Khai Thị Niệm Phật Của Triệt Ngộ Đại Sư (Rất Hay)

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Thiệnthông
Bài viết: 240
Ngày: 16/10/08 14:55
Giới tính: Nam
Đến từ: USA
Nghề nghiệp: www.phatam.com

Khai Thị Niệm Phật Của Triệt Ngộ Đại Sư (Rất Hay)

Bài viết chưa xem gửi bởi Thiệnthông »

ĐẠI SƯ TRIỆT NGỘ
Tổ liên tông thứ mười hai - đời Thanh


Trích từ: Ngôn Hạnh Cao Đẹp Của 13 Vị Tổ Liên Tông
Nguyên tác: Lương Vĩnh Khang
Việt dịch: Thích Nguyên An

1.
Một là thật vì sanh tử mà phát tâm Bồ Đề, đó là học đạo chơn chánh.

Hai là lấy tín nguyện thâm sâu, trì danh hiệu Phật làm chánh tông Tịnh độ.

Ba là lấy sự nhiếp tâm chuyên chú niệm làm phương tiện hạ thủ công phu.

Bốn là lấy việc chiết phục phiền não đang hiện hành làm sự tu tâm chính yếu.

Năm là lấy sự chuyên trì bốn luật nghi chính yếu làm chỗ căn bản nhập đạo.

Sáu là lấy các pháp khổ hạnh làm việc trợ duyên tu đạo.

Bảy là lấy sự nhất tâm bất loạn làm chỗ quay về của Tịnh độ.

Tám là lấy sự trông thấy các linh ảnh tốt đẹp làm chỗ nghiệm chứng vãng sanh.

Tám điều trên đây, người tu Tịnh nghiệp không thể không biết.

2. Một câu A Đi Đà Phật là thuốc A già đà, không có bệnh nào mà không trị lành; là vua ngọc châu như ý, không có nguyện nào mà không được thỏa mãn; là thuyền Từ vượt qua biển khổ sanh tử, không có khổ nào mà không được độ thoát; là đèn trí tuệ soi sáng vô minh tăm tối, không có bóng tối nào mà không bị chiếu tan. Chỉ cần một lần nghe qua câu Phật hiệu là đã có duyên, chỉ cần một niệm tín tâm liền có thể tương ưng với Phật. Tín tâm chơn thật, lúc nào cũng nguyện mong được vãng sanh. Trong tâm thường trụ hai pháp tín - nguyện này, như trung thần phụng mạng mật chỉ của minh quân, như đứa con hiếu thảo vâng lời đấng cha lành, nhớ nghĩ không quên làm một việc vô cùng trọng yếu, thì cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, yên tĩnh hay náo nhiệt, thảnh thơi hay bận rộn, niệm nhiều hay niệm ít, nói chung đều là chánh nhân vãng sanh. Chỉ sợ không nhiệt tâm thực hành mà thôi. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta mãi ở trong vòng sanh tử luân hồi, lẽ nào không phát tâm cầu xuất ly, tu hạnh hướng đạo! Vì chạy theo sự biếng nhác thoái hóa cho nên chúng ta mới ở mãi trong biển sanh tử, chịu vô lượng khổ não. Nay được nghe pháp môn trì danh giản yếu, nhưng nếu vẫn đi theo lối cũ bại hoại, không có tâm huyết chí khí thì sao có thể gọi là bậc Đại Sĩ đệ nhất được!

3. Niệm Phật nên sanh bốn loại tâm. Những gì là bốn?

Một là nên sanh tâm hổ thẹn, sám hối những nghiệp từ vô thỉ đến nay mình đã tạo.

Hai là nên sanh tâm vui thích khi được nghe Pháp môn này.

Ba là tự thương xót mình, vì nghiệp sâu dầy nên không gặp được Pháp môn này sớm.

Bốn là nên sanh tâm cảm kích lòng từ bi như thị của Phật.

Trong bốn loại tâm này, chỉ cần có một tâm thì cũng có thể thành tựu Tịnh nghiệp. Niệm Phật cần phải dài lâu liên tục, không được gián đoạn. Gián đoạn thì Tịnh nghiệp không thể thành tựu. Dài lâu phải nên dũng mãnh, không được biếng nhác. Biếng nhác thì Tịnh nghiệp không thể thành. Dài lâu mà không dũng mãnh tức là thối đọa. Dũng mãnh mà không dài lâu tức là không tiến bộ.


Hình đại diện của người dùng
Liên Hoa Tịnh Độ
Bài viết: 46
Ngày: 21/04/11 01:47
Giới tính: Nam

Re: Khai Thị Niệm Phật Của Triệt Ngộ Đại Sư (Rất Hay)

Bài viết chưa xem gửi bởi Liên Hoa Tịnh Độ »

A DI ĐÀ PHẬT!
tangbong tangbong tangbong


Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà
Niệm bất nhất bất sanh Tịnh Độ!
Hình đại diện của người dùng
gioidinhtue
Bài viết: 747
Ngày: 09/09/08 21:01
Giới tính: Nam
Đến từ: VietNam
Nghề nghiệp: Con Xin Dập Đầu Trăm Ngàn Lạy Cầu Xin Chúng Sanh Tin Phật Niệm Phật Cầu Vãng Sanh Tây Phương Thoát Khỏi Biển Luân Hồi Dài Vô Tận . Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật !
Được cảm ơn: 1 time

Re: Khai Thị Niệm Phật Của Triệt Ngộ Đại Sư (Rất Hay)

Bài viết chưa xem gửi bởi gioidinhtue »



NIỆM PHẬT

Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

Ðạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu, là một biện chứng giải thoát, một con đường giải thoát. Giải thoát hết phiền não, hết bát khổ, ra ngoài tam giới tức là cõi dục, cõi sắc và vô sắc. Chân lý mà Ðức Phật diễn giải rất là hiển nhiên dễ dàng, nhưng cũng rất là huyền nhiệm mênh mang. Chân lý ấy có thể thu gọn trong một chữ Tâm hay chữ Như cũng được, nhưng nếu giải ra nói suốt một kiếp cũng chưa hết.

Pháp môn của đạo Phật cũng vô lượng, và đạt đến những tam muội giải thoát cũng vô lượng. Một vị hành giả có thể ngồi trong buồng, nơi rừng vắng hoặc bãi tha ma, quán lẽ Thập Nhị Nhân Duyên, quán Ngũ Uẩn, quán Sương Khô, quán Âm Thanh, quán mùi hương, như lối chín năm quay mặt vào vách của Ðức Ðạt ma, hoặc có thể niệm một câu Nam Mô A Di Ðà Phật hay chỉ một chữ Phật cũng được.

Pháp môn tuy rất nhiều, nhưng tựu trung chỉ có hai đường: một là tu Quán dùng Thiền Ðịnh và Trí huệ Bát Nhã để soi suốt lẽ vô thường của muôn vật; hai là tu Tịnh Ðộ, níu lấy câu niệm Phật và dùng lòng sùng kính tôn thờ để đạt tới bờ giải thoát. Lối thứ nhất là dùng Tự -Lực; lối thứ hai là nhờ Tha lực, tức là thần lực của chư Phật và Bồ Tát. Lối thứ nhất cũng gọi là "nan hành đạo", còn lối thứ hai là "dị hành đạo" tức là con đường dễ đi.

Thực ra thì Thiền Tông hay Tịnh Ðộ cũng đều độc đáo, và sự khó hay dễ chỉ là do căn duyên của từng hành giả và vạn kiếp của đạo. Thời này, theo Kinh Phật, là thời mạt kiếp, căn cơ thường thấp kém, nên tu tự lực khó và tu theo lối niệm Phật thì dễ hơn.

Lối tu Tịnh Ðộ là phát xuất từ Kinh A Di Ðà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Ðiểm đặc biệt của Kinh A Di Ðà là trong kinh này, tuyệt nhiên không có một vị nào cầu Pháp cả, mà tự nhiên Ðức Phật nói ra kinh này. Tại sao vậy? Chỉ là vì trong khi vào tam muội, Ðức Phật nhìn thấy rõ ràng đến thời mạt kiếp, căn cơ chúng sinh thấp kém, lòng tin băng hoại, kinh sách mất dần, nên Ngài động lòng từ bi, tự ý nói ra một pháp môn dễ nhớ và dễ tu, vì chỉ cần nhờ một câu: A Di Ðà Phật. Ðiểm cảm động nhất trong kinh là đức Phật đã phải thè lưỡi ra thề thốt về sự hiệu lực của pháp môn này. Không những riêng Ðức Thích Ca thề mà cả chư Phật mười phương cũng thề. Tại sao vậy? Vì Ðức Phật e ngại rằng chúng sinh thấy pháp môn này giản dị quá mà hoài nghi, nên chư Phật đã thề.

Vả lại tu thiền định theo lối tự lực không, mà không kèm theo câu niệm Phật thì dễ bị ngã vì ma chướng. Xem như Kinh Lăng Nghiêm, ông A Nan đã gần tới bậc A La Hán và đa văn hạng nhất , cũng còn bị ma chướng là người kỳ nữ Ma Ðăng Gìa cám dỗ. Khiến Ðức Phật phải sai chính Ðức Văn Thù mang chú Lăng Nghiêm đến giải cứu. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật cũng kể rõ năm mươi món ma chướng mà người hành giả tu quán "Ngũ Uẩn Giai Không" dễ mắc phải... Cũng vì thế mà ở Trung Hoa hay Việt Nam, một thiền viện thường có "Niệm Phật Ðường", và rất nhiều vị Thiền Sư bản lãnh cao với vẫn phải tu thêm câu niệm Phật. Vì có câu niệm Phật, mới tránh khỏi ma chướng, gột được lòng kiêu mạn và mới có thể vãng sanh sang một cõi đất lành.

Nhờ thần lực của Ðức Di Ðà, Ðức Thích Ca và Chư Phật mới được vãng sanh và đỡi bị đoạ. Người tu thiền tự lực, càng cao bao nhiêu càng dễ bị đoạ bấy nhiêu. Chỉ động một niệm tà như tự kiêu, hoặc thèm ăn, hoặc động một niệm dâm dục là có thể bị đọa. May thì trở lại làm người, không may sẽ đọa hơn nữa. Sử chép rất nhiều chuyện như vậy. Như ông Tô Ðông Pha kiếp trước là một thiền sư khá lỗi lạc, nhưng một lúc ngồi thiền chợt động niệm thanh sắc, nhớ tiếng hát của kỳ nữ, nên kiếp sau chỉ làm một thi sĩ không còn nhớ đến những chủng tử thiền của kiếp trước nữa. Ấy là đọa nhẹ.

Có một vị tiên tu thiền, trước kia trong lúc ngồi thiền, chợt nhớ đến mái tóc một vị hoàng hậu rồi lại đâm cáu giận với một con qụa kêu làm rối loạn sự thiền định của mình, mà đến kiếp sau bị đọa làm thân con phi-ly tức là con chồn, mặc dầu ông ta nhiều bản lãnh... Sở dĩ bị đọa là vì một khi vào bào thai, đến bậc La Hán hoặc sơ Bồ tát cũng vẫn bị mê muội và quên mất bản lãnh của mình. Chỉ có những bậc Bồ Tát cao và chư Phật lúc vào bào thai mới không bị mê muội mà thôi.

Thần lực của câu niệm Phật và của chư Phật có thể ví như một chiếc thuyền lớn, chở hộ cho hành giả những nghiệp sâu dày, hoặc làm tiêu tan dần nghiệp đó. Nên có thể "đới nghiệp vãng sanh". Người tu niệm Phật cũng thường được chuyển nghiệp, chuyển nghiệp nặng ra nghiệp nhẹ. Có một vị cư sĩ suốt đời tu niệm Phật, đến lúc già bị bọn cướp vào đâm cho ông sáu lát dao. Ông nằm hấp hối. Người anh hỏi: "Sao chú niệm Phật mà lại bị nạn này?" Cư sĩ mở mắt ra nói: "Em được chuyển nghiệp. Theo nghiệp cũ, đáng lẽ em phải đọa làm sáu kiếp súc sinh. Nay sáu lát dao này thay cho sáu kiếp lúc sanh. Bây giờ, em sạch nghiệp rồi và em vãng sanh đây." Nói xong thì chết.

Niệm Phật là luôn luôn xưng danh hiệu Ðức A Di Ðà và giữ trong tâm một hình bóng của Phật. Ðó cũng là một lối thiền, nhưng là thiền về hình bóng của Phật và niú lấy danh hiệu Phật làm một bóng cả để nương nhờ.... Trên thực tế, người hành giả nên tu vừa thiền vừa tịnh. Một phần thiền, và phần chính yếu là tịnh. Thiền có điểm lợi là mình dễ tế nhận được "cái thấy" của tâm thức, "cái thấy" này được kinh Lăng Nghiêm giảng rất rõ. Còn phần tu tịnh thì nhờ được thần lực của chư Phật và Bồ tát...

Kẻ viết giòng này, trước kia ham đọc thiền, và ngu muội coi nhẹ câu niệm Phật, cho đó là lối tu của mấy bà già nhà quê. Nhưng rồi ngồi thiền thấy như leo vách đá, không biết niú vào đâu. Sau hiểu ra nhờ đọc cuốn Lá Thơ Tịnh Ðộ của Ngài Ấn Quang và nhung sach cua Thuong Tọa Trí Tịnh và Thiền Tâm (đều ở lại Việt Nam, một vị ở Thủ Ðức, một vị ở Blao). Viết những giòng này để tưởng nhớ hai vị Thượng Tọa.

http://www.hoakhaikienphat.com/sachtinh ... mphat1.htm


“Tâm hiếu là tâm Phật,
Hạnh hiếu là hạnh Phật”
Nhiếp cả sáu căn
Tịnh niệm tiếp nối
Bất lập phương tiện
Tự đắc tâm khai
http://www.chuakimquang.com/vn/
http://www.dharmasite.net/KhaiThiveAiDuc.htm
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.39 khách