U Khê Vô Tận Pháp Sư Tịnh Độ Pháp Ngữ
Đã gửi: 24/07/07 19:17
TỊNH ĐỘ PHÁP NGỮ
(Nguyên tựa U Khê Vô Tận Pháp Sư Tịnh Độ Pháp Ngữ. Trích Tục Tạng Kinh, Tập 108, trang 0858-0862 – TMQT dịch).
Phàm pháp môn tu hành như thuốc trị bệnh. Đức Như lai đối bệnh cho thuốc, thuốc tùy theo bệnh, số nhiều như cát sông Hằng. Nhưng pháp môn thẳng tắt, giản dị không chi hơn pháp môn “niệm Phật cầu sanh Tịnh độ”. Cho nên nói rằng, đây là pháp bí yếu mau thành Chánh giác. Chỉ vì tu pháp này nương theo ba lực (một tự lực, hai tha lực, ba bổn hữu công đức lực) để thoát ly sanh tử.
Người tham Thiền chỉ cầu minh tâm kiến tánh, phá lưới vô minh, khô sông phiền não, thoát biển ái dục, thành Phật làm Tổ, đó là tự lực, là bậc đại hảo hán, chính thật đại trượng phu. Khi Phật còn tại thế và thời kỳ Chánh pháp chư đại Bồ tát, Thanh Văn, Tổ sư chính là hạng người này. Thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp, căn khí chúng sanh phần nhiều hạ liệt, tuy có tu mà chẳng ngộ, dù có ngộ cũng không tinh. Bên trong chiếu soi tợ hồ giải thoát, nhưng khi đối cảnh gặp duyên liền bị cảnh duyên chi phối. Dù chẳng toàn mê nhưng cũng như đồ gốm chưa nung. Cho nên nói: “Bồ tát hôn mê khi cách ấm, sơ quả còn muội lúc vào thai.” Huống nữa là hàng chuyển địa phàm phu, làm sao tránh khỏi chẳng trôi theo dòng sanh tử. Cho nên pháp môn tự lực, đời nay tu hành phần nhiều chẳng có công năng đoạn trừ phiền não, không có hiệu quả thoát ly sanh tử. Một phen lầm lở, trăm vạn lần sai, thật đáng chạnh lòng!
Cho nên, đức Phật thương xót chúng sanh, nói pháp môn niệm Phật là pháp mầu nhiệm nương theo tha lực thoát ly luân hồi. Pháp này Kinh Luận chỉ quy, chư Phật, Bồ tát nhiều phen nhọc lòng xưng tán, ân cần dặn dò, khổ khẩu khuyến tu; Chư Tổ sư hoằng dương lưu thông khiến trời người đều quy kính. Trong tất cả các pháp môn chỉ riêng pháp môn “niệm Phật cầu sanh Tây phương” này là cứu cánh. Kinh luận xưa nay, lời lời đều xương minh lý “duy tâm Tịnh độ”, câu câu đều diễn nói lý “bản tánh Di Đà”. Ngộ được điều này thì tâm chúng sanh cùng tâm Phật bình đẳng; đất tâm cùng đất Phật không hai. Tu như vậy sẽ đạt được diệu quán cùng diệu cảnh tương hợp, tự lực cùng tha lực gồm thâu. Huống nữa, bản tánh tự có công đức, từ vô thỉ vốn đã trọn đủ, nay nhờ tu tập nên được chiếu sáng rực rỡ. Nhiều kiếp tích lũy nương đây tỏ bày (đốn phát). Báo thân Ta bà vừa mãn, cõi Tịnh độ liền hiển bày, hoa Sen hóa sanh, chẳng còn bị hôn mê khi cách ấm. Một phen sanh về Tây phương liền chứng ngôi bất thối, vĩnh kiếp thọ dụng. Cho nên kinh nói: “Phàm chúng sanh sanh về cõi nước kia đều là bậc “A bệ bạt trí”, số ấy rất nhiều.” So sánh ở cõi Ta-bà tu đạo, trần cảnh thô cường (thô bạo mạnh mẽ), hiểm nạn, đường ác không nơi nào chẳng có, cho nên sự tu ở cõi Ta-bà không giống như tu ở cõi Cực-lạc. Nhưng nói không khó mà hành mới khó; hành không khó mà vãng sanh mới khó. Đó là lời thành thật của người xưa chúng ta nên tôn trọng.
Dương Thứ Công nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Ta bà; niệm chẳng nhất chẳng sanh Tịnh độ.” Phàm mỗi khi niệm Phật phải một lòng mẫn thiết như con thơ nhớ mẹ, chuyên tâm không tán loạn. Hoặc như hay quên chẳng thường niệm, hoặc niệm mà chẳng nhất tâm thì chẳng chi khác đó chính là do tình ái kéo lôi. Nếu có thể xem nhẹ tình ái thì sẽ đánh bạt vọng tưởng, trảm đoạn tình trần, thoát ly ái võng, vĩnh đoạn luân hồi. Như khi niệm mà vẫn hay quên chẳng thường nhớ niệm, quên lại càng quên khiến cho tâm niệm Phật bị vô số gián đoạn thì cũng chẳng chi khác chính vì tâm chưa chuyên nhất. Tại cõi Ta bà nếu niệm ái chẳng thể xem nhẹ thì khi lâm chung sẽ bị niệm ái này kéo lôi. Một niệm tham đắm còn khiến đến nổi ấy huống nữa là nhiều ư? Một niệm cầu sanh Cực lạc nếu chẳng tha thiết chuyên nhất thì khi lâm chung sẽ bị niệm này lay chuyển. Một niệm còn vậy huống nữa là nhiều?
Niệm ái có nặng có nhẹ, có mỏng có dầy, có chánh báo có y báo. Nay xin lược cử như: cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cháu, Thầy bạn, công danh, phú quý, văn chương, thi phú, đạo thuật, kỹ nghệ, áo quần, ăn uống, nhà cửa, ruộng vườn, sông núi, ao hồ, cỏ hoa, châu báu v. v.. nếu nói cho tận cùng thì chẳng bao giờ hết vậy. Tóm lại, từ lớn như núi Thái Sơn cho đến nhỏ như lông chim Hồng, nếu có một vật mà chẳng thể quên, đó chính là ái; Dù chỉ một niệm nhỏ mà chẳng thể bỏ đó cũng chính là ái. Nếu một niệm ái vẫn còn ôm ấp trong lòng thì niệm Phật tự chẳng thể nhất tâm, nếu một niệm chẳng thể quy nhất thì khó thể vãng sanh vậy...
còn tiếp
(Nguyên tựa U Khê Vô Tận Pháp Sư Tịnh Độ Pháp Ngữ. Trích Tục Tạng Kinh, Tập 108, trang 0858-0862 – TMQT dịch).
Phàm pháp môn tu hành như thuốc trị bệnh. Đức Như lai đối bệnh cho thuốc, thuốc tùy theo bệnh, số nhiều như cát sông Hằng. Nhưng pháp môn thẳng tắt, giản dị không chi hơn pháp môn “niệm Phật cầu sanh Tịnh độ”. Cho nên nói rằng, đây là pháp bí yếu mau thành Chánh giác. Chỉ vì tu pháp này nương theo ba lực (một tự lực, hai tha lực, ba bổn hữu công đức lực) để thoát ly sanh tử.
Người tham Thiền chỉ cầu minh tâm kiến tánh, phá lưới vô minh, khô sông phiền não, thoát biển ái dục, thành Phật làm Tổ, đó là tự lực, là bậc đại hảo hán, chính thật đại trượng phu. Khi Phật còn tại thế và thời kỳ Chánh pháp chư đại Bồ tát, Thanh Văn, Tổ sư chính là hạng người này. Thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp, căn khí chúng sanh phần nhiều hạ liệt, tuy có tu mà chẳng ngộ, dù có ngộ cũng không tinh. Bên trong chiếu soi tợ hồ giải thoát, nhưng khi đối cảnh gặp duyên liền bị cảnh duyên chi phối. Dù chẳng toàn mê nhưng cũng như đồ gốm chưa nung. Cho nên nói: “Bồ tát hôn mê khi cách ấm, sơ quả còn muội lúc vào thai.” Huống nữa là hàng chuyển địa phàm phu, làm sao tránh khỏi chẳng trôi theo dòng sanh tử. Cho nên pháp môn tự lực, đời nay tu hành phần nhiều chẳng có công năng đoạn trừ phiền não, không có hiệu quả thoát ly sanh tử. Một phen lầm lở, trăm vạn lần sai, thật đáng chạnh lòng!
Cho nên, đức Phật thương xót chúng sanh, nói pháp môn niệm Phật là pháp mầu nhiệm nương theo tha lực thoát ly luân hồi. Pháp này Kinh Luận chỉ quy, chư Phật, Bồ tát nhiều phen nhọc lòng xưng tán, ân cần dặn dò, khổ khẩu khuyến tu; Chư Tổ sư hoằng dương lưu thông khiến trời người đều quy kính. Trong tất cả các pháp môn chỉ riêng pháp môn “niệm Phật cầu sanh Tây phương” này là cứu cánh. Kinh luận xưa nay, lời lời đều xương minh lý “duy tâm Tịnh độ”, câu câu đều diễn nói lý “bản tánh Di Đà”. Ngộ được điều này thì tâm chúng sanh cùng tâm Phật bình đẳng; đất tâm cùng đất Phật không hai. Tu như vậy sẽ đạt được diệu quán cùng diệu cảnh tương hợp, tự lực cùng tha lực gồm thâu. Huống nữa, bản tánh tự có công đức, từ vô thỉ vốn đã trọn đủ, nay nhờ tu tập nên được chiếu sáng rực rỡ. Nhiều kiếp tích lũy nương đây tỏ bày (đốn phát). Báo thân Ta bà vừa mãn, cõi Tịnh độ liền hiển bày, hoa Sen hóa sanh, chẳng còn bị hôn mê khi cách ấm. Một phen sanh về Tây phương liền chứng ngôi bất thối, vĩnh kiếp thọ dụng. Cho nên kinh nói: “Phàm chúng sanh sanh về cõi nước kia đều là bậc “A bệ bạt trí”, số ấy rất nhiều.” So sánh ở cõi Ta-bà tu đạo, trần cảnh thô cường (thô bạo mạnh mẽ), hiểm nạn, đường ác không nơi nào chẳng có, cho nên sự tu ở cõi Ta-bà không giống như tu ở cõi Cực-lạc. Nhưng nói không khó mà hành mới khó; hành không khó mà vãng sanh mới khó. Đó là lời thành thật của người xưa chúng ta nên tôn trọng.
Dương Thứ Công nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Ta bà; niệm chẳng nhất chẳng sanh Tịnh độ.” Phàm mỗi khi niệm Phật phải một lòng mẫn thiết như con thơ nhớ mẹ, chuyên tâm không tán loạn. Hoặc như hay quên chẳng thường niệm, hoặc niệm mà chẳng nhất tâm thì chẳng chi khác đó chính là do tình ái kéo lôi. Nếu có thể xem nhẹ tình ái thì sẽ đánh bạt vọng tưởng, trảm đoạn tình trần, thoát ly ái võng, vĩnh đoạn luân hồi. Như khi niệm mà vẫn hay quên chẳng thường nhớ niệm, quên lại càng quên khiến cho tâm niệm Phật bị vô số gián đoạn thì cũng chẳng chi khác chính vì tâm chưa chuyên nhất. Tại cõi Ta bà nếu niệm ái chẳng thể xem nhẹ thì khi lâm chung sẽ bị niệm ái này kéo lôi. Một niệm tham đắm còn khiến đến nổi ấy huống nữa là nhiều ư? Một niệm cầu sanh Cực lạc nếu chẳng tha thiết chuyên nhất thì khi lâm chung sẽ bị niệm này lay chuyển. Một niệm còn vậy huống nữa là nhiều?
Niệm ái có nặng có nhẹ, có mỏng có dầy, có chánh báo có y báo. Nay xin lược cử như: cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cháu, Thầy bạn, công danh, phú quý, văn chương, thi phú, đạo thuật, kỹ nghệ, áo quần, ăn uống, nhà cửa, ruộng vườn, sông núi, ao hồ, cỏ hoa, châu báu v. v.. nếu nói cho tận cùng thì chẳng bao giờ hết vậy. Tóm lại, từ lớn như núi Thái Sơn cho đến nhỏ như lông chim Hồng, nếu có một vật mà chẳng thể quên, đó chính là ái; Dù chỉ một niệm nhỏ mà chẳng thể bỏ đó cũng chính là ái. Nếu một niệm ái vẫn còn ôm ấp trong lòng thì niệm Phật tự chẳng thể nhất tâm, nếu một niệm chẳng thể quy nhất thì khó thể vãng sanh vậy...
còn tiếp