến. Nếu tạp niệm móng khởI phảI gấp xưng niệm A-Di-Đà Phật và tha thiết mong được mau sinh về Tịnh-Dộ. Được như vậy quyết định vãng sanh. Nếu là mạng số chưa mãn thờI đặng tự lành bịnh . Vì nhứt tâm niệm Phật có năng lực diệt được vô lượng tộI chướng. Cẩn thận chớ sanh lòng lưu luyến thế gian. Thân giả tạm này có còn thờI còn, có mất thờI mất, chỉ cầu cho được vãng sanh., không chút ngần ngạI như cởI đồ dơ rách, thay y phục lành sạch , vất bỏ thân phàm, bước lên Phật địa còn gì cao quí bằng.
Về sự tín tâm chơn thật mà tu hành , chính là vì muốn vãng sinh Cực-Lạc Thế-GiớI , chuyên tâm nhiếp niệm trì một câu A-Di-Đà Phật. Chỉ một niệm này là bổn sư của mình, chỉ một niệm này là hóa Phật , chỉ một niệm này là mãnh tướng phá địa ngục , chỉ một niệm này là bửu kiems chém bầy tà , chỉ một niệm này là đèn sáng lớn soi tốI tăm. , chỉ một niệm này là thuyền to, chắc qua biển khổ, chỉ một niệm này là phương thuốc thần của lương y , chỉ một niệm này là đường tắt ra khỏI tam giớI, chỉ một niệm này là bổn tánh Di-Đà, chỉ một niệm này là duy tâm Tịnh-Độ. Cố gắng làm sao ghi rõ một câu A-Di-Đà Phật này khắn nơi lòng chớ cho quên lãng. Niệm niệm thường hiện tiền , niệm niệm chẳng rờI tâm. Vô sự cũng niệm như vậy, hữu sự cũng niệm như vậy, an vui cũng niệm như vậy, bịnh khổ cũng niệm như vậy , sống cũng niệm như vậy, chết cũng niệm như vậy. Một niệm rành rành không mê mờ như vậy thờI cần gì hỏI thăm ngườI để dò đường về nhà ư ?…
Khi soạn xong ngài đưa đi cầu chứng giám khắp các bậc thạc đức , không ai có thể đổI một chữ. Ngài dâng sách lên vua nhà Nguyên , xin phục lạI giáo pháp của Liên Tông . Triều đình chuẩn y , và tôn ngài làm Tông Chủ, phụng hiệu là Hổ Khê Tôn Giả.
Đến năm Chí Thuận Ngươn niên ngài an tương viên tịch.
Trích bộ : Trấn Giang Phủ Chí
Liên Tông Bửu Giám

(trang 13)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

HUỆ HANH
Huệ Hanh luật sư tự Thanh Chiếu, xuất gia học luật ở Linh Chi. Về sau ngài trụ trì chùa Diên Thọ ở Hàng Châu, chuyên tu Tịnh Nghiệp. MỗI khi nói chuyện vớI ngườI tất là khuyên niệm Phật. Ngài xây Bửu tháp, đúc tượng Tây Phương Tam Thánh, tưởng hảo uy nghiêm , ai cũng khen là bực nhứt.
Một hôm ông Giang Tự Nhiệm mơ thấy Thánh Tăng tay cầm bửu tòa từ trên hư không giáng xuống nói “ Huệ Hanh Luật Sư sẽ ngồI tòa này”. Chính ngày này, vừa lúc Tôn cư sĩ, mootjhooij hữu trước đã đến từ biệt ngài, rồI ông ở tai nhà, đoan tọa kiết ấn mà qua đời. Ngài qua nhà Tôn cư sĩ thăm rồI trở về chùa bảo đạI chúng “ Tôn đạo hữu đã đi, tôi cũng đi “. ĐạI chúng họp đến niệm Phật, ngài nói kệ rằng

Di Đà luôn luôn niệm
Bạch hào tâm tâm tưởng
Nắm chặt, lòng chẳng thoái
Quyết định sanh An Dưỡng.

Dứt lờI ngài đoan tọa mà thị tịch .


SƯ NI DIỆU THÀNH
Sư ni Diệu Thành con họ Hà ở Hồ Châu. Cô bẩm tánh thông minh. Mẹ cô thờ Phật. Lúc còn thơ bé, mỗI khi thấy mẹ lễ Phật, niệm Phật , cô liền chắp tay niệm theo mẹ. Năm 21 tuổI cô về làm dâu họ Vương. Chưa đầy nửa năm chồng chết. Cha chồng vốn là một cư sĩ ăn chay, niệm Phật. Nhà chông nghèo cô phảI làm việc để cung phụng cha mẹ chồng. Sáng sớm và tốI, cô tụng kinh Hoa Nghiêm, niệm Phật, định làm thờI khóa thường ngày. TrảI qua hơn 10 năm như vậy. Về sau cha chồng xuất gia làm sư tăng. Mẹ chồng qua đờI, cô bèn đến xuất gia làm ni tạI am Quảng Nghiêm. Sau khi thọ cụ túc giớI , cô giữ gìn giớI hạnh tinh nghiêm, càng chuyên chí tụng kinh niệm Phật.
Năm Gia Khánh thứ 19 triều Thanh, co nhuốm bịnh sơ sài , bảo đạI chúng rằng “ TuổI đờI của tôi đã mãn, ba ngày sau tôi sẽ về Tây Phương. ĐạI chúng nên gắng sức tu trì sau này hoặc còn có lúc được gặp nhau. Chớ quên lờI dặn của tôi. “ Đến ngày thứ ba, giữa lúc cô doan tọa niệm Phật , cô bỗng ngước đầu lên nói “ Đức A-Di-Đà Phật dã đến rước, tôi xin đi “. Dút lờI cô liện nhắm mắt mà tịch, được 47 tuổi.
Trích Nhiễm Hương Tục Tập.

NI ĐẠO CÀNG
Sư ni Đạo Càng họ Trần , tự Thế Thiền , ngườI Gia Hòa. Năm 17 tuổI, cô xuất gia tạI La Am ở Tú Châu. Tánh cô thích ở riêng vắng vẻ. Cô xem truyện cơ duyên của cổ đức , bèn phát chí hướng thượng . Sau khi thọ cụ túc giớI , cô đến chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai , tham thiền lý ở Bửu Lâm đạI sư. Khi ra mắt đạI sư cô liền hỏI
- Thế nào là đạI nhơn tướng ?
ĐạI sư bảo :
- Chờ đến lúc ngươi trừ bỏ ngũ chướng ta sẽ nói cho.
Cô nói
- Dữ không, thế thờI đã gạt hòa thượng đấy.
ĐạI sư bảo
- Ngươi học ở đâu được cái thứ hư đầu thiền ấy thế ?
Cô bất giác toát mồ hôi ướt cả lưng, thoạt nhiên tỏ ngộ, bèn đảnh lễ . ĐạI sư gạn trở lạI :
- Thế nào là tướng đạI nhơn ?
Cô liền giang thẳng hai tay. ĐạI sư ấn khả.
Cô đã được tỏ lý, không đi tham học nữa , ở một am tranh nơi Nam Hồ Am ấy dột nát, cô vẫn ở an. Ngôn hạnh chơn thật, cảnh thuận, cảnh nghịch không động lòng. Lễ Hoa Nghiêm kinh , một chữ một lạy , được mãn ba bộ. Tụng đạI phẩm Bát Nhã được vài mươi bộ . Lần lần đạo hạnh của cô truyền lan, thí chủ vân tập . Không bao lâu mà bên am tranh dột, rách đã mọc lên những điện, đường đồ sộ. Co lập niệm Phật đường , hợp chúng niệm Phật , gần bốn mươi năm , ngày đêm tiếng chuông, mõ không ngớt. Cô có bài kệ tự thuật :

Học đạo chuyên cần, năm lạI năm
Từ nay chẳng chấp có , không gì.
Về nhà mựa chớ ngồI nhà mãi
Sốt sắn vì ngườI chủng thiện căn.

Mùa đông năm Gia Khánh thứ 25 cô nhuốm bịnh nhẹ. Ngày 11 tháng 11 cô nói “ ngày mai giờ dần tôi sẽ đi “. ( chỗ này bị rách chữ được, chữ không. Tôi cố chép lạI, có thể không đúng nguyên bản). Hôm sau đến giờ dần. cô nói “ Tám mươi tám năm không chút tiếc luyến. Nay trở về nhà , nước trong trăng hiện “ . RồI cô bảo chúng đồng thanh niệm Phật. Giây lát cô nằm nghiêng bên hữu mà tịch.
Ôi có Thiền, có Tịnh lạI hiện nơi nữ lưu . Hy hữu thay.

Trích Nhiễm Hương Tập

NI LAN NHÃ
Sư ni Lan Nhã họ Trần , ngườI Ninh Quốc. Chồng cô xuất gia làm tăng ở chùa Tây Thiền . Cô cũng xuất gia làm ni ở am Tam thừa. Ít lúc sau cô qua ử am Lan Nhã , nhơn đó mà được tên. Ban ngày cô tùy ni chúng lo việc am, Ban đêm cô riêng đoan tọa niệm Phật. Cô thích khổ hạnh ăm mặc đạm bạc. Anh ruột cô có lúc gởI cơm áo đến cho, cô từ mà nói rằng “ Tôi đã xuất gia, nếu thường cùng anh em qua lạI thờI khác gì tạI gia “.
Về sau cô vô bịnh, đoan tọa niệm Phật mà vãng sanh. Nhằm tiết nóng nực, đến bảy ngày mà thây co không sình hư.

Trích Nhiễm Hương Tập


ĐẠO NGỘ
Sư ni Đạo Ngộ tự Huệ Tâm , họ Uông, ngườI Tông Giang. Cha mất sớm không có anh em, cô ở cùng vớI mẹ và bà nộI. Nhà nghèo lắm. cô không lấy chồng , sớm tốI phụng dưỡng mẹ và bà. Ít lâu sau cô xuất gia tạI am Kiết Tường. Năm …… cô thọ cụ túc giớI, ngày đêm tinh tấn , giữ gìn giớI hạnh.
Tháng sáu năm ….. thứ 13, mẹ cô niệm Phật mà mất cách 7 ngày sau bà cô cũng qua đời. Đến mùng 5 tháng 8 cô thỉnh Đạo Sanh hòa thượng mà bạch rằng “ Việc lớn đã xong, con muốn về Tịnh-Độ, xin hòa thượng sắm cho một cái khánh . Và ngày mai nhờ chúng niệm Phật một ngày, để giúp con vãng sanh”. Chiều hôm ấy cô tắm gộI sạch sẽ . Sáng ngày chúng họp niệm Phật suốt một ngày. Đến tốI cô bảo mọI ngườI “ Đức Phật đến tiến dẫn tôi”. RồI cô ngồI kiết già mà tịch.
Trích : Thánh Hiền Lục Tục Biên.



NI NHƯ TRÍ
Sư ni Như Trí hiệu Lễ Tuyền , họ Vương, ngườI Kinh Triệu. Cô ăn chay từ bé, thích nghe tụng kinh niệm Phật. Thấy ngườI chị họ xuất gia ở núi tu hành , cô ham mộ lắm song vì cha mẹ quá yêu nên cô chưa dám nói. Cô thường lên núi ở vớI chị, độI củI, gánh nước, ăn tương rau.
Năm 18 tuổI, cô mang bịnh nặng, thuốc mem vô hiệu. Trong lúc hôn mê, cô chỉ đòi cạo tóc xuất gia, chớ không nói chi khác. Vì quá lo sợ nên cha mẹ đặt bàn hương án nguyện chư Phật gia hộ cho cô lành mạnh và hứa sẽ cho cô xuất gia. Bịnh cô tự nhiên giảm dần , ít hôm sau là cô được mạnh. Năm 21 tuổI cô cầu Đồng Bảo lão hòa thượng thế độ, rồI mùa đông năm ấy cô càu thọ giớI. Sớm tốI cô lễ sám học luật rất chuyên cần, bỗng bịnh xưa tái phát. Cô gượng bịnh thọ mườI giới. GiớI sư thương xót bảo cô về chùa điều dưỡng, chờ lành mạnh sẽ thọ cụ túc giới.
Về đến chùa bịnh thêm nặng không thể chữa, nhưng cô vẫn luôn niệm Phật không ngớt tiếng. Một hôm cô mở mát ngó lên hư không và chắp tay , miệng to tiếng ba lần xưng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, đồng thờI xasba xá , rồI cô yên lặng mà qua đời. Bấy giờ nhằm ngày 17 tháng 11 năm Dân Quốc thứ 8.

Trích Cận ĐạI Vãng Sanh Truyện.


(TRANG 15)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.29 khách