Tôi từ lâu đã mong được toát yếu Chương Đại Thế Chí nầy mà chưa có diệp, nay sẵn có ở đây nên bèn viết vài lời toát yếu, hầu mong mọi người được lợi ích. Bài nầy tôi hứng thú nên viết một lèo trong vòng 1 tiếng, không có tra khảo gì hết, mong đọc xong được ý quên lời.
Thuở nọ trong Pháp Hội Lăng Nghiêm, tại Tân Xá Kỳ Viên nước Xá Vệ, có các vị đại Bồ Tát và các vị đại A La Hán vân về tuyên nói pháp cho Đại Chúng nghe về pháp môn Viên thông chứng ngộ được ngôi vị chánh đẳng chánh giác của bản thân. Khi ấy ngài Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với 52 vị Đại Bồ Tát tu pháp môn niệm Phật. Ngài đại diện đứng dậy và tuyên nói pháp môn niệm Phật Tam muội:
Tất cả pháp môn viên thông trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm không ngoài 18 Giới (lục căn, lục trần, lục thức) và 7 Đại (địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức). Chứng minh cho chúng ta thấy rằng tu hành Phật pháp là ở nơi thân tâm mình mà tu, xoay về với tánh giác của mình ở nơi sáu căn, sáu trần, sáu thức, bảy đại. Không vọng cầu ở bênh ngoài.
Chương Đại Thế Chí nầy là thuộc phần Kiến Đại.
Thế nào gọi là Kiến Đại?
Con người được kết hợp bởi 7 Đại. Địa Thủy Hỏa Phong Không Đại là thuộc về Thể Chất. Kiến và Thức Đại thuộc về Tinh Thần.
Kiến Đại là Thể Tánh. Thức Đại là Dụng.
Kiến Đại là thể tánh của cả sáu phần thấy, nghe, ngữi, nếm, xúc, biết. Còn chính cái thấy nghe ngưỡi nếm xúc biết kia lại là dụng tùy duyên mà hiện. Nhân duyên hòa hợp thì thấy nghe ngữi nếm xúc biết hiện tiền. Nhân duyên biệt ly thì thấy nghe ngữi nếm xúc biết tan rã.
Thể Tánh là một mà do mê lầm nghiệp quả chiêu cảm nên mới chia ra ở sáu nơi. Tuy một mà sáu, tuy sáu mà một.
Phần Kiến Đại Viên Thông nầy cốt là khuyên chúng ta niệm Thật Tướng Phật, tức là niệm Tự Tánh Phật nơi mình, xoay về Tự Tánh Phật nơi mình. Nếu về được Tự Tánh Phật thì tức là chứng Kiến Đại Viên Thông hay còn gọi là Niệm Phật Tam Muội Viên Thông.
- Bạch Thế Tôn, con nhớ thời quá khứ vô lượng kiếp về trước có một đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang Phật, như thế trước sau có 12 vị Phật nữa nối tiếp nhau ra đời giáo hóa chúng sanh. Có một đại kiếp lâu xa, vị Phật cuối cùng hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật, ngài chính là người đã dạy con pháp môn niệm Phật Tam Muội này.
Vô Lượng Kiếp dụ cho vô lượng vọng tưởng.
Phải vượt qua nhiều vọng tưởng thì mới gặp được Phật, tức là Tự Tánh Phật đấy vậy. Bởi hể còn vọng tưởng thì không thể gặp được Phật, vì Phật là Tánh Giác, mà Tánh Giác thì siêu vượt mọi vọng tưởng tình phàm.
Do vậy phải phải vượt nhiều kiếp mới có Phật, mới gặp được Phật là Vô Lượng Quang Phật. Tức là Tánh Giác Vô Lượng Quang nơi mỗi con người chúng ta. Chúng ta còn vọng niệm, vọng tưởng nhiều quá nên không thể gặp được ông Phật nơi mình, chưa thể minh tâm kiến tánh.
12 vị Phật nói nhau liên tiếp đều cùng một hiệu, là bởi tâm truyền tâm.
Phật trước cũng về được với Tâm Tánh Vô Lượng Quang
Phật sau cũng về được với Tâm Tánh Vô Lượng Quang
Mà tâm tánh Vô Lượng Quang đó thì tương đồng cho nên gọi là đồng một hiệu.
Nếu hiện tại chúng ta có thể quay về với Tự Tánh Phật ấy, thì ta cũng đông một hiệu với các vị Phật kia gọi là Vô Lượng Quang Phật.
Ví như nói rằng, có hai người xa nhau đã lâu, một người này vô cùng thương nhớ người kia, nhưng người được thương nhớ lại hoàn toàn quên đi người thân của mình, như thế hai người dù có tình cờ gặp nhau cũng như là chưa gặp, dù cho có thấy nhau cũng coi như là không thấy.
Đây là ý nói chúng sanh quên mất Tâm Tánh Vô Lượng Quang Phật của mình. Dù Tâm Tánh Vô Lượng Quang đó vẫn còn đó, mà chúng ta quên mất, không biết để quay về thì dù mình hiện đang sống với Tâm Tánh ấy mà chẳng hay biết thì coi như là dù thấy mà coi như là không thấy, dù gặp mà coi như là không gặp.
Tâm Tánh Vô Lượng Quang ấy vẫn hiện diện cùng khắp không gian thời gian, nơi thân mình mà mình không hay biết. Cho cái vọng tưởng điên đảo là mình, nhận vọng làm chân, không biết và không chịu xoay về với Tâm Tánh Chân Thật nơi mình.
Giả như hai người ấy đều nhớ thương nhau, nỗi nhớ thâm sâu, nghĩ tưởng đến nhau mà không quên, như vậy nhất định họ từ đời hiện tại cho đến vị lai, đều bên nhau như bóng theo hình, không hề cách xa nhau.
Giả như nếu chúng ta nhớ thương đến Tự Tánh Phật của mình, tức là niệm niệm xoay trở về với Tâm Tánh ấy, thì nhất định bây giờ cho đến vị lai mình và Tự Tánh mình như bóng theo hình không hề xa cách nhau. Bởi nếu niệm niệm xoay về tự tánh thì có ngày sẽ nhận ra và sống thật với tự tánh ấy vĩnh viễn.
Mười phương Như Lai thương xót tất cả chúng sanh, như mẹ hiền thương nhớ con của mình, nếu như người con cứ tự chối bỏ thì người mẹ dù thương con đến cách mấy cũng không lợi ích gì. Bằng như con cũng nhớ mẹ như mẹ thương con, thì hai mẹ con từ kiếp này cho đến đời vị lai, không bao giờ xa nhau.
Mười Phương Như Lai tức là Tự Tánh khắp không gian thời gian cùng khắp mười phương của chính mình luôn luôn đều thương tưởng đến mình, tức luôn luôn ở bên mình mà mình không hay biết phát hiện được, giống như bà mẹ nhớ con vậy.
Nhưng nếu chúng ta không nhớ Tự Tánh mình, không chịu trở về với Tự Tánh mình, cứ chạy theo vọng tưởng, cứ nhận vọng làm mình, thì dù Tự Tánh mình nó hiện ở nơi mình đó mà mình cũng không hề hay biết, thì cũng chẳng có lợi ích gì.
Còn như nếu chúng ta là đứa con nhớ mẹ, thì phải luôn luôn khao khác được trở về nhận thấy bà mẹ Tự Tánh mình, thì có như vậy bà mẹ Tự Tánh mình và mình mới không hề xa cách nhau được.
Chứ còn không mình cứ bỏ bà mẹ Tự Tánh mình, mà chạy theo vọng tưởng mê lầm, thì không có lợi ích gì, mãi trôi lăng trong biển sanh tử, chịu bao đau khổ mà thôi.
Nếu trong Tâm chúng sanh thường nhớ niệm Phật thì hiện tại hoặc vị lai nhất định sẽ thấy được Phật, cách Phật không xa, không nhất thiết cần đến một pháp môn tương trợ nào khác, tự nhiên mà khai ngộ như trường hợp như người ướp hương, tự nhiên trên thân có hương thơm bay khắp, đây gọi là Hương Quang Trang Nghiêm.
Nếu tâm mình mà thường niệm niệm xoay về Tự Tánh Phật thì ngay trong hiện tại nầy hay là vị lai về sau nhất định rồi ta cũng sẽ minh tâm kiến tánh, thấy và trở về được với ông Phật Tự Tánh mình. Thật là không cần pháp môn nào khác, cứ niệm niệm xoay về Tự Tánh là được giác ngộ giải thoát.
Bởi lấy cái Hương Quang của Tự Tánh mà trang nghiêm lấy mình ngay hiện tại và vị lai. Bởi Tâm Tánh ấy tràng đầy cùng khắp.
Con từ khi là sơ địa Bồ Tát, hành pháp môn niệm Phật này mà đắc được Vô Sanh Pháp Nhẫn, hiện tại con ở nơi thế giới Ta Bà giúp đỡ người niệm Phật, tiếp dẫn họ về nước Cực Lạc Tịnh Độ.
Bồ Tát Đại Thế Chí do nhờ niệm niệm xoay về Tự Tánh mà ngài đắc được Vô Sanh Pháp Nhẫn, tức là minh tâm kiến tánh, được vô công dụng hạnh. Hiện vào Tâm Ta Bà Vọng Động Lăng Xăng Nhiều Niệm của chúng sanh giúp khuyên họ thoát cái tâm ấy mà trở về với Tâm Tánh Tịnh Độ Cực Lạc mà họ đã đánh mất lãng quên từ vô thỉ.
Phật hỏi con:”phát tâm tu hành từ đâu mà thâm nhập Tuệ Tri, đắc pháp viên thông?” Con chẳng có lựa chọn nào khác cả, ngoài câu trả lời “THÂU NHIẾP SÁU CĂN, TỊNH TÂM NIỆM PHẬT, LIÊN TỤC CHẲNG DỨT, KHÔNG CÓ GIÁN ĐOẠN”. Nếu như niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, chắc chắn đắc được Tam Muội, bởi thế mới nói NIỆM PHẬT LÀ PHÁP MÔN ĐỆ NHẤT.
Chính do niệm niệm xoay về Tự Tánh Phật, nên sáu căn đều được thâu nhiếp.
Bởi ở trên đã nói Kiến Đại là Thể của cả Sáu Căn. Tuy Sáu mà Một, tuy một mà Sáu.
Cho nên chỉ cần xoay về góc Tự Tánh thì các căn đều thâu nhiếp.
Chính cái niệm niệm xoay về Tự Tánh là thanh tịnh và liên tục không gián đoạn, không cho vọng tưởng phiền não sanh khởi nên mới Minh Tâm Kiến Tánh, tức là đắc được Tam Muội Niệm Phật Viên Thông hay Kiến Đại Viên Thông nầy đấy vậy.