QUÁN NIỆM A DI ĐÀ PHẬT
TƯỚNG HẢI TAM MUỘI CÔNG ĐỨC PHÁP MÔN
Đời Đường, Tỳ Kheo Thiện Đạo tập ký
Thích Pháp Chánh dịch
(Tường Quang Tùng Thư số 8 ấn tống, Phật lịch 2553 - T.L. 2009, trang 225 - 262)
- 1. Y vào Quán Kinh nói rõ pháp Quán Phật Tam Muội
2. Y vào Bát Chu Tam Muội Kinh nói rõ pháp Niệm Phật Tam Muội
3. Y vào kinh nói rõ vào đạo trường Niệm Phật Tam Muội
4. Y vào kinh nói rõ pháp sám hối phát nguyện trong đạo trường
- 1. Y vào Quán Kinh nói rõ pháp Quán Phật Tam Muội
1. Y vào Quán Kinh nói rõ pháp Quán Phật Tam Muội
(Xuất từ Quán Kinh và Quán Phật Tam Muội Hải Kinh)
Quán thân chân kim sắc của Phật A Di Đà, viên quang soi thấu khắp nơi, đoan chánh không thể so lường. Hành giả, ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, cũng phải thường quán tưởng điều này. Hành giả lúc nằm lúc ngồi cũng phải quán tưởng, thường giữ ý tưởng hướng về phương tây, và cũng phải quán tưởng sự trang nghiêm của chư thánh chúng và của cõi Cực Lạc, dường như đối trước mắt.
Hành giả, nếu muốn tọa thiền, trước tiên cần phải ngồi kết già, chân trái đặt trên đùi bên phải, đừng để so le. Chân phải đặt trên đùi bên trái, đừng để so le, bàn tay phải đặt lên bàn tay trái, hai ngón tay cái chạm vào nhau. Kế đó ngồi ngay thẳng, ngậm miệng, nhắm mắt he hé, dường như mở mà không mở, nhắm mà không nhắm.
Trước tiên, dùng tâm nhãn quán tưởng loa kế (búi tóc) trên đỉnh đầu Phật. Tưởng da đầu màu vàng kim, còn tóc thì màu xanh đen (Hán: cám thanh sắc), mỗi sợi tóc đều xoáy hình trôn ốc, xoắn tại đỉnh đầu. Xương đầu màu trắng như tuyết, sáng thấu trong ngoài; não màu như pha lê. Kế đến, quán tưởng não có mười bốn đường mạch, mỗi mạch có hai mươi bốn luồng ánh sáng, đều xuất phát từ chân tóc, ánh sáng nhiễu quanh loa kế bảy vòng, sau đó trở lại nhập vào lỗ chân lông. Kế đến, quán tưởng từ lỗ chân lông mày phát ra luồng ánh sáng phóng ra phía trước, kế quán tưởng trán Phật bằng phẳng, kế quán tưởng lông mày của Phật dày và cong như mặt trăng lưỡi liềm, kế quán tưởng tướng bạch hào (lông xoắn phía giữa chặng lông mày). Lông màu trắng, ngoài chắc trong rỗng, từ đầu lông phóng ánh sáng màu hoàng kim, chiếu sáng thân Phật.
Quán Phật Tam Muội Kinh dạy: "Nếu có người quán tưởng tướng bạch hào trong chừng khoảnh khắc, hoặc thành hoặc không thành, đều được trừ diệt tội nặng trong chín mươi sáu ức na do tha hằng hà sa vi trần số kiếp sinh tử. Nếu thường tu pháp quán tưởng này sẽ được trừ chướng diệt tội, lại được vô lượng công đức, và chư Phật hoan hỷ".
Kế đến, quán tưởng hai mắt dài rộng, đen trắng phân minh, quang minh chiếu khắp. Kế đến, quán tưởng tướng mũi cao thẳng. Kế đến, quán tưởng khuôn mặt tròn đầy. Kế đến, quán tướng đôi môi đỏ thắm phát ra ánh sáng. Kế đến, quán tưởng hàm răng đều đặn, khít khao, trắng sạch bóng ngời. Kế đến, quán tưởng tướng lưỡi rộng dài mềm mại, phía cuống lưỡi có hai ống dẫn nước bọt vào cuống họng, thấm thẳng vào tâm vương.
Tâm đức Phật như đóa sen đỏ, mở nhưng không mở, đóng nhưng chẳng đóng, có tám vạn bốn ngàn cánh sen, xếp thành tầng lớp, mỗi cánh sen có tám vạn bốn ngàn đường gân, mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn tia sáng, mỗi tia sáng biến hiện một trăm hoa sen báu, trên mỗi hoa sen báu có một vị Bồ tát Thập địa, thân màu hoàng kim, tay cầm hương hoa cúng dường tâm vương, các ngài cùng nhau tán thán tâm vương. Hành giả lúc quán tưởng như vậy, trừ diệt tội chướng, được vô lượng công đức. Chư Phật Bồ tát đều vui mừng, chư thiên quỷ thần cũng đều hoan hỷ, phát tâm vô thượng.
Kế đến, quán tưởng cổ và hai vai của đức Phật tròn đầy. Kế đến, quán tưởng hai tay dài đẹp. Kế đến, quán tưởng hai lòng bàn tay có tướng vành bánh xe ngàn căm, mười ngón tay thon dài có mạng lưới, ngón tay màu đồng đỏ. Kế đến, quán tưởng lồng ngực của đức Phật nở nang tròn trịa, trên có hình chữ Vạn sáng ngời. Kế đến, quán tưởng bụng Phật thon đẹp. Kế đến, quán tưởng rốn của đức Phật tròn, lún sâu, thường phát ra ánh sáng. Kế đến, quán tưởng tướng âm tàng của Phật bằng phẳng, tròn đầy, giống như trăng rằm, và cũng bằng phẳng giống như phần bụng và lưng.
Đức Phật bảo: "Nếu có người nam người nữ nào nhiều tâm tham dục, nên quán tưởng tướng âm tàng của đức Như Lai, thì sẽ dứt trừ tâm tham dục, trừ diệt tội chướng, được vô lượng công đức. Chư Phật vui mừng, chư thiên quỷ thần đều đến hộ trì; người đó sẽ được sống lâu, ít bị bệnh tật".
Kế đến, quán tưởng hai mắt cá chân tròn trịa. Kế đến, quán tưởng hai vai vạm vỡ giống như ngực nai chúa. Kế đến, quán tưởng gót chân tròn như mũi voi chúa. Kế đến, quán tưởng hai mu bàn chân vun tròn như mu rùa chúa. Kế đến, quán tưởng các ngón chân dài và có mạng lưới, móng chân màu đồng đỏ. Kế đến, quán tưởng đức Phật ngồi kiết già, bàn chân trái đặt lên đùi bên phải, bàn chân phải đặt lên đùi bên trái, lòng chân ngang bằng. Kế đến, quán tưởng dưới lòng bàn chân có tướng bánh xe nghìn căm, mỗi căm phóng ra ánh sáng chiếu khắp mười phương.
Quán thân tướng Phật, từ đỉnh đầu cho đến lòng bàn chân, gọi là quán đầy đủ sắc thân trang nghiêm của đức Phật. Đây là quán theo chiều thuận. Kế đến, quán tưởng hoa tòa. Trước hết, quán tưởng tòa sen. Kế đến, quán tưởng cánh hoa sen. Mỗi cánh sen xếp chồng lên nhau đến tám vạn bốn ngàn lớp. Quán tưởng trên mỗi cánh sen có trăm ức món trân bảo trang nghiêm. Mỗi món báu phóng ra tám vạn bốn ngàn tia sáng chiếu đến thân Phật. Kế đến, quán tưởng cọng sen có tám mặt, mỗi mặt có trăm ngàn món châu báu trang nghiêm, phóng ánh sáng rực rỡ khắp nơi. Kế đến, quán tưởng đất báu. Các món trân bảo trên mặt đất đều phóng tám vạn bốn ngàn tia sáng chiếu đến thân Phật và chúng sinh trong lục đạo ở khắp mười phương, đồng thời, hành giả cũng quán tưởng tất cả tia sáng đều quay trở lại chiếu vào thân mình.
Pháp quán tưởng này trừ diệt tội chướng và được vô lượng công đức. Chư Phật Bồ tát vui mừng, chư thiên quỷ thần cũng đều hoan hỷ, ngày đêm gần gũi hộ trì. Hành giả trong tất cả mọi thời đều được an ổn, sống lâu, phước lạc, không bị bệnh tật. Theo lời Phật dạy, hành giả trong khi tu tập, nếu thấy được cảnh giới Tịnh độ, chỉ nên tự mình nhận biết, tuyệt đối không nên nói cho người khác, nếu không, sẽ bị quả báo bệnh dữ, chết yểu. Nếu như tu hành đúng pháp, đến lúc lâm chung, sẽ được vãng sinh thượng phẩm.
Nên y theo mười sáu pháp quán tu tập, sau đó chuyên tâm tu pháp quán tưởng bạch hào, nhất tâm nhất ý, không được tán loạn, nếu tâm không định, tam muội khó thành. Đây gọi là pháp Quán Phật Tam Muội. Trong tất cả mọi thời, đều nên hồi hướng cầu vãng sinh Tịnh độ. Chỉ cần y vào mười ba pháp quán đầu của Quán Kinh mà an tâm tu tập, không được hoài nghi.
Kính bạch quý hành giả! Nếu muốn vãng sinh Tịnh độ, chỉ cần trì giới, niệm Phật, tụng A Di Đà Kinh. Mỗi ngày tụng mười lăm biến kinh, hai năm sẽ được một vạn biến. Nếu mỗi ngày tụng ba mươi biến kinh, thì một năm sẽ được một vạn biến. Ngoài ra mỗi ngày nên niệm một vạn câu A Di Đà, lại còn tùy thời lạy Phật, tán thán công đức cõi Tịnh độ. Phải nên tinh tiến niệm Phật, mỗi ngày hoặc ba vạn câu, sáu vạn câu, mười vạn câu, đều sẽ được vãng sinh thượng phẩm thượng sinh. Tất cả công đức tu hành đều nên hồi hướng Tịnh độ.
Phần trên đã nói rõ pháp tu Quán Phật Tam Muội.