Toát yếu: Kinh Vô Lượng Thọ

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Toát yếu: Kinh Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)

Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ :Hòa Thượng Thích Tịnh Không

Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật
Giáo Ðồ Thư Quán, Ðài Bắc,
tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992

Bồ tát giới đệ tử Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập và kính chia thành chương mục

Chú giải: Kim Cang thừa tam muội da giới đệ tử Hoàng Niệm Tổ

Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa kính dịch sang Việt
=============================================

1. Ðôi lời bày tỏ

Cho đến khi hội Trung Hoa Ðiện Tử Phật Ðiển (CBETA) đăng tải các kinh văn trong Ðại Tạng trên Internet, mạt nhân đã háo hức tìm đọc các bản chú giải Ðại kinh trong Ðại Tạng.

Mãi đến cuối năm 1995, nhờ chút phước thừa, mạt nhân đọc được bản chú giải kinh Vô Lượng Thọ của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ do Hoa Tạng Phật Giáo Ðồ Thư Quán ấn hành với tựa đề:
Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh Giải.

Do trình độ Hán văn quá kém cỏi cũng như hiểu biết về thế học lẫn Phật học quá hạn hẹp, bản dịch nháp này không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Ngưỡng mong chư tôn đức, thức giả thương xót chỉ dạy và phủ chính cho. Nếu như việc làm liều lĩnh này có đem lại chút lợi lạc nào cho các vị đồng tu Tịnh nghiệp thì trên là xin đem công đức ấy hồi hướng đến bổn sư Thượng Tọa thượng Giải hạ Thắng, Tọa chủ chùa Bửu Quang, Sài Gòn. Mùa An Cư năm 2002, Bửu Quang tự đệ tử
Như Hòa kính ghi
==============================================

2.Lời Giới Thiệu

Hòa Thượng Thích Tịnh Không
Mùa Thu năm Bính Dần, tôi thường qua lại cả hai miền Ðông Tây nước Mỹ hoằng pháp, viếng thăm cả mười thành phố lớn. Trong số kiều bào, có không ít vị tin tưởng vào cõi Tịnh Ðộ của Phật Di Ðà, phát nguyện tu hành đúng như kinh giáo...

Nguyện những vị đồng tu tâm đồng Phật, nguyện giống như Phật, hiểu biết giống như Phật, hạnh giống như Phật, đều được chư Phật hộ niệm, được hết thảy Bồ Tát ủng hộ, đều đắc thượng phẩm thượng sanh thì mới chẳng cô phụ nỗi khổ tâm hội tập, chú giải của hai vị Ðại Sĩ Hạ Liên Cư và Hoàng Niệm Tổ.
Cụ Hoàng chẳng nề hà sức học tôi kém cỏi, bảo viết lời tựa, vì nghĩa chẳng dám chối từ, đành xin thuật lại nhân duyên thù thắng để thưa chuyện cùng các thiện tín mà thôi.
Ngày Chư Phật Hoan Hỷ (Vu Lan) năm Mậu Thìn (1988)
Tịnh nghiệp học nhân Thích Tịnh Không
kính ghi tại Hội Phật Giáo Hoa Thịnh Ðốn.
============================================

3.Lời nói đầu

Pháp môn Tịnh độ là Nhất Thừa liễu nghĩa, vạn thiện đồng quy, thích ứng khắp ba căn, thâu trọn phàm thánh, thoát khỏi ba cõi theo chiều ngang (hoành siêu tam giới), nhanh chóng bước lên bốn cõi Tịnh Ðộ, cực viên, cực đốn, là pháp môn vi diệu chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Vô Lượng Thọ là kinh lãnh đạo trọng yếu của các kinh Tịnh Ðộ. Các bậc đại đức trong Tịnh tông thường gọi là kinh này là kinh Tịnh Ðộ bậc nhất.

Quyển Phật thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh là do thầy tôi: lão cư sĩ Hạ Liên Cư, hội tập năm bản dịch gốc đời Hán, Ngụy, Ngô, Ðường, Tống của kinh Vô Lượng Thọ.

Hơn nữa, trong các kinh Tịnh Ðộ, chỉ có kinh này có đủ trọn vẹn cả Viên lẫn Diệu: Dùng “phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm” làm tông, lấy đại nguyện mười niệm ắt vãng sanh của Phật Di Ðà làm gốc, giảng tỉ mỉ chánh nhân vãng sanh của ba bậc, bao trọn khắp các loài thánh phàm trong chín giới, dạy rõ pháp Trì Danh Niệm Phật, trực chỉ con đường vãng sanh quy nguyên.

Vì vậy, kinh này được xem là kinh bậc nhất của Tịnh Tông. Khổ nỗi, kinh điển quý báu thù thắng bậc nhất của Tịnh tông này lại bị chìm lấp trong Ðại Tạng Trung Hoa đến hơn ngàn năm.

***Xét đến nguyên nhân, cũng bởi kinh này có đến năm bản dịch gốc: các bản dịch hoặc rộng hoặc lược sai biệt khá lớn. Nêu một ví dụ: về đại nguyện của đức Di Ðà, trong hai bản dịch Ðường, Ngụy có bốn mươi tám nguyện, nhưng hai bản dịch đời Ngô, Hán chỉ có hăm bốn, bản dịch đời Tống lại là băm sáu nguyện. Ðiều này khiến cho kẻ sơ tâm học Phật nếu chuyên trì một bản dịch thì khó bề hiểu rõ ý chỉ sâu xa. Nếu đọc đủ cả năm bản lại càng gian nan. Vì vậy, đa số bỏ kinh này, dồn sức vào nghiên cứu kinh A Di Ðà
============

Ông Vương khi lâm chung đứng ngay ngắn vãng sanh, đủ chứng minh cư sĩ thật là bậc hạnh giải đều ưu việt, là bậc tại gia đại đức thù thắng hy hữu của Tịnh Tông Trung Hoa. Ông Vương tiếc nuối bảo điển bị bụi phủ, bèn hội tập bốn bản dịch các đời Hán, Ngụy, Ngô, Tống của kinh Vô Lượng Thọ, soạn thành một bản, đặt tên là Ðại A Di Ðà kinh.

Liên Trì đại sư nói: ‘Bản hội tập của ông Vương so sánh với năm bản dịch thì giản dị, rõ ràng, hiện đang phổ biến, lợi ích rất lớn’. Lại nói: ‘Do bổn của họ Vương phổ biến trong đời, người ta quen xem’. Vì thế, trong tác phẩm Di Ðà Sớ Sao, mỗi khi dẫn chứng kinh Vô Lượng Thọ, đa phần ngài trích dẫn từ bản của ông Vương. Cận đại, Ấn Quang đại sư khi viết lời tựa cho lần in lại bản Viên Trung Sao, cũng khen bản của ông Vương là: ‘Văn nghĩa tường tận, lưu thông khắp nơi’. Bản hội tập của ông Vương tuy có công rất lớn đối với Tịnh tông, nhưng có quá nhiều điểm sai sót. Ngọc trắng có vết, hiền giả xót xa. Liên Trì đại sư chê rằng: “Sao phần trước, viết thêm phần sau”, ‘Phần lấy, phần bỏ chưa trọn vẹn’. Bành Thiệu Thăng cư sĩ chê là: ‘Lộn xộn, trái nghịch nhau, chẳng phù hợp với ý chỉ viên dung’. Bút giả nay dựa theo lời phê của các bậc cổ đức, trộm nêu ra ba khuyết điểm của ông Vương:

Pháp môn Trì Danh của kinh này thích hợp khắp cả ba căn, thâu trọn phàm thánh. Kẻ thượng thượng căn thật rất thích hợp gánh vác toàn thể kinh này, kẻ hạ hạ căn cũng có thể do kinh này đắc độ. Trên thì như Pháp Thân Ðại Sĩ: Văn Thù, Phổ Hiền cũng đều phát nguyện vãng sanh. Dưới đến ngũ nghịch, thập ác lâm chung niệm Phật cũng đều tùy nguyện vãng sanh. Vượt ngang khỏi ba cõi, chứng trọn vẹn bốn cõi Tịnh Ðộ, chóng sát cánh cùng Quán Âm, Thế Chí, mới thấy phương tiện rốt ráo của pháp môn này thật thích ứng khắp mọi căn cơ. Hơn nữa, Khế Cơ còn có nghĩa là khéo khế hợp với căn cơ, thời đại. Như Lai rủ lòng từ riêng lưu lại kinh này một trăm năm nữa sau khi các kinh khác diệt hết, đúng là ngụ ý: kinh này phù hợp xã hội hiện tại và tương lai.

Ðiểm mầu nhiệm của Tịnh tông là ‘chẳng lìa Phật pháp mà hành thế pháp, chẳng bỏ thế pháp mà chứng Phật pháp’. Bởi pháp Trì Danh thật là tiện lợi, tu chỗ nào cũng được, nào phải ẩn cư rừng núi, lúc nào cũng niệm được, chẳng phiền bế quan, ngồi yên, chỉ cần phát khởi cái tâm rộng lớn, một bề chuyên niệm, chí ít mười niệm, một niệm cũng được vãng sanh, chẳng trở ngại công việc thế gian, vẫn như cũ mà chóng thoát sanh tử. Lại có thể tự giác, giác tha, rộng độ chúng sanh đời vị lai. Ðây cũng là ta, người cùng lợi, tạo phước cho xã hội ngay trong hiện tại.
==================

4. A. Khái yếu

Giải thích kinh này dựa theo quy cách của tông Hoa Nghiêm và khuôn mẫu A Di Ðà Sớ Sao, chia tổng quát thành mười môn:
Một, giáo khởi nhân duyên;
hai: thể tánh kinh này;
ba: tông thú của bộ kinh;
bốn: phương tiện lực dụng,
năm: căn khí được hóa độ;
sáu: tạng giáo sở nhiếp;
bảy: bộ loại sai biệt;
tám: dịch, hội hiệu, thích;
chín: tổng thích danh đề;
mười: phần giải thích chính ý nghĩa của kinh.


1. Giáo khởi nhân duyên

Giáo khởi nhân duyên là nói về nhân duyên hưng khởi đại giáo. Trước hết, trình bày sự hưng khởi của Phật giáo và pháp môn Tịnh Ðộ, rồi mới thuật rõ nhân duyên hưng khởi kinh này. Phàm hết thảy pháp chẳng ngoài nhân duyên. Nhân duyên hưng khởi đại giáo vô lượng, mà vô lượng nhân duyên lại chỉ là một đại sự nhân duyên...Ðủ thấy Tịnh Tông đúng là pháp trực chỉ đốn chứng: lấy tâm niệm Phật nhập Phật tri kiến. Sự hưng khởi của Tịnh tông đúng là do đại sự nhân duyên này.

1.1. Xứng tánh cực đàm, Như Lai chánh thuyết

Ngẫu Ích đại sư khen kinh này như sau:
“Dứt bặt đối đãi một cách viên dung chẳng thể nghĩ bàn. Áo tạng của Hoa Nghiêm, bí tủy của Pháp Hoa, tâm yếu của hết thảy chư Phật, chỉ nam cho muôn hạnh Bồ Tát đều chẳng ra khỏi kinh này “.

Cả hai kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa chỉ là pháp dẫn đường cho kinh này. Kinh này thật là chỗ chỉ quy của cả Ðại Tạng giáo. Cuối kinh Hoa Nghiêm, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Ðại Sĩ dẫn về Cực Lạc, đủ để chứng minh [cho nhận định trên].
Thánh giáo như chiên đàn, miếng nào cũng thơm. Pháp nào cũng viên đốn, vốn chẳng cao hạ, chỉ vì chúng sanh cấu nặng chướng sâu, tâm thô trí hèn, đói gặp cỗ vua mà chẳng dám ăn. Chỉ một pháp Trì Danh trong kinh này mới là đạo dễ hành, ai cũng tu được.

Chương Ðại Thế Chí Viên Thông chép:
“Tịnh niệm tương tục’, ‘tự được tâm khai’, chính là tâm phàm phu khai tri kiến Phật. Ðến như kẻ căn cạn cợt chỉ cần chí tâm tin ưa, nguyện sanh cõi kia, dẫu rằng mười niệm, lúc mạng sắp hết, được Phật nhiếp thọ, liền sanh Cực Lạc. Hoa nở gặp Phật, ngộ nhập vô sanh, kỳ diệu nhanh chóng không chi hơn nổi.

1.2. Tam căn phổ bị, thánh phàm tề thâu.

Căn khí của chúng sanh thiên sai vạn biệt nên Thế Tôn nói tám vạn bốn ngàn pháp môn nhằm thích ứng khắp các căn cơ...Chỉ có pháp môn Trì Danh Niệm Phật trong kinh này: thâu trọn phàm thánh, thích hợp lợi, độn. Ðến cùng tột thì như Phổ Hiền, Văn Thù còn phát nguyện cầu sanh Cực Lạc.

Bài kệ của ngài Văn Thù là: ‘Nguyện lúc tôi lâm chung, trừ diệt các chướng ngại, tận mặt gặp Di Ðà, vãng sanh cõi An Lạc’.
Lại như Ðại kinh chép: ‘Phật bảo Di Lặc: Trong thế giới này có bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát đã từng cúng dường vô số chư Phật, trồng các cội đức sẽ sanh cõi kia’.

Thấp nhất thì như bọn ngũ nghịch thập ác trong Quán kinh, lâm chung được gặp bạn lành, dạy cho niệm Phật. Mười niệm thành công cũng sanh cõi kia. Ðủ thấy kinh này rộng thâu vạn loại, độ khắp ba căn, là thuốc A Già Ðà trị lành muôn bịnh. Vì vậy, Ðại kinh chép: ‘Gặp gỡ kinh này, tùy lòng mong muốn đều được độ’.

Sư Hải Ðông Nguyên Hiểu đời Ðường nói: “Bốn mươi tám nguyện trước hết vì phàm phu, sau kiêm vì thánh nhân thuộc tam thừa” Ðủ thấy cái mầu nhiệm của Tịnh Ðộ tông: trước hết là nhằm làm cho phàm phu đắc độ vậy

1.3. Diệu pháp tha lực, khéo hộ trì hành nhân

Pháp môn Niệm Phật cũng như Mật pháp là Tha Lực Môn, thuộc về Quả Giáo (3). Hành nhân phát tâm niệm Phật, nhờ vào bổn nguyện của Phật Di Ðà nhiếp thọ, oai thần gia bị hộ trì hành giả, ma chẳng dám quấy nhiễu.

Kinh Thập Vãng Sanh chép:
“Phật dạy: Nếu có chúng sanh niệm A Di Ðà Phật nguyện vãng sanh, đức Phật kia liền sai hăm lăm vị Bồ Tát ủng hộ hành giả, dù đi hay ngồi, dù đứng hay nằm, dù ngày hay đêm, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ chẳng cho ác quỉ, ác thần có cơ hội làm hại “

Kinh A Di Ðà lại dạy: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm”.

Nếu bảo nhờ cậy tha lực là chấp tướng thì phải biết rằng tha lực cũng là tự tâm. Ta, người chẳng hai; tự, tha cũng vậy. Do tha lực mà hiển hiện tự tâm, từ hữu niệm nhập vô niệm, đấy đúng là điểm thâm diệu của pháp này. Vì thế, sách Di Ðà Yếu Giải viết “Ðiểm cốt yếu của pháp môn này là thấu rõ tha chính là tự. Nếu báng rằng đó là Phật khác thì là tha kiến chưa mất. Nếu đặt nặng tự Phật (vị Phật của chính mình) lại thành ra ngã kiến điên đảo”.

1.4 Thầm hợp diệu đạo, khéo nhập vô sanh

Vô niệmvô sanh thật xa vời đối với khả năng của phàm phu. Bát Ðịa Bồ Tát của Viên giáo đã lìa hết thảy phân biệt tâm ý thức mới gọi là thật sự được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ðủ thấy: với thánh giả còn khó, huống hồ là phàm phu còn đầy ắp phiền não. Vì vậy, Thiện Ðạo đại sư viết trong Tứ Thiếp Sớ rằng: ‘Nay các quán môn này chỉ phương lập tướng, trụ tâm để đạt cảnh, trọn chẳng thể vô tướng ly niệm. Như Lai thấy trước rằng phàm phu tội trược đời mạt lập tướng sanh tâm còn khó làm nổi, huống hồ ly tướng vô niệm! Khác nào kẻ không có thuật thần thông lại toan xây nhà trên không’.

1.5. Ðại thánh rủ lòng từ, riêng lưu lại kinh này

Kinh chép: ‘Ðời tương lai, kinh đạo diệt hết, ta vì từ bi thương xót riêng lưu lại kinh này tồn tại trong đời một trăm năm. Nếu có chúng sanh gặp được kinh này, tùy lòng sở nguyện đều được độ thoát’.

(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)
Sửa lần cuối bởi Thien Nhan vào ngày 24/06/12 05:08 với 1 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)
2. Thể tánh của kinh

Hết thảy các kinh điển đại thừa đều dùng Thật Tướng làm chánh thể. Cổ đức nói: ‘Các kinh đại thừa đều dùng một Thật Tướng làm ấn’.

Thật Tướng là tướng chơn thật cũng là Bình Ðẳng Nhất Tướng. Thật Tướng không có tướng nhưng chẳng phải là bất tướng. Có tướng mà vô tướng nên gọi là Thật Tướng. Vô tướng là lìa hết thảy tướng hư vọng nên vô tướng chính là ly tướng. Hơn nữa, Thật Tướng chẳng phải là bất tướng do chẳng phải là ngoan không, đoạn diệt như lông rùa, sừng thỏ, hết thảy hư vô! Kinh Kim Cang dạy: “Phàm cái gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng thì thấy Như Lai”. Nghĩa là: Ngay nơi tướng lìa tướng, lìa sạch tướng hư vọng thì thấy Thật Tướng, nên nói là thấy Như Lai, đấy là chỉ Pháp Thân Như Lai.

Ví dụ như dùng vàng chế ra tháp, tượng, bình, chén, xuyến, vòng, các thứ tướng sai biệt rõ ràng. Nếu đem các vật đó bỏ vào lò nung lại hóa thành vàng. Các tướng vốn có đều tiêu diệt hết, nhưng vàng là bổn thể các vật vẫn còn như cũ. Ðủ thấy tướng sai biệt của các vật có sanh có diệt, đều thuộc về hư vọng, nhưng bổn thể các vật là vàng, bình đẳng nhất tướng, bất sanh bất diệt, chẳng tăng, chẳng giảm.

Nghĩa ví dụ về vàng, dùng vàng để ví cho Thật Tướng chơn thật bình đẳng, các vật bằng vàng ví cho các tướng sai biệt. Do ví dụ trên, thấy được rằng: ‘Nếu phá tướng hư vọng sai biệt của các vật bằng vàng: tháp, tượng, bình, xuyến, vòng... thì thấy vàng chơn thật bình đẳng nơi các vật. Dùng điều này để ví lìa tướng hư vọng của hết thảy pháp thì thấy Thật Tướng. Do lìa tướng hư vọng sai biệt nên nói là vô tướng. Trong các tướng hư vọng sai biệt có bổn thể chơn thật bình đẳng nên bảo là chẳng phải bất tướng. Ngay nơi tướng lìa tướng, có tướng mà vô tướng bèn thấy rõ Thật Tướng.

Thật tướng lìa ngôn thuyết đúng như ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng nói: ‘Nếu nói dường như có một vật thì chẳng trúng’, nên chẳng thể dùng thí dụ thế gian nào chỉ rõ được Thật Tướng. Trong thí dụ trên, nếu ngộ nhận thật có một tướng vàng cụ thể để đạt được thì lại vướng vào tướng, không còn là Thật Tướng của vô tướng nữa! Vì vậy, bảo rằng: “Hễ có ngôn thuyết đều chẳng phải là thật nghĩa”.

kinh Viên Giác dạy: ‘Các huyễn diệt tận, giác tâm chẳng động’, ‘Vì cái huyễn diệt bị diệt, cái chẳng phải là huyễn (phi huyễn) chẳng bị diệt. Ví như mài gương (6) hết chất dơ thì ánh sáng hiện’.

===================
Bản chất của Thật Tánh đã được bàn thô thiển như trên. Còn như thể tánh của Ðại kinh vì sao lại bảo là Thật Tướng? Dưới đây sẽ bàn. Vãng Sanh
===================

Cõi nước Cực Lạc chẳng ở ngoài tâm, tâm ta sẵn đủ bách giới thiên như. Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh, cõi tịnh thì tâm ta tịnh, nào có một pháp ở ngoài tâm ta. Pháp được kinh này phô diễn là để hiển thị trực tiếp bổn tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh. Ngay nơi tướng chính là đạo, chẳng phải là không có Thật Tướng.

Sách Di Ðà Yếu Giải viết:
‘Thật Tướng không hai, cũng chẳng phải là bất nhị. Vì vậy dùng toàn thể làm y báo, chánh báo, làm tự, làm tha, nhẫn đến năng thuyết, sở thuyết, người độ, kẻ được độ, người tin, pháp được tin, người phát nguyện, điều được nguyện, người trì, danh hiệu được trì, năng sanh, sở sanh, người khen ngợi, pháp được khen ngợi, không chi chẳng được Thật Tướng chánh ấn in vào’.

=================== Nghi vấn ================

Sách Di Ðà Yếu Giải viết:

*** Thật Tướng không hai, cũng chẳng phải là bất nhị. Là nghĩa thế nào?

*** Còn hiểu thế nào về y báo và chánh báo?

*** Và nhẫn đến năng thuyết, sở thuyết, người độ, kẻ được độ...Là nghĩa thế nào?

Cõi nước Cực Lạc chẳng ở ngoài tâm, tâm ta sẵn đủ bách giới thiên như. Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh, cõi tịnh thì tâm ta tịnh, nào có một pháp ở ngoài tâm ta. Pháp được kinh này phô diễn là để hiển thị trực tiếp bổn tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh. Ngay nơi tướng chính là đạo, chẳng phải là không có Thật Tướng???
(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)
Sửa lần cuối bởi Thien Nhan vào ngày 24/06/12 05:07 với 1 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)
3. Tông thú của kinh này

Ðiều được kinh đề cao gọi là Tông. Tông là trọng yếu, là tông chỉ của toàn bộ kinh. Tông lại là đường trọng yếu để tu hành. Vì vậy, Tông là cương lãnh của toàn bản kinh.

Ngài Thiện Ðạo nói: ‘Niệm Phật tam muội là tông, nhất tâm hồi nguyện vãng sanh Tịnh Ðộ là thể’ (thể ở đây chỉ cho thú).
Bộ Hợp Tán của thầy Thích Quán Triệt người Nhật viết: ‘Kinh này: niệm Phật là tông, vãng sanh là thể. Kinh này tôn trọng niệm Phật nên lấy niệm Phật làm tông, chỗ quy thú của tông là cốt được vãng sanh nên lấy vãng sanh làm thể’.

Tịnh tông coi kinh Vô Lượng Thọ là Ðại kinh, kinh A Di Ðà là Tiểu kinh vì hai kinh này chỉ rộng, lược sai khác. Do vậy, trong Sớ Sao, ngài Liên Trì gọi Ðại kinh là Ðại Bổn, tiểu kinh là Tiểu Bổn, vì thật ra hai kinh chỉ là cùng một kinh.

Sách Di Ðà Yếu Giải cho rằng: ‘Dùng tín nguyện trì danh làm tông’.

Tổng hợp những ý kiến về tông thú hai kinh Ðại, Tiểu nói trên của các vị trong nước và hải ngoại, ta thấy tất cả đều lấy tín nguyện trì danh, vãng sanh Tịnh Ðộ làm gốc.

Kinh này dùng phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm làm Tông; sanh trọn vẹn bốn cõi Tịnh Ðộ, chóng lên địa vị bất thoái làm Thú.

3.1 Giảng về Tông (Phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm Phật)

Nguyện thứ mười chín của Phật Di Ðà là: ‘Nghe danh hiệu ta, phát Bồ Ðề tâm, tu các công đức, phụng hành sáu ba la mật kiên cố chẳng thoái. Lại đem thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi ta, nhất tâm niệm ta ngày đêm chẳng dứt. Lúc lâm chung, ta cùng các Bồ Tát hiện đến đón trước mặt, trong khoảnh khắc liền sanh cõi ta, làm Bồ Tát a duy việt trí’.

Nguyện thứ mười tám: ‘Nghe danh hiệu ta chí tâm tin ưa, bao nhiêu thiện căn, tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi ta, nhẫn đến mười niệm, nếu chẳng sanh về chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp’

Ðàm Loan pháp sư viết trong Vãng Sanh Luận chú rằng:
‘Ba bậc vãng sanh trong kinh Vô Lượng Thọ tuy hạnh có ưu, liệt, nhưng không ai chẳng phát tâm Bồ Ðề vô thượng. Tâm Bồ Ðề vô thượng này chính là tâm nguyện thành Phật, chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh chính là tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh về cõi có Phật. Vì vậy, nguyện sanh cõi An Lạc Tịnh Ðộ thì cần phải phát tâm Bồ Ðề vô thượng. Nếu ai chẳng phát tâm Bồ Ðề vô thượng, chỉ nghe cõi kia hưởng vui không gián đoạn, do vui thích mà nguyện sanh thì cũng chẳng được vãng sanh’.

An Lạc Tập viết:
Theo Tịnh Ðộ Luận của ngài Thiên Thân, phàm muốn phát tâm lãnh hội Vô Thượng Bồ Ðề thì có hai nghĩa:
Một là trước hết phải rời bỏ ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn, hai là cần biết ba pháp thuận Bồ Ðề môn.

Những gì là ba?

Một là nương theo trí huệ môn: chẳng cầu tự mình vui vì xa lìa ngã tâm tham trước tự thân.
Hai là nương từ bi môn: dẹp hết thảy khổ cho chúng sanh vì xa lìa tâm khiến chúng sanh chẳng an vui.
Ba là phương tiện môn: tâm xót thương hết thảy chúng sanh vì xa lìa tâm cung kính, cúng dường tự thân. Ấy gọi là xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề tâm.

Ngài Hải Ðông Nguyên Hiểu lại viết trong bộ Tông Yếu rằng: ‘Phát Bồ Ðề tâm chính là chánh nhân’. Ngài lại bảo: Phát Bồ Ðề tâm có hai loại

a). Một là theo sự phát tâm: ‘Phiền não vô biên nguyện đều đoạn hết, thiện pháp vô lượng nguyện đều tu hết, chúng sanh vô biên nguyện đều độ cả. Quả báo của tâm ấy tuy là Bồ Ðề mà hoa báo của nó là Tịnh Ðộ. Vì sao thế?

Bồ Ðề tâm lượng rộng lớn vô biên, xa rộng vô hạn nên cảm được y báo Tịnh Ðộ rộng lớn không ngằn mé, chánh báo thọ mạng lâu dài vô lượng. Ngoại trừ Bồ Ðề tâm, không có gì làm được như thế cả’.

kinh dạy: “Diệt độ vô lượng chúng sanh như vậy, nhưng thật chẳng có chúng sanh được diệt độ". Phát tâm như vậy công đức vô biên, dẫu cho chư Phật trọn kiếp diễn nói công đức người ấy còn chẳng nói hết nổi”.

Quán kinh còn dạy: ‘Muốn sanh cõi kia nên tu ba phước.... Ba là phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến khích hành giả’. Lại dạy: ‘Nếu có chúng sanh nguyện sanh cõi kia, phát ba tâm liền được vãng sanh. Những gì là ba? Một là tâm chí thành, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Ðủ ba tâm thì ắt sanh cõi kia’.

Sách Bồ Ðề Tâm Luận lại giảng: ‘Bồ Ðề tâm này hàm chứa pháp công đức của hết thảy chư Phật. Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo sư của hết thảy. Nếu quay về gốc thì là cõi Mật Nghiêm, chẳng đứng dậy khỏi tòa mà thành tựu được hết thảy Phật sự’.

vua của các kinh là kinh Hoa Nghiêm dạy: "Quên mất Bồ Ðề tâm tu các pháp lành thì là ma nghiệp". Phát tâm quan trọng chẳng thể ví dụ nổi.

Các vị như sư Nguyên Hiểu lấy phát Bồ Ðề tâm làm chánh nhân, niệm Phật làm trợ nhân. Các vị như Thiện Ðạo, Linh Chi của Trung Hoa và các sư Tịnh tông người Nhật cho Trì Danh là chánh hạnh, phát tâm là trợ hạnh. Hai thuyết nghịch nhau.

Người vãng sanh bậc thượng, bậc trung, bậc hạ trong kinh đều do phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Ðà Phật mà vãng sanh Tịnh Ðộ Cực Lạc. Ấy là do giác ngộ là quả, tâm làm nhân, phương tiện rốt ráo phơi bày trọn vẹn nguyện hải nhất thừa của Di Ðà, sáu chữ hồng danh oai thần công đức chẳng thể nghĩ bàn.

b). Hai là thuận lý phát tâm: ‘Tin hiểu các pháp đều như huyễn mộng, chẳng phải có, chẳng phải không, dứt ngôn ngữ, bặt suy nghĩ. Tin hiểu như vậy, phát tâm rộng lớn, tuy chẳng thấy có phiền não, pháp lành mà chẳng bài bác là không có gì để tu để đoạn’.
(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)
Sửa lần cuối bởi Thien Nhan vào ngày 24/06/12 05:06 với 1 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

3.2 Giảng về Thú

Tịnh Ðộ có bốn cõi: Phàm Thánh Ðồng Cư, Phương Tiện Hữu Dư, Thật Báo Trang Nghiêm và Thường Tịch Quang. Dưới đây sẽ giải thích sơ lược về tướng trạng vãng sanh bốn cõi.

- Cõi Phàm Thánh Ðồng Cư:

Cõi Phàm Thánh Ðồng Cư của thế giới Cực Lạc là đồng cư Tịnh Ðộ. Thế giới Sa Bà ta đang ở đây cũng là cõi Phàm Thánh Ðồng Cư. Cõi này cũng có phàm, có thánh, như Văn Thù thường hiện Ngũ Ðài, các A La Hán thường trụ Thiên Mục hoặc Nhạn Ðãng. Họ đều là bậc thánh cõi này, nhưng cõi đồng cư chúng ta đang ở là đồng cư uế độ. Vì vậy, tuy cùng mang tên đồng cư mà thật ra chẳng giống nhau.

- Phương Tiện Hữu Dư độ:

Nếu người niệm Phật dụng công sâu đậm: lìa được tâm tạp loạn, chuyên niệm một câu danh hiệu, tâm, miệng tương ưng, từng chữ phân minh, tâm chẳng rời Phật, Phật chẳng rời tâm, niệm niệm tiếp nối chẳng có gián đoạn. Niệm Phật như thế gọi là Sự nhất tâm. Nếu đạt đến cảnh giới này tuy chẳng cầu đoạn hoặc mà kiến, tư phiền não tự nhiên đoạn mất. Từ Ðồng Cư uế độ cõi này sanh ngang sang cõi Phương Tiện Hữu Dư của Cực Lạc.

- Thật Báo Trang Nghiêm độ:

Nếu nhớ Phật, niệm Phật rành rẽ phân minh, đi, đứng, nằm, ngồi chỉ có một niệm ấy, không còn niệm thứ hai, chẳng bị các niệm tham, sân, phiền não tạp loạn thì gọi là Sự nhất tâm. Trên mặt sự đã đạt nhưng về lý chưa thấu triệt, chỉ thuộc về Ðịnh môn, chưa có Huệ môn.

Nếu trên đầu sào trăm thước tiến thêm một bước, nơi bổn tánh mình chợt khế hợp, biết rõ năng niệm, sở niệm chỉ là nhất tâm, chẳng trụ hữu niệm, chẳng rớt vào vô niệm như Sớ Sao viết: ‘Nếu nói là có thì bổn thể của cái tâm năng niệm tự nó là không, đức Phật đang được mình niệm cũng trọn chẳng thể được. Nếu bảo là không thì tâm năng niệm sáng ngời chẳng lầm lẫn, đức Phật được niệm phân minh rạng ngời’.

Vô niệm mà niệm, niệm nhưng vô niệm. Nói, nghĩ dứt bặt, chẳng thể gọi tên, mô tả; chỉ là nhất tâm, thể vốn sẵn thanh tịnh, nào có pháp gì tạp loạn được. Ðấy gọi là Lý nhất tâm, thuộc về Huệ môn, kiêm cả đắc định. Niệm Phật nếu đạt đến lý nhất tâm, phá một phần vô minh thì sanh trong Thật Báo Trang Nghiêm độ, đồng thời chứng một phần Thường Tịch Quang độ.

Thật Báo Trang Nghiêm độ là nơi cư ngụ của Pháp Thân Ðại Sĩ. Các vị Ðại Sĩ từ Sơ Ðịa trong Biệt giáo, Sơ Trụ trong Viên giáo trở lên mới được sanh cõi ấy. Phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân mới sanh được cõi này.
Bậc Ðại Sĩ cõi ấy sắc tâm tự tại, thân và cõi ảnh hiện, trong một đầu lông hiện cõi Bảo Vương. Trong một hạt bụi chuyển đại pháp luân, xứng tánh trang nghiêm vô chướng, vô ngại. Bốn mươi địa vị Pháp Thân Ðại Sĩ từ bậc Bồ Tát sơ trụ trong Viên giáo cho đến Ðẳng Giác Bồ Tát đều thuộc cõi này. Mỗi địa vị đều chứng một phần Thường Tịch Quang độ.

- Thường Tịch Quang độ

Cõi Pháp Thân của Phật ngự được gọi là Thường Tịch Quang. Sách Yếu Giải viết: ‘Thể của Thật Tướng chẳng tịch chẳng chiếu. Tịch mà hằng chiếu, chiếu nhưng luôn tịch, chiếu mà tịch cưỡng gọi là Thường Tịch Quang. Tịch mà chiếu cưỡng gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân’. Vì vậy, thân và cõi chẳng hai; đều là cưỡng gọi. Tịch chiếu đồng thời chẳng phải là cảnh suy lường được.
Thêm nữa, ba chữ Thường Tịch Quang phơi bày trọn vẹn ba đức Niết Bàn của Như Lai bí tạng. Thường là Pháp Thân đức vì Pháp Thân thường trụ. Tịch là Giải Thoát đức vì trần lao vĩnh viễn tịch tĩnh. Quang là Bát Nhã đức do trí quang chiếu khắp.
Phàm phu đới nghiệp vãng sanh cõi Ðồng Cư, do gặp Phật dạy dỗ nên không thoái chuyển. Do thọ mạng vô lượng nên ngay trong một đời ấy đoạn trừ
trọn vẹn các hoặc, thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi Tịnh Ðộ. Do vậy, sanh cõi Ðồng Cư cũng chính là sanh ba cõi trên nên bảo là: “Sanh trọn bốn cõi”.

4. Phương tiện lực dụng

Như kinh Ðại Tỳ Lô Giá Na dạy: "Bồ Ðề là nhân, đại bi là căn, phương tiện là cứu cánh" thì biết rằng phương tiện độ sanh chính là chỗ kết quy của đại nguyện chư Phật, là điều được đại trí hiển thị, vạn đức trang nghiêm, là chỗ cứu cánh của quả giác.

Theo đoạn kinh Thế Tôn khuyên phụ vương niệm Phật nói trên, hết thảy chúng sanh còn trong sanh tử tâm phải niệm Phật khẩn thiết chẳng ngơi. Ý Phật muốn nói đến cách Trì Danh Niệm Phật trong bốn cách niệm Phật. Niệm Phật có bốn cách: trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán
tưởng niệm Phật, và thật tướng niệm Phật.

* Trì danh niệm Phật:

Chính là điều được kinh này đề cao: xưng niệm danh hiệu A Di Ðà Phật. Thiện Ðạo đại sư bảo: ‘Chỉ có con đường tắt tu hành là niệm Phật A Di Ðà’.
Các môn tu hành khác gọi là vượt tam giới theo chiều dọc như trùng sanh trong tre: đục dọc theo thân tre khó thoát ra, nên là đạo khó hành. Còn niệm Phật như trùng đục ngang ống tre thời dễ thoát ra, là vượt tam giới theo chiều ngang, gọi là đạo dễ hành. Pháp này được ví như đường tắt, vì phương tiện thẳng chóng, thành công nhanh chóng.

* Quán tượng niệm Phật:

Bày biện tượng Phật, chú mục ngắm nhìn. Hiềm rằng có tượng mới quán được, rời khỏi tượng lại khó quán: Tịnh nhân dễ mất, giữ cho liên tục càng khó. Vì vậy, cổ đức bảo: “Tượng đi rồi lại là không, cho nên trở thành gián đoạn”. Vì vậy, cách này chẳng tiện dụng như trì danh niệm Phật, lúc nào, chỗ nào cũng tu được.

* Quán tưởng niệm Phật

Như các phép quán dạy trong Quán kinh: “Dùng con mắt trong tâm ta, tưởng đức Như Lai kia”. Khổ nỗi, tâm phàm phu tạp loạn, phù động, hiếm có lúc tịnh định, khó nhập pháp quán vi diệu. Vì vậy, mới nói: “Cảnh tế tâm thô, diệu quán khó thành”. Do đó, cách này chẳng bằng trì danh tiện dụng dễ hành, chẳng nề thượng trí, hạ ngu, nào luận khổ, vui, rảnh, bận, ai cũng niệm được, kẻ nào cũng hành được.

* Thật tướng niệm Phật:

xa lìa các tướng sanh diệt, có, không, năng sở, ngôn thuyết, danh tự, tâm
duyên... chuyên niệm tự tánh vốn sẵn đức Phật thiên chơn. Khốn nỗi, chúng sanh chưa thoát luân hồi, tâm sanh diệt niệm niệm tiếp nối như kinh Viên Giác dạy: “Chưa thoát luân hồi mà bàn đến Viên Giác thì tánh Viên Giác ấy cũng bị xoay chuyển. Ðã như vậy mà mong thoát được luân hồi thì quyết chẳng thể được”.

Kinh còn dạy: “Huống hồ là tâm cấu trược sanh tử chuyển vần chưa từng thanh tịnh, quán Viên Giác của Phật làm sao lãnh hội được”. Ví như loài trùng rất nhỏ chỗ nào cũng bu được, chẳng thể đậu trên lửa. Ví như tâm chúng sanh, duyên chỗ nào cũng được chỉ chẳng duyên nổi Bát Nhã.
Bởi thế, ông Phật của Thật Tướng, tánh Viên Giác tuy chúng sanh sẵn đủ, nhưng bởi vọng tâm niệm niệm sanh diệt nên chẳng quán nổi.

Lại nữa, trong hai kinh Ðại, Tiểu, bản dịch Tiểu Bổn đời Tần có câu “nhất tâm bất loạn”, còn Ðại Bổn không có câu ấy mà chuyên chú “nhất hướng chuyên niệm”. So sánh hai câu ấy thì điều được đề cao trong Ðại kinh là minh xác, lại khế hợp căn cơ của chúng sanh, tỏ rõ ân đức vô cực của đấng Từ Tôn.
Sách Di Ðà Yếu Giải giảng: “Nếu chấp trì danh hiệu chưa đoạn kiến - tư, do hoặc tán, hoặc định nên trong cõi Ðồng Cư, chia làm ba bậc chín phẩm.

Nếu trì đến mức sự nhất tâm bất loạn, kiến hoặc hay tư hoặc tùy ý đoạn trước được một thứ thì sanh về cõi Phương Tiện Hữu Dư.
Nếu đến mức lý nhất tâm bất loạn, phá toang một phẩm vô minh, cho đến bốn mươi mốt phẩm thì sanh trong Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ, cũng
chứng một phần Thường Tịch Quang độ”.
(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)
Sửa lần cuối bởi Thien Nhan vào ngày 24/06/12 05:06 với 1 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

5. Các căn khí được kinh này hóa độ

Sách Sớ Sao viết: “Trước hết là ba loại phi khí: kẻ không có lòng tin, kẻ không có nguyện, kẻ không hạnh. Không phải ba thứ trên thì là khí”.

Tín là tin rằng chúng sanh và Phật chẳng hai, tâm này là Phật, tâm này làm Phật, chúng sanh niệm Phật nhất định vãng sanh rốt ráo thành Phật.
Nguyện là chán nhàm Sa Bà, ưa thích, hâm mộ Cực Lạc như con nhớ mẹ, quyết sẽ vãng sanh.
Hạnh là từ nguyện khởi hạnh nhất hướng chuyên niệm chẳng gián đoạn.
Ba điều trên đây gọi là tư lương.

5.1 Thượng bối vãng sanh chỉ là Bồ Tát

Trong kinh này, với ba bậc vãng sanh, mỗi bậc lại chia thành ba phẩm giống như chín phẩm trong Quán kinh. Chư sư cổ đức trước thời ngài Thiện Ðạo đời Ðường cho rằng thượng thượng phẩm vãng sanh Cực Lạc là Bồ Tát từ Tứ Ðịa đến Thất Ðịa; thượng trung phẩm là Sơ Ðịa cho đến Tứ Ðịa Bồ Tát; thượng hạ phẩm là Ðại Thừa chủng tánh cho đến Sơ Ðịa Bồ Tát.

5.2 Vốn vì phàm phu, kiêm vì thánh chúng

Thiện Ðạo đại sư trong tác phẩm Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ (Quán Kinh Nghĩa Sớ) đả phá thuyết trên như sau: ‘Như Lai nói mười sáu pháp quán này chỉ vì độ thoát chúng sanh thường chìm đắm, chẳng can hệ tới các bậc thánh. Ý ngài cho rằng: Phật giảng chín phẩm vãng sanh trong Quán kinh chỉ là vì chúng sanh trầm luân, chẳng vì Bồ Tát, A La Hán.

5.3 Chuyên tiếp thượng căn, bàng cập trung hạ

Do một pháp Trì Danh
là pháp môn vô thượng chí viên chí đốn chẳng thể dùng phân biệt suy lường để hiểu nổi, nên bảo là thâm diệu. Chỉ một bề mà niệm, chẳng cần đến phương tiện khác, chẳng vướng vào suy lường, trực khởi, trực dụng, tự được tâm khai, ngay khi ấy phá sạch hý luận, trừ sạch hết thảy phân biệt so đo, nên nói: pháp thâm diệu như vậy chỉ có hàng nhục thân Ðại Sĩ như Mã Minh v.v... mới trực tiếp lãnh hội được, mới triệt để gánh vác nổi.

Ðại sĩ Mã Minh người xứ Ðông Thiên Trúc, truyền Phật tâm ấn, là tổ thứ mười hai của Thiền tông, trung hưng Ðại Thừa, soạn Ðại Thừa Khởi Tín Luận. Cuối luận, khuyên chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ.

Ðại sĩ Long Thọ người Nam Thiên Trúc, là tổ mười bốn của Thiền tông, thân cận Kim Cang Tát Ðỏa, lại thành tổ của Mật giáo. Ngài vào long cung đem kinh Hoa Nghiêm về nên thành tổ của tông Hoa Nghiêm. Lại rộng tạo các luận, cực lực hoằng dương Tịnh Ðộ. Kinh Lăng Già huyền ký rằng: ngài chứng Hoan Hỷ Ðịa vãng sanh Tịnh Ðộ, cho nên là tổ của Tịnh Ðộ tông. Trung Hoa gọi ngài là tổ của tám tông vì các tông Thiên Thai, Pháp Tướng, Nam Sơn, Tam Luận cũng đều coi ngài là tổ khai tông.

Trí Giả đại sư tụng Pháp Hoa, thân tâm rỗng rang, được nhập Pháp Hoa tam muội, đích thân thấy một hội Linh sơn nghiễm nhiên chưa tan. Sau ngài trụ núi Thiên Thai, sáng lập Thiên Thai tông. Lâm chung nằm nghiêng trên hông phải, mặt hướng về tây, xưng niệm A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm mà tịch.

Vĩnh Minh đại sư được ngài Thiều quốc sư của Thiên Thai tông phát minh tâm yếu, trở thành đích tôn của tông Pháp Nhãn. Sau đó, ngài chuyên chí nơi Tịnh tông: mỗi ngày tụng hồng danh mười vạn câu, kiêm hành nhật khóa một trăm lẻ tám việc, được Quán Âm Ðại Sĩ dùng cam lộ rưới vào miệng, diệu huệ phát khởi, viết Tông Kính Lục gồm một trăm quyển và Tâm Phú Chú, Vạn Thiện Ðồng Quy... giơ cao đuốc pháp chiếu sáng muôn đời. Năm bảy mươi hai tuổi, ngài thắp hương, giã biệt đồ chúng, ngồi mà quy Tây.

Cốt lõi của đại nguyện chính là nguyện thứ mười tám. Kinh chép: “Thập phương chúng sanh nghe danh hiệu ta, chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh cõi ta, chí ít mười niệm, nếu chẳng sanh, chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp".

kinh Tỳ Lô Giá Na trong Mật điển chép: “Ðại bi làm căn, Bồ Ðề làm nhân, phương tiện làm cứu cánh” . Câu này chỉ rõ: pháp phải có phương tiện độ sanh rốt ráo mới là Quả Giác rốt ráo của Như Lai. Vì vậy, phương tiện rốt ráo “mười niệm ắt vãng sanh” thật là do phương tiện xứ tối cực thành tựu rốt ráo của đức Di Ðà, chính là ý “đối với định huệ, Như Lai đã thấu suốt đến cùng cực” trong kinh này.

(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)
Sửa lần cuối bởi Thien Nhan vào ngày 24/06/12 05:05 với 1 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

6. Tạng giáo sở nhiếp

Phàm nghiên cứu kinh điển, trước hết phải biết kinh này thuộc tạng nào, được nói trong thời nào, phán định thuộc giáo nào? Biết rõ các điều ấy sẽ giúp ích cho việc lý giải toàn kinh.

Về sự phán định một đời thánh giáo, ý kiến các nhà khác nhau. Nói tóm tắt là: tam tạng, nhị tạng, ngũ thời, nhị giáo và tứ giáo, ngũ giáo. Hễ giải thích kinh, trước hết cần phải phán định rõ ràng:

Kinh này trong tam tạng thuộc về kinh tạng.
Trong nhị tạng thuộc Bồ Tát tạng.
Trong ngũ thời thuộc thời Phương Ðẳng,
Trong nhị giáo thuộc Ðốn giáo,
Trong tứ giáo và ngũ giáo thuộc Viên giáo.

6.1. Tam tạng

Chữ Tạng là: “Bao hàm, chứa đựng sâu xa thì gọi là Tạng”.
Kinh điển bao hàm, chứa đựng hàm súc văn nghĩa nên gọi là Tạng.
Một là Kinh tạng, tiếng Phạn là Tu-đa-la, Tàu dịch là Khế kinh.
Hai là Luật tạng, tiếng Phạn là Tỳ-nại-da, Tàu dịch là Ðiều Phục.
Ba là Luận tạng, tiếng Phạn là A-tỳ-đạt-ma, tàu dịch là Ðối Trị.
Trong ba tạng Kinh, Luật, Luận, kinh này thuộc Kinh tạng.

6.2. Nhị tạng

Sớ giải của ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn viết: “Ngài Long Thọ nói: Sau khi Phật diệt độ, Ca Diếp, A Nan ở thành Vương Xá kết tập pháp tạng thành Thanh Văn tạng. Văn Thù, A Nan nơi núi Thiết Vy kết tập Ma Ha Diễn (đại thừa) thành Bồ Tát tạng.
Ngài Trì Ðịa cũng nói: “Phật vì Thanh Văn, Bồ Tát hành đạo thoát khổ nói tu-đa-la. Người kết tập kinh chia thành hai tạng. Kinh nói về hạnh của Thanh Văn làm thì là Thanh Văn tạng. Kinh nói về hạnh Bồ Tát là Bồ Tát tạng”.

6.3. Ngũ thời

Thiên Thai đại sư dựa vào kinh Niết Bàn, chia cả đời giáo hóa của Như Lai thành năm thời:

a). Một là trong hai mươi mốt ngày đầu tiên, nói kinh Hoa Nghiêm là thời Hoa Nghiêm.

b). Thứ hai, trong mười hai năm kế tiếp, nơi vườn Lộc Dã v.v... giảng bốn kinh A Hàm là thời A Hàm.

c). Thứ ba, trong tám năm kế tiếp, nói các kinh Duy Ma, Ðại Tập, Lăng Nghiêm v.v... và kinh này, chỉ trích thiên giáo, cổ võ Viên giáo. Nói rộng (Phương) bốn giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên; bình đẳng (Ðẳng) độ khắp các căn cơ, nên gọi là thời Phương Ðẳng.

d). Thứ tư, lại trong hai mươi hai năm kế đó, nói các kinh Ðại Bát Nhã, gọi là thời Bát Nhã.

e).Thứ năm, trong tám năm sau cùng, nói kinh Pháp Hoa, một ngày một đêm nói kinh Niết Bàn, cửu giới, tam thừa đều được thọ ký, chẳng luận Ðại, Tiểu đều được thành Phật. Thời này gọi là thời Pháp Hoa - Niết Bàn. Ta nói kinh này thuộc thời Phương Ðẳng thứ ba. Hơn nữa, kinh này được đức Thế Tôn nhiều phen tuyên thuyết nên chẳng thể hạn cuộc trong một thời nào.

6.4 Phán giáo

6.4.1. Tứ giáo và ngũ giáo

Các sư xưa nay phán định giáo tướng nói chung có 12 nhà, nhưng nổi tiếng nhất là thuyết Tứ Giáo của ngài Thiên Thai lập ra và Ngũ Giáo của tông Hiền Thủ.

Tứ Giáo theo Thiên Thai là Tạng, Thông, Biệt, Viên:

a). Một là Tạng giáo.

b). Hai là Thông giáo, tức nói thông cả ba thừa, độ chung ba căn.

c). Ba là Biệt giáo chỉ cho giáo pháp được nói trong kinh Ðại thừa.

d). Bốn là Viên giáo, tức là pháp giới tự tại viên mãn đầy đủ: một là hết thảy, hết thảy là một, vô ngại pháp môn v.v...

* Chung giáo: Do Trung Ðạo diệu hữu, định tánh xiển đề đều sẽ thành Phật mới là nói đến chỗ cùng tột của Ðại thừa; nên gọi là Chung (cuối cùng).

* Ðốn giáo: chỉ nói chơn tánh. Một niệm chẳng sanh thì gọi là Phật. Chẳng nương theo địa vị để nói theo thứ lớp, nên gọi là Ðốn. Như kinh Tư Ích dạy: “Ðắc thuyết pháp chánh tánh là chẳng từ một địa vị này sanh lên một địa vị khác”. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Sơ Ðịa chính là Bát Ðịa, nhẫn đến không có gì là thứ lớp cả”.

* Viên giáo: gộp chung cả bốn loại trên, viên mãn đầy đủ, giảng về vô tận pháp giới, tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, tương tức, tương nhập, lưới Ðế Thích trùng trùng, chủ bạn giao tham vô tận, vô tận. Một địa vị chính là hết thảy địa vị, hết thảy địa vị chính là một địa vị. Vì vậy, thập tín mãn tâm chính là gồm trọn hết thảy địa vị, viên thành chánh giác.

6.4.2 Nhị giáo

Trên đây, tuy cách phán giáo khác nhau, nhưng ý kiến của các nhà chẳng ngoài hai giáo: Tiệm, Ðốn. Hai thuyết Thiên Thai, Hiền Thủ cũng đều dùng Tiệm, Ðốn để chia thành tứ giáo, ngũ giáo.

Sách Di Ðà Yếu Giải chép: “Một đời giáo hóa của Phật Thích Ca chỉ có kinh Hoa Nghiêm nói lên nhất sanh viên mãn (một đời tu được trọn vẹn thành Phật), mà cái nhân của nhất sanh viên mãn ấy là mười đại nguyện vương dẫn dắt về An Dưỡng nằm trong phẩm cuối cùng là Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đem việc ấy khuyến khích Hoa Nghiêm hải chúng.

a). Ðồng thời cụ túc tương ưng môn

Giáo lý Hoa Nghiêm lấy duyên khởi làm chủ. Toàn bộ hết thảy các thứ trong pháp giới gộp thành một đại duyên khởi. Một pháp thành hết thảy pháp, hết thảy pháp khởi một pháp, cùng một lúc đầy đủ, viên dung hiển hiện, nên bảo là ‘cụ túc tương ưng’.
Phẩm Diệu Nghiêm của kinh Hoa Nghiêm chép: ‘Biển hết thảy pháp môn vô tận cùng hội trong một pháp đạo tràng’. Ðại Sớ giảng: ‘Như một giọt nước biển có đủ vị của cả trăm sông’. Ðó là huyền nghĩa của môn này.
Trong kinh Vô Lượng Thọ đây hiển thị đầy đủ huyền môn ‘đồng thời cụ túc tương ưng’ như trong phẩm Chí Tâm Tinh Tấn, Pháp Tạng tỳ kheo ‘với các sự trang nghiêm công đức của hai mươi mốt câu chi cõi Phật đó hiểu rõ thông đạt như một cõi Phật.

b). Quảng hiệp tự tại vô ngại môn

Ðại Sớ giảng: "Như nơi cái gương đường kính một thước mà thấy cảnh cả mười dặm". Gương ví cho cái hẹp (hiệp), cảnh mười dặm ví cho cái rộng (quảng).
Phẩm Phát Ðại Thệ Nguyện của kinh Vô Lượng Thọ chép: "Cõi Phật ấy ngự rộng rãi nghiêm tịnh, sáng rực như gương, chiếu tột mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới chư Phật".
Dùng lực dụng của một cõi soi tỏ khắp mười phương là Quảng. Tướng của một cõi chẳng hoại là Hiệp.

c). Nhất đa tương dung bất đồng môn

Ðại Sớ viết: "Như ngàn ngọn đèn trong một căn nhà, ánh sáng xen lẫn nhau". Trong một có nhiều, trong nhiều có một, đó là "tương dung" (chứa đựng lẫn nhau), nhưng tướng của một và nhiều chẳng mất nên là "bất đồng".
Phẩm Lô Xá Na Phật của kinh Hoa Nghiêm dạy: "Dùng một cõi Phật choán đầy mười phương. Mười phương bỏ vào một cõi cũng chẳng dôi ra. Tướng trạng vốn có của từng thế giới cũng chẳng bị hư hoại. Công đức không gì so sánh nổi cũng giống như vậy".

d). Chư pháp tương tức tự tại môn

Phần trên giải thích về ‘tương dung’, phần này nói về ‘tương tức’.
Phẩm Thập Trụ của kinh Hoa Nghiêm, bản dịch đời Tấn, chép: ‘Một tức là nhiều, nhiều tức là một’. Ví như nước với sóng, nước ví cho một, sóng ví cho nhiều. Sóng tức là nước, nước tức là sóng, cái này tức là cái kia (tương tức), mà mỗi thứ tự tại, nên nói là ‘tương tức tự tại’. Lại nữa, Ðại Sớ viết: ‘Như vàng và màu sắc của vàng, hai thứ chẳng rời nhau’.

e). Ẩn mật hiển liễu câu thành môn

Ðại Sớ viết: ‘Như một mảnh trăng trong vắt trên không, tối và sáng cùng có’. Ý nói: trong ẩn có hiển, trong hiển có ẩn.

f). Vi tế tương dung an lập môn

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: ‘Trong một hạt bụi có cõi nước nhiều như số hạt bụi. Trong mỗi một cõi có chẳng thể nghĩ nổi đức Phật’. ‘Trong đầu một sợi lông nhỏ bé nhất, xuất hiện cõi trang nghiêm ba đời’ chính là nói đến ý nghĩa này.

g). Nhân Ðà La võng pháp giới môn

Môn vi tế tương dung nói trên chỉ minh họa các tướng tương nhập, tương tức mới có một tầng, chưa minh thị nổi nghĩa lý trùng trùng vô tận, tương tức tương nhập, nên phải mượn cái lưới của Nhân Ðà La (Indra) làm thí dụ để minh họa nghĩa này.

h). Thác sự hiển pháp sanh giải môn

Do trùng trùng vô tận như trên nên vi trần, pháp nào cũng đều là sự sự vô ngại pháp giới. Vì vậy, có thể tùy ý lấy một hạt bụi, một sự để hiển lộ toàn thể pháp giới như Ðại Sớ viết: ‘Tượng đứng giơ tay, mắt nhìn đều là đạo’.

i). Thập thế cách pháp dị thành môn

Môn này biểu thị sự kéo dài hay rút ngắn vô ngại. Tám môn trước biểu thị tướng viên dung theo chiều ngang (không gian), còn môn này biểu thị theo chiều dọc (thời gian).

j). Chủ bạn viên minh cụ đức môn

Vạn pháp ngang dọc thành một đại duyên khởi, pháp pháp thấu tột lẫn nhau, nên hễ nêu lên một pháp thì hết thảy các pháp khác thành bạn để làm duyên khởi, cũng tức là lấy một pháp làm chủ thì hết thảy pháp khác đều là bạn để tương ứng với pháp ấy.

Sách Hoa Nghiêm Huyền Ðàm giải thích các pháp là sự sự vô ngại, là do duy tâm sở hiện. Nguồn gốc của các pháp chẳng phải là có chủng loại riêng, chỉ là pháp sai biệt duyên khởi của Như Lai Tạng Tâm của chính mình. Vì vậy, chúng ắt phải có cái lý có thể dung hòa được nhau.

Sách Hoa Nghiêm Kim Sư Tử Chương viết: “Hoặc ẩn, hoặc hiển, hoặc một, hoặc nhiều, đều không có tự tánh. Do tâm xoay chuyển nên nói Sự, nói Lý, có thành, có lập thì gọi là duy tâm hồi chuyển thiện thành môn”. Duy tâm thiện thành môn chính là chủ bạn viên minh cụ đức môn.

=========Nghĩa chữ =========

[1] Lưới Ðế Thích (đế võng): Lưới của Ðế Thích mỗi mắt lưới là một hạt ngọc, mỗi hạt ngọc phản chiếu, soi rọi hiện bóng trong những hạt ngọc kia, trùng trùng vô tận.

[2] Chủ bạn giao tham: Pháp này là chủ thì các pháp kia là bạn, lấy pháp khác làm chủ, thì pháp này cùng các pháp còn lại là bạn.

[3] Tu đoạn: Đoạn trừ phiền não vô minh bằng cách tu tập.

[4] Sát hải: Sát là nói tắt của sát độ (ksetra), tức một cõi Phật. Một cõi Phật nhỏ nhất là một tam thiên đại thiên thế giới. Do các cõi Phật nhiều như biển, nên kinh thường dùng chữ “sát hải” để hình dung.

(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Toát yếu: Kinh Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

7. Bộ loại sai biệt
Ðể hiểu sâu kinh này, cần phải biết các kinh luận cùng bộ loại và kinh điển nói kèm pháp Tịnh Ðộ để tiện việc nghiên cứu, tham khảo.

7.1. Ðồng bộ

Kinh này là kinh điển đồng bộ với kinh Tiểu Bổn Di Ðà. Bản dịch đời Ngô của kinh này cũng được đặt tên là A Di Ðà kinh, trùng tên với bản dịch kinh Tiểu Bổn của ngài La Thập đời Tần. Vì vậy, tục gọi kinh này là Ðại Bổn, kinh A Di Ðà bản dịch đời Tần là Tiểu Bổn. Sách Sớ Sao cho rằng hai bản Ðại, Tiểu “văn dầu chi tiết hay giản lược, nhưng nghĩa không ưu, liệt, cho nên phán định là đồng bộ”.

Hiện tại, Tiểu Bổn Di Ðà có ba thứ:

* A Di Ðà Kinh (阿 彌 陀 經), do ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Diêu Tần.

* Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ kinh (稱 讚 淨 土 佛 攝 受經) của ngài Huyền Trang dịch đời Ðường.

* A Di Ðà Kinh Tần Ðường Lưỡng Dịch Hội Tập Bản (阿 彌 陀 經 秦 唐 两 譯 會 集 本) do Bồ Tát giới cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập thời hiện đại.

7.2. Ðồng loại

Hễ kinh điển nào xướng xuất “nghĩ, niệm Di Ðà, nguyện sanh Cực Lạc” đều được coi là đồng loại. Trong các kinh ấy cũng có thân, sơ. Kinh nào trì danh niệm Phật là thân, đề cao pháp khác là sơ.

* Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh (佛 說 觀 無 量 壽 佛 經): Kinh này cùng với hai kinh Ðại Bổn, Tiểu Bổn ở trên được gọi chung là Tịnh Ðộ Tam Kinh, là kinh điển cơ bản của Tịnh tông. Kinh này giảng đầy đủ về mười sáu diệu môn, khuyên dạy quán tưởng niệm Phật và trì danh niệm Phật.

* A Di Ðà Phật Cổ Âm Thanh Vương Ðà La Ni Kinh (阿 彌 陀 佛 鼓音 聲 王 陀 羅 尼 經) khuyên dạy trì danh và kiêm trì chú.

* Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm (普 賢 行 願 品) của kinh Hoa Nghiêm, mười đại nguyện vương dẫn dắt quy về Cực Lạc.

* Hậu Xuất A Di Ðà Phật Kệ Kinh (後 出 阿 彌 陀 佛 偈 經): Từ đầu đến cuối chỉ là kệ, gồm năm mươi sáu câu. Trong ấy có câu: “Phát nguyện dụ chư Phật, thệ nhị thập tứ chương” (Phát nguyện giống như chư Phật, thề hai mươi bốn chương) tương đồng với hai mươi bốn điều nguyện trong hai bản dịch đời Ngô và Hán.

* Chương Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh Thủ Lăng Nghiêm (首 楞 嚴 經 大 世 至 菩 薩 念 佛 圓 通 章): Khuyên dạy chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật. Dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn.

* Bát Châu Tam Muội Kinh (般 舟 三 昧 經): Do tam tạng pháp sư Chi Lâu Ca Sấm người xứ Nhục Chi dịch vào đời Hậu Hán. Ngoài ra, Ðại Phương Ðẳng Ðại Tập Hiền Hộ Kinh (大 方 等 大 集 賢 護 經) là bản dịch khác của kinh này. Kinh chú trọng dùng chín mươi ngày làm kỳ hạn, chẳng ngồi, chẳng nằm, tu Phật Lập tam-muội, Thiên Thai Tông gọi là Thường Hành tam-muội, xướng danh, quán niệm A Di Ðà Phật.

* Vãng Sanh Luận (往 生 論): do Bồ Tát Thiên Thân soạn, đề xướng ngũ môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ (Nhất luận trong “Tịnh tông tam kinh nhất luận” là chỉ cho luận này).

* Vãng Sanh Luận Chú (往 生 論 註) của đại sư Ðàm Loan đời Bắc Ngụy soạn, là một bộ sách cổ của Tịnh tông.

* Du Tâm An Lạc Tập (游 心 安 樂 集) do đại sư Ðạo Xước đời Ðường soạn là một trong những bộ sách cổ.

7.3 Kinh, luận nói kèm về Tịnh Ðộ

Lại có các kinh, luận tuy chẳng chuyên luận về Tịnh Ðộ, nhưng cũng kiêm xưng tán Cực Lạc, khuyên lơn vãng sanh.

Các kinh ấy như kinh Pháp Hoa(法 華 經), kinh Bi Hoa (悲華經), kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh (隨 願 往 生 經), kinh Văn Thù Sở Thuyết Bát Nhã (文 殊 說 般 若 經), kinh Mục Liên Sở Vấn (目 蓮 所 問 經), kinh Thập Vãng Sanh (十 往 生 經), kinh Quán Phật Tam Muội (觀 佛三 昧 經: Phật thọ ký cho Ngài Văn Thù sẽ sanh về Cực Lạc), kinh Văn Thù Phát Nguyện (文 殊 發 願經, Văn Thù nguyện cầu sanh Cực Lạc), kinh Nhập Lăng Già (入 楞 伽 經, Phật thọ ký cho Long Thọ Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc), Tỳ Bà Sa Luận (毘 婆 沙 論, do Long Thọ Ðại Sĩ soạn), Ðại Trí Ðộ luận (大 智 度 論, cùng tác giả), Ðại Thừa Khởi Tín Luận (大 乘 起 信 論, Bồ Tát Mã Minh soạn) v.v...

Kinh, luận Tịnh Ðộ có đến trăm mấy mươi bộ. Trên đây chỉ lược nêu các kinh sách thuộc cùng bộ loại và kinh, luận đề cập đến Tịnh Ðộ. Còn như số lượng các kinh điển trong Mật bộ có liên quan đến Tịnh Ðộ còn nhiều hơn nữa nhưng chẳng kể ra.


(Lưu ý: Hành giả nào mới bắt đầu học Pháp, nên bắt đầu vào bộ Phật Học Phổ Thông, của cố HT. Thích Thiện Hoa. Những ai có kinh nghiệm sao chép kinh, thì cũng nên chỉnh sửa các văn phong, thời phong kiến, cố chấp cho hợp với thời đại "Văn hóa Phật giáo".)


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.36 khách