Khai thị của Pháp sư Tịnh Không

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

huongsen
Bài viết: 1
Ngày: 03/09/12 21:57
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Ha Noi

Khai thị của Pháp sư Tịnh Không

Bài viết chưa xem gửi bởi huongsen »

1. Phật giáo không phải là tôn giáo[/b](Lão P.S Tịnh Không)
Cẩn dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

…Phật giáo là giáo dục của Phật Đà. Phật Đà là từ tiếng Phạn dịch âm ra, ý nghĩa của nó là trí tuệ, là giác ngộ. Vì sao năm xưa phiên dịch không dịch thành Trí Giác để ngày nay chúng ta xem thấy danh từ này thì cũng sẽ rất dễ hiểu, không đến nổi mê hoặc? Đây là thể lệ trong phiên dịch kinh điển thời xưa, có năm loại không dịch, gọi là năm điều không dịch, đây là thuộc về một trong năm loại đó, tức là thuộc về hàm nghĩa quá nhiều nên không dịch. Danh từ này có rất nhiều ý nghĩa trong đó, trong từ vựng của Trung Quốc không tìm ra một chữ tương đương để phiên dịch, cho nên liền dùng dịch âm, sau đó thêm phần giải thích. Trí mà trong chữ Phật Đà này nói so với trí tuệ mà trong khái niệm thông thường của chúng ta là không giống nhau, do đó cần phải thêm phần giải thích. Tóm lại mà nói, Trí tuệ trong chữ Phật Đà chính là đối với quá khứ vị lai của vũ trụ nhân sanh đều có thể thông suốt, hơn nữa thấu suốt chính xác, thấu suốt rốt ráo viên mãn. Trí tuệ như vậy mới gọi là Phật Đà. Chúng ta thoạt nghe cách nói này thì thấy rất khó tiếp nhận, chỗ này có một chút giống như trong tôn giáo gọi Thượng Đế là toàn tri toàn năng, con người thì làm gì có được như vậy? Hơn nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta là tất cả chúng sanh bao gồm chính con người chúng ta trong đó, đích thực đều có trí tuệ này, đều có năng lực này.

Như vậy, Phật pháp đối với tất cả chúng sanh đều là có cách nhìn bình đẳng, vốn dĩ bình đẳng, Phật cũng không cao hơn chúng ta một bực, chúng ta cũng không kém hơn Phật chỗ nào. Tuy là bình đẳng, nhưng trí tuệ năng lực của chúng ta ngày nay không thể giống nhau được, ở trong xã hội có người thông minh, cũng có người ngu si, có người năng lực rất tốt, có người năng lực rất kém. Vì sao có hiện tượng này? Phật nói với chúng ta, đó chính là bởi vì bạn mê mất đi bản năng của bạn. Vốn dĩ bạn có trí tuệ nhưng bạn đã mê mất đi trí tuệ cứu cánh viên mãn, mê mất chứ không phải thật đã mất đi, chỉ là mê mà thôi. Nếu như có thể phá trừ mê hoặc thì năng lực của bạn liền hồi phục lại. Do đó, Phật dạy chúng ta không gì khác hơn là dạy chúng ta đem mê hoặc điên đảo trừ bỏ, hồi phục bản năng chúng ta mà thôi. Cho nên trên kinh Đại thừa thường nói, Phật không độ chúng sanh. Phật không hề độ chúng sanh, vậy chúng sanh làm thế nào có thể thành Phật? Là bạn chính mình thành Phật, Phật chỉ giúp đỡ bạn. Việc giúp đỡ này chỉ là Phật xem bạn mê như thế nào thì đem những chân tướng sự thật này nói cho bạn nghe. Sau khi bạn nghe nói rồi, bạn giác ngộ, sau đó bạn đem cái mê hoặc của bạn buông bỏ thì bạn liền thành Phật thôi.

Từ chỗ này mà thấy, Phật pháp đích thực là Sư Đạo. Thầy giáo chỉ có thể dạy bảo chúng ta, thành tựu của học trò thì nhất định chính học trò phải cố gắng nỗ lực mới thành tựu, ở phương diện này thầy giáo không thể giúp được. Việc mà thầy giáo có thể giúp chỉ là đem những lý luận này nói rõ ràng, đem những phương pháp kinh nghiệm mà chính họ đã tu học chứng quả cung cấp cho chúng ta làm tham khảo mà thôi.

Vì vậy trong Phật pháp không có mê tín, đây là việc mà trước tiên chúng ta phải nhận biết nó rõ ràng, phải đem cái quan niệm này sửa đổi lại. Phật giáo là giáo dục, Phật pháp là đạo thầy trò, chúng ta phải xem Phật như là một thầy giáo. Ngày nay chúng ta xây dựng đạo tràng, chúng ta cúng tượng Phật, nhưng không phải xem Phật là thần minh để cúng bái. Xem Phật, Bồ Tát là thần minh để cúng bái đó là tôn giáo. Do đó, ngày nay chúng ta gọi Phật giáo là tôn giáo, thực tế mà nói cũng không thể nào phủ nhận. Vì sao vậy? Phật giáo đích thực đã biến thành tôn giáo rồi, đây là việc rất bất hạnh. Bạn xem, người học Phật mấy người không đem Phật, Bồ Tát xem thành thần minh để cúng bái, để cúng dường? Đây là một ngộ nhận rất lớn, ngộ nhận này đã quá phổ biến.

Người thông hiểu thì cúng dường hình tượng của Phật có hai ý nghĩa:

- Ý nghĩa thứ nhất chính là ý nghĩa báo ân, kỷ niệm. Giáo dục tốt đến như vậy, ở ngay đời này chúng ta có thể gặp được, có thể tiếp nhận thật là quá may mắn. Trong kệ khai kinh thường nói: “trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp”, việc này một tí cũng không giả. Vì vậy chúng ta cảm ân đức đối với thầy mà kỷ niệm Ngài, cũng giống như người Trung Quốc chúng ta cúng dường bài vị tổ tiên vậy, đây gọi là uống nước nhớ nguồn, chúng ta có ân tình sâu dầy như vậy trong đó.

- Ý nghĩa thứ hai là thấy người hiền mà noi theo. Nghĩ lại thì Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài cũng là một người bình thường, Ngài có thể giác ngộ, Ngài có thể thành tựu thì vì sao ta không giác ngộ, vì sao ta không thành tựu ? Vì vậy một tôn tượng đặt ở nơi đó là mỗi giờ mỗi phút nhắc nhở chính chúng ta. Cúng dường tượng Phật là có ý nghĩa như vậy, tuyệt đối không phải mê tín, không phải đem các Ngài xem thành thần minh để cúng bái.
….
Mục đích giáo học của Phật pháp là muốn giúp đỡ chúng ta lìa khổ được vui. Lìa khổ được vui là từ nơi quả mà nói, trên thực tế là giúp chúng ta phá mê khai ngộ. Phật nói khổ từ do đâu mà đến? Do mê mà ra. Bạn đối với vũ trụ nhân sinh (vũ trụ là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta, nhân sinh là chính chúng ta) đối với mình, đối với hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình hoàn toàn không hiểu rõ, đó là khổ. Bạn nghĩ sai, thấy sai, làm sai thì sao bạn không khổ chứ? Nếu như bạn đều thông hiểu, đều rõ ràng, triệt để minh bạch rồi thì bạn liền được vui. Vì sao vậy? Vì cách nhìn, cách nghĩ của bạn đều chuẩn xác, hoàn toàn không sai lầm, thì đời sống của bạn đương nhiên an vui. Do đó phá mê khai ngộ là nhân, ly khổ đắc lạc là quả, là việc mà chúng ta chính mình hưởng thọ. Thầy giáo dạy chúng ta làm thế nào phá mê, làm thế nào khai ngộ Thầy không có yêu cầu nào đối với chúng ta, việc này các vị nhất định phải biết. Chúng ta làm đệ tử của Phật, cùng học với Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật có yêu cầu thứ gì đối với chúng ta hay không? Hoàn toàn không, vô điều kiện, những việc này bạn phải tường tận.

Một thầy giáo chân thật tốt thì đối với học trò không có mong cầu, thầy nhìn thấy học trò này giác ngộ rồi thì rất hoan hỉ, nhìn thấy học trò này ly khổ đắc lạc rồi thì rất vui mừng, cũng giống như cha mẹ nhìn thấy con cái của chính mình vậy, cha mẹ xem thấy con mình ở trong xã hội sự nghiệp thành tựu thì rất hoan hỉ, rất vui mừng, ý này hoàn toàn giống nhau….

Nếu như bạn đem tâm trạng của tôn giáo mà học Phật, thành thật mà nói bạn hoàn toàn không thể có được những thứ này. Do nguyên nhân gì vậy? Do mê. Tôn giáo chú trọng cảm tình, tình cảm là mê, không phải là lý trí. Tôn giáo càng mê càng tốt, vì sao vậy? Vì như vậy bạn mới là tín đồ kiền thành, bạn không bỏ đi mất, vậy mới kéo được bạn, nắm chặt được bạn, bạn không thể nào bỏ đi, bạn mỗi ngày phải đi cúng bái họ, họ tiếp nhận cung kính của bạn, tiếp nhận cúng dường của bạn.

Thế nhưng Phật pháp không phải như vậy, Phật pháp là đạo thầy trò, Phật pháp là sư đạo. Sư đạo là chỉ là đến cầu học, không phải đến cầu để dạy học. Tức là bạn đến cầu học, không có thầy giáo chạy đến nhà của bạn để dạy cho bạn. Đây là đạo lý gì vậy? Thầy giáo đến nhà của bạn dạy cho bạn thì bạn sẽ không tôn trọng, không tôn kính đối với thầy giáo, như vậy thì cho dù thầy giáo có tốt đi chăng nữa, bạn cũng không học được thứ gì. Cho nên thầy giáo tuyệt nhiên không nhất định muốn bạn phải cung kính thế nào đó đối với ông, nếu như có cái tâm như vậy, vị thầy đó không phải là một vị thầy tốt.
(Trích “Nhận thức phật giáo”
Chủ giảng: P.S Tịnh Không –Tại Boston Úc Châu)


2. QUAN HỆ CỦA NHÂN QUẢ
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không
Việt dịch: Thích tâm An)

Thế gian hay xuất thế gian, tất cả đều không lìa nhân quả. Phật pháp cũng được xây dựng từ nền cơ sở đạo lý nhân quả. Chúng ta không gieo nhân, làm sao có thể gặt hái được quả. Giả như việc học hành, quá khứ chúng ta có chăm chỉ học hành là nhân, học vị trong tương lai là quả. Chúng ta cần cù lao động là nhân, được đền bù là quả, vì thế gian hay xuất thế gian không nằm ngoài nhân quả. Nhân quả luôn vĩnh viễn, liên tục và tuần hoàn, đây là một đạo lý chúng ta cần phải biết. Biết được nhân quả là liên tục và tiếp nối tuần hoàn thì trong mọi cảnh, chúng ta tự nhiên sẽ hướng đến đoạn trừ các việc ác và tu tập các việc thiện. Vì chính mình tạo nhân thì tự gặt lấy quả, và tất nhiên, kết quả ai cũng muốn tốt đẹp như ước muốn. Do đó, chúng ta gieo nhân thiện nhất định sẽ được quả thiện, gieo nhân ác tất nhiên sẽ bị quả ác. Không thể nói gieo nhân thiện mà lại gặt quả ác hay gieo nhân ác mà được quả báo thiện, đây là đạo lý không thể có. Nhân quả là định luật tất yếu. Đời này gieo nhân thiện, đời nay không hưởng thì đời sau hưởng, việc ác cũng như vậy. Nếu người đời nay làm thiện mà được quả báo xấu, hay ngược lại đời nay tạo việc xấu lại được may mắn hạnh phúc. Khi xét đến thời gian nhân quả, chúng ta cần phải đề cập đến ba khoảng thời gian:

Thứ nhất là hiện báo: Nghĩa là người tạo nhân thiện hay ác trong đời này, do nhân duyên thuần thục đưa đến lãnh thọ quả báo ngay trong hiện đời. Ví như trồng các loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ trong vòng một mùa hay một năm đã thu thập được kết quả. Cho nên cổ đức có nói: “Đời xưa quả báo thì chầy. Đời nay trả báo một giây nhãn tiền” là vậy.

Thứ hai là sinh báo: nghĩa là chúng ta gây nhân đời này, đời sau sẽ chịu quả báo. Quả báo này có tánh cách hơi lâu. Như chúng ta trồng cây chuối con, trồng năm nay qua sang năm chúng ta mới thu hoạch được quả. Vì thế trong kinh có câu: “Muốn biết nhân đời trước, hãy xem quả đời nay. Muốn biết quả đời sau, hãy xem nhân đời này”. Hai câu này có thể chỉ cho sinh báo.
Thứ ba là hậu báo: nghĩa là chúng ta tạo nhân trong đời nay, đến ba bốn năm, trăm năm, ngàn năm hay vô lượng kiếp sau chúng ta mới thọ quả báo. Ví như chúng ta trồng những loại cây lâu năm, đến năm năm, mười năm hay vài mươi năm sau mới kết quả. Cho nên trong kinh có kệ: “Giả sử trăm ngàn kiếp trôi qua, những nghiệp chúng ta đã tạo sẽ không mất. Khi nhân duyên hội đủ, tự mình phải nhận chịu quả báo”.

Vì thế, đường đi của nhân quả rất phức tạp vi tế. Ví như đời ông cha làm thiện, đời con cháu sẽ được quả thiện, hoặc đời ông cha làm ác, đời sau con cháu phải chịu quả ác. Quả báo tự ai làm thì người đó chịu, con cháu chỉ ảnh hưởng một cách gián tiếp, không phải trực tiếp. Như vậy có thể biết, mặc dù đời này hay đời trước làm việc xấu, chúng ta cần phải nỗ lực chuyển đổi những hành động đó. Chúng ta không sửa đổi là do chúng ta không trí tuệ, chưa tin và chưa hiểu sâu sắc về đạo lý nhân quả. Nếu chúng ta có thể giữ gìn nguyên lý, nguyên tắc bình thường, có thể trì giới, tâm thanh tịnh thì trí tuệ sẽ phát sinh, khi đó, chúng ta sẽ có đủ năng lực chuyển đổi tất cả. Dù ác nghiệp có nặng đến đâu, chúng ta cũng có thể chuyển đổi được, tất cả đều tùy ở năng lực quyết tâm và trí tuệ của mỗi người …

….định luật nhân quả, thế gian và xuất thế gian đều không lìa nó. Rải rác trong các kinh, Phật thường nói: “Vạn pháp đều không, nhân quả bất không”. Vì sao? Vì tất cả các pháp vốn chuyển biến, nhân sẽ biến thành quả, quả sẽ biến thành nhân. Nhân quả tương quan mật thiết, hằng biến chuyển không gián đoạn, cho nên nói “nhân quả bất không” .…

….… Tài phú từ do đâu mà ra? Việc này trên kinh Phật thường nói là tài từ bố thí mà ra. Chúng ta phải nên hiểu, tài bố thí là nhân, trong đời quá khứ bạn đã từng tu qua cái nhân này. Đây chính là ngạn ngữ thường nói: “trong mạng của bạn có tài”, việc này người xem tướng đoán mạng cũng biết. Trong mạng có tài nhưng bạn không thể ngồi ở đó mà đợi tài sẽ rơi xuống, không thể có việc này, mà là bạn đi làm bất cứ nghề nghiệp nào thì cũng đều kiếm được tiền. Bạn làm những nghề nghiệp đó là gì, đó là duyên, nhân thêm vào duyên thì quả báo liền hiện tiền. Có nhân mà không có duyên thì quả báo không thể hiện tiền. Giống như dưa hấu, nhân của dưa là hạt dưa, hột giống, nếu như hạt giống này không thêm cho nó duyên, để nó ở trong ly, để một trăm năm nó cũng sẽ không thể kết thành trái dưa, nó cần phải có duyên. Duyên là cái gì vậy? Thổ nhưỡng, lượng nước, ánh mặt trời, phân bón. Duyên không giống như nhau, có duyên rất đầy đủ thì nó sẽ lớn lên rất tốt, có duyên không đầy đủ như chỗ này thổ nhưỡng không được tốt, không có phân bón, không đủ ánh sáng, thì nó lớn sẽ không được tốt. Chúng ta từ nơi bất cứ nghề nghiệp nào đó là duyên, thế nhưng bạn nhất định phải có nhân, nếu như không có nhân, duyên có tốt hơn cũng sẽ không kết thành quả, bạn nhất định phải hiểu rõ cái đạo lý này.

Phật nói không hề sai. Trong đời quá khứ, chúng ta đã từng tu tài bố thí thì trong mạng của ta có tài, có cái nhân này thì hiện tại không luận là từ nơi nghề nghiệp nào, chúng ta cũng phải có duyên tốt. Cái gì gọi là duyên tốt? Nghề nhiệp của chúng ta là làm lợi ích chúng sanh, làm lợi ích xã hội, tuyệt đối không tổn hại chúng sanh.

Hiện tại có rất nhiều nghề nghiệp làm tổn hại chúng sanh, lừa gạt chúng sanh, làm rất nhiều thứ hàng giả mạo, hàng giả, lấy giả tráo thật, nghiêm trọng nhất là thuốc men. Hiện tại có rất nhiều thuốc giả, kỳ thật trong mạng của họ thật có tài, họ hoàn toàn dùng thật, nhất định không dùng giả thì họ vẫn là kiếm được rất nhiều tiền, dùng hàng giả để lừa gạt người khác thì vẫn là kiếm được nhiều tiền như vậy thôi, không thể hơn được chút nào. Cho nên trong Liễu Phàm Tứ Huấn nói: “Quân tử an vui làm quân tử, tiểu nhân oan uổng vẫn phải làm tiểu nhân”, hà tất phải lừa gạt chúng sanh làm gì? Tuyệt đối không phải bởi vì lừa gạt chúng sanh thì bạn mới phát tài, làm gì có đạo lý này, vậy thì nói không thông. Cho nên duyên của bạn phải là thiện, phải vì lợi ích chúng sanh thì phước báo này của bạn sẽ tăng thêm, hậu phước vô cùng. Nếu như là dùng cái duyên tổn người lợi mình này, trái lại làm cho phước báo của bạn bị mài mòn, phước bị tổn hại, đây là một sai lầm cực lớn. Con người vì sao phải làm như vậy? Vì không hiểu nghiệp nhân quả báo, không biết được chân tướng sự thật nên mới làm việc sai lầm. Họ cho rằng hại người có thể lợi mình, chẳng hề biết được hại người là chân thật hại mình, lợi người mới là chân thật lợi mình. Cái đạo lý này Phật Bồ Tát biết được, bậc thánh hiền, người sáng suốt, các Ngài biết, phàm phu chúng ta không biết.

Nếu trong mạng của bạn không có tiền tài, Phật Bồ tát có thể giúp bạn phát tài, trong mạng của bạn không có quan vị, Phật Bồ tát ban cho quan cao, thì định luật nhân quả đã bị đánh đổ, làm gì có đạo lý này. Chư Phật Bồ Tát trí tuệ có lớn hơn, năng lực có mạnh hơn cũng không cách nào thay đổi được tí gì nhân quả. Thế gian pháp xây dựng trên nền tảng của nhân quả, Phật pháp cũng xây dựng trên nền tảng của nhân quả, chúng ta phải hiểu tường tận. Kinh Pháp Hoa, Nhất Thừa Nhân quả, kinh Hoa Nghiêm, Ngũ Châu Nhân quả, bạn xem tất cả kinh luận đều không lìa định luật nhân quả.

Phật Bồ Tát có thể giúp chúng ta phát tài không? họ có thể, vì họ dạy chúng ta lý luận phát tài, dạy chúng ta phương pháp tu học phát tài. Chúng ta hiểu rõ lý luận, y theo phương pháp này mà tu học, thì tự nhiên đạt được. Không thể nói họ dạy cho bạn, bạn liền trực tiếp phát tài, mà bạn chính mình phải làm. Ví dụ bạn muốn ăn dưa, họ dạy bạn làm thế nào để trồng dưa, làm thế nào chọn hạt giống, làm thế nào để vun xới đất, bón phân cho cây tươi tốt, mau phát triển, bạn làm theo thì tương lai nhất định có thu họach tốt. Không thể nói bạn cầu dưa thì họ liền mang dưa đến, không hề có như vậy, đó là mê tín.

Trong mạng đã có, dù bỏ cũng không mất; trong mạng không có, dù cầu cũng không được. Phật Bồ Tát, thiên địa quỷ thần cũng không cách gì. Bạn cầu Phật Bồ tát, cầu quỷ thần, cầu phát tài, quả nhiên liền phát tài, thành thật mà nói đó là trong mạng của bạn đã sẵn có, vừa khéo ngay lúc này gặp được cơ duyên, chứ không phải Phật Bồ tát linh hiển. Nếu quả thật Phật Bồ tát quỷ thần có linh thì một trăm người cầu phát tài, một trăm người đều phát tài, mới gọi là linh. Một trăm người cầu, mà chín mươi chín người phát tài, còn một người chưa thì vẫn không linh. Cho nên đầu óc chúng ta phải bình lặng, không để bị người lừa gạt, càng không nên bị quỷ thần lừa gạt. Bị người lừa gạt còn có thể tha thứ, nhưng bị quỷ thần lừa gạt là một việc không thể tha thứ. Phải có lý tánh, có trí tuệ mà quán sát, chúng ta mới có thể đạt được lợi ích chân thật…

3. Tại sao có người làm phước thiện lại đọa tam ác đạo?
(P.S Tịnh Không)
Cẩn dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

….Người thông thường cho rằng mình đã làm được rất nhiều việc tốt, cho rằng mình đã tu được rất nhiều công đức, tôi thấy không phải vậy. Có rất nhiều người đang rất nỗ lực tu công đức, làm việc tốt nhưng tương lai đều phải đọa ba đường ác, do nguyên nhân gì vậy? Việc làm đó của họ, họ cho là việc tốt nhưng thực sự không phải là việc tốt, không những tương lai không được tốt mà ngay trước mắt cũng không tốt, xem thấy dường như là một việc tốt, kỳ thật đang làm sai. Thí dụ đạo tràng Phật giáo chúng ta làm những việc từ thiện, bạn nói xem có tốt hay không? Xã hội khen ngợi, quốc gia còn tặng bạn một tấm biển lớn để bạn treo lên, bạn đối với xã hội có cống hiến rất lớn, đó có phải là việc tốt hay không? Xem thấy thì là việc tốt, nhưng thực tế là việc sai. Sai ở chỗ nào vậy? Đạo tràng của Phật giáo là làm những việc gì vậy? Là giáo dục của Phật Đà, đây là bổn phận công việc của bạn, giống như bạn thành lập một trường học, trường học làm những việc gì? Thầy giáo và học trò ngày ngày phải lên lớp, đây là việc chính. Hiện tại thầy giáo không dạy học, học trò cũng không lên lớp, mỗi ngày đi làm những việc từ thiện, vậy là việc tốt hay sao? Sai mục tiêu rồi, cách làm như vậy thì vị hiểu trưởng đó sẽ bị cách chức, học sinh sẽ bị khai trừ.

Cho nên nhất định phải phân biệt chân vọng, tà chánh, phải rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo.

(Trích “Nhận thức phật giáo”
Chủ giảng: P.S Tịnh Không –Tại Boston Úc Châu)


4. NGHIỆP CHƯỚNG LÀ GÌ?
NÓ ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO TRONG ĐỜI SỐNG?
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không
Việt dịch: Thích tâm An)

Nghiệp là sự nghiệp. Thời gian tạo tác gọi là sự, sự tình sau khi làm hoàn tất đưa đến kết quả gọi là nghiệp. Thí như chúng ta là học sinh đến trường để học, thời gian học tập đó chính là tạo nghiệp. Sau ba năm học hoàn tất gọi là mãn khóa hay ra trường. Cho nên nghiệp là kết quả của những hành động tạo tác thành thói quen. Người bình thường chúng ta mỗi khi khởi tâm động niệm đều là tạo nghiệp, vì vậy từ vô lượng kiếp đến nay chúng ta đã tạo ra rất nhiều nghiệp.

Phật dạy yếu tố chính tạo nghiệp không ngoài ba cửa: thân, khẩu và ý. Tâm chúng ta khởi những tư tưởng động niệm gọi là ý nghiệp, miệng chúng ta phát ra ngôn ngữ là khẩu nghiệp, thân chúng ta tạo tác các việc gọi là thân nghiệp. Vì thế, mỗi một hành động tạo tác của thân, miệng, ý tất cả đều tạo nghiệp. Đã tạo nghiệp, đã hành động tất nhiên sẽ đưa đến hậu quả. Hậu quả đó được gọi là nghiệp.

Nghiệp phát sinh ra chướng ngại, chướng ngại là gì? Là định, tuệ như trên đã nói. Vì sao chúng ta không có định? Vì tâm chúng ta luôn hướng ngoại, bị ngoại cảnh dẫn dắt, đã bị dẫn dắt tức phải tạo tác, một khi đã tạo tác và bị dẫn dắt là chúng ta không có định và tuệ, do đó nó biến thành nghiệp chướng. Chúng ta làm việc thiện cũng có thể là chướng ngại. Vì sao? Vì khi chúng ta làm việc thiện tâm chúng ta khởi làn sóng hoan hỷ, thì gió phiền não cũng từ đó phát sinh. Vì thế, tất cả đều là nghiệp chướng.

Thiện nghiệp có ba đường: Trời, người, A tu la;Ác nghiệp cũng có ba đường: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nói một cách khác, dù thiện hay ác nghiệp tất cả đều còn nằm trong sáu đường luân hồi.

Chúng ta có nghiệp chướng là chúng ta không có định, tuệ. Chỉ có định và tuệ mới vượt thoát khỏi lục đạo luân hồi, mới có thể giải quyết được vấn đề sinh tử. Do đó, Phật giáo dạy chúng ta tu tịnh nghiệp, tức là chúng ta không làm việc xấu mà làm việc tốt. Chúng ta làm thiện nghiệp nhưng nếu không chấp vào việc mình làm, chúng ta sẽ không gặp chướng ngại. Đây là điều chúng ta cần phải ghi nhớ.

Trong đời sống sinh hoạt, lúc cử động, đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, xã giao, từ sớm đến tối, hành động và việc làm chúng ta cần phải tương ưng với giới, định và tuệ. Giới, định, tuệ, ba chữ này nếu chúng ta hiểu được sẽ rất tuyệt vời, nhưng chúng ta là người sơ cơ khó mà hiểu được. Có thể nói nó tương tự như tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh. Bình đẳng là không phân biệt, thanh tịnh thì không chấp trước. Đối với tất cả mọi việc không có phân biệt và chấp trước, thường nhận biết rõ ràng là trí tuệ; không phân biệt, không chấp là định. Hành động nếu tương ưng với định và tuệ thì trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, chúng ta sẽ có tự tại và mỹ mãn. Sự nghiệp của chúng ta nhất định thuận buồm xuôi gió, nhất định chúng ta sẽ làm tốt hơn người khác, vì chúng ta có định và tuệ. (Trích đoạn “Phật giáo là gì?Mục: Nghiệp chướng là gì? Nó ảnh hưởng như thế nào đến đời sống” – Nhà xuất bản Phương Đông – 19/10/2010)

…Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật. Ví như người trong mộng thấy mộng, mộng là giả, trong mộng nếu gặp hổ muốn ăn thịt, thì người nằm mộng cũng sẽ khiếp vía toát cả mồ hôi. Khi tỉnh mộng, tâm vẫn còn sợ hãi. Cảnh giới hư ảo nhưng cảm thọ lại thật. Sống trong ác đạo phải thọ những khổ đau này. Kinh điển có ghi chép, A La Hán là người đắc đạo, không phải phàm phu. Phàm phu chúng ta không thể nhớ được chuyện quá khứ, nhưng A La Hán có thể nhớ được hành vi tạo tác trong năm trăm kiếp quá khứ, bao gồm những việc khổ vui đã nhận chịu, hoặc ngay trong năm trăm đời đã từng đọa địa ngục. Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cũng nhắc đến hoàn cảnh trong địa ngục khiến người ngồi nghe, tâm còn run sợ, thậm chí toàn thân rướm máu.

Phương thức quy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới

Đức Phật dạy người không vọng ngữ, bản thân ngài tuyệt nhiên không vọng ngữ, mỗi câu đều là chân tướng sự thật. Do đó phải tin rằng ba đường ác vô cùng đáng sợ. Người tạo ác nghiệp sẽ chiêu cảm cảnh giới ba đường ác: địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Không phải Diêm La Vương bắt cũng không phải Phật Bồ tát trừng phạt. Phật Bồ tát đại từ đại bi, tuyệt đối không trừng phạt người ác. Đức Phật vẫn nói “tự làm tự chịu”, mỗi người tự tạo loại nghiệp thì tự nhiên sẽ cảm được quả báo, nhân quả nghiệp báo vô cùng phức tạp. Ngài có thể giảng rõ ràng, nhưng lý cao sâu, chúng sinh không thể tiếp thu cũng không có tuổi thọ dài để lĩnh hội.

Cho nên ngài dạy chúng sinh chọn lấy phương pháp tự nhiên đơn giản, đó là phương pháp quy nạp. Đức Phật quy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới, từ thấp từng bậc từng bậc mà giảng lên cao.

- Nghiệp nhân của địa ngục: là sân hận, tâm sân cảm địa ngục. Người mang tâm sân hận nặng, chắc chắn sinh đố kỵ, thủ đoạn tàn nhẫn, tạo tác nghiệp tội cực trọng, chiêu cảm quả báo địa ngục thì tự nhiên biến hiện ra cảnh giới địa ngục.

- Nghiệp nhân của ngạ quỷ: là tham không chán, tức hưởng thụ chiếm hữu, giành giựt danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần bất chấp thủ đoạn, tâm tham sinh bỏn xẻn, không xả cho người khác, liền biến hiện ngạ quỷ.

- Nghiệp nhân của súc sinh: là ngu si. Không có năng lực phân biệt chân vọng, không phân biệt chánh tà, thậm chí thị phi, thiện ác, lợi hại đều lẫn lộn bất phân. Người ngu si thường đem tà ác cho là việc tốt, đem chánh pháp xem thành tà pháp. Ngu si là không có trí huệ, không có năng lực phân biệt, tự nhiên sẽ rơi vào đường súc sinh.

Ba đường ác, sáu cõi luân hồi là cảm thọ từ những việc làm của chính chúng ta, không phải do sức mạnh nào đó đang chi phối, an bày hay trừng phạt, mà là chiêu cảm tự nhiên của nghiệp lực.

- Nghiệp nhân của cõi người: là luân thường mà trong Phật pháp gọi là “ngũ giới”: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Nhà Nho Trung Quốc còn gọi là “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín” tương đồng với nội dung ngũ giới của nhà Phật. Con người ngay trong đời, mọi sinh hoạt, lời nói việc làm đều phải tuân thủ nguyên tắc này thì mới có thể giữ được thân người trong lục đạo. Hoàn toàn không có ngẫu nhiên

- Cõi trời: phước báu của cõi trời cao hơn so với cõi người, do đó điều kiện cũng cao hơn so với cõi người. Muốn đến cõi trời phải tu mười thiện, tư tưởng hành trì phải tương ứng với mười thiện bao gồm: thân không sát sinh, trộm cắp, dâm dục; miệng không nói dối, nói hai chiều, nói lời ác, thêu dệt; ý không tham, sân, si. Ngoài ra còn pháp thiện cũng từ trong mười điều thiện này mà sinh ra. Người có thể tu mười nghiệp thiện, kết hợp với việc giữ tứ vô lượng tâm, chắc chắn sẽ sinh thiên. Tứ vô lượng tâm là từ bi hỷ xả bao gồm: từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, và xả vô lượng.

- Cõi A tu la: người tu ngũ giới mười thiện nhưng không có tứ vô lượng tâm, quả báo của họ biến thành Tu la. Không có tứ vô lượng tâm, hưởng phước rồi mê hoặc, điên đảo. Trong kinh đức Phật nói, A Tu La không đoạn được tham sân si. Dùng tâm tham sân si tu mười nghiệp thiện, tu ngũ giới, họ có phước báu lớn của trời người nhưng lại không có đức của trời người. Vì thế A tu la có tính cách hung bạo, háo thắng, đố kỵ. Chẳng hạn, người mang tâm háo thắng mạnh khi đến thắp hương ở pháp hội, họ nhất định giành thắp hương đầu tiên, không bằng lòng đứng sau người khác. Họ có tu thiện không? Có, họ cũng tu tích công đức nhưng lại háo thắng. Quả báo luôn rơi vào đường Tu la… (Tinh hoa khai thị- Lý luận của việc siêu độ- NXB Đông phương).

5. Niệm Phật có thể chuyển được định nghiệp hay không ?
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)
Niệm Phật chuyển đổi được định nghiệp phải niệm đến lý “nhất tâm bất loạn”. Công phu cạn có thể chuyển được nghiệp thô trọng. Công phu sâu không những có thể chuyển được nghiệp vi tế mà đến định nghiệp cũng có thể chuyển. Bách Trượng đại sư thời xưa đã từng nói “bất muội nhân quả”, bất muội nhân quả chính là chúng ta chuyển được định nghiệp. Thế nhưng phải nên biết, không thể tiêu trừ định nghiệp, chúng ta chỉ có thể chuyển định nghiệp, chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh. Câu Phật hiệu đích thực hiệu quả như vậy. (Trích đoạn: Phật học vấn đáp 1)


6. Nên cúng dường pháp sư nào?
Cúng dường thế nào cho đúng?
(Chủ giảng: P.S Tịnh Không)

Nên cúng dường pháp sư nào?

…Cho nên tán thán rất dễ làm hại người. Vì vậy, đối với giới trẻ, với người mới học, chúng ta tuyệt đối không nên tán thán, không nên cúng dường quá nhiều. Bởi vì tiền tài nhiều, danh vọng lên cao, lập tức sẽ sa đọa ngay. Những Pháp sư trẻ, phát tâm bồ đề xuất gia, thường bị tín đồ ca ngợi, cúng dường làm cho Pháp sư trẻ đọa lạc. Như vậy sự đọa lạc của họ là do tín đồ gây nên. Sau này, những vị Pháp sư đó bị quả báo thì tất cả những người ca ngợi, cúng dường không thể thoát nạn bị đọa.

Vậy đối với những ai chúng ta nên mạnh mẽ cúng dường? Đó là những vị giảng sư, Pháp sư “Bát phong xuy bất động” (tám luồng gió của được, mất, khen, chê, vinh, nhục, khổ, vui không làm họ lay động). Những người này dù chúng ta có tán thán họ cũng không sanh lòng vui mừng, chúng ta phỉ báng họ cũng không sanh tâm phiền muộn. Vì tâm của họ luôn giữ sự bình lặng an nhiên. Những người như vậy mới thật sự xứng đáng cho chúng ta tán thán. Vì sao? Vì sự tán thán không làm hại họ, cho nên chúng ta phải tuyên dương khiến cho nhiều người biết đến và tin tưởng họ. Nhờ vậy họ có thể độ được nhiều chúng sanh…(Trích trong bài giảng của PS. Tịnh Không về Mười Hạnh nguyện của Bồ tát Phổ hiền – Phần hạnh nguyện thứ sáu “Thỉnh chuyển pháp luân”)

“….Những vị Đại đức chân chính, cuộc sống của họ rất đơn giản, rất dễ chiếu cố, đây là đạo lý tất yếu.

Đạo tràng là nơi tiếp đón đại chúng. Do đó phải trang nghiêm, nếu không người ta sẽ nghĩ: “Đạo tràng này chắc cũng chẳng ra gì!”.
Nếu như đạo tràng trang nghiêm đẹp đẽ họ sẽ nghĩ: “Ồ! Chỗ này chắc cũng được lắm” và tự nhiên sanh tâm vui vẻ cung kính. Bởi vì, đa số người ta chỉ ham chuộng bề ngoài, không biết được nội dung bên trong. Do đó, chúng ta cũng cần phải làm cho hình dáng bên ngoài coi được một chút mới thu hút nhiều người tới. Mặc dù nói người biết được gía trị của đồ vật không chuộng bề ngoài, nhưng để hấp dẫn đại chúng, một đạo tràng trang nghiêm cũng cần thiết lắm. Tuy nhiên, đạo tràng càng trang nghiêm lộng lẫy bao nhiêu, nơi sinh hoạt ăn ở của người tu thì phải hết sức đơn giản. Cảnh này nếu chúng ta đi qua Trung Hoa lục địa sẽ thấy rõ. Chùa ở Trung quốc xây theo kiểu cung điện của Vua, vô cùng trang nghiêm. Tuy nhiên, phòng ở của người xuất gia thì lại rất đơn sơ, phòng của trụ trì cũng thế. Điểm này cho ta thấy bề mặt lộng lẫy trang nghiêm của đạo tràng, mục đích là để thu hút đại chúng.
Chúng ta cần quan sát để hiểu, sau đó mới biết nên dùng thái độ gì, phương pháp và nghi thức nào để “thỉnh Phật trụ thế”, khiến Phật pháp thật sự ở một địa phương có thể xuống gốc ra rễ, khai hoa, kết trái….(Trích trong bài giảng của PS. Tịnh Không về Mười Hạnh nguyện của Bồ tát Phổ hiền – Phần hạnh nguyện thứ bảy “Thỉnh phật trụ thế”)
Cúng dường pháp sư thế nào cho đúng?

Nhân đây nói đến “cúng dường”. Thọ nhận cúng dường không phải là chuyện đơn giản. Trong nhà Phật thường nói: “Một hạt gạo của thí chủ lớn như núi Tu Di, đời này mà không liễu đạo, phải mang lông, đội sừng để trả”.

Cho nên người không tu làm sao dám nhận sự cúng dường và hưởng thụ sự cúng dường? Làm kiếp người, ai có thể biết được phước báu của mình được bao nhiêu? Ngay cả chư Phật, Bồ Tát cũng không hưởng thụ sự cúng dường. Nhưng nếu có người đến cúng dường với lòng chân thành, muốn gieo trồng ruộng phước, đương nhiên chúng ta không thể từ chối, tuy nhiên sau khi thọ nhận của cúng dường, chúng ta nhất định phải luân chuyển sự cúng dường đó.

Trong thời cận đại, Ngài Ấn Quang Đại sư là hình ảnh mẫu mực rất tốt cho chúng ta. Đệ tử quy y ngài nhiều đến nỗi không thể tính đếm được. Tất cả những tài vật do đệ tử cúng dường, Ngài đều đem ra ấn tống kinh sách để “cúng dường” lại cho mọi người, Ngài lập ra “Sở Hoằng hóa” ở Tô Châu Trung quốc để ấn tống và lưu hành kinh sách. Sau khi tôi tu học Phật pháp, tôi hoàn toàn noi gương của ngài, nghĩa là có bao nhiêu tiền cúng dường, tôi đều đem ra in kinh sách để phân phát khắp nơi cho mọi người. Tôi nghĩ: “Nếu kiếp này không liễu đạo, tôi cũng không phải mang lông đội sừng để trả. Vì sao thế? Vì những người nhận kinh sách trả nợ dùm cho tôi”.

Đem tài vật của những người cúng dường triển chuyển bố thí cúng dường, như vậy, cái phước của những người cúng dường và người nhận sẽ trở nên rộng lớn vô lượng vô biên. Làm như thế mới gọi là như pháp. Nếu dùng tài vật của người cúng dường để hưởng thụ cá nhân thì tuyệt đối không thể như Pháp. Cho dù dùng tài vật cúng dường của thí chủ để xây chùa, xây đạo tràng cũng phải vì mục đích hoằng pháp lợi sanh. Được như vậy người bố thí cúng dường mới thật sự có công đức. Nếu như ở trong chùa mà không tu hành, cũng chẳng hoằng pháp, ngôi chùa đó sẽ trở thành nơi tranh chấp. Cho nên cất chùa xây đạo tràng phải đặc biệt cẩn thận!

Thầy Lý Bỉnh Nam thường nói rằng: “Khi xây chùa, mọi người là Bồ Tát, sau khi cất xong rồi thành La Sát!”.

Vì sao? Bởi vì tranh dành quyền lợi - biến chất rồi! Sự phát tâm ban đầu đem quăng lên tận chín tầng mây cao!

Cúng dường Pháp sư phải hết sức thận trọng. Phật dạy chúng ta: “Tứ sự cúng dường”. Tứ sự là gì?

1/ Ẩm thực: Pháp sư là người sống ở thế gian, không thể không ăn cơm, cho nên chúng ta cúng dường ẩm thực cho Pháp sư để duy trì mạng sống của họ
2/ Y phục: Pháp sư cũng cần có áo quần để mặc. Nếu áo của Pháp sư cũ rách, ta nên cúng dường cho họ một bộ, khi thấy còn tốt thì không cần thiết cúng dường.
3/ Y dược: Khi Pháp sư có bịnh, chúng ta cúng dường thuốc uống để chữa bịnh cho họ.

4/ Ngọa cụ: Pháp sư cũng cần có chỗ nghỉ ngơi, chúng ta cúng dường giường, mền, v..v…

Thời nay có người đem nhà cửa hoặc những vật quý giá dâng cúng cho Pháp sư khiến cho Pháp sư sống thật sung sướng đến nỗi Tây phương Cực Lạc cũng không muốn đi nữa. Vì ở thế gian này cũng tốt quá rồi, đến Tây phương để làm gì? Cái tâm mong thành Phật đạo, liễu sanh thoát tử tan thành mây khói. Điều này đối với việc thành tựu cho pháp sư, đào tạo Pháp sư thật là một tai hại lớn không gì bằng!
Pháp sư xuất gia nghĩa là “cắt ái ly gia”, không có nhà, chúng ta lại tặng cho họ cái nhà, tức là kéo họ về nhà trở lại. Như vậy là hại chết họ rồi, họ có đủ quyền lực, tài sản, thế là không còn ý chí của người xuất gia, chẳng khác gì người phàm tục! Ai đã hại họ? Chính là tín đồ đã hại Pháp sư! Những tín đồ này không biết rằng hành động như vậy là phá hoại Phật Pháp, tổn hại Tam Bảo. Mà họ lại nghĩ rằng mình đã tạo rất nhiều công đức, làm được nhiều việc tốt! Than ôi! Khi mạng chung, đọa xuống địa ngục gặp Diêm Vương, chừng đó còn chối cãi gì được nữa!

Đứng về mặt tu phước trong nhà Phật, chúng ta cần phải có trí tuệ chân chính và điều này cần phải giải thích rõ ràng. Nhiều Pháp sư không dám nói rõ vì sợ khi nói rõ thì Phật tử, tín đồ không cúng dường nữa. Riêng đối với tôi, tôi chỉ muốn lên Thế giới Cực Lạc ở phương Tây, tôi không muốn ở đây lãnh tội, cho nên tôi hết sức chân thật nói với quý vị rằng: “Tôi không sợ quý vị không cúng dường cho tôi, không cúng dường cũng tốt vì rằng tôi không phải lo lắng đủ điều”.

Chính vì vậy tôi lập “Hội Phật Đà giáo dục Cơ Kim” chuyên in tặng kinh sách. Tôi dặn dò ông Giảng cư sĩ, phụ trách cơ quan ấn tống kinh sách, luôn áp dụng một nguyên tắc như sau:

“Tiền cúng dường nhiều, in sách nhiều, tiền cúng dường ít in sách ít, không có thì không in, vậy là tốt nhất!”.

Bởi vì khi sự cúng dường nhiều lại phải bận tâm lo nghĩ nên chọn bộ sách nào in trước? In như thế nào? Ngược lại, nếu không có cúng dường thì không phải bận tâm, thanh nhàn biết bao! Cho nên mọi người cần phải hiểu.

Không cầu cúng dường, không cầu đạo tràng, điều gì cũng không cầu, tâm sẽ thanh tịnh, đó chính là đạo tâm. Chính mình tu tâm thanh tịnh, giúp người khác tu thanh tịnh tâm. Tuyệt đối xa lìa danh vọng lợi dưỡng, như vậy mới là Phật pháp chân chính….(Trích trong bài giảng của PS. Tịnh Không về Mười Hạnh nguyện của Bồ tát Phổ hiền – Phần hạnh nguyện thứ bảy “Thỉnh phật trụ thế”)





7. Cầu siêu cho oan gia trái chủ để chữa bệnh tiêu nghiệp có được không?
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)

Hỏi: Tôi muốn cầu xin ngài giúp đỡ siêu độ cho oan gia trái chủ của con gái. Oan gia trái chủ tạo nên bệnh cho con gái tôi. Tôi tu hành không được tốt nên không có năng lực siêu độ. Trong túi chỉ có mấy ngàn, năng lực kinh tế không đủ để làm lễ siêu độ.

Việc siêu độ mà cần phải có mấy ngàn đồng e rằng sẽ không linh, vì sao? Đó là mua bán. Siêu độ không cần tiền mới linh. Bỏ tiền ra sẽ không có hiệu quả. Có rất nhiều phương pháp siêu độ. Đại sư Ấn Quang đã làm gương cho chúng ta. Ngài in kinh ấn tống hồi hướng công đức, rất lợi ích. Kinh điển chúng ta in sẽ có nhiều người đọc tụng, tương lai nếu một người nào đó từ kinh điển này chân thật nhận được lợi ích, được khai ngộ, công đức đó không thể nghĩ bàn. Cho nên cả đời Ấn tổ, bốn chúng cúng dường, toàn bộ ngài đều đem đi in kinh ấn tống. Đó là tấm gương lớn trong thời kỳ mạt pháp.

Trở lại vấn đề nêu trong câu hỏi, căn gốc bệnh tật của tất cả chúng sinh, bệnh đau tuy nhiều, quy nap nguyên do chỉ có ba loại.

- Loại thứ nhất là bệnh sinh lý do đi đứng ăn uống không điều độ. Người xưa thường nói “bệnh từ miệng vào”, chúng ta ăn uống không vệ sinh, không khoa học; ở, ăn mặc không lưu ý nên bị cảm mạo phong hàn. Những thứ bệnh này thuộc về sinh lý cần tìm bác sĩ chẩn đoán trị liệu.

- Loại bệnh thứ hai, như câu hỏi vừa nêu, oan gia trái chủ tìm đến thân. Loại bệnh này không thuộc sinh lý, thuốc thang sẽ không có hiệu quả, thầy thuốc cũng không thể trị hết. Chỉ có phương pháp duy nhất, đó là hòa giải cùng oan gia trái chủ để họ tiếp nhận, đồng ý và rời khỏi. Cho nên pháp sự siêu độ thông thường dụng ý chính là hòa giải, tiếp nhận cũng có không ít. Thế nhưng trường hợp không tiếp nhận cũng có, làm cho vấn đề trở nên khó khăn hơn.

- Loại bệnh thứ ba là bệnh nghiệp chướng, không phải sinh lý cũng không phải oan gia trái chủ mà do chính mình tạo nghiệp quá nặng. Loại bệnh này rất phiền phức, thầy thuốc chào thua, siêu độ cũng không tác dụng. Đức Phật nói, loại bệnh nghiệp chướng này chỉ có một phương pháp đối trị, chính là chân thành sám hối. Bồ tát Phổ Hiền dạy chúng ta sám trừ nghiệp chướng, bệnh liền có thể hết. Trong Phật pháp, nếu biết được căn nguyên của bệnh này, hiểu được phương pháp đối trị, chúng ta không cần phải tốn nhiều tiền oan uổng, quan trọng nhất phải dùng tâm chân thành sám hối, tụng kinh niệm Phật hồi hướng.

Thế nhưng điều trị vẫn là phương thức cần thiết. Nó có thể giúp chúng ta hồi phục sức khỏe, quan trọng vẫn từ nơi nội tâm mà sám hối, đoạn ác tu thiện.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên, mười hai năm trước bị bệnh ung thư nghiêm trọng. Tế bào ung thư của ông gần như phát tán khắp cơ thể. Hiện ông còn giữ lại hơn 30 tấm phim chụp X quang. Lúc đó, bác sĩ chẩn đoán ông thọ mạng chỉ còn ba tháng. Bắt đầu từ đó ông thực sự hồi đầu. Ông đem sự nghiệp của gia đình, mọi thứ thảy đều giao phó hết. Ông đến cư sĩ Lâm làm công quả và đợi chết. Chờ đợi đến nay là mười hai năm, thân thể của ông ngày càng khỏe mạnh. Như vậy, từ nơi nguyện lực của thân đã làm cho nghiệp lực được thay đổi.

Thọ mạng bệnh khổ của con người chúng ta là nghiệp báo, cư sĩ Lý phát thệ nguyện quá lớn, nguyện lực siêu vượt qua nghiệp lực, ông toàn tâm toàn lực làm việc vì Phật pháp, xả mình vì người. Đạo tràng cư sĩ Lâm này từ tay ông mà hưng vượng, cống hiến rất lớn đối với Phật giáo. Mỗi ngày đều giảng kinh, từ đầu năm đến cuối năm không hề gián đoạn. Niệm Phật đường 24 giờ cũng không hề gián đoạn. Thời gian gần đây, đạo tràng lại phát tâm mở lớp bồi huấn nhân tài hoằng pháp, đoàn kết chín tôn giáo của Singapore. Chủ nhật hàng tuần, giảng đường chật ních đại biểu các tôn giáo khác tụ về giảng đạo. Đại đoàn kết tôn giáo trong lịch sử trước đây chưa từng có. Những công đức này có thể chuyển được nghiệp báo

Chuyển nghiệp báo nhất định phải dựa vào chính mình, không thể dựa vào người khác. Nếu người khác có thể thay chúng ta chuyển nghiệp báo thì cha có thể chuyển nghiệp báo thay cho con. Hay nói cách khác, Phật Bồ Tát liền có năng lực chuyển nghiệp báo của chúng ta, chúng ta cần gì phải tu hành? Cho nên nhất định phải hiểu lý, nghiệp báo là do chính mình tạo, thì chính mình phải quay đầu tiêu trừ nghiệp chướng.

Xem trong hội Lăng Nghiêm, A Nan gặp phải nạn ma Đăng già. Đó là một ví dụ rất rõ ràng, Thích Ca Mâu Ni Phật không thể giúp được. Ngạn ngữ có câu “ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, không tu không đắc”, không cách gì thay thế. Gặp được người cao minh, gặp Phật Bồ Tát, các ngài dạy chúng ta phương pháp, giúp đỡ chúng ta hiểu lý luận, sau đó chính mình chăm chỉ nỗ lực tu hành, sửa chữa hành vi sai lầm, nghiệp chướng của chúng ta liền được tiêu trừ, vận mạng liền được thay đổi. Chúng tôi cũng thường khuyên các vị đồng tu đem nghiệp báo của thân chuyển biến thành nguyện lực của thân thì chúng ta được tự tại, được chư Phật Bồ Tát hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ.

Khi chưa gặp Phật pháp, chúng ta khởi tâm động niệm đều là tự tư tự lợi. Sau khi học Phật mới hiểu ra cái chấp trước này là sai lầm, là tạo nghiệp luân hồi. Phật dạy bảo chúng ta đem ý niệm chuyển đổi lại, từ đây về sau không vì chính mình, buông bỏ ý niệm tự tư tự lợi. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên đã buông bỏ, quyết không vì chính mình, tất cả vì Phật pháp, vì chúng sinh. Khi vừa chuyển đổi nghiệp lực biến thành nguyện lực, sức mạnh hiệu quả rất lớn.

Oan gia trái chủ báo thù, muốn gây phiền phức, đó là vì chúng ta còn có lòng riêng tư. Khi vừa chuyển đổi ý niệm, oan gia trái chủ không những không dám tìm đến gây phiền phức mà còn giúp đỡ, ủng hộ. Họ không thể báo thù, chúng ta vì tất cả chúng sinh, nếu họ hại chết chúng ta có nghĩa là họ sẽ hại tất cả chúng sinh, tội này cực trọng, họ sẽ không thể gánh vác nổi. Nhưng nếu chúng ta không có ý niệm vì chúng sinh, vì Phật pháp, mà vì tự tư tự lợi, họ sẽ có biện pháp đối phó. Hiểu rõ đạo lý này, hãy làm thế nào chuyển nghiệp báo một cách hiệu quả.

Bản thân chúng tôi cũng được chuyển biến. Khi tôi còn trẻ, mẫu thân và những thân thích xem tướng đoán mạng đều nói tôi không vượt qua 45 tuổi. 26 tuổi tôi bắt đầu học Phật, cũng không cầu trường thọ. Đến năm 45 tuổi, tôi bị một trận bệnh hết một tuần lễ. Tôi biết thời gian đang đến nên cũng không tìm bác sĩ, không uống thuốc. Mỗi ngày niệm Phật đợi vãng sinh. Niệm hết một tháng bệnh liền khỏi, cả đời từ đó về sau không hề bị bệnh nữa. Cho nên tôi không có bệnh án trong bệnh viện. Chuyển biến nghiệp lực không vì chính mình. Vì chính mình là con đường tử lộ, vì chúng sinh là con đường sinh lộ.

Chúng tôi thường khuyên đồng tu buông bỏ tự tư tự lợi, khởi tâm động niệm vì tất cả chúng sinh, tất cả vì xã hội, vì chánh pháp cửu trụ. Nhà Phật thường nói “thừa nguyện tái lai”. Thân chúng ta là thừa nguyện trở lại, không phải là thân nghiệp báo. Sau khi chuyển đổi, phải tinh tấn, nỗ lực, quyết không giải đãi, không tạo tội nghiệp, mỗi ngày phải đọc tụng kinh điển tiếp nhận giáo hóa của Phật Bồ Tát, và y giáo phụng hành. Mỗi ngày đọc một bộ kinh, từ sơ phát tâm đọc đến thành Phật đều không chán, vì mỗi biến luôn có ý mới, mỗi biến đều có chỗ ngộ mới. Đọc tụng chân thật sẽ mang lại an vui vô cùng, giúp chúng ta hoạt động, làm việc, đối nhân xử thế tiếp vật, lợi ích rộng lớn vô tận.

8. Bố thí tài
(P.S. Tịnh Không)

…thì anh đã nhìn sai, tài có nội tài, có ngoại tài. Ngoại tài là vật ngoài thân, tiền tài là vật ngoài thân, là ngoại tài. Hiện nay chúng tôi nói đến tài bố thí, mọi người đều nghĩ rằng là ngoại tài, chẳng có nghĩ đến nội tài. Nội tài là cái gì, là thân thể, thân thể là nội tài.

Ngày nay chúng ta nói “nghĩa công”, làm việc không lương, chúng ta vì người phục vụ, không cầu tiền thù lao, hoàn toàn là nghĩa vụ. Đây là dùng cái gì? Dùng thân của chúng ta bố thí, dùng thể lực của ta, dùng thời giờ của ta. Đây gọi là nội tài, nội tài bố thí được cái phước so với ngoại tài còn lớn hơn. Ngoại tài anh có tiền bố thí 1 tý thì không có hề gì, anh chẳng có bận tâm, chẳng có phí sức. Cho nên bận tâm và phí sức là thuộc về nội tài bố thí, là tài bố thí.

Anh hãy xem mỗi ngày Thích Ca Mâu Ni Phật giáo học. Giáo học là giảng kinh thuyết pháp. Cái nội dung đó là pháp thân thể vì đại chúng biểu diễn làm cho mọi người xem, khẩu vì đại chúng tường tận giải thích rõ ràng. Trong sự giáo học này ba thứ bố thí đều đầy đủ: Tài bố thí là nội tài bố thí; sự biểu diễn nhất cử nhất động đều là khai pháp cho chúng sanh giác ngộ, trong ngôn ngữ mỗi chữ mỗi câu đều là pháp bố thí; khuyên mọi người đoạn ác tu thiện, khuyên mọi người phá mê khai ngộ ở bên trong là vô úy bố thí. Một đời của Phật giáo hóa chúng sanh chẳng có thâu nhận học phí của người ta, chẳng có yêu cầu kẻ khác cúng dường, Ngài làm cái gương tốt nhất cho chúng ta, cho nên tu phước, tu huệ như vậy, tu trường thọ cả thảy đều được cả.

Phàm phu không biết “xả kỷ vị nhân”, không biết tu ba thứ bố thí, cho nên trong mạng thiếu tài, thiếu trí huệ, vả lại còn có quả báo đoản mạng. Quả báo đoản mạng là như thế nào mà đến, Phật dạy trong kinh thường nói là sát sanh hại mạng. Cho nên trong ngũ giới thì nói được rất rõ ràng, không sát sánh, không sát thì quả báo được khỏe mạnh sống lâu; không trộm cắp được đại phú; không dâm được đoan trang, tướng mạo trang nghiêm; không uống rượu được trí huệ; không mê hoặc thì không điên đảo; không vọng ngữ đáng được tin cậy, lời của anh nói có rất nhiều người có thể tin tưởng, có thể theo anh học.
Mỗi một khoa học tu học đều có quả báo thù thắng. Người phàm phu không hiểu cái đạo lý này, không hiểu được chân tướng sự thật mê hoặc điên đảo. Chủng tử ở trong A lại da thức, thiện chủng tử không khởi hiện hành, ác chủng tử khởi hiện hành, tại vì sao? vì đã gặp được duyên, ý niệm của anh bất thiện, cách nghĩ và hành vi của anh bất thiện thì anh làm sao có “thọ lạc”. Tư tưởng bất thiện, hành vi bất thiện, sự cảm thọ của anh nhất định của anh là khổ, không có “lạc” là “ngũ ấm xí thạnh khổ”; Thân tâm phiền não bức ép anh. Người hiện nay nói anh bị áp lực, đây là “khổ khổ”. Loại thứ hai là “hoại khổ” là Phật nói cho anh biết để cảnh cáo, cho dù mãn nghiệp của anh rất tốt, trong đời quá khứ đã tu một ít thiện nghiệp, hiện nay anh trong đời này, có địa vị, có quyền lực, có quyền thế, có tài sản là mãn nghiệp của anh rất tốt, là “lạc”. Nhưng anh có nghĩ đến lời của cổ nhân nói, “lạc cực sanh bi hay không”, “lạc” rất khó bảo trì, vì nó không thể lâu dài, “lạc” là hoại khổ. Vì sao thế, “lạc” đến quá mức “lạc” thì nảy sinh ra thay đổi, cái khổ liền đến, chúng ta thường nói “lạc cực sanh bi”. Cổ nhân nói được rất hay, cũng nói rất nhiều, nhưng người thông thường chẳng có chịu nghe, chẳng có để ý, thường thường phần nhiều sơ suất, lúc họ đang hưởng lạc thì tạo tác ác nghiệp, không nói cái khác, người thế gian lấy cái gì hưởng lạc cũng là lấy tài, sắc, danh, thực, thùy, mà trong những điều này rất dễ dàng khởi lòng tham. Một điều là sắc dục, một điều là thực dục, tham ăn, tham ăn thì tránh không khỏi sát sanh. Anh giết hại những chúng sanh này, anh ăn thịt của chúng, lúc ấy anh cảm thấy rất vui sướng, anh có nghĩ đến tương lai phải trả nợ hay không?


9. “Có nên Thiền tịnh song tu?”
(Lão PS. Tịnh Không)
Cẩn dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Biên tập: Giác Minh Duyên

Chúng ta ở trong một đời này, thời gian ngắn ngủi, có được thành tựu rất thù thắng thì cần phải một môn thâm nhập, bởi vì một môn thì tâm của bạn mới dễ dàng tịnh. Bạn học hai thứ, ba thứ nhất định sẽ không bằng người chuyên một môn. Cũng giống như đánh giặc, bạn đem binh lực tập trung đánh vào một điểm sẽ dễ dàng đột phá. Nếu bạn đem nó phân làm ba điểm để tấn công, binh lực của bạn bị yếu, bạn sẽ không thể nào đánh thắng được, đạo lý chính là như vậy. Cho nên tuy có người đề xướng cùng tu hai ba loại, bạn phải tỉ mỉ lắng nghe xem họ nói với người nào, họ có cái khổ bất đắc dĩ gì.

Ví dụ nói, “thiền tịnh song tu”, thì nhất định là nói với người tham thiền. Họ không chịu buông bỏ tham thiền, thiền của họ không thể thành tựu, cho nên khuyên họ “thiền tịnh song tu” thì sẽ tốt hơn. Có như thế thì một nửa không thể thành tựu cũng còn một nửa vẫn có hi vọng. Dụng ý của “thiền tịnh mật tam tu” cũng chính như vậy. Do đó người nói lời nói này có cái khổ bất đắc dĩ riêng. Trên thực tế nếu bạn thật nghe theo, nhất định họ sẽ bảo bạn một môn thâm nhập, một môn này là tịnh độ, dễ dàng thành tựu. Thiền cùng mật đều không dễ dàng.

(Trích trong Phật Học vấn đáp - NNXB Phương đông TPHCM)

10. Chọn thầy tốt, chọn pháp môn thích hợp
(P.S. Tịnh Không)
Cẩn dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

Phật pháp là đạo thầy trò, Phật pháp là sư đạo. Sư đạo là chỉ là đến cầu học, không phải đến cầu để dạy học. Tức là bạn đến cầu học, không có thầy giáo chạy đến nhà của bạn để dạy cho bạn. Đây là đạo lý gì vậy? Thầy giáo đến nhà của bạn dạy cho bạn thì bạn sẽ không tôn trọng, không tôn kính đối với thầy giáo, như vậy thì cho dù thầy giáo có tốt đi chăng nữa, bạn cũng không học được thứ gì. Cho nên thầy giáo tuyệt nhiên không nhất định muốn bạn phải cung kính thế nào đó đối với ông, nếu như có cái tâm như vậy, vị thầy đó không phải là một vị thầy tốt.

Thế nhưng bên trong có một đạo lý là: “một phần thành kính, được một phần lợi ích, mười phần thành kính, được mười phần lợi ích”. Thí dụ nói có mười học sinh theo một thầy học, vì sao có học trò học được nhiều, có học trò thì không học được thứ gì? Bạn tỉ mỉ mà quan sát thì sẽ thấy học trò mà học được thì rất cung kính đối với thầy. Vì sao cung kính đối với thầy thì học được vậy? Cung kính thầy thì chịu nghe lời, thầy dạy họ như thế nào thì họ làm theo như thế đó, đương nhiên là họ học được tốt; Đối với thầy không cung kính thì sẽ không nghe lời, không nghe lời thì không còn cách gì, đương nhiên là họ sẽ không học được thứ gì. Cho nên, người nghe lời 100% chính là cung kính 100%, có thể thấy trong đây thật có đạo lý. Giáo học của thế xuất thế gian đều không vượt ngoài một nguyên tắc này.

Chúng ta ở trong truyện ký Phật giáo xem thấy có rất nhiều tổ sư đại đức, khi các Ngài còn trẻ đi cầu học, thăm viếng một vị thiện tri thức (ngày nay chúng ta gọi là người có đạo đức, cao nhân có học vấn), trong truyện ký ghi chép rằng: vị thiện tri thức này nói với họ: “con ở chỗ ta đây không học được thứ gì, con nên đi đến chỗ của một vị nào đó, con theo ông ấy học, con sẽ có được thành tựu”. Vị học trò này cũng không tệ, quả nhiên nghe lời chỉ điểm của ông, đến dưới hội của người đó, ba năm, năm năm thì được khai ngộ, thì được chứng quả. Đây là đạo lý gì vậy? Việc này chúng ta xem thấy ở trong truyện ký thấy rất nhiều, văn chương Trung Quốc là nói thẳng tắt, không quanh co, nói chuyện mấy giờ đồng hồ nhưng khi ghi chép chỉ có mấy câu, ghi rất là đơn giản. Vị thiện tri thức đó nhìn thấy người đó, cũng giống như hiện tại chúng ta xem thấy một người vậy, nhất định là phải hỏi bạn họ gì, bạn tên là gì, bạn là người ở đâu, bạn đã học qua những thứ gì rồi, việc này nhất định là phải hỏi. Vừa hỏi thì liền biết được bạn thích học là những thứ gì, hơn nữa ngay trong những đại đức thời hiện tại, bạn kính phục nhất là người nào. Cho nên khi họ chỉ điểm cho bạn là chỉ điểm người mà bạn kính phục nhất, bạn theo ông ấy mà học, bạn sẽ nghe lời ông ấy. Vì sao vị thiện tri thức này không thể dạy cho bạn? Vì bạn không bội phục ông, ông ấy dạy cho bạn thì bạn sẽ không tin tưởng, bạn không thể tiếp nhận, nguyên do ở ngay chỗ này. Tuyệt nhiên không phải họ có thần thông để biết rằng chỉ cho vị học trò đến nơi đó thì sẽ thành tựu, mà kỳ thực trong lúc nói chuyện, vị thiện tri thức biết rõ ràng tường tận, thông suốt minh bạch.

Nếu chúng ta muốn hỏi, vì sao cả đời này của chúng ta không gặp được một thầy tốt? Lời hỏi này cũng có đạo lý. Thầy tốt có thể gặp, không thể cầu. Thầy tốt không dễ gì gặp được, nhưng sau khi gặp rồi, bạn có chịu theo ông ấy học không? Không chịu theo ông ấy học thì vẫn là uổng phí. Cho nên nhất định là ngay trong tâm chính mình phải có một người mà mình tôn kính nhất, thì mới có thể phát sinh tác dụng. Cũng đồng câu nói, đồng một đạo lý, nhưng do người mà mình xem thường nói ra thì mình không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận, hơn nữa còn muốn mắng họ; nhưng do người mà ngay trong tâm mình kính phục nói lời đó ra, thì sẽ giống như là được ban thánh chỉ, bạn liền lập tức y giáo phụng hành. Như vậy thì làm sao có thể giống nhau chứ? Do đó, bạn muốn biết chính mình tương lai có thể có được thành tựu hay không rất đơn giản, bạn phải chính mình trở về nhà cố gắng xét nghĩ lại, xem là vị thiện tri thức nào mà bạn kính phục, sau đó một lòng một dạ theo học với ông ấy, như vậy mới không sai lầm và bạn mới có thể thành công. Nếu như thiện tri thức mà bạn thích quá nhiều, vậy thì tâm cung kính đó của bạn không phải là thật, đó là giả, tâm của bạn là rất loạn, thay đổi không chừng. Không những Phật pháp bạn không cách gì tu học, thế gian pháp bạn cũng học không được tốt.

Không luận pháp thế gian hay Phật pháp, nếu muốn học tốt thì nhất định phải hiểu được một đạo lý là một môn thâm nhập, nhất là Phật pháp, muốn chân thật có thể học được tốt thì chỉ một vị thầy. Một vị thầy thì cả đời này của bạn đi một con đường, con đường này sẽ dễ đi. Nếu hai vị thầy là hai con đường, hai ngã thì làm sao bạn đi? Ba vị thầy là ngã ba đường, bốn vị thầy là ngã tư đường, như vậy thì bạn làm sao mà thành tựu! Ngày nay người trẻ tuổi ham học rất nhiều, vì sao không thể có thành tựu? Đều đang ở ngã tư đường, không nơi quyết định, lỗi lầm phát sanh ở ngay chỗ này.

Học Phật không những thân cận một vị thầy mà còn phải chuyên tu một pháp môn thì bạn mới có thể có thành tựu. Thành tựu gì vậy? Được tâm thanh tịnh. Các vị nên biết thành tựu là bạn được tâm thanh tịnh. Hiện tượng của tâm thanh tịnh là phiền não giảm, trí tuệ tăng trưởng, vậy thì có được thọ dụng. Tất cả vấn đề của thế xuất thế gian, chỉ có trí tuệ mới có thể giải quyết, ngoài trí tuệ ra không có phương pháp thứ hai có thể giải quyết vấn đề.

Cho nên Phật pháp giảng về trí, giảng về giác, không thể thiếu thứ này, phải chánh giác. Chúng ta nói thiết thực hơn, để giải quyết vấn đề bản thân hiện tại của chúng ta, giải quyết vấn đề sinh hoạt ngay trước mắt ta, làm cho đời sống của ta trải qua được tự tại, trải qua mỹ mãn, trải qua hạnh phúc; mở rộng ra là để giải quyết sự việc gia đình của ta, giải quyết việc công tác của ta, giải quyết cả những vấn đề của xã hội, thì phải có trí tuệ chân thật. Do đó, trong trí tuệ xen tạp phiền não thì không thể giải quyết vấn đề. Ngày nay người thông minh rất nhiều, đặc biệt là nhà chính trị, mỗi người đều cho rằng mình rất thông minh, nhưng họ lại làm cho xã hội càng ngày càng thêm loạn, lão bá tánh càng ngày càng thêm khổ. Nguyên nhân gì vậy? Trong trí tuệ xen tạp cả phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, những thứ này chưa dứt, cho nên khởi tâm động niệm thì họ liền nghĩ đến lợi ích của ta, ngã chấp của họ đang tồn tại.

Phật nói với chúng ta trí tuệ chân thật thì đầu tiên là phải phá đi ngã chấp, như vậy mới là trí tuệ chân thật. Không có trí tuệ chân thật, không có công phu chân thật thì đọc kinh đại thừa cũng là uổng phí. Kinh đại thừa tuy là đọc được rất nhiều nhưng hoàn toàn hiểu sai ý. Trên kệ khai kinh nói rằng: “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, những người này là giải sai chân thật nghĩa của Như Lai, bạn nói xem còn cách gì chăng? Vì sao họ giải sai vậy? Vì họ có lòng riêng tư, khởi tâm động niệm là họ phải cân đo đến lợi ích của chính họ, vậy thì hư rồi. Nếu như có thể lìa bỏ lòng riêng tư này, bạn sẽ có được lợi ích chân thật… (Trích “Nhận thức phật giáo”
Chủ giảng: P.S Tịnh Không –Tại Boston Úc Châu)


11. Cầu Phật thế nào cho đúng
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)

Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Thế tôn bảo Sa Kiệt La Long Vương quán sát những chúng sinh trong đại hải từ hình trạng, màu da, lớn nhỏ đều không giống nhau. Nguyên nhân gì tạo ra như vậy? Đó là đều do các thứ bất thiện của thân khẩu ý tạo nên. Con người vì sao khổ đến như vậy? Chúng ta phải hiểu rõ chân tướng sự thật và đạo lý của nhân quả báo ứng. Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.

Cho nên đức Phật dạy chúng ta phải viễn ly tham, sân, si. Khởi tham sân si là tạo ác nghiệp cực trọng, chiêu cảm đến quả báo. Nhiều người trên thế gian có phước báu. Phước báu đó là quả của tâm thiện, hành thiện tạo tác nghiệp thiện. Đức Phật đã dạy, đoạn ác tu thiện thì nghiệp báo có thể thay đổi. Tiên sinh Viên Liễu Phàm, triều nhà Minh, nhờ thông suốt đạo lý nhân quả này mà cả đời không những có thể chuyển đổi vận mạng chính mình mà còn cầu được tài, được con, và được công danh.

“Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” quả thực không sai. Thế nhưng cầu nguyện có đạo lý của cầu nguyện. Như lý như pháp mà cầu, nhất định sẽ đạt. Vậy, thế nào gọi là như lý như pháp mà cầu? Chúng ta khởi tâm động niệm vì hạnh phúc của tất cả chúng sinh, không chỉ riêng lẻ vì chính mình. Chẳng hạn, chúng ta cầu tài vì mục đích giúp đỡ chúng sinh khổ nạn, lời nguyện cầu phát tài này là hợp lý, nên sẽ được cảm ứng. Còn cầu phát tài cho chính mình hưởng thụ sẽ không thể cảm ứng. Chư Phật bồ tát thành tựu việc thiện cho người, giúp người làm việc tốt, chứ không giúp người làm việc ác. Giúp tạo ác nghiệp, chỉ có ma, không phải là Phật.

Chúng tôi những năm đầu khi vừa mới ra giảng kinh, pháp sư Đức Dung ở Đài Loan thường đến nghe giảng kinh, hiện tại vị pháp sư này đã qua đời. Khi đó, một hôm ông hỏi chúng tôi: “pháp sư Tịnh Không, ngài thường hay nói ‘Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng’, bản thân tôi cảm thấy hoài nghi. Tôi đã từng hướng đến bồ tát Địa Tạng cầu xin một cái tủ lạnh, nhưng đã ba năm vẫn chưa có”. Chúng tôi liền hỏi ông ấy: “xin hỏi đạo tràng của thầy ở bao nhiêu chúng vậy?” Ông nói chỉ có một mình ông. Chúng tôi liền nói: “không cần thiết, nếu tôi là bồ tát Địa Tạng cũng sẽ không cho, vì chỉ có một mình ông thì không cần thiết”.

Chúng ta vì đại chúng, thì sự mong cầu này là hợp lý, còn để một mình hưởng thụ mà mong cầu là sai. Bản thân chúng tôi học Phật nhiều năm kiểm nghiệm xác xác thực thực “hữu cầu tất ứng”. Cái mong cầu của chúng tôi không phải là tủ lạnh, mà là kinh sách. Chúng tôi muốn đọc những kinh sách nào, chỉ cần trong lòng nghĩ đến, thì khoảng một hai tháng liền sẽ có người đưa đến, cảm ứng rất tốt. Chúng tôi nhớ được thời gian linh ứng dài nhất là nửa năm. Khi đó trong lòng chúng tôi muốn tìm một bộ Trung Quán Luận Sớ, chúng tôi nhờ người tìm giúp nhưng đến nửa năm mới tìm được, chân thật “hữu cầu tất ứng”. Chúng ta xuất gia vì muốn thâm nhập kinh tạng, vì để hoằng pháp lợi sinh, do đó kinh điển là sách tham khảo trọng yếu, quyết không phải là nhu cầu xa xỉ, cũng không vì chính mình, cho nên cảm ứng không thể nghĩ bàn. (Trích đoạn: Phật học vấn đáp 1- Mục: Con người sống ở đời vì sao khổ đến vậy?)

12. Lý luận và sự thật của việc siêu độ
(Chủ giảng: Lão P.S. Tịnh Không)

Tháng bảy âm lịch là tháng cô hồn. Rất nhiều quỷ quái trong âm gian địa phủ xuất hiện ở nhân gian. Vì vậy trong tháng này, việc Phật sự siêu độ theo đó cũng rất bận rộn. Một số thắc mắc được đặt ra: “Liệu việc siêu độ rốt cuộc có hiệu quả hay không? Việc siêu độ có nhất thiết phải do người xuất gia thực hiện hay không?”

Nhà Phật có phương pháp và lý luận của việc siêu độ rất hợp tình, hợp lý và hợp pháp. Thế nhưng cách thức siêu độ quy mô lớn này lại không thường thấy trong Phật giáo nguyên thủy. Ngay trong kinh điển đại thừa Trung Quốc phiên dịch, ghi chép việc này rất rõ ở “Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện kinh”. Trong kinh cho thấy nữ Bà la môn, nữ Quang Mục đều là người trẻ tuổi hiếu thảo. Cha mẹ của họ do thiếu tri thức đã tạo nhiều nghiệp tội phải đọa vào ba đường ác.

Chúng sinh tạo tác nghiệp tội, gieo nhân lúc sinh thời

Đức Phật nói, mười pháp giới là cảnh giới hư huyễn, do vọng tưởng phân biệt chấp trước của chúng sinh mà biến hiện ra. Cũng giống như trong mộng, cảnh giới trong mộng tuy không thật, nhưng không thể nói nó không có. Tình trạng sáu cõi cũng vậy, do vọng tưởng, phân biệt, cộng thêm chấp trước nghiêm trọng liền biến hiện ra tướng sáu cõi luân hồi. Hay nói cách khác, nếu chúng sinh không vọng tưởng, phân biệt chấp trước, không những không có lục đạo, mà mười pháp giới cũng không có.

Vì vậy đức Phật nói, những hiện tượng này như mộng huyễn, và những hư ảo này chỉ tồn tại khoảng thời gian không lâu. Đức Phật lại nêu ra một ví dụ “Như sương cũng như điện”. Sương là giọt sương tan biến khi mặt trời xuất hiện, thời gian tồn tại của nó không dài. Điện là tia chớp, thời gian tồn tại càng ngắn hơn. Trong kinh Bát Nhã, đức Phật cũng đem chân tướng sự thật này nói rất rõ ràng tường tận. Lý luận và phương pháp siêu độ cũng không rời khỏi nguyên lý này.

Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật. Ví như người trong mộng thấy mộng, mộng là giả, trong mộng nếu gặp hổ muốn ăn thịt, thì người nằm mộng cũng sẽ khiếp vía toát cả mồ hôi. Khi tỉnh mộng, tâm vẫn còn sợ hãi. Cảnh giới hư ảo nhưng cảm thọ lại thật. Sống trong ác đạo phải thọ những khổ đau này. Kinh điển có ghi chép, A La Hán là người đắc đạo, không phải phàm phu. Phàm phu chúng ta không thể nhớ được chuyện quá khứ, nhưng A La Hán có thể nhớ được hành vi tạo tác trong năm trăm kiếp quá khứ, bao gồm những việc khổ vui đã nhận chịu, hoặc ngay trong năm trăm đời đã từng đọa địa ngục. Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cũng nhắc đến hoàn cảnh trong địa ngục khiến người ngồi nghe, tâm còn run sợ, thậm chí toàn thân rướm máu.

Phương thức quy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới

Đức Phật dạy người không vọng ngữ, bản thân ngài tuyệt nhiên không vọng ngữ, mỗi câu đều là chân tướng sự thật. Do đó phải tin rằng ba đường ác vô cùng đáng sợ. Người tạo ác nghiệp sẽ chiêu cảm cảnh giới ba đường ác: địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Không phải Diêm La Vương bắt cũng không phải Phật Bồ tát trừng phạt. Phật Bồ tát đại từ đại bi, tuyệt đối không trừng phạt người ác. Đức Phật vẫn nói “tự làm tự chịu”, mỗi người tự tạo loại nghiệp thì tự nhiên sẽ cảm được quả báo, nhân quả nghiệp báo vô cùng phức tạp. Ngài có thể giảng rõ ràng, nhưng lý cao sâu, chúng sinh không thể tiếp thu cũng không có tuổi thọ dài để lĩnh hội.

Cho nên ngài dạy chúng sinh chọn lấy phương pháp tự nhiên đơn giản, đó là phương pháp quy nạp. Đức Phật quy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới, từ thấp từng bậc từng bậc mà giảng lên cao.

- Nghiệp nhân của địa ngục: là sân hận, tâm sân cảm địa ngục. Người mang tâm sân hận nặng, chắc chắn sinh đố kỵ, thủ đoạn tàn nhẫn, tạo tác nghiệp tội cực trọng, chiêu cảm quả báo địa ngục thì tự nhiên biến hiện ra cảnh giới địa ngục.

- Nghiệp nhân của ngạ quỷ: là tham không chán, tức hưởng thụ chiếm hữu, giành giựt danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần bất chấp thủ đoạn, tâm tham sinh bỏn xẻn, không xả cho người khác, liền biến hiện ngạ quỷ.

- Nghiệp nhân của súc sinh: là ngu si. Không có năng lực phân biệt chân vọng, không phân biệt chánh tà, thậm chí thị phi, thiện ác, lợi hại đều lẫn lộn bất phân. Người ngu si thường đem tà ác cho là việc tốt, đem chánh pháp xem thành tà pháp. Ngu si là không có trí huệ, không có năng lực phân biệt, tự nhiên sẽ rơi vào đường súc sinh.

Ba đường ác, sáu cõi luân hồi là cảm thọ từ những việc làm của chính chúng ta, không phải do sức mạnh nào đó đang chi phối, an bày hay trừng phạt, mà là chiêu cảm tự nhiên của nghiệp lực.

- Nghiệp nhân của cõi người: là luân thường mà trong Phật pháp gọi là “ngũ giới”: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Nhà Nho Trung Quốc còn gọi là “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín” tương đồng với nội dung ngũ giới của nhà Phật. Con người ngay trong đời, mọi sinh hoạt, lời nói việc làm đều phải tuân thủ nguyên tắc này thì mới có thể giữ được thân người trong lục đạo. Hoàn toàn không có ngẫu nhiên
- Cõi trời: phước báu của cõi trời cao hơn so với cõi người, do đó điều kiện cũng cao hơn so với cõi người. Muốn đến cõi trời phải tu mười thiện, tư tưởng hành trì phải tương ứng với mười thiện bao gồm: thân không sát sinh, trộm cắp, dâm dục; miệng không nói dối, nói hai chiều, nói lời ác, thêu dệt; ý không tham, sân, si. Ngoài ra còn pháp thiện cũng từ trong mười điều thiện này mà sinh ra. Người có thể tu mười nghiệp thiện, kết hợp với việc giữ tứ vô lượng tâm, chắc chắn sẽ sinh thiên. Tứ vô lượng tâm là từ bi hỷ xả bao gồm: từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, và xả vô lượng.

- Cõi A tu la: người tu ngũ giới mười thiện nhưng không có tứ vô lượng tâm, quả báo của họ biến thành Tu la. Không có tứ vô lượng tâm, hưởng phước rồi mê hoặc, điên đảo. Trong kinh đức Phật nói, A Tu La không đoạn được tham sân si. Dùng tâm tham sân si tu mười nghiệp thiện, tu ngũ giới, họ có phước báu lớn của trời người nhưng lại không có đức của trời người. Vì thế A tu la có tính cách hung bạo, háo thắng, đố kỵ. Chẳng hạn, người mang tâm háo thắng mạnh khi đến thắp hương ở pháp hội, họ nhất định giành thắp hương đầu tiên, không bằng lòng đứng sau người khác. Họ có tu thiện không? Có, họ cũng tu tích công đức nhưng lại háo thắng. Quả báo luôn rơi vào đường Tu la.

Đức Phật dạy chúng ta tu tâm thanh tịnh, bồ tát đạo, tu tâm khiêm hạ, khiêm tốn nhường nhịn. Xem trong kinh Hoa Nghiêm thấy được 53 vị đồng tham, 53 vị pháp thân đại sĩ đều là Phật bồ tát. Thái độ đối nhân xử thế tiếp vật của họ rất khiêm nhường tôn kính, không một chút ý niệm ngạo mạn, không háo thắng.

Học Phật đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức. Ngạo mạn háo thắng nếu không thể sửa thì kết quả biến thành A tu la. Hướng lên trên là các thanh văn tu tứ đế, “khổ tập diệt đạo”, bậc duyên giác tu “thập nhị nhân duyên”, bồ tát tu “lục đạo”, chư Phật tu “bình đẳng”. Thanh tịnh bình đẳng chính là Phật đạo. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đem nghiệp nhân phức tạp của mười pháp giới qui nạp lại thành trọng điểm dạy cho chúng ta giúp mọi người hiểu rõ nguyên nhân của quả báo. Đây là thường thức phổ thông của việc học Phật không thể không hiểu, không thể không biết.

Công đức siêu độ mẹ được nêu trong kinh Địa tạng

Đối với khởi tâm động niệm, chúng ta sẽ tự biết tương ứng với đường nào. Không hiểu đạo lý, không biết chân tướng sự thật, làm càng làm quấy, tạo ác nghiệp đọa vào ác đạo. Dù có con hiền cháu thảo cũng khó lòng giải trừ được, huống hồ xã hội hiện nay người hiếu thảo càng ngày càng ít. Trong kinh Địa tạng, nữ Quang Mục, nữ Bà la môn là những hiếu tử, thấy mẫu thân tạo tác tội nghiệp, rơi vào ác đạo, họ toàn tâm toàn lực nghĩ cách cứu giúp mẹ. Tâm chân thành liền cảm động Phật bồ tát.
Cần hiểu rõ Phật bồ tát không thể cứu giúp, các ngài chỉ có thể đem phương pháp lý luận cứu giúp truyền lại cho chúng sinh. Phương pháp cứu độ chúng sinh là vô lượng vô biên, trong đó niệm Phật là phương pháp hữu hiệu nhất. Nữ Bà la môn được dạy phương pháp niệm Giác Hoa Định Như Lai, tuy không niệm Phật A Di Đà, nhưng niệm Giác Hoa Định Như Lai cũng như niệm Phật. Hiếu nữ này vì muốn cứu khổ nạn cho mẹ, cô thường khuyên nhủ nhưng mẹ cô không tin, không thể tiếp nhận, cho nên bà gặp quả báo địa ngục. Theo lời Phật dạy, cô dụng công niệm Phật bằng tâm khẩn thiết. Sau khi nỗ lực hết mình, niệm một ngày một đêm thì cô được định.

Trạng thái nhất tâm bất loạn trong niệm Phật thuộc về sự công phu rất cao. Tâm của phàm phu là tán loạn. Niệm đến nhất tâm bất loạn tương đương với A La hán của tiểu thừa, rất khó đạt được. Kinh Địa Tạng là kinh đại thừa, nữ Bà la môn không phải là A la hán của tiểu thừa nhưng công phu đoạn chướng của cô tương đương A la hán, công đức tu tích vượt lên trên A la hán, ngang hàng bồ tát. Đến cảnh giới định cô liền nhìn thấy địa ngục biến hiện ra.

Trong địa ngục, quỷ vương gác cửa thấy cô liền cung kính gọi bồ tát và lễ phép chào hỏi. Cô liền hỏi quỷ vương về mẹ cô hiện ở nơi nào trong địa ngục. Quỷ vương chắp tay kính cẩn chúc mừng rằng nhờ cô phát nguyện siêu độ nên bà ấy đã thoát khỏi địa ngục, được sinh lên cõi trời. Cách siêu độ rất hiệu nghiệm mà không cần phải mời pháp sư đến tụng kinh, bái sám. Tự thân niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn, rồi dùng công đức này hồi hướng cho cha mẹ. Chúng ta nhất định phải thể hội chân thành. Tu hành chứng quả không dễ, tại sao nữ Bà la môn chỉ trong một ngày một đêm có thể niệm đến nhất tâm bất loạn? Nếu mẹ cô không đọa địa ngục, không bị những khổ nạn, thì cô sẽ không có động lực tha thiết niệm Phật đến vậy.

Ngày nay chúng ta niệm Phật nhiều năm tại sao ngay cả công phu cũng không đạt được huống hồ nhất tâm bất loạn. Đó là do chúng ta không có áp lực. Chỉ khi người thân yêu rơi vào A tỳ địa ngục, chịu những khổ nạn, chúng ta mới toàn tâm toàn lực muốn cứu giúp. Đức Phật truyền trao phương pháp này, chúng ta hãy nỗ lực tu thành. Mẹ của nữ Bà la môn đã làm tăng thượng duyên cho cô, nếu bà không bị đoạ địa ngục thì cô sẽ không có thành tựu này.

Vậy nguồn gốc sâu xa là mẹ cô đã giúp cô, cô cũng giúp lại mẹ cô. Khi cô trở thành bồ tát, quỷ thần đối đãi cung kính với mẹ cô, không thể đối đãi như những tội nhân thông thường. Kinh nói “bảy phần công đức, mình được sáu phần”, phần còn lại hồi hướng cho thân bằng quyến thuộc. Đôi bên đều được công đức mới thật sự viên mãn.

Muốn siêu độ cho thân bằng quyến thuộc, chúng ta phải chăm chỉ tu hành, tích công lũy đức, thật tâm siêu độ. Việc tu hành thành tựu thì người thân mới được độ. Cũng như ở thế gian, muốn cho cha mẹ tự hào, thân bằng quyến thuộc và mọi người trong xã hội tôn kính, chúng ta phải thành tựu học vấn, thành tựu đức hạnh của mình. Đi đến đâu, chúng ta cũng được đặc biệt tôn trọng, quan tâm, chiếu cố. Đó chính là cảm ứng tự nhiên, là đạo lý. Khi hiểu rõ đạo lý này, lúc đó chúng ta có thể liên tưởng đến nguyên lý vừa nêu trong kinh Địa Tạng. Siêu độ nếu có công đức, có thể giúp đỡ vong gia đã tạo tác nghiệp tội.

Câu chuyện về nữ Quang Mục có chút khác biệt, công phu tu hành của cô không thù thắng như nữ Bà la môn. Cô cũng niệm Phật, trong thời gian rất ngắn đạt được cảnh giới định trong mơ. Cảnh giới trong định thù thắng hơn cảnh giới trong mộng rất nhiều. Cô có được cảnh giới trong mộng cũng được xem là thành tựu.

Chúng ta hết lòng muốn cứu người thân nên mới liều mạng dụng công tu học, thành tựu của chúng ta cũng chính là thành tựu của họ, ta không thành tựu, thì họ cũng không. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch.

12. Siêu độ trong tự truyện
“Cảnh trần hồi ức lục” của pháp sư Đàm Hư, Trung Quốc

Lão pháp sư Đàm Hư trong tự truyện mang tên “Cảnh trần hồi ức lục”do đệ tử của ông là Đại Quang pháp sư ghi chép lại, quyển sách này lưu thông rất phổ biến ở Đài Loan, bên trong có một đoạn nói về việc siêu độ. Vào lúc đó Đàm lão chưa xuất gia, ông xuất gia rất muộn, hơn 40 tuổi. Trước khi xuất gia, ông đã học Phật và rất dụng công. Trước lúc xuất gia ở Thiên Tân, ông cùng mấy vị đồng đạo hợp nhóm cùng nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm suốt tám năm lạnh giá. Trong số các bạn ông, có một vị họ Lưu mở tiệm thuốc Bắc cũng rất tâm đắc và lĩnh ngộ đối với kinh Lăng Nghiêm.

Tuy sự công phu còn kém xa so với nữ Bà la môn và nữ Quang Mục trong kinh Địa tạng nhưng sự công phu của vị họ Lưu cũng có hiệu quả. Một buổi trưa nọ, tiệm thuốc vắng khách, buôn bán ế ẩm, ông Lưu ngủ gục trên quầy. Lúc đang ngủ, ông Lưu mộng thấy có hai người đi đến. Hai người này vốn trước đây là oan gia trái chủ của ông, họ thiếu nợ ông, và ông tìm đến họ đòi nợ. Hai người này vì không có khả năng trả nợ nên treo cổ tự tử. Sau vì việc này, ông Lưu thường cảm thấy rất khó chịu, nếu ông không tìm họ đòi nợ, thì hai người này sẽ không treo cổ. Ông luôn cảm thấy hối tiếc và ăn năn về điều đó.

Bây giờ nằm mộng gặp lại họ nên ông rất sợ bị gây phiền phức. Tuy nhiên hai người này vẻ mặt hiền lành, không bày tỏ thái độ muốn đến hại ông. Cho nên ông hỏi họ: “các người đến làm gì?” Hai người trả lời: “chúng tôi đến muốn xin ông siêu độ”. Nghe đến đó, tâm ông Lưu liền được an, không lo sợ bị báo thù. Ông lại hỏi tiếp: “vậy phải siêu độ thế nào cho các người?”. Họ nói: “chỉ cần ông đồng ý là được”. Ông Lưu gật đầu: “được, tôi đồng ý”. Lập tức hai linh hồn này đạp vào đầu gối và đạp vào vai ông rồi được sinh lên trời.

Hai người này đi không bao lâu, lại có hai người nữa, chính là vợ con ông đã qua đời. Họ cũng đến quỳ trước mặt ông cầu xin siêu độ. Ông liền hỏi: “làm thế nào để siêu độ?”. Cũng như lần trước, ông bằng lòng và thấy hai hồn ma này đạp lên đầu gối, đạp vai ông mà sinh thiên. “Cảnh trần hồi ức lục” còn ghi rõ, siêu độ cần phải do chính chúng ta có công phu tu học. Không có công phu, không thể siêu độ cho người khác. Công phu của ông Lưu là tám năm lạnh giá học Lăng Nghiêm.

Nguồn gốc hình thức siêu độ quy mô lớn

Chúng ta có thể đem câu chuyện trong “Cảnh trần hồi ức lục” cùng kinh Địa Tạng hợp lại mà khẳng định, loại Phật sự siêu độ qui mô lớn thời hiện đại không hề tồn tại vào thời đức Phật. Thời gian đầu học Phật, chúng tôi cũng có nghi vấn về việc này và đã từng thưa hỏi với pháp sư Đạo An.

Năm xưa chúng tôi có mối quan hệ rất tốt với pháp sư Đạo An. Pháp sư Đạo An thành lập đại chuyên giảng tòa ở Đài Bắc, mời chúng tôi đảm nhiệm tổng chủ giảng. Chúng tôi liên lạc qua lại từ lúc ở Tòng Sơn tự sau đó dời đến cạnh Thiện Đạo tự ở tầng trên của đại giảng đường hội Phật giáo. Mỗi chủ nhật chúng tôi lên lớp một lần. Khi đó học sinh rất đông, khoảng hơn 800 người, miền Bắc từ Cơ Long, miền Nam từ Tân Trúc. Đó là thời kỳ hưng thịnh của hội Phật giáo. Pháp sư Đạo An là người phụ trách kiêm chủ tịch giảng tòa. Vào lúc đó ngoài chúng tôi, còn có pháp sư Ấn Hải, pháp sư Trí Dụ cùng phụ trách dạy học.

Chúng tôi đã thỉnh giáo với lão pháp sư Đạo An rằng: “việc siêu độ từ đâu mà ra?”. Ngài suy nghĩ một lúc rồi nói đại khái, căn gốc của việc siêu độ là từ vua Đường Minh Hoàng. Thời loạn An Sử, sau khi Quách Tử Nghĩa bình định động loạn, triều đình ở mỗi một chiến trường lớn kiến lập một tự miếu gọi là Khai Nguyên tự, vì xây dựng vào niên hiệu Khai Nguyên. Xây dựng tự miếu này mục đích chính là truy điệu quân dân tử nạn. Cho nên pháp hội siêu độ đó cũng giống như lễ truy điệu hiện nay. Mời một số cao tăng đại đức tụng kinh, bái sám, hồi hướng, truy điệu nhằm mang ý nghĩa kỷ niệm, do quốc gia đề xướng. Sau này dân gian dần dần bắt chước theo, cũng mời pháp sư, đại đức tụng kinh, bái sám siêu độ tổ tiên.

Do đây mà biết, trước năm Khai nguyên không có việc này. Pháp hội siêu độ của Khai nguyên về sau đích thực phát triển nhưng đến nay đã hoàn toàn biến chất. Trước đây, siêu độ là việc làm phụ của tự viện, mỗi năm không quá hai lần, chủ yếu là tụng kinh thuyết pháp, dẫn chúng tu hành. Cho nên chùa miếu gọi là đạo tràng, Phật giáo ở thế gian là độ người chứ không độ quỷ, độ người sống chứ không độ người chết.

Phương thức tu học xưa và nay

Trước đây tự viện trong Tòng lâm Ấn Độ nhìn chung hoạt động hai thời giảng kinh, hai thời tu hành. Người Ấn Độ xưa chia một ngày đêm thành sáu thời khắc, ba thời ban ngày gọi là sơ nhật, trung nhật, hậu nhật; ba thời ban đêm gọi là sơ dạ, trung dạ, hậu dạ. Trung Quốc xưa sử dụng mười hai thời: Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi… Còn hiện tại, chúng ta đang dùng đơn vị thời gian của Tây phương, tức là ngày đêm gồm hai mươi bốn tiếng. Như vậy, hai tiếng đồng hồ của phương Tây là một thời khắc của Trung Quốc, hai thời khắc của Trung Quốc mới là một thời khắc của Ấn Độ. Thời xưa, tự viện Tòng lâm giảng kinh hai thời, tương đương tám tiếng đồng hồ hiện nay.

Tự viện là trường học dành cho người xuất gia và cư sĩ thường trú. Thời đó, các cư sĩ vào chùa miếu ghi danh nghe kinh. Thông thường giảng một bộ kinh phải mất ít nhất ba tháng đến một năm. Cư sĩ được đồng ý phê chuẩn có thể ở lại một năm trong tự viện, cúng dường phí dụng sinh hoạt, đồng thời làm công quả như quét nhà, dọn dẹp,... Mỗi ngày ngoài tám tiếng nghe giảng, nghiên cứu, thảo luận, còn phải tu hành.

Có rất nhiều phương pháp tu hành nhưng không ngoài hai loại trọng điểm, đó là niệm Phật và tham thiền. Vì thế mà có thiền đường, niệm Phật đường. Tám tiếng học thuật, tám tiếng tham thiền hay niệm Phật, còn lại tám tiếng để nghỉ ngơi sinh hoạt. Đạo tràng huân tu, con người không vọng tưởng, thậm chí không có thời gian để vọng tưởng, không có thời gian sinh phiền não. Hiệu quả nổi bật. Sau ba tháng ở đạo tràng, khí chất con người thay đổi.

Hiện nay, đạo tràng tự viện không còn, giải môn không có, rất ít giảng kinh, công phu. Người ta chú trọng xây Phật thất, tu sửa thiền thất, lấy việc siêu độ người chết làm chính, hoàn toàn điên đảo. Tự viện trước đây độ người sống, bây giờ Phật giáo độ người chết. Trước đây là giáo dục, bây giờ biến thành tôn giáo. Vì vậy chúng ta cần sáng suốt hiểu rõ để tiếp nhận giáo dục của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cải thiện cuộc sống, nâng cao cảnh giới của chính mình trong tương lai. Đó mới là bước đột phá. Mười pháp giới chính là mười thời, không khác nhau. Đức Phật dạy chúng ta đột phá sáu cõi, mười pháp giới mới có thể chứng được nhất chân pháp giới.

Siêu độ quy mô lớn có hiệu quả hay không?

Không thể nói không hiệu quả, quan trọng là ở người chủ pháp hay người chủ trì siêu độ này. Nếu họ có tu, có chứng, sức mạnh được khẳng định. Giống như Lương Võ Đế ngày xưa rất yêu quí một phi tử đã tạo tác nghiệp tội, bị đọa vào ác đạo. Trong văn tự Lương Hoàng Sám ghi chép rất rõ, Lương Võ Đế là đại hộ pháp của Phật môn, mời Bảo Trí công đến chủ trì pháp hội siêu độ. Bảo Trí công chính là hoá thân của Quan Thế Âm Bồ tát, ngài đem phi tử của Lương Võ Đế từ ác đạo siêu độ đến trời Đao Lợi. Vì vậy, người chủ pháp đàn cần có tu, có chứng. Thời đại ngày nay, người có tu, có chứng dường như không còn. Cả đời chúng tôi không dám làm Phật sự siêu độ vì biết mình chưa đủ năng lực, chưa đủ đức năng.

Chúng ta hiện nay thường giảng kinh niệm Phật, mặc dù chưa đạt tiêu chuẩn như thời xưa, tám giờ giảng kinh, tám giờ niệm Phật nhưng chúng ta thực tập không gián đoạn, cũng thành tựu chút ít. Mỗi năm đến kỳ thanh minh, trung nguyên, đông chí, chúng tôi tổ chức pháp hội tế tổ, cúng tế tổ tiên. Bài vị mà chúng tôi cúng là bài vị tổ tiên trăm họ, một mực bình đẳng. Không phân biệt bài vị lớn, bài vị nhỏ bao nhiêu tiền.

Phật tử tùy hỷ cúng, hoàn toàn không miễn cưỡng. Pháp hội không thu phí cúng dường. Trước đây mỗi năm ba lần pháp hội. Nhưng gần đây, xã hội động loạn, người chết quá nhiều. Mỗi tháng chúng tôi làm tam thời hộ niệm một lần, thành tâm thành ý siêu độ cho tất cả oan hồn chết trong tháng. Đây là những việc Phật sự phụ thêm của đạo tràng. Hy vọng hàng xuất gia cũng như tại gia hiểu được lý luận và sự thật của việc siêu độ này để thực hiện tốt, chỉ cần tận tâm tận lực, thành tâm khẩn thiết nhất định sẽ có cảm ứng.

13. NGHI THỨC KHAI QUANG TƯỢNG PHẬT, BỒ TÁT
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)

Khai quang có ý nghĩa gì? Có hay không có việc khai quang? Ai đủ tư cách để khai quang?

Đây là vấn đề mà trong khi giảng kinh, chúng ta vẫn thường đề cập. Hiện tại, việc khai quang gần như đã trở thành xu hướng mê tín. Ý nghĩa đích thực của việc khai quang hoàn toàn đã bị đánh mất. Khai quang là một việc phi thường trọng yếu. Ý nghĩa chân chính của nó nói lên việc cúng dường tượng Phật, Bồ tát. Việc này giống như chúng ta xây đúc hình tượng của một bậc vĩ nhân ở thế tục, khi việc xây đúc thành rồi, sau đó chúng ta mới cử hành lễ khai mạc. Trong buổi lễ khai mạc đó, nhất định chúng ta phải nói cho mọi người hiểu rõ ràng, ca ngợi về sự nghiệp cống hiến lớn lao của họ đối với đồng bào, với dân tộc và đất nước, khi ấy, mọi người nhìn hình tượng của bậc vĩ nhân liền nhớ đến công lao của vị ấy. Việc khai quang trong Phật giáo cũng có ý nghĩa tương tự như vậy. Ví như chúng ta cúng dường Bồ tát Quan Thế Âm, sau khi đắp tượng trang nghiêm rồi, chúng ta mới khai mở việc cúng dường. Lúc khai mở việc cúng, chúng ta nhất định phải nói cho đại chúng hiểu rõ,vì sao chúng ta cúng dường Bồ tát. Trong lúc cúng dường, dựa vào tôn tượng trang nghiêm của Bồ tát mà chúng ta có thể khai phát quang minh tự tánh của chúng ta. Vì thế, không phải người khác thay thế Phật, Bồ tát để khai quang, mà chính tượng Phật, Bồ tát vì chúng ta khai quang. Đó là ý nghĩa chân chính vậy.

Nếu đã thờ Phật, Bồ tát rồi lại đi mời một vị pháp sư tới làm lễ khai quang cho Phật, Bồ tát và cho đó là linh, không khai quang lại cho không linh, điều này thật sự sai lầm. Có rất nhiều người đến tìm tôi nhờ khai quang cho Phật, Bồ tát. Tôi chân thật bảo với họ không cần thiết phải cúng dường Phật và Bồ tát. Họ hỏi “Vì sao?” tôi đáp: “Vì tôi bảo các vị ấy linh thì các vị ấy sẽ linh, bảo không linh sẽ không linh, như vậy tôi linh hơn họ nhiều, và bạn có thể cúng tôi là tốt rồi, cần gì phải cúng dường các vị ấy”. Chúng ta nghĩ có đúng không? Đó có gọi là mê tín không? Vì tôi giả bộ làm vẻ này vẻ nọ, lấy tay ra hiệu làm như linh, làm sao họ lại không cho tôi linh hơn được, đó là chỗ nghĩ không thông. Chỉ có người ngu mới tin sâu như thế. Một người có trí óc linh mẫn thông minh, một khi nhìn liền nhận ra sự thật chân tướng. Tôi nói thay thế Phật, Bồ tát khai quang tức là lừa dối họ, vì họ chưa được sáng suốt, còn hồ đồ. Cho nên, việc khai quang là việc đại biểu cho Phật và Bồ tát. Ví dụ như chúng ta cúng dường Quan Âm Bồ Tát, mà Quan Âm Bồ tát là đại biểu cho tâm từ bi, đem việc Bồ tát đại từ, đại bi mà cứu độ hết tất cả chúng sinh đó là những điều cần phải học; phát khởi chí nguyện, nghe được danh hiệu, thấy được hình tượng Bồ tát là nhớ phát khởi lòng đại từ, đại bi làm lợi ích cho hết thảy mọi người. Chúng ta đối nhân, đối vật, đối việc phải lấy tâm đại từ, đại bi mà thương yêu và gia hộ cho tất cả, không phân biệt một ai, đây là một đạo lý chúng ta không thể không biết. Đối với những người có đủ tư cách và khả năng giúp Phật và Bồ tát khai quang, người này đối với kinh, luật, luận phải thông suốt ý nghĩa, vì mọi người diễn nói cho rõ ràng. Cho nên tuyệt đối không được dựa vào hình thức, mỗi một hình thức đều có ý nghĩa giáo dục riêng, rất thâm sâu. Đó là điều mà chúng ta phải hiểu mới không bị lệch theo xu hướng mê tín. Cầu Phật, cầu Bồ tát, cầu thiên thần giúp mình phát tài, được phúc, đó là quan niệm sai lầm, không phải là tư tưởng chân chính.(Trích đoạn: Phật giáo là gì? Mục: Nghi thức khai quang tượng Phật, Bồ tát)


14. NHẬN THỨC VỀ VIỆC PHẬT, BỒ TÁT TÁI THẾ
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)

Hỏi: Có nhiều vị pháp sư, đại đức nói họ là Phật, Bồ tát tái thế. Điều đó thật hay giả?

Thật ra, bạn hỏi như vậy là đã sai lầm rồi. Làm sao tôi có thể biết được. Nếu thật sự tôi nói tôi biết thì tôi lại sai, vì tôi không phải là Phật, tôi chưa thành Phật nên làm sao biết được họ là Phật hay không phải Phật? Tôi không phải là Bồ tát tái thế, sao tôi biết được họ là Bồ tát tái thế? Do đây mà làm mê cảm nhiều vị đồng tu trong giới học Phật. Đặc biệt là những người sơ cơ học đạo, thật ra mà nói, chẳng những người sơ cơ mà ngay cả những người học Phật lâu năm cũng dễ bị mê cảm nữa. Song, chúng ta không thể biết được họ là Phật, Bồ tát thật hay giả.

Nhưng trong kinh Phật có nói rất rõ, chư Phật và Bồ tát ứng hóa ở tại thế gian này rất nhiều. Nhất là khi chúng sinh gặp hoàn cảnh tột cùng khổ nạn, chư Phật, chư Bồ tát liền ứng hóa tại thế gian, hòa mình cùng với tất cả đại chúng, không luận là phân thân gì để đại từ đại bi cứu khổ cho chúng sinh. Như trong phẩm Phổ Môn, Bồ tát Quán Thế Âm ứng hiện 32 thân, nam nữ, già trẻ, các hành các nghiệp đều có. Phật, Bồ tát hiện thân chỉ một nguyên thân, vì không muốn để lộ thân phận của mình, nếu bị lộ tức khắc các vị ấy sẽ đi mất và không trụ ở thế gian nữa. Trong lịch sử có nói tới điều đó, hễ thân phận một khi bị lộ, các vị ấy đều biến mất, đây là Phật và Bồ tát chân thật. Nếu thân phận bị lộ mà không đi, kỳ thật không tương ưng với kinh điển, nên đại khái họ không phải là Phật, Bồ tát thật, chỉ là mạo nhận.Vì sao họ dám mạo nhận? Vì không ngoài việc lừa dối người để thu hoạch lợi dưỡng và tham cầu danh tiếng, đó là tạo tội. Nếu họ hiểu được như vậy chắc chắn họ sẽ không dám lừa dối nữa.

Như chúng ta biết, đại sư Ấn Quang chính là Đại Thế Chí Bồ tát hóa thân tái thế, vậy mà hành nghi của Ngài cả đời cùng với người thế tục chẳng một mảy may sai khác. Song, sự tu hành và nguyên tắc, nguyên lý giáo hóa chúng sinh của Ngài xác thật tương ưng với đạo lý trong chương Đại Thế Chí Bồ tát Niệm Phật Viên Thông. Trong cuốn “Thủy tư tập”, có một vị cư sĩ đã nói điều đó, nếu có xem chúng ta sẽ biết. Trước bốn năm đại sư vãng sinh, có một người nữ đang ở bậc sơ trung, người này chẳng tiếp xúc với Phật giáo, lại không tin tưởng Phật pháp. Cô ta nằm mộng thấy Quan Thế Âm Bồ tát. Bồ Tát bảo với cô ta hiện tại Đại Thế Chí Bồ tát đang giảng kinh thuyết pháp tại Thượng Hải, Bồ tát bảo cô ta nên đi nghe. Cô ta hỏi lại Bồ tát Thế Chí là ai? Bồ tát bảo đó là Ấn Quang đại sư. Sau đó cô đi tìm gặp đại sư và kể về sự tình cho đại sư nghe, nghe xong đại sư mắng cho cô một trận, mỉm cười nói đừng làm động chúng, sau đó cấm cô không được tìm đại sư nữa, cô này trở về không dám nói với ai. Bốn năm sau, lúc đại sư vãng sinh rồi, cô này mới đem sự việc đó công bố cho mọi người biết. Cho nên đại sư đích thực chính là Bồ tát Đại Thế Chí ứng thân, nhất định không phải là mạo nhận. Thân phận bị lộ mà không đi là có vấn đề. Còn mọi người cho Ngài là Bồ tát ứng thân thì Ngài phủ nhận, không thừa nhận sự thật. Nếu người tự xưng mình là Phật, Bồ tát tái lai nhất định là có vấn đề, chúng ta cần phải cẩn thận.(Trích đoạn “Phật giáo là gì?” – Nhà xuất bản Phương Đông – 19/10/2010)

…Có một năm tôi giảng kinh ở Lusanchi, nghe nói ở Lusanchi có năm người thanh niên khai ngộ, là do những Lạt Ma Hoạt Phật Tây Tạng thọ ký cho họ đã khai ngộ. Tôi ở đó giảng kinh, họ cũng đến nghe. Sau khi nghe rồi, họ yêu cầu tôi chứng minh cho họ là họ đã khai ngộ rồi. Năm người này đến trước mặt tôi nói với tôi, tôi lắc đầu, tôi nói các người chưa khai ngộ. Họ nói vì sao vậy? Những Lạt Ma Hoạt Phật đều nói tôi đã khai ngộ rồi, vì sao Ngài nói tôi chưa khai ngộ? Tôi nói, tôi chưa có khai ngộ, các người đến hỏi tôi về việc khai ngộ, có thể thấy được các người chưa có khai ngộ.

Hiện tại xã hội này, những chuyện gạt người rất nhiều. Bạn là người khai ngộ thì bạn còn phải hỏi tôi nữa hay sao? Trong đầu của bạn còn nghĩ khai ngộ hay không khai ngộ, bạn còn có những vọng tưởng này, còn có những phân biệt chấp trước này, thì bạn nhất định chưa khai ngộ. Người khai ngộ, trong lòng một tạp niệm cũng không có, bạn từ sớm đến tối nghĩ tưởng xằn bậy thì bạn lấy gì để khai ngộ? Người ta nói bạn khai ngộ, rõ ràng là gạt bạn, nghe gạt không nghe khuyên. Tôi nói, tôi thành thật mà nói với bạn, tôi không gạt bạn, bạn chưa có khai ngộ.

Thế nào gọi là khai ngộ vậy? Biết được tâm bệnh của chính mình gọi là khai ngộ. Cho nên bạn ngày ngày phản tỉnh, mỗi ngày kiểm điểm, tìm tâm bệnh của chính mình, thì bạn ngày ngày có giác ngộ. Tìm được tâm bệnh của chính mình, phải đem tâm bệnh sửa đổi lại, đó gọi là tu hành. Bạn không biết khuyết điểm, không biết được tâm bệnh, thì bạn tu cái gì? Bạn cho rằng mọi thứ đều là đúng, Bạn đối mặt với hiện thực, bạn đối với tất cả người, với tất cả việc, với tất cả vật, bạn nghĩ xem có đúng không? Bạn thấy có đúng không? Bạn nói có đáng hay không? Bạn làm có đúng hay không? Chúng ta chính mình không có năng lực phân biệt phải quấy, không biết là đúng hay là không đúng, cho nên phải lấy ngôn hạnh của thánh nhân làm tiêu chuẩn. Xem cách nhìn của Phật đối với người, với việc, với vật như thế nào, cách nghĩ của Ngài như thế nào; sau đó so sánh cách nhìn cách nghĩ của ta với cách nhìn cách nghĩ của Phật. Chúng ta phải khẳng định Phật là đúng, nếu như cách nghĩ cách nhìn của ta giống như Phật, vậy thì ta cũng đúng; cách nhìn cách nghĩ của ta không giống với Ngài, phải biết ta đã sai rồi, không phải là các Ngài sai.

Phật dạy cho chúng ta không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, chúng ta phải kiểm điểm chính mình xem là chúng ta còn sát sanh nữa hay không? Cho dù là hành vi không sát sanh, còn có ý niệm sát sanh hay không? Hành vi không có, ý niệm có cũng không được, có ý niệm là ý nghiệp, như vậy là sai rồi, bạn nghĩ sai rồi. Bạn đem những sai lầm này tu sửa lại thì gọi là tu hành. Về khẩu nghiệp, có phải chúng ta vẫn còn vọng ngữ, vẫn còn nói hai chiều, hai chiều là khiêu khích thị phi? Về ác khẩu, nói năng rất thô lỗ, vẻ mặt rất khó coi. Về ỷ ngữ, nói lời ngon ngọt để gạt người, mê hoặc người khác, đó là lỗi lầm; Phật không có, Phật đối với tất cả chúng sanh nói lời ôn hòa. Trong tâm này còn có tham, sân, si, vậy thì bất thiện, chúng ta khởi tâm động niệm đều là rơi vào trong bất thiện. Phật nói ra mười điều này là tổng cương lĩnh, để chúng ta thường phải kiểm điểm phản tỉnh. Kinh Vô Lượng Thọ của Tịnh Độ rất hay, Kinh Vô Lượng Thọ đặc biệt giảng rõ đối với mười thiện, từ phẩm thứ 33 đến phẩm 37, một đoạn kinh văn rất dài. Hiện tại chúng ta đem đoạn kinh văn này chọn làm thời khóa tối, cho nên sau khi thành lập Tịnh Tông Học Hội, tôi biên tập lại thời khoá tụng sớm tối… (Trích lục từ Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm Thứ Nhất - Giảng tại: Báo Ân Đường Học hội Tịnh Tông Singapore; Thời gian: Tháng 08 năm 2000)

15. Phong thủy vận mạng
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)

….Nhưng rồi xã hội phát sinh các tệ nạn mê tín dị đoan, như xem số mạng, xem phong thủy, những điều này lại rất thịnh hành. Phong thủy chính xác là có hay không? Thật sự là có. Tướng mạng là số, phong thủy là hoàn cảnh cư trú. Người nào mà tâm hồn luôn bất định, trí tuệ, tâm can sẽ theo cảnh mà chuyển theo, cho nên hoàn cảnh cư ngụ có ảnh hưởng đến tinh thần và tâm thái của người đó. Vì vậy, hoàn cảnh sống không thể không xem trọng và lựa chọn, đó gọi là phong thủy.

Song phong thủy lại biến đổi nhanh chóng không nhất định, do đó có thể thấy, hoàn cảnh nhân duyên thay đổi không gì là trường tồn bất diệt. Tục ngữ có câu: “Người có phước ở trên đất phước, chỗ nào có phước là nơi người có phước ở”, đây là câu nói rất có đạo lý. Nếu chúng ta chân thật có phước báo, chúng ta dù có ở nơi nào mà phong thủy không tốt, tự nhiên nơi đó sẽ biến thành tốt. Cảnh luôn tùy tâm người mà biến chuyển, đây là lời Phật dạy. Cảnh là gì? Là phong thủy, là hoàn cảnh cư ngụ, tùy theo tâm mà chuyển xoay. Dựa trên nguyên lý ấy để xét đến hoàn cảnh địa cầu của chúng ta ngày nay. Chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh lớn, hiện tại, tâm lý của con người đều chứa đầy tham, sân, si, mạn, nghi,… tốc độ đó lại ngày một tăng trưởng. Các tệ nạn xã hội, hiện tượng nhân mãn, khủng bố ngày càng gia tăng, hoàn cảnh môi trường sinh thái thiên nhiên lại bị ô nhiễm trầm trọng, tất cả những điều đó đã làm trái đất chúng ta càng ngày càng nóng. Vậy có phải cảnh tùy theo tâm mà chuyển đổi không?

Trong thời quá khứ, có ngài Kim Sơn Hoạt Phật. Kim Sơn Hoạt Phật là tên tục, Ngài sống tại chùa Kim Sơn, Trấn Giang, năm Dân Quốc thứ nhất, là pháp sư Diệu Thiện. Người đương thời nhìn Ngài có nét tương tự như trưởng lão Tế Công, cũng có biểu hiện như ngây như dại. Trên thực tế, những lời nói và việc làm của Ngài thì chân chính là của Phật. Có một giai đoạn Ngài có nói đến toán mệnh rất rõ. Ngài nói rằng “số mạng của những người coi toán mệnh, tự họ không biết được họ, làm sao lại có thể biết số mạng của người khác. Chỉ vì bọn họ muốn kiếm tiền nên mới hành nghề vậy thôi. Thật ra, nếu những ông thầy bói mà biết được số mạng của họ, biết được phong thủy tốt thì đâu dễ gì họ coi cho chúng ta giàu có, nếu thực sự họ biết thì họ đã giàu có lâu rồi”. Vì vậy, ca dao có câu: “Tiền của thì giữ bo bo, đem cho thầy bói mang lo vào mình” là vậy.

Đức Phật Thích Ca có thể xem là một nhà toán số vĩ đại, vậy mà cuối cùng Ngài lại kết luận và khuyên mọi người không nên tin tưởng vào những điều đó, phải tin vào nghiệp, vì số mạng con người ta đều do nghiệp tạo ra. Hơn nữa, Ngài lại khuyên mọi người không nên làm ác, làm nhiều việc thiện thì mạng sẽ tốt. Ngược lại, chúng ta không đoạn ác mà lại còn tạo ác, làm tổn giảm đến lợi ích của người, lại hy vọng số mạng của mình được tốt, đạo lý này nhất định không có. Nếu chúng ta chỉ nói sẽ làm tổn hại người, dù không làm, song nhất định chúng ta sẽ không có lợi.

Chỉ cần chúng ta quán sát kỹ trong quá khứ cũng như trong xã hội hiện tại sẽ thấy. Phàm những người muốn lợi mình mà làm việc tổn hại đến người, kết quả sau cùng đều là tan nhà nát cửa. Điều này trong Phật pháp gọi là hiện báo, đời sau nhất định sẽ đọa vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, bị hành hạ đau khổ vô cùng. Cho nên, việc chân chính lợi ích là phải lợi mình lợi người. Chúng ta càng làm lợi ích cho mọi người bao nhiêu thì chúng ta lại được lợi ích lớn bấy nhiêu. Người có thông minh trí tuệ sẽ luôn làm lợi ích cho mọi người. Phương pháp tự lợi là toàn tâm toàn lực làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, lợi ích cho xã hội. Đó là chân lý mà thánh hiền thế gian hay xuất thế gian thường dạy cho chúng ta, chúng ta cần phải tư duy cho kỹ, sau mới tiếp thọ và y theo đó mà thực hành.

Thế nên, pháp sư Diệu Thiện giảng, chúng ta cần phải tin vào nghiệp, không nên tin vào thầy bói, xem phong thủy. Hoàn cảnh sinh sống mà thấy tốt là phong thủy đã tốt. Chỗ ở của chúng ta mà sắp xếp giường, tủ sao cho chúng ta cảm thấy thoải mái, thích hợp tự tại, đó là phong thủy đã tốt. Nếu chúng ta đi xem thầy bói, ông ta dạy chúng ta sắp xếp chỗ này chỗ nọ,v.v… mà vận mạng của chúng ta lại cảm thấy khác, thấy như bị khống chế, thì thật đáng thương cho chúng ta, vì quá ngu si. Tuy chúng ta là người giàu sang, có địa vị nhưng lại khờ dại để vận mạng của mình cho người khác sắp xếp thì thật đáng thương, đáng tiếc.

Phật giáo dạy con người là địa vị tối tôn, là chủ tể của chính hành động của mình, không nên nghe theo sự bày đặt của người khác, vì đó chỉ là hiện tượng cổ hủ, mê tín. Chúng ta phải hiểu chân lý, phải liễu giải chân tướng của vũ trụ, đọc nhiều sách thánh hiền, sẽ có lợi ích rất lớn cho chúng ta. (Trích đoạn: Phật giáo là gì?)

16. SỢ HÃI ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ SINH TỬ
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)

Đây là một vấn đề phát sinh đối với người chưa hiểu rõ về chân tướng vũ trụ và nhân sinh. Nếu một khi đã liễu giải thì tâm sợ hãi của chúng ta hoàn toàn không có. Phật dạy mạng sống là vĩnh hằng, không mất. Nói cách khác, căn bản là không có chết, chết chỉ là một vọng tưởng. Thân thể này không phải là ta, vì mọi người chấp nó là của ta nên sinh ra sợ hãi. Nếu hiểu thân thể này không phải là ta thì làm sao có sợ hãi được. Ví như y phục chúng ta đang mặc, không phải là của ta thì khi nó cũ chúng ta thay đổi y phục mới. Thân xác này cũng như vậy, nếu nó không phải là ta, là của ta, lúc nó hư hoại tan rã, chúng ta cũng đổi lấy một thân thể mới, hiểu như vậy, chúng ta có tự tại hay không? Đó là một sự thật. Vì thế Phật dạy thân này không phải là ta, là sở hữu của ta, tương tự như y phục vậy. Nếu chúng ta có được thái độ nhìn nhận sinh tử như thế thì chúng ta rất phi thường tự tại. Như vậy ta là cái gì? Theo Phật giảng cái ta là chân tâm. Người ngoại quốc gọi là “tôi nghĩ tôi làm”, đó là nói theo các nhà triết học. Nó thuộc thế giới vô hình, nên chúng ta gọi là tinh thần hay tâm linh. Nhưng nó chưa thật sự là của ta, mà cái chân tâm của ta cao hơn cái này một bậc. Các triết gia cho rằng cái suy nghĩ là của ta, song kinh Phật nói đó là thức. Vậy thức là gì? Thức là phần tác dụng của tâm, nó có đầy đủ khả năng quan sát tác dụng của tâm. Nó có thể gọi là bản thể hay chân tâm, trong kinh điển còn nhiều tên gọi khác nữa. Như Kinh Viên Giác gọi là viên giác tánh, Kinh Pháp Hoa gọi là Phật tri kiến, v.v… cái này mới chân chính là cái của ta. Thân thể này không phải của ta, vì mất thân này lại thọ thân khác tiếp nối. Vì vậy, đối với thân thể này, chúng ta không cần phải quá chăm sóc, nhưng cũng đừng có ý vất bỏ nó đi. Chăm sóc cũng sai lầm, chán ghét nó cũng sai lầm, tất cả đều tùy duyên tự nhiên, thuận theo tự nhiên thì đời sống sẽ tốt đẹp. Chúng tôi giảng là thích ứng theo tự nhiên, vì có thích ứng theo tự nhiên cơ thể mới tráng kiện được.

….Khoa học chứng minh “Con người không chết”: Gần đây nhất, tôi đã dùng một ít thời gian xem qua bốn quyển sách rất hay của tiến sĩ Nguy Tư Hoa Hỳ, một bác sĩ tâm lý. Trong sách có một điều ông muốn nói với chúng ta, đó là ông dùng phương pháp khoa học để chứng thực rằng con người không chết. Bạn không nên sợ chết. Từ trước đến giờ, chúng ta chưa từng chết cũng không hề có chuyện sanh ra. Thân thể chỉ là một công cụ mà thôi. Thân thể cũng giống như chiếc xe. Ta đi trên chiếc xe, đến khi chiếc xe không còn tốt thì ta đổi chiếc khác. Ông đã viết, linh hồn không chết, sanh diệt của thân chỉ là đổi một thân thể mà thôi. Quá khứ không biết được đã đổi qua bao nhiêu thân, tương lai vẫn sẽ đổi qua rất nhiều thân nữa. Xả thân thọ thân, sách này viết ra rất tường tận, rất hay, đều là sự thật.

Một số người có thuật thôi miên sâu, họ có thể giúp bạn biết tình hình đời quá khứ một, hai đời, hoặc ba đời. Từ chỗ này, chúng ta thấy linh hồn của một con người có rất nhiều lần đầu thai ở địa cầu, vào những quốc gia khác nhau, chủng tộc, tín ngưỡng khác nhau. Mỗi đời của bạn đều không giống nhau. Vị bác sĩ tâm lý này nói, chúng ta thảy đều là người một nhà, hiểu rõ sự việc, bạn liền biết được ngay đời này không quan trọng. Quan trọng là đời sau.

Trong quyển sách cũng có một thiên văn chương rất dài nói đến tôn giáo. Tôn giáo chân thật là một nhà, trong tôn giáo gọi là thượng đế, đồng nghĩa trong Phật pháp gọi là pháp tánh, chân như bổn tánh. Ở cõi linh hồn không hề có chuyện đi đầu thai, đó là thiên đường trong linh giới, không có cảm thọ của khổ vui buồn lo hỉ xả. Tình huống này trên thực tế sẽ rất giống Tứ Không Thiên của Phật pháp. Thế nhưng Tứ Không Thiên là tầng thứ rất cao, họ không cao được như vậy, họ chỉ có cảnh giới gần giống vậy. Sau cùng, tác giả quyển sách cho chúng ta một đáp án, con người đến thế gian này vốn dĩ nhằm mục đích học tập. Học tập cái gì? Học tập buông bỏ. Tất cả tri kiến sai lầm, tư tưởng sai lầm, hành vi sai lầm phải được buông bỏ. Phải học tập yêu thương, nhà Phật gọi là từ bi; phải học tập khoan dung, khiêm tốn, nhường nhịn. Và muốn học tập những thứ này, trước hết hãy học Đệ Tử Qui, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp. Đó là những bài khóa nhân gian cần thiết. Khi học tốt, bạn liền tốt nghiệp lên lớp, sẽ không ở lại cõi người nữa mà đi đến cõi trời. Cõi trời có bài khoá của cõi trời, từng bước từng bước hướng lên trên. Đến khi bạn học tốt tất cả bài khoá trong vũ trụ này, bạn được tốt nghiệp. Lúc đó, bạn còn phải đến nhân gian này làm việc gì? Giáo hoá chúng sanh, dạy bảo những người này, giúp đỡ những người kia.

Vị Nguy Tư này chưa từng học qua Phật pháp nhưng ông nói cũng giống Phật pháp. Sau khi bạn tốt nghiệp, thừa nguyện tái lai, phổ độ chúng sanh. Còn chưa tốt nghiệp, bạn phải trở lại nhân gian này, tôi thường hay gọi đó là hiện tượng bị lưu ban. Vì chưa học tốt nên bạn vẫn phải tiếp tục học. Nếu học không tốt, phạm phải lỗi lầm nghiêm trọng, bị giáng cấp, bạn sẽ bị giáng xuống súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Do đó, hiện tại Đệ Tử Qui là bài khóa của cõi người. Còn Thập Thiện Nghiệp Đạo, có cần phải học tốt không? Trong Phật pháp nói, đó là học Phật, hướng lên trên khoá trình cơ bản. Không học tốt khóa trình cơ bản thì khi lên trên sẽ không cách gì học. Y theo Thập Thiện Nghiệp Đạo chính là phá chấp trước, bao gồm tất cả bất thiện thảy đều phải buông bỏ. Tuy nhiên còn một cái chấp trước cần phát huy, đó là chấp trước cái thiện. Vòng chấp trước được thu nhỏ lại thành một điểm, không chấp trước bất thiện mà chỉ chọn chấp trước cái thiện. Tiến thêm một bước, cái thiện cũng không chấp trước, chấp trước liền không còn. Chấp trước không còn, lúc đó hãy xem đến tầng tiếp theo.


17. TẬP QUÁN LỄ LẠY CỦA XÃ HỘI
(Chủ giảng: P.S Tịnh Không)

Người ta bình thường vào ngày 15 hay đi chùa, đi đình lễ lạy để cầu phúc, cầu tài, mạnh khỏe, trường thọ, thăng quan tiến chức.

Việc lễ lạy trong quá trình giảng kinh đã có đề cập rất nhiều. Như vậy việc lễ lạy Phật cầu nguyện có hiệu quả hay không? Chúng ta nhất định phải hiểu rõ ràng định luật nhân quả. Tai nạn có nhân duyên của tai nạn, phúc đức có nhân duyên của phúc đức. Phải hiểu rõ đạo lý nhân quả, sau đó chúng ta mới gieo trồng những nhân thiện, tương lai nhất định sẽ gặt được quả thiện. Lìa tất cả các nhân ác, chúng ta sẽ không gặp những tai nạn. Nhân duyên quả báo là một chân lý. Chúng ta cần phải tin tưởng tuyệt đối.

Trong thời kỳ hiện đại, đặc biệt là ở giai đoạn phát triển ngày nay, khi mà đời sống của người dân đã được nâng cao, vật chất trở nên phong phú thì tham, sân, si của con người theo đó trở nên tăng trưởng, lại phát sinh việc cầu sống lâu, cầu không già… Thời xưa, có Tần Thủy Hoàng, Hán Võ Đế cầu trường sinh không già. Hiện tại, trong dân gian, người ta cũng có cầu như vậy. Nhưng những điều cầu nguyện đó có thành tựu được hay không? Tần Thủy Hoàng cũng chết, Hán Võ Đế cũng không còn. Chúng ta phải tin, có sinh ắt phải có tử. Không ai có thể tránh được định luật tự nhiên đó.
Luận về cầu tài phú:

… Tài phú từ do đâu mà ra? Việc này trên kinh Phật thường nói là tài từ bố thí mà ra. Chúng ta phải nên hiểu, tài bố thí là nhân, trong đời quá khứ bạn đã từng tu qua cái nhân này. Đây chính là ngạn ngữ thường nói: “trong mạng của bạn có tài”, việc này người xem tướng đoán mạng cũng biết. Trong mạng có tài nhưng bạn không thể ngồi ở đó mà đợi tài sẽ rơi xuống, không thể có việc này, mà là bạn đi làm bất cứ nghề nghiệp nào thì cũng đều kiếm được tiền. Bạn làm những nghề nghiệp đó là gì, đó là duyên, nhân thêm vào duyên thì quả báo liền hiện tiền. Có nhân mà không có duyên thì quả báo không thể hiện tiền. Giống như dưa hấu, nhân của dưa là hạt dưa, hột giống, nếu như hạt giống này không thêm cho nó duyên, để nó ở trong ly, để một trăm năm nó cũng sẽ không thể kết thành trái dưa, nó cần phải có duyên. Duyên là cái gì vậy? Thổ nhưỡng, lượng nước, ánh mặt trời, phân bón. Duyên không giống như nhau, có duyên rất đầy đủ thì nó sẽ lớn lên rất tốt, có duyên không đầy đủ như chỗ này thổ nhưỡng không được tốt, không có phân bón, không đủ ánh sáng, thì nó lớn sẽ không được tốt. Chúng ta từ nơi bất cứ nghề nghiệp nào đó là duyên, thế nhưng bạn nhất định phải có nhân, nếu như không có nhân, duyên có tốt hơn cũng sẽ không kết thành quả, bạn nhất định phải hiểu rõ cái đạo lý này.

Phật nói không hề sai. Trong đời quá khứ, chúng ta đã từng tu tài bố thí thì trong mạng của ta có tài, có cái nhân này thì hiện tại không luận là từ nơi nghề nghiệp nào, chúng ta cũng phải có duyên tốt. Cái gì gọi là duyên tốt? Nghề nhiệp của chúng ta là làm lợi ích chúng sanh, làm lợi ích xã hội, tuyệt đối không tổn hại chúng sanh. Hiện tại có rất nhiều nghề nghiệp làm tổn hại chúng sanh, lừa gạt chúng sanh, làm rất nhiều thứ hàng giả mạo, hàng giả, lấy giả tráo thật, nghiêm trọng nhất là thuốc men. Hiện tại có rất nhiều thuốc giả, kỳ thật trong mạng của họ thật có tài, họ hoàn toàn dùng thật, nhất định không dùng giả thì họ vẫn là kiếm được rất nhiều tiền, dùng hàng giả để lừa gạt người khác thì vẫn là kiếm được nhiều tiền như vậy thôi, không thể hơn được chút nào. Cho nên trong Liễu Phàm Tứ Huấn nói: “Quân tử an vui làm quân tử, tiểu nhân oan uổng vẫn phải làm tiểu nhân”, hà tất phải lừa gạt chúng sanh làm gì? Tuyệt đối không phải bởi vì lừa gạt chúng sanh thì bạn mới phát tài, làm gì có đạo lý này, vậy thì nói không thông. Cho nên duyên của bạn phải là thiện, phải vì lợi ích chúng sanh thì phước báo này của bạn sẽ tăng thêm, hậu phước vô cùng. Nếu như là dùng cái duyên tổn người lợi mình này, trái lại làm cho phước báo của bạn bị mài mòn, phước bị tổn hại, đây là một sai lầm cực lớn. Con người vì sao phải làm như vậy? Vì không hiểu nghiệp nhân quả báo, không biết được chân tướng sự thật nên mới làm việc sai lầm. Họ cho rằng hại người có thể lợi mình, chẳng hề biết được hại người là chân thật hại mình, lợi người mới là chân thật lợi mình. Cái đạo lý này Phật Bồ Tát biết được, bậc thánh hiền, người sáng suốt, các Ngài biết, phàm phu chúng ta không biết. Thế nên Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo mà Phật nói, đều là giảng quả báo của mười thiện, không hề nói quả báo của mười ác. Phía sau của quyển sách này của chúng ta có thêm vào tiết yếu của Đại sư Ngẫu Ích. Đại sư Ngẫu Ích cũng nói ra hết mặt trái của nó, quả báo của mười ác Ngài đều nói ra hết, chúng ta nhất định phải biết. Chúng ta thật đã biết rõ ràng, thật đã thông suốt rồi, thì chúng ta mới biết được cái gì gọi là thiện, cái gì gọi là ác. Thiện nhất định là lợi ích xã hội, lợi ích chúng sanh; ác đều là tự tư tự lợi. Cho nên tự tư tự lợi là gốc của tội ác, là căn bản của tham sân si. Chúng ta phải từ chỗ này mà trừ bỏ. Bạn xem trong tông môn giáo hạ, tổ sư đại đức dạy bảo chúng ta tu hành từ phải tu từ căn bản. Cái gì gọi là căn bản? Tự tư tự lợi là căn bản, nhất định phải chuyển đổi ý niệm này lại. Ta sống ở thế gian này không phải vì ta, mà phải vì chúng sanh, vì xã hội. Chư Phật Bồ Tát xuất hiện ở thế gian, các Ngài là vì hư không pháp giới tất cả chúng sanh, bạn xem cái tâm đó quá lớn, cái tâm này là tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới. Các Ngài là thật, không phải giả, cho nên phước báo này rất lớn.

Ngày nay tâm lượng của chúng ta quá nhỏ, ngày nay chúng ta gọi xả mình vì người, là vì người nào vậy? Vì chỗ này của chúng ta, vậy thì quá nhỏ; vì cái quốc gia này của ta cũng không lớn, vì toàn thế giới là mức thấp nhất. Phải vì toàn thế giới mà lo nghĩ, thì thế giới này mới có hòa bình, xã hội mới có an định, chúng sanh toàn thế giới mới có thể hòa thuận cùng ở với nhau, cùng đối xử bình đẳng, mới chân thật có thể nói là có hạnh phúc. Tai nạn do con người làm có thể đọan trừ, có thể tiêu hết. Xin nói với các vị, con người không còn gây họa thì thiên tai cũng sẽ hết, việc này chân thật là y báo tùy theo chánh báo chuyển. Để lòng người đều hướng thiện, thì phải dựa vào giáo dục .

…. Nếu trong mạng của bạn không có tiền tài, Phật Bồ tát có thể giúp bạn phát tài, trong mạng của bạn không có quan vị, Phật Bồ tát ban cho quan cao, thì định luật nhân quả đã bị đánh đổ, làm gì có đạo lý này. Chư Phật Bồ Tát trí tuệ có lớn hơn, năng lực có mạnh hơn cũng không cách nào thay đổi được tí gì nhân quả.

Thế gian pháp xây dựng trên nền tảng của nhân quả, Phật pháp cũng xây dựng trên nền tảng của nhân quả, chúng ta phải hiểu tường tận. Kinh Pháp Hoa, Nhất Thừa Nhân quả, kinh Hoa Nghiêm, Ngũ Châu Nhân quả, bạn xem tất cả kinh luận đều không lìa định luật nhân quả. Phật Bồ Tát có thể giúp chúng ta phát tài không? họ có thể, vì họ dạy chúng ta lý luận phát tài, dạy chúng ta phương pháp tu học phát tài. Chúng ta hiểu rõ lý luận, y theo phương pháp này mà tu học, thì tự nhiên đạt được. Không thể nói họ dạy cho bạn, bạn liền trực tiếp phát tài, mà bạn chính mình phải làm. Ví dụ bạn muốn ăn dưa, họ dạy bạn làm thế nào để trồng dưa, làm thế nào chọn hạt giống, làm thế nào để vun xới đất, bón phân cho cây tươi tốt, mau phát triển, bạn làm theo thì tương lai nhất định có thu họach tốt. Không thể nói bạn cầu dưa thì họ liền mang dưa đến, không hề có như vậy, đó là mê tín.

Lý luận về cầu an:

Cho đến cầu bình an, cầu khỏe mạnh, Phật cũng dạy bảo chúng ta làm thế nào mới có thể chân thật đạt tự tại, hạnh phúc, mỹ mãn, trong đó đã bao hàm bình an, khỏe mạnh, sống lâu. Phật dạy chúng ta tất cả phải thuận theo tự nhiên, “tự tại tùy duyên”. Ví dụ người hiện đại nói “hoàn cảnh sinh thái”, mọi người đều biết trên địa cầu này không luận động vật, thực vật đều hỗ tương lẫn nhau tồn tại, nếu một phương diện nào đó bị phá hoại, nhất định ảnh hưởng đến thứ khác. Hoàn cảnh sinh hoạt tự nhiên của chúng ta đang bị phá hoại nghiêm trọng, không chỉ động vật mà thực vật cũng không còn hoàn cảnh để sinh tồn. Có một số thực vật động vật đã bị tiệt chủng, đây đều do hoàn cảnh sinh thái không cân bằng.

Trên con người chúng ta, nhục thể là một bộ phận sinh lý, còn một bộ phận nữa là tinh thần, cũng giống như đại tự nhiên không hề khác nhau. Nếu bạn thuận với đại tự nhiên thì bạn nhất định sẽ khỏe mạnh sống lâu, bạn sẽ trải qua đời sống an vui. Nhưng nếu trái với tự nhiên, bạn phá hoại sinh thái tự nhiên, thì bạn sẽ đau khổ bệnh tật cho đến bị một số tai nạn không thể tránh khỏi.

Phật tâm chúng ta vốn thanh tịnh, tâm rỗng không. Thế nhưng bạn lại không tìm ra, cho nên Phật pháp dùng bánh xe để biểu thị. Bánh xe tròn biểu thị tâm phải tròn đầy, nhưng sự tròn đầy của tâm là bất khả đắc. Bạn nói đến một điểm thì cái điểm này đã biến thành diện tích, cho nên “điểm” chỉ là một khái niệm trừu tượng. Tâm viên là một điểm, nhất định có, do đó Phật bảo chúng ta tâm phải thanh tịnh vì tâm chính là tâm viên, là trung tâm vũ trụ, cũng là một trung tâm sinh mạng con người. Tâm tuy nhất định nhưng có cái không thể được, trong lòng nếu ôm chứa một thứ gì thì tâm liền bị hư. Trong tâm bạn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, có lo lắng, dính mắc thì tâm đã hư, bạn đã trái với nguyên tắc của tự nhiên. Còn nếu bạn buông bỏ tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, lo lắng, dính mắc, tâm của bạn liền hồi phục bình thường, đây gọi là tùy thuận pháp tắc tự nhiên, do đó tâm phải thanh tịnh, nhất định không có thứ gì.

Thân thì sao? Thân phải hoạt động, thân là một vòng tròn, vòng là động, nếu không động thì hư. Thân phải động, tâm phải tịnh, đây là đạo dưỡng thân, cũng là chân đế dưỡng thân. Thế nhưng hiện tại đặc biệt là người giàu có thì hoàn toàn trái với đạo này. Bạn xem, tâm phải thanh tịnh, phải vô nhất vật. Lục tổ thiền tông nói “bổn lai vô nhất vật”, ý nói cái tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, lo lắng, dính mắc là vô lượng vô biên, hoàn toàn trái ngược với chân tướng sự thật. Vậy thân cần phải động, bạn muốn sống thì phải động, không động không thể sống. Nhưng nhiều người không muốn động thân, lại cứ động tâm. Thế là, thân tâm họ làm sao tránh khỏi bệnh tật. Bệnh tật từ đây mà ra.

Trong Phật pháp có một phương pháp tu hành là lạy Phật. Mỗi ngày lạy mấy trăm lạy thậm chí mấy ngàn lạy. Người lạy nhiều nhất đến ba ngàn lạy. Khi lạy Phật, thân đang vận động, tất cả bộ phận đều vận động là dưỡng thân. Ngoài việc lạy Phật ra, lao động cũng là dưỡng thân. Tâm thanh tịnh, không vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, không lo lắng, dính mắc, tự nhiên con người hạnh phúc khỏe mạnh sống lâu.

Cho nên Phật pháp giảng đạo lý, dạy bạn những phương pháp này đều phù hợp với chân tướng sự thật, tương ưng với hoàn cảnh sinh thái tự nhiên, bạn mới có thể chân thật đạt khỏe mạnh sống lâu, cho đến phước báu khác. Mỗi người đều có thể đạt đến hạnh phúc mỹ mãn bất luận giàu có hay bần tiện. Giàu có hay bần tiện là do tu đức. Tiền của từ bố thí tài mà ra. Bố thí tài là nhân, được tiền của là quả báo. Bạn tu nhân nhất định được quả báo. Nếu đời quá khứ hoặc hiện tại không tu nhân, bạn muốn phát tài cũng không thể. Hãy đọc qua Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ hiểu, chân thật là “Một bữa ăn, một ngụm nước đều do tiền định”.

Trong mạng đã có, dù bỏ cũng không mất; trong mạng không có, dù cầu cũng không được. Phật Bồ Tát, thiên địa quỷ thần cũng không cách gì. Bạn cầu Phật Bồ tát, cầu quỷ thần, cầu phát tài, quả nhiên liền phát tài, thành thật mà nói đó là trong mạng của bạn đã sẵn có, vừa khéo ngay lúc này gặp được cơ duyên, chứ không phải Phật Bồ tát linh hiển. Nếu quả thật Phật, Bồ tát, Quỷ thần có linh thì một trăm người cầu phát tài, một trăm người đều phát tài, mới gọi là linh. Một trăm người cầu, mà chín mươi chín người phát tài, còn một người chưa thì vẫn không linh. Cho nên đầu óc chúng ta phải bình lặng, không để bị người lừa gạt, càng không nên bị quỷ thần lừa gạt. Bị người lừa gạt còn có thể tha thứ, nhưng bị quỷ thần lừa gạt là một việc không thể tha thứ. Phải có lý tánh, có trí tuệ mà quán sát, chúng ta mới có thể đạt được lợi ích chân thật.

(Trích đoạn: Khai thi Phật học cơ bản- Vấn đề thứ hai)

18. Về việc tạo nhiều tượng phật và xây đạo tràng
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)

Về việc tạo nhiều tượng Phật:

Hỏi: Vì sao phải tạo nhiều tượng Phật? Số tiền này đem cứu giúp người nghèo khổ bị nạn không tốt hơn sao?

Không thể nói không có lý, cũng không thể nói hoàn toàn có lý. Vì sao? Chúng ta chỉ thấy gần mà không thấy xa. Cứu giúp người nghèo khổ là giải pháp nhất thời, còn tạo nhiều tượng Phật là việc cứu người dài lâu. Nhà Phật tạo tượng không phải vì niềm tin mê tín. Ông Dương, trưởng ban tôn giáo nhà nước Trung Quốc, thời gian qua tiếp xúc với chúng tôi đã nói đến ý nghĩa giáo dục của tượng Phật. Chúng tôi cũng đã bày tỏ, nhà Phật đem giáo dục và nghệ thuật hợp lại thành một thể. Giáo dục đạt đến nghệ thuật hóa tối cao, nhà trường và bảo tàng cùng kết hợp, không những tạo tượng mà tất cả các thiết chế đều là công cụ dạy học, từ tượng Phật đến kiến trúc của nhà Phật. Đời sống cũng là công cụ dạy học, thậm chí tham gia sự kiện, chúng tôi ăn mặc không khác người bình thường. Chúng tôi đặc biệt tìm bộ áo tràng lam màu cà phê vì màu này tượng trưng của nền văn hoá đa nguyên. Các loại màu sắc trộn lẫn với nhau, gồm đỏ, vàng, lam, trắng, đen, mà người Trung Quốc thường gọi là ngũ sắc tượng trưng cho năm chủng tộc thống nhất thành một. Màu sắc này là màu của hợp nhất. Thân thể này của chúng tôi là tổng hợp của tất cả tôn giáo, tất cả các chủng tộc, tất cả chúng sinh tận hư không khắp pháp giới.

Theo kinh Hoa Nghiêm, “một chính là tất cả, tất cả chính là một”. Một màu áo này của chúng tôi chính là các loại màu khác nhau của mọi người. Chúng ta ngày nay cần phải đoàn kết tôn giáo, hòa hợp chủng tộc, đó là giáo học của nhà Phật. Đại kinh thường nói “tâm bao thái hư, lượng chu sa giới”, màu này là màu tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới. Chúng ta ăn cơm, dùng bát, thức ăn mỗi nhà cho đều đựng chung một bát, ẩm thực khác nhau hợp lại thành một. Cũng vậy, chúng ta hoà trộn các chủng tộc khác nhau, tôn giáo khác nhau, hợp lại thành một. Đời sống đều là biểu pháp, mỗi niệm không quên.

Từ đó mà đạo tràng của nhà Phật có hình thức thống nhất. Ở Trung Quốc, bước vào trước tiên phải từ tam môn, tam môn Thiên Vương Điện, thấy được bồ tát Di Lặc với hình ảnh hòa thượng Bố Đại, bụng rất to bao dung khắp cả pháp giới, mỉm cười đón mọi người, tâm thường hoan hỷ, điều gì cũng có thể chịu đựng. Tứ Đại Thiên Vương biểu tượng hộ pháp cho chính mình. Ở phương Đông, Trì Quốc Thiên Vương biểu trưng cho chức trách. Dù địa vị là gì, trong ngành nào, chúng ta phải nỗ lực làm tốt. Cống hiến cho xã hội, cho chúng sinh không phải vì bản thân. Tạo phước cho chúng sinh, nhất định phải làm hết chức trách.

Trên tay cầm đàn tỳ bà, không phải vì vị đó thích ca hát. Tỳ bà là biểu pháp, đại biểu cho trung đạo, nhà Nho gọi là trung dung. Có nghĩa là làm việc phải đến nơi đến chốn, vừa đủ, không nên quá mức. Chúng ta đối với người, với việc, với vật cũng vậy, đều phải vừa chừng, giữ nề nếp và tròn bổn phận. Chẳng hạn, hiện nay trên thế giới lễ tiết của mỗi nước khác nhau. Lễ kính nhất là ba lần cúi chào, dành cho tình huống gặp người tôn kính. Hai lần cúi chào chứng tỏ người ngạo mạn. Bốn lần cúi chào chứng tỏ người đó nịnh bợ.

Phương nam có Tăng Trưởng Thiên Vương, “tăng trưởng” là cầu tiến, mỗi ngày mỗi mới, quyết không dừng ở hiện tại, cầu trí tuệ, trí tuệ phẩm đức phải tiến bộ, sự nghiệp thăng hoa, đời sống ngày càng viên mãn.

Cho nên tạo tượng có ý nghĩa giáo dục vô cùng sâu sắc, giúp chúng ta hiểu và sửa sai. Nhìn thấy bồ tát Di Lặc bao dung, chúng ta liền nghĩ mình chưa bao dung, sinh tâm hổ thẹn mà quyết tâm học tập theo ngài. Ý nghĩa của công đức tạo tượng so với cứu giúp người nghèo khổ sâu xa vô cùng. Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên, tướng tốt vô lượng vô biên. Ý nghĩa giáo dục là như vậy.

Phật giáo là trường đại học đầy đủ các khoa, nhưng chỉ dùng danh hiệu Phật Bồ Tát làm đại diện. Nó là giáo dục mà không phải là tôn giáo, là trí tuệ, nghệ thuật mà không phải là mê tín. Nơi nào phổ biến giáo dục Phật pháp, nơi đó không có người nghèo khổ. Phương cách cứu giúp này mới triệt để. Vì mỗi người đều có tâm thiện, nghĩ thiện, làm việc thiện, mỗi người đều có thể hiến dâng mình, vì xã hội, vì chúng sinh, tạo phước thì thế giới này là thế giới của hạnh phúc.

Đem tiền đi cứu giúp người nghèo khổ là việc tạm thời, còn dùng tiền để tạo tượng, hoằng dương giáo dục của Phật Đà mới là cách cứu giúp lâu dài, triệt để, và viên mãn nhất. Kinh Phật nói, dùng bảy báu của đại thiên thế giới đem cứu khổ cứu nạn, công đức đó không bằng người có tâm vì tất cả chúng sinh nói chỉ vỏn vẹn bốn câu kệ khiến người khai ngộ. Cứu tế không thể giải quyết vấn đề vì đời sống dựa vào cứu giúp. Phật không dùng cách cứu tế để giúp đỡ người, ngài dạy chúng ta mở trí tuệ, có năng lực, dạy chúng ta tự sản xuất không những có thể nuôi sống mình mà còn có thể giúp ích xã hội. Vì vậy lợi ích công đức thù thắng của Phật pháp là vô lượng vô biên. Tiếc là ngày nay rất ít người giảng giải, rất ít người phát huy rộng rãi nên khiến mọi người trong xã hội hiểu lầm. Đây cũng là lỗi của bốn chúng đệ tử Phật môn chúng ta do chưa làm hết trách nhiệm. (Trích đoạn: Tinh hoa khai thị - vì sao phải siêu độ cho các vong nhân - NXB Phương đông)

Về việc xây đạo tràng:

“Phục thứ Địa Tạng, nhược vị lai thế, hữu chư quốc vương, chí Bà La Môn đẳng”. Đây cũng là nói người có khả năng bố thí. “Ngộ Phật tháp tự, hoặc Phật hình tượng, nãi chí Bồ Tát, Thanh Văn Bích Chi Phật tượng, cung tự doanh biện, cúng dường bố thí”. Phần trên nói về việc bố thí người bần khổ, gọi là bi điền. Phần này giảng, bố thí tháp tự thánh tượng, gọi là kính điền. Ngày nay, chúng ta xây tháp, xây chùa, tu tạo hình tượng Phật, quả báo tương lai có được. Thế nhưng duyên của bố thí phải thảy đều đầy đủ. Nếu không đầy đủ duyên, phước báu không thể có được. Như đã nói phải dùng tâm từ bi của Phật để tu. Ngày nay bố thí chùa tháp Phật, bố thí đạo tràng Phật, trước tiên phải quan sát nơi đó chân thật có đạo hay không.

Chúng tôi cũng đã từng nói với các vị đồng tu từ xưa đến nay, đừng xây dựng đạo tràng rồi đi khắp nơi tìm người tu hành, đó là phản duyên, không thể được phước. Hãy xem người chân thật tu hành rồi mới xây dựng đạo tràng cho họ, phước báu này sẽ lớn theo năng lực của chính chúng ta. Ngày nay, một số đạo tràng không còn đúng như pháp. Đạo tràng không đúng pháp gần như nơi nào cũng có. Đạo tràng xây dựng nguy nga tráng lệ, bên trong không làm đạo, chỉ có mấy người sống trong đó hưởng phước, tạo nghiệp. Bố thí cúng dường đạo tràng như vậy là giúp họ tạo thêm nghiệp, còn bản thân chúng ta tổn phước. Họ tạo nghiệp là do chúng ta giúp đỡ. Họ đọa lạc, chúng ta cũng sẽ bị kéo theo, bị liên lụy.

Kinh Địa Tạng: “bố thí tu tạo chùa tháp hình tượng được phước”. Ấy thế khi gặp ác báo, nhiều người than trách lời Phật không linh, dùng lời lẽ báng Phật, báng pháp, báng Tăng, tăng thêm trọng tội đọa A Tỳ Địa ngục. Phật không nói sai, tại con người hiểu sai ý, bố thí cúng dường chùa tháp, phải tìm người tu hành chân chính, như lý như pháp. Chỉ cần hai ba người tu hành, giúp họ dựng một am tranh, không cần thiết phải xây đạo tràng to lớn, nói cách khác, hình thức đạo tràng lớn nhỏ phải thích hợp với hiện tại. Xây dựng đạo tràng to lớn cho số ít người tu hành sẽ tạo tội, vì đạo tràng to lớn, mỗi ngày quét dọn mệt mỏi, mất thời gian của việc tu tập. Rất nhiều điện đường phải đóng kín, không có thời gian quét dọn, mỗi năm chỉ có mấy lần pháp hội mới mở cửa, tìm một ít tín đồ đến phụ giúp, còn bình thường không dùng đến, như vậy không đúng pháp. Cho nên vào thời đại này, trong Phật môn tu phước, việc gì là quan trọng nhất? Đó là bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp. Trước nay có thể bố thí chùa tháp, cúng dường Phật tượng có phước báu lớn là bởi vì xã hội đại chúng đã quen biết, đối với Phật pháp đều có tâm cung kính, phước báu mới lớn. Nhưng hiện nay, công cuộc hoằng pháp truyền bá thông điệp của đức Phật mới là công đức cần được đầu tư. (Trích đoạn: Vì sao niệm phật không vãng sanh- Cẩn Dịch: Vọng Tây Cư Sĩ - Biên Tập: PT Giác Minh Duyên)

19. Vì sao phải siêu độ vong nhân
(Chủ giảng: Lão P.S.Tịnh Không)

Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ –
Biên tập: Giác Minh Duyên
NXB Phương Đông TP. HCM 2011

Nguồn gốc việc siêu độ

Trong nhà Phật, việc siêu độ vô cùng phổ biến. Có thể nói thời đại này, vong nhân là đối tượng chủ yếu của Phật sự. Trước đây Phật giáo dạy người sống, Phật giáo ngày nay lại độ cho người chết

Đó là lý do Phật giáo bị nhìn nhận dưới góc độ mê tín dị đoan. Nhiều người cho rằng Phật giáo là tôn giáo thấp kém, họ kịch liệt bài xích. Trong khi Phật giáo đích thực không phải để siêu độ người chết.

Lão pháp sư Đạo An đã từng giảng, nguồn gốc của việc siêu độ bắt đầu từ thời đại Đường Minh Hoàng. Thời đức Phật không có, Phật giáo truyền đến Trung Quốc thời kỳ đầu cũng không ghi chép sự việc này. Đến thời đại của Đường Minh Hoàng, vì vua Đường sủng ái Dương Quí Phi, khiến nhân dân và triều thần bất mãn, mới có loạn An Lộc Sơn nổi tiếng trong lịch sử suýt nguy cấp đến cả quốc gia dân tộc. Với sự đắc lực của Quách Tử Nghi, một vị đại tướng đương thời đã bình định cuộc nổi loạn, tuy nhiên, quân dân tử thương rất nhiều. Sau khi bình định cuộc nổi loạn, triều đình tại mỗi chiến trường chính, xây dựng một miếu thờ gọi là Khai Nguyên tự, vì đúng vào niên hiệu Khai Nguyên, thỉnh cao tăng đại đức, tụng kinh, bái sám truy điệu cho quân dân tử nạn. Đây là lễ truy điệu do triều đình cử hành, gọi là pháp hội siêu độ. Từ đó dân chúng học theo, mỗi khi có người qua đời, người dân cũng thỉnh pháp sư đến làm Phật sự siêu độ, tạo phong tục cho đến ngày nay.

Tuy nhiên pháp hội siêu độ vào thời đó cũng không nhiều, một năm chỉ có đôi ba lần, công việc chủ yếu của tự viện am đường vẫn là giảng kinh thuyết pháp. Chúng ta cần hiểu rõ đạo lý này. Chúng tôi đã xây dựng đạo tràng ở Đài Bắc, thư viện nghe nhìn Phật giáo, mỗi năm cũng chỉ có ba lần pháp hội siêu độ: Thanh Minh, Trung Nguyên, Đông Chí. Phương thức chủ yếu là mở khoá Phật thất, dùng công đức niệm Phật hồi hướng cho người mất. Ngày cuối cùng Phật thất, tổ chức tam thời hệ niệm. Hiện tại, rất nhiều nơi cũng dùng phương cách này. Ấn Quang đại sư năm xưa còn sống, niệm Phật đường của chùa Linh Nham Sơn không có Phật sự. Phật tử yêu cầu siêu độ tổ tiên, người thân quyến thuộc thì đều để bài vị ở niệm Phật đường, chùa không làm riêng lẻ cho bất cứ ai mà lấy công đức niệm Phật của đại chúng ở niệm Phật đường hồi hướng. Cách làm này rất đáng được học tập và nhân rộng.

Vì sao phải tụng kinh siêu độ?

Ý nghĩa của tụng kinh siêu độ so với hình thức truy điệu của thế gian hẳn nhiên là sâu hơn. Truy điệu thế gian chỉ mang mục đích kỷ niệm, tưởng nhớ, tuyên dương những cống hiến lúc người đó còn sống, xong rồi quên lãng. Nhưng ý nghĩa tưởng nhớ trong Phật pháp thì sâu hơn. Tụng kinh, niệm danh hiệu Phật Bồ Tát là kiểu truy điệu có ý nghĩa thực chất nhất.

Người xưa có câu: “Thế gian hảo ngữ Phật thuyết tận”. Việc tốt ở thế gian đức Phật đều đã làm. Cho nên chúng ta hãy học theo lời đức Phật để truy điệu người quá cố bằng những việc tốt mà thuật ngữ nhà Phật gọi là công đức chân thực. Người mất nhìn thấy việc làm của chúng ta, họ vô cùng hoan hỷ. Người sống thực tập như lý như pháp thì lợi ích người mất nhận được một phần. Đạo lý này người bình thường khó có thể hiểu được, đôi khi còn cho là hoang đường. Chỉ khi tu học, chúng ta mới liễu ngộ, mới hiểu được chân tướng sự thật. Ngày nay ít người hiểu hoặc hiểu sai quá nhiều. Cho nên cần phải nâng cao cảnh giới của mình thì mới có thể có nhận thức chân thực triệt để.

Kinh Địa Tạng đưa ra hình ảnh nữ Bà la môn siêu độ mẹ mình, không thỉnh pháp sư đến làm Phật sự, không hề mời người đến tụng kinh, mà cô dùng phương pháp tu học. Dùng bản thân đích thực quay đầu, đoạn ác tu thiện, sửa chữa lỗi lầm, chân thành sám hối. Sau đó lấy công đức này để tưởng nhớ mẹ. Mẹ cô nhờ đó mới triệt để đoạn ác tu thiện, đích thực phá mê khai ngộ, bà từ địa ngục liền được sinh thiên. Thế nhưng nếu tư duy và quan sát tỉ mỉ, chúng ta sẽ thấy nữ Bà la môn nhờ mẹ tạo ác, đọa địa ngục, nên cô mới có động lực quyết tâm tu hành nghiêm túc. Công phu của cô là cảnh giới A La Hán, thật sự chuyển phàm thành thánh. Người giúp cô đạt đến cảnh giới này chính là mẹ cô. Nhờ duyên của mẹ thúc đẩy cô tu hành chứng quả. Khi đã chứng quả, công đức đạt được lại làm vẻ vang cho mẹ mình. Mẹ cô siêu sinh từ địa ngục lên cung trời Đao Lợi. Chúng sinh ngày nay chỉ biết làm theo hình tướng mà không hiểu nội dung thực chất cho nên không đạt hiệu quả lớn.


20. Ý nghĩa của việc lạy Phật, Bồ tát
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)

Vấn đề thứ nhất cũng là vấn đề mà rất nhiều người quan tâm. Họ nói: “Chúng tôi thường thấy rất nhiều hình tượng Phật Bồ Tát thờ cúng trong các chùa hoặc trong gia đình để mọi người chấp tay quỳ lạy. Vấn đề muốn hỏi là, cúng hình tượng Phật Bồ Tát và ý nghĩa của việc lạy Phật Bồ Tát rốt cuộc như thế nào? lạy Phật và lạy Thần có gì khác biệt? chúng ta phải dùng tâm trạng như thế nào để lạy Phật Bồ Tát và lạy thần minh mới là đúng?”

Tôi nghĩ, vấn đề này là một vấn đề nghiêm túc, bởi vì mê tín chỉ mang đến cho xã hội ảnh hưởng phụ. Kính trời, kính thần là tập tục mấy nghìn năm ở Trung Quốc, có tác dụng lớn đối với giáo dục xã hội, nhất định không phải là mê tín, việc này chúng ta cần phải phân biệt cho rõ ràng. Phật pháp là sư đạo, không phải thần đạo, cho nên Phật giáo là giáo dục chứ không phải là tôn giáo. Phật giáo mấy ngàn năm trước đã biết được nghệ thuật hóa giáo dục, do đó thấy trong Tự Viện Am đường hình tượng của Phật Bồ Tát, có tượng đất, tượng vẽ, hình hình sắc sắc, đa dạng chủng loại. Mấy năm qua ở Đài Loan, có rất nhiều đạo tràng lạy Vạn Phật Danh kinh. Trong bộ kinh này, Phật đã giảng cho chúng ta nghe hơn một ngàn hai trăm danh hiệu, không nói đến danh hiệu của chư Phật Bồ Tát. Những danh hiệu đó đều là đức năng nơi tự tánh của mỗi chúng sanh vốn đầy đủ. Ví dụ danh hiệu của Thích Ca Mâu Ni Phật, âm tiếng Phạn dịch ra, “Thích Ca” là nhân từ, dịch là năng nhẫn, “Mâu Ni” dịch là tịch diệt, chính là ý thanh tịnh. Do đây mà biết, nhân từ cùng thanh tịnh là đức năng trong tự tánh của chúng ta vốn đầy đủ. Cái đức năng này, nhất định phải dùng danh hiệu để làm cho nó rõ ràng hơn. Chúng ta nghe danh hiệu thì khi đối nhân xử thế tiếp vật phải nhân từ; đối với chính mình phải thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh đối đãi chính mình, dùng tâm từ bi đối đãi với người khác. Cho nên khi nghe danh hiệu hoặc nhìn thấy hình tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta liền được nhắc nhở ý niệm này, đó là giáo học, là nghệ thuật biểu thị mọi lúc mọi nơi, nhắc nhở tánh đức chúng ta phải không ngừng lưu xuất ra ngoài.

Danh hiệu của Bồ tát biểu thị tu đức, cũng chính là Phật Bồ tát. Đức năng chúng ta vốn đầy đủ, nhưng hiện tại chúng ta bị mê, tuyệt nhiên không phải mất đi mà chỉ bị mê. Khi mê, tánh đức của tự tánh không hiển hiện, chẳng hạn bản tánh của chúng ta là đại từ đại bi, hiện tại chúng ta đối với người với vật, một chút tâm từ bi cũng không có; tự tánh của chúng ta vốn thanh tịnh, hiện tại một ngày từ sớm đến tối vọng tưởng lung tung, vọng niệm không ngừng, mang đến biết bao phiền não, vì chúng ta đã đánh mất đi tánh đức của chính mình, bị mê muội. Nhất định phải dựa vào tu hành mới có thể hồi phục, do đó Bồ Tát đại biểu tu đức.
Tánh và tu không hai, tu đức cũng vô lượng vô biên, bởi vì chúng ta mê đã quá sâu, do đó phương pháp lý luận của tu đức cũng khôn cùng tận. Bồ tát đại biểu tu đức, Phật đại biểu tánh đức, cho nên danh hiệu hình tượng chư Phật Bồ Tát đều có tác dụng nhắc nhở chúng ta tánh tu. Chúng ta cúng hình tượng Phật Bồ Tát với mục đích chính như vậy.

Ngày trước trong lúc giảng dạy, tôi thường hay nói rõ với đại chúng, đệ tử Phật cúng dường hình tượng Phật Bồ Tát không ngoài hai ý:

- Ý thứ nhất là kỷ niệm, Phật là lão sư ban đầu của chúng ta, chúng ta tiếp nhận giáo dục của ngài, đạt được công đức lợi ích thù thắng từ giáo học này thì đối với vị lão sư sáng lập, chúng ta luôn cảm ân, mỗi niệm không quên. Đây thuộc về ý kỷ niệm, gọi là trở về nguồn cội.

- Ý thứ hai là học tập với ngài, thấy người hiền mà noi theo. Chúng ta nhìn thấy hình tượng phải học theo ngài. Nghe được danh hiệu, cũng phải học ngài. Chúng ta cúng dường hình tượng Phật Bồ Tát cần có tâm trạng này. Cho nên sự cúng dường nhất định không phải là mê tín.

Chúng ta cúng dường Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Địa Tạng đại biểu hiếu kính “hiếu thân tôn sư”. Nhìn thấy “Địa” là tâm địa, “Tạng” là bảo tạng, Mỗi chúng sanh chúng ta, tâm địa đều đầy đủ vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng, đó là ý nghĩa của “Địa Tạng”. Do đó thờ cúng hình tượng Phật Bồ Tát phải khai mở Tâm Địa Bảo Tạng Tự Tánh của chúng ta. Dùng phương pháp gì để khai mở? dùng giáo dục, mà căn bản của giáo học chính là “hiếu thân tôn sư”, cho nên kinh Địa Tạng là Hiếu kinh của Phật môn.

Học Phật bắt đầu từ đâu? từ Địa Tạng mà học, đây là ý nghĩa cúng dường Bồ Tát Địa Tạng. Tuyệt nhiên không thể nói: “Tôi cúng dường Bồ Tát Địa Tạng, mỗi ngày lạy ngài, ngày ngày cúng dường ngài. Ngài sẽ đến bảo hộ tôi”, đó là mê tín, tánh đức của bạn vĩnh viễn không xuất hiện. Chúng ta phải học tập Bồ Tát Địa Tạng, học lý luận trong kinh Địa Tạng đã dạy. Phải hiểu tường tận lý luận và phương pháp, phải thiết thực làm cho được những phương pháp đó, có như vậy mới là Bồ Tát Địa Tạng, chân thật gia trì chúng ta, chân thật bảo hộ chúng ta. Nếu chúng ta không hiểu được ý này, không y theo phương pháp mà làm, chỉ mê tín, thì một tí lợi ích cũng không có được. Không những không có được, trái lại còn có lỗi do đem Phật Bồ Tát xem thành thần minh để cúng vái, để hối lộ đút lót, nịnh hót nhờ họ, cho rằng họ có thể bảo hộ mình; đem Phật Bồ Tát xem thành tham quan, ô lại để đối đãi. Bạn nghĩ xem, tâm trạng này chính là tội ác, việc này chúng ta không thể không thông hiểu, nhất định không được sai lầm, vì sai một li, đi một ngàn dặm.

Việc bái lạy thiên địa, quỷ thần trong lễ xưa của Trung Quốc đều có. Đây là phép tu kính, chúng ta đối với thiên thần, quỷ thần không hề cầu mong thứ gì, nhưng vì sao phải bái lạy? chúng ta nên tôn trọng họ, cung kính họ. Chữ “kính” này là tánh đức. Làm thế nào để bồi dưỡng tánh đức, làm thế nào mở rộng tánh đức? đối với thiên địa quỷ thần, sự cung kính của chúng ta phải thật tâm, cung kính với tất cả mọi người, mọi việc, mọi vật, vậy mới đúng. Cho nên thời xưa, cúng bái thiên địa quỷ thần, ý nghĩa thiết thực đều thuộc về giáo học, tuyệt đối không có mong cầu gì với quỷ thần. Có mong cầu với quỷ thần là quan niệm sai lầm, không có trong ý nghĩa của cúng bái vào thời xưa.

21. Không thân cận người giải đãi
(Chủ giảng: P.S. Tịnh Không)

Trong thời hiện tại chúng ta phải giữ gìn được 8 điều này thì học phật mới có thể thành tựu chẳng lui sụt.

Chánh kinh: “Hà đẳng vi tứ? sở vị, bất ưng thân cận giải đãi chi nhân”.

Những gì là 4, chính là chẳng nên thân cận người biếng nhác, chúng ta thường thân cận hàng người ấy, họ sẽ ảnh hưởng đến sự tu học của chúng ta. Chúng ta là phàm phu sơ học, chẳng có định lực, chẳng có trí tuệ, vì thế giao du phải chọn lựa người, có khá nhiều bạn đồng tu đối với điều này chẳng hề để tâm cảnh giác, bị hoàn cảnh xoay chuyển, đáng tiếc vô cùng. Đấy chính là điều ta thường gọi là “nhân tình phật sự” nó có ảnh hưởng rất lớn đối với phàm phu sơ học.

Học phật ắt cần phải có lý tánh thấu tình phải buông xuống được, thì mới có thể thành tựu, pháp thứ nhất ấy nhìn vào ý đó. Phạm vi của sự “giải đãi” ấy rộng phi thường, quý vị có nhận ra chưa? Giải đãi lười biếng có thể là mỗi ngày ngủ dậy thật trễ hay chăng? Đối với hạng người ấy đương nhiên quý vị chẳng thể thân cận, họ còn bận ngủ, họ cũng chẳng kề cận quý vị được. Vậy thì ai mới là kẻ giải đãi?

Trước đây Ấn Quang đại sư từng giảng là “kẻ nào ưa đến đạo tràng, ngày ngày la cà đạo tràng, ngày ngày tìm náo nhiệt. Vì sao họ là giải đãi? họ giải đãi đối với việc tu đạo, biếng nhác tu định. Kẻ chẳng tu định, tu huệ cứ ngày ngày đuổi theo náo nhiệt thì gọi là kẻ giải đãi”. Bởi thế chẳng được hiểu lầm ý nghĩa đoạn kinh này, quý vị xem trong Văn sao, trong vĩnh Tư lục, sẽ thấy mỗi khi lão đại hòa thượng vừa thấy đệ tư quy y đến thăm ngài liền quở mắng “ngươi đến đây làm chi” “con đến gặp sư phụ” “Trước kia ngươi gặp sư phụ rồi, còn đến đây làm chi nữa”. Ngài quát quay về, “đến chỗ bon chen tâm cũng loạn động theo, bảo ngươi ở nhà chắc thật niệm phật, ngươi chẳng chịu niệm, ngươi con muốn đến chùa miếu gặp sư phụ, có gì hay mà xem”. Đó gọi là giải đãi đãi. Sở dỹ Ấn quang đại sư nói ra điều gì ai nấy đều rất tôn kính là vì pháp giáo hóa của ngài chưa ai đề xướng cả.
Hiện thời các đạo tràng đều mong mỏi tín đồ đông đảo, tín đồ không đến làm sao duy trì được đạo tràng. Bởi thế con người hiện tại đều chuộng náo nhiệt, náo nhiệt chính là giải đãi. Đối với tu định, tu huệ, tu tâm thanh tịnh mà giải đãi. Ở đây phật dậy chúng ta chớ nên thân cận những kẻ như thế, đừng ngày ngày bắt chước họ khiến cho tâm bị loạn động.

Điều thứ hai là: Chánh kinh: “Xả ly nhất thiết hội náo chi chúng”. (Rời bỏ hết thảy các chúng ồn náo).

Không nên ưa thích náo nhiệt, không chỉ có nghĩa là không ưa thích những nơi ăn chơi vui vẻ trong thế gian mà đối ngay cả những chỗ hoan hỉ náo nhiệt, nơi cửa phật cũng chẳng nên ham mê. Nói chung điều gì trái nghịch với giới, định, huệ, trái nghịch với giác chánh thanh tịnh đều là giải đãi, ồn não. Bởi thế đoạn văn này dung hàm ý nghĩa rất sâu rât rộng. Mục đích chúng ta là cầu giải thoát, cho nên phải hiểu rõ 2 chữ giải thoát này. “Giải” là cởi mở, cởi mở là gì, cởi bỏ phiền não, “Thoát” là thoát ly lục đạo luân hồi, mục đích của việc học phật là đây. Nếu quí vị chẳng nghĩ đến giải thoát thì chẳng sao, cứ việc ngày ngày lăn vào nơi náo nhiệt, còn ai là kẻ mong liễu sanh tử, thật sự niệm phật cầu vãng sanh cực lạc thế giới thì nhất định phải tuân thủ lời dậy này.

Trước đây trong thời kỳ phật thất Đàm Hư đại sư đã từng kể cho chúng tôi nghe đôi ba chuyện cũ, đều là chuyện thật: Ngài kể một đồ đệ niệm phật của lão pháp sư Đế Nhàn, xuất thân là thợ đóng đai thùng, niệm phật 3 năm bèn đứng mà vãng sanh. Người ấy chưa từng đọc sách, chưa hề biết chữ, chỉ là một người rất chân thật. Sau khi xuất gia lão hòa thượng chỉ dậy ông ta 6 chữ “Nam mô ADI ĐÀ PHẬT” chứ chẳng dậy điều gì khác, chỉ dặn dò “ngươi cứ niệm một câu phật hiệu này, niệm mệt thì nghỉ, nghỉ ngơi xong lại niệm tiếp. Quả nhiên người ấy ở trong 1 tòa miếu hư nát, không ra ngoài khỏi cửa, niệm 1 câu phật hiệu suốt ba năm, chẳng bệnh tật gì, biết trước lúc mất, bèn đứng vãng sanh, vãng sanh rồi vẫn cứ đứng suốt ba ngày để đợi lão Hòa thượng Đế Nhàn thay mình lo việc hậu sự. Ông ta dựa vào đâu để thành tựu, chính là chẳng thân cận kẻ giải đãi, rời bỏ hết thảy các chúng ồn náo. Bởi thế nói giải thoát chẳng thoát, nhưng sao ngày nay chúng ta học phật khó khăn đến thế. đó là vì chúng ta phạm phải lỗi lầm sau đây: hàng ngày đua theo náo nhiệt, coi chuyện đua chen nhiệt náo là Phật sự, quý vị nói coi đó có phải là vớ vẩn hay chăng, quan niệm sai lầm rồi.

Chánh kinh: Độc xứ nhàn tịnh, thường cần tinh tấn (ở riêng chốn thanh vắng thường xuyên tinh tấn)

Ấy là thật sự mong liễu sanh tử xuất tam giới, thật sự mong giải quyết xong vấn đề ngay trong 1 đời, quý vị có nhận biết niềm vui chợt tỉnh, hoàn cảnh thanh tịnh chính là sự hưởng thọ tối cao của nhân sanh, trong đấy có niềm vui chân thật. Thế nào là tinh tấn: “Tinh” là tinh thuần, chuyên nhất, “tấn” là chẳng lui. Hiện tại người học Phật chúng ta thấy cũng rất siêng năng, nhưng chẳng phải là tinh tấn, mà chỉ là tạp tấn, loạn tấn nên chẳng được thành tựu, muốn thành tựu thì phải thâm nhập 1 môn.

Điều thứ 4 là chánh kinh: Dĩ thiện phương tiện, điều phục kỳ thân (dùng phương tiện khéo điều phục cái thân),

Phương tiện khéo điều phục cái thân ở trong phần kệ tụng ở sau, ta sẽ thấy ý nghĩa này rõ hơn nữa. Câu kệ …thường tri túc. Ý nói điều phục cái thân, biết đủ thường vui. Cuộc sống rất dễ chịu, có áo để mặc có cơm để ăn no ba bữa, có căn phòng nhỏ để đủ che nắng, che mưa là đủ quá rồi, chẳng cần chi thêm nữa. Có cầu thêm thì là cầu sanh Tây phương cực lạc thế giới, cầu thấy ADI ĐÀ PHẬT, ngoài ra chẳng cầu cái gì khác nữa. Tâm quý vị định rồi, quý vị sẽ thực sự hưởng thọ an lạc. Dùng phương pháp ấy để điều phục cái thân, những chuyện người đời tranh giành đều là giả, đều chẳng mang theo được, đều tranh chẳng được, đều là ngu sy tạo tác tội nghiệp. Người thật sự hiểu thấu, người giác ngộ đều chẳng thèm tranh nữa, đều buông xuống hết nhất tâm hướng về đạo. Hướng về đạo là hướng về cái tâm thanh tịnh, hướng đến nguyên vọng cầu sanh Tây phương cực lạc thế giới của chính mình.

Trong đây là đức phật vì chúng ta nói thêm 4 pháp vậy. Ngài nói xong lại phó chúc Di lạc bồ tát chứ thực ra là phó chúc mọi người chúng ta. Di Lạc Bồ tát là người thay mặt cho chúng ta. Đoạn kinh này trọng yếu phi thường. Nói “trong đời mạt sao lúc 500 năm”, là nói đến xã hội hiện tại, nếu chúng ta muốn được không phiền não, mong đạt giải thoát. Hai chữ giải thoát này rất trọng yếu, chúng ta đọc chữ giải theo âm quan thoại đọc là “xòe” thì sẽ thành động từ, còn nếu đọc là “dẽ” sẽ thành danh từ tháo gỡ, giúp đỡ phiền não nên gọi là giải trừ, “thoát” là liễu thoát lục đạo sanh tử luân hồi, mới kể là thành tựu. Mới chẳng đoạn phiền não, chẳng thể liễu thoát sanh tử luân hồi, chẳng được kể là thành tựu, bất luận tu pháp môn gì, tu giỏi đến đâu cũng chẳng thành tựu. Quý vị vẫn cứ phải sanh tử luân hồi y như cũ. Bởi thế 2 chữ giải thoát trọng yếu phi thường, có thể nói nó chính là mục tiêu tu học hiện tiền của chúng ta.

Điều thứ 2 là: Trừ diệt hết thảy nghiệp chướng. Tôi tin là người có nguyện vọng đạt mục tiêu thứ nhất là liễu sanh tử chẳng có mấy, dường như mục tiêu thấp nhất là tiêu nghiệp chướng thì mọi người đều mong. Ít người mong liễu sanh tử nhưng mong tiêu nghiệp chướng thì rất phổ biến. Nếu như quý vị muốn mong tiêu trừ hết nghiệp chướng thì có 8 pháp như vậy, đủ thấy 8 pháp ấy trọng yếu phi thường.

Tiếp theo đây phật nói: chánh kinh: “ưng đương xả ly hội náo chi xứ”. (Phải nên lìa bỏ những nơi ồn náo, phải lìa bỏ những nơi ồn náo).

Chúng ta là phàm phu, chẳng phải bồ tát tái lai. Các vị bồ tát tu hành chẳng giống chúng ta, mà là trong pháp đại thừa ở trong chỗ náo nhiệt mà lìa náo nhiệt, chẳng phải là điều người bình thường làm được. Nếu ta học đòi các ngài xa lìa ồn náo trong chỗ ồn náo, ta nhất định đọa địa ngục A Tỳ bởi thế chắc chắn là chẳng học được. Cuối bản kinh này có nói sơ nghiệp Bồ tát chẳng giống như huệ hạnh bồ tát, huệ hạnh bồ tát phá một phần vô minh chứng 1 phần pháp thân. Hạnh của các vị pháp thân đại sỹ nói ở trong kinh Hoa nghiêm đích thực là “phiền não chính là bồ đề, sanh tử chính là niết bàn”. Chúng ta là sơ học Bồ tát, sanh tử là sanh tử, phiền não là phiền não, tuyệt đối chẳng thể phiền não chính là bồ đề, chúng ta làm không được, chúng ta nhất định phải hiểu rõ thân phận mình như thế nào, trình độ mình ra sao, phải nên tu học những gì, hoàn cảnh nhất định ảnh hưởng đến tâm tình chúng ta. Bất cứ hoàn cảnh bất hảo nào cũng sẽ khiến cho thân tâm ta chẳng đạt được hoàn cảnh thanh tịnh, nên nhất định phải xa lìa, vì thế đức phật mới dậy chúng ta xa lìa những nơi náo nhiệt xô bồ.

22. Ý nghĩa của vật phẩm cúng dường Phật bồ tát
(Chủ giảng: Lão P.S. Tịnh Không)
Hỏi: Thường thấy có rất nhiều người mua hoa tươi trái cây đồ cúng ở tự viện hoặc ở gia đình để cúng dường Phật Bồ Tát, đồng thời cũng đốt hương, đốt đèn sáp, đều cầu Phật Bồ Tát bảo hộ bình an khỏe mạnh, thăng quan phát tài. Vậy dụng ý đúng nghĩa là gì? Có phải Phật Bồ Tát cần dùng nhũng thứ này chăng?

Xin nói với các vị, Phật Bồ Tát nhất định không cần những thứ này, vậy ý nghĩa chân thật của những thứ này là gì? Vẫn là ở giáo học. Nếu dùng lời hiện đại mà nói, tất cả những thứ cúng dường này chính là công cụ giáo học, để khi chúng ta tiếp xúc liền có thể thức tỉnh. Ví dụ khi ở trước tượng Phật, ý nghĩa của tượng Phật mọi người đều biết, cúng Phật đại biểu tánh đức của tự tánh, Bồ Tát đại biểu tu đức, thông thường chúng ta cúng một vị Phật, hai vị Bồ Tát, bởi vì tánh đức chỉ có một, không có hai, tu đức thì nhiều phương diện. Nhiều phương diện đem gom lại, không ngoài hai loại lớn: Tri và Hành, nhà Phật gọi là giải hành, gồm giải môn và hành môn, cho nên dùng hai vị đại Bồ Tát làm đại biểu, việc này tiên sinh Vương Dương Minh gọi là “Tri hành hợp nhất”, thực tế mà nói đều từ trong khai thị của Phật pháp mà có được những linh cảm này.

Giải môn, ví dụ phần đông chúng ta thường cúng Thích Ca Mâu Ni Phật và Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù. Phật biểu thị tánh đức, Văn Thù, Phổ Hiền biểu thị tu đức. Văn Thù biểu thị giải môn, ngài đại biểu trí tuệ. Phổ Hiền biểu thị hành môn, ngài đại biểu thực hành. Do đó hai vị Bồ tát này đại biểu cho tất cả.

Đồng tu tịnh độ, phần nhiều thờ Tây Phương Tam Thánh. Phật thì thờ Phật A Di Đà. Ý nghĩa của danh hiệu này là vô lượng giác, A ý nghĩa “vô”, Di Đà ý nghĩa “lượng”, Phật là giác ngộ. Tất cả mọi người, mọi việc, mọi vật, tận hư không khắp pháp giới đều phải giác ngộ, đây là tánh đức cứu cánh viên mãn. Bồ tát biểu thị tu đức gồm Quan Âm, Thế Chí. Bồ tát Quan Âm biểu thị thực hành, đại biểu “hành”, Bồ tát Thế Chí biểu thị trí tuệ, đại biểu “giải”, cho nên vẫn là vừa hành vừa giải. Thế nhưng pháp môn tịnh độ lại để “hành” phía trước, “giải” ở phía sau, đây là điểm không giống nhau trong cúng dường tượng Phật. Chúng ta chú trọng thực hành, nên đem để ở phía trước. Hiểu rõ ý này, chúng ta sẽ không đến nỗi sanh ra quan niệm sai lầm.

Cúng hoa trước tượng Phật, hoa đại biểu nhân. Thế xuất thế gian pháp đều không rời nhân quả, Phật thường nói trên các kinh Đại thừa “vạn pháp giai không, nhân quả bất không”, nhân quả là sự chuyển biến của vạn pháp. Nhân sẽ biến thành quả, quả sẽ biến thành nhân, nhân quả thay đổi lẫn nhau, tiếp nối không ngừng, ám chỉ sự thay đổi vô cùng vô tận, do đó nói “nhân quả bất không”. Do vì nở hoa trước kết quả sau, hoa là nhân, sau đó là quả, nên cúng hoa là đại biểu tu nhân, hoa tốt thì chúng ta nghĩ quả nhất định sẽ tốt. Thấy hoa, ta liền phải nghĩ đến việc tu nhân thiện, tương lai mới có thể được quả báo tốt. Hoa biểu thị ý này.

Cúng quả, quả biểu thị quả báo, là cái chúng ta mong cầu. Hoa xinh đẹp, nhắc nhở chúng ta phải tu. Trong Phật pháp Đại thừa, hoa đại biểu lục độ, “bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, bát nhã”, gọi là hoa lục độ, sau đó mới có thể đạt được quả báo viên mãn. Hoa cúng trước Phật biểu thị ý này, cũng như học sinh trên lớp học hiểu được hoa biểu thị nhân hành, nhưng sau khi rời khỏi Phật điện, chúng ta ra ngoài nhìn thấy hoa, có còn nghĩ đến ý này không? đều phải có khái niệm như vậy. Hiểu Phật pháp, chỉ cần nhìn thấy hoa, liền nhắc nhở chính mình tu nhân thiện, phải tu nhân tốt. Thậm chí quần áo mặc trên người, khi in lên những hoa văn, nhìn thấy hoa liền biết chính mình phải tu hành. Giờ giờ khắc khắc, nhắc nhở chính mình tu nhân thiện mới có thể được quả tốt. Đây là ý nghĩa của việc cúng dường hoa tươi trái cây.

Còn cúng dường thực phẩm, thực tế mà nói không ý nghĩa, không quan trọng. Thực phẩm chỉ biểu thị chút lòng thành của mình. Chúng ta cần thực phẩm ngon, chúng ta cũng đem thực phẩm ngon cúng dường Phật Bồ tát, đây là ý kỷ niệm, cũng là ý tượng trưng.

Đốt hương, hương đại biểu tín hương, là một loại tín hiệu, việc này thời xưa ứng dụng rất phổ biến. Nếu các vị đi du lịch đến Trung Quốc thì nên đến tham quan Trường Thành. Mỗi đoạn Trường Thành có một phong hỏa đài dùng để truyền tín hiệu. Phong hỏa đài cũng giống như cái bếp lò, thời xưa việc truyền tín hiệu rất khó, người ta mới nghĩ cách dùng phong hỏa đài, đốt lửa hun khói. Mật độ của khói không giống bình thường, gió không dễ thổi tan, do đó khói được giữ lâu, ở nơi rất xa có thể nhìn thấy và nhận biết nơi đó báo hiệu có biến cố xảy ra. Chúng ta dùng cách biểu đạt đốt hương phát tín hiệu đến chư Phật Bồ tát, để cảm ứng được thông nhau. Thế nhưng hàm ý chân thật, chúng ta thường nói: “Giới định chân hương, ngũ phần pháp thân”, ý này rất sâu. Đốt hương nhắc nhở bạn học nhiều, chúng ta nhìn thấy khói hương, ngửi được mùi hương, liền nghĩ chính mình phải tu giới, định, huệ. Cho nên đốt hương đại biểu “giới định chân hương”, đại biểu “ngũ phần pháp thân”, ngũ phần pháp thân gồm giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.

Đèn tượng trưng cho trí tuệ quang minh. Thời xưa dùng đèn dầu, đèn cầy, ý này càng rõ ràng. Đèn dầu chân thật đốt cháy chính mình để soi sáng người khác, đèn cầy lại càng đặc biệt rõ ràng hơn. Chúng ta phải cầu trí tuệ, có thể xả mình vì người; lấy trí tuệ, kỹ năng của chính mình phục vụ xã hội, giúp đỡ tất cả chúng sanh mà không cầu báo đáp, đây là lời Phật dạy. Cho nên đốt hương đèn cầy đều là biểu pháp, nếu chân thật làm đúng như vậy, tự nhiên liền được bình an, khỏe mạnh, sống lâu, cho đến thăng quan phát tài. Đó là do trong mạng của bạn đã có theo mối quan hệ nhân quả. Còn trong mạng không có thì Phật Bồ tát cũng không ban được.

Nếu trong mạng của bạn không có tiền tài, Phật Bồ tát có thể giúp bạn phát tài, trong mạng của bạn không có quan vị, Phật Bồ tát ban cho quan cao, thì định luật nhân quả đã bị đánh đổ, làm gì có đạo lý này. Chư Phật Bồ Tát trí tuệ có lớn hơn, năng lực có mạnh hơn cũng không cách nào thay đổi được tí gì nhân quả. Thế gian pháp xây dựng trên nền tảng của nhân quả, Phật pháp cũng xây dựng trên nền tảng của nhân quả, chúng ta phải hiểu tường tận. Kinh Pháp Hoa, Nhất Thừa Nhân quả, kinh Hoa Nghiêm, Ngũ Châu Nhân quả, bạn xem tất cả kinh luận đều không lìa định luật nhân quả. Phật Bồ Tát có thể giúp chúng ta phát tài không? họ có thể, vì họ dạy chúng ta lý luận phát tài, dạy chúng ta phương pháp tu học phát tài. Chúng ta hiểu rõ lý luận, y theo phương pháp này mà tu học, thì tự nhiên đạt được. Không thể nói họ dạy cho bạn, bạn liền trực tiếp phát tài, mà bạn chính mình phải làm. Ví dụ bạn muốn ăn dưa, họ dạy bạn làm thế nào để trồng dưa, làm thế nào chọn hạt giống, làm thế nào để vun xới đất, bón phân cho cây tươi tốt, mau phát triển, bạn làm theo thì tương lai nhất định có thu họach tốt. Không thể nói bạn cầu dưa thì họ liền mang dưa đến, không hề có như vậy, đó là mê tín.

Cho đến cầu bình an, cầu khỏe mạnh, Phật cũng dạy bảo chúng ta làm thế nào mới có thể chân thật đạt tự tại, hạnh phúc, mỹ mãn, trong đó đã bao hàm bình an, khỏe mạnh, sống lâu. Phật dạy chúng ta tất cả phải thuận theo tự nhiên, “tự tại tùy duyên”. Ví dụ người hiện đại nói “hoàn cảnh sinh thái”, mọi người đều biết trên địa cầu này không luận động vật, thực vật đều hỗ tương lẫn nhau tồn tại, nếu một phương diện nào đó bị phá hoại, nhất định ảnh hưởng đến thứ khác. Hoàn cảnh sinh hoạt tự nhiên của chúng ta đang bị phá hoại nghiêm trọng, không chỉ động vật mà thực vật cũng không còn hoàn cảnh để sinh tồn. Có một số thực vật động vật đã bị tiệt chủng, đây đều do hoàn cảnh sinh thái không cân bằng. Trên con người chúng ta, nhục thể là một bộ phận sinh lý, còn một bộ phận nữa là tinh thần, cũng giống như đại tự nhiên không hề khác nhau. Nếu bạn thuận với đại tự nhiên thì bạn nhất định sẽ khỏe mạnh sống lâu, bạn sẽ trải qua đời sống an vui. Nhưng nếu trái với tự nhiên, bạn phá hoại sinh thái tự nhiên, thì bạn sẽ đau khổ bệnh tật cho đến bị một số tai nạn không thể tránh khỏi.

Phật tâm chúng ta vốn thanh tịnh, tâm rỗng không. Thế nhưng bạn lại không tìm ra, cho nên Phật pháp dùng bánh xe để biểu thị. Bánh xe tròn biểu thị tâm phải tròn đầy, nhưng sự tròn đầy của tâm là bất khả đắc. Bạn nói đến môt điểm thì cái điểm này đã biến thành diện tích, cho nên điểm chỉ là một khái niệm trừu tượng. Tâm viên là một điểm, nhất định có, do đó Phật bảo chúng ta tâm phải thanh tịnh vì tâm chính là tâm viên, là trung tâm vũ trụ, cũng là một trung tâm sinh mạng con người. Tâm tuy nhất định nhưng có cái không thể được, trong lòng nếu ôm chứa một thứ gì thì tâm liền bị hư. Trong tâm bạn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, có lo lắng, dính mắc thì tâm đã hư, bạn đã trái với nguyên tắc của tự nhiên. Còn nếu bạn buông bỏ tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, lo lắng, dính mắc, tâm của bạn liền hồi phục bình thường, đây gọi là tùy thuận pháp tắc tự nhiên, do đó tâm phải thanh tịnh, nhất định không có thứ gì.

Thân thì sao? Thân phải hoạt động, thân là một vòng tròn, vòng là động, nếu không động thì hư. Thân phải động, tâm phải tịnh, đây là đạo dưỡng thân, cũng là chân đế dưỡng thân. Thế nhưng hiện tại đặc biệt là người giàu có thì hoàn toàn trái với đạo này. Bạn xem, tâm phải thanh tịnh, phải vô nhất vật. Lục tổ thiền tông nói “bổn lai vô nhất vật”, ý nói cái tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, lo lắng, dính mắc là vô lượng vô biên, hoàn toàn trái ngược với chân tướng sự thật. Vậy thân cần phải động, bạn muốn sống thì phải động, không động không thể sống. Nhưng nhiều người không muốn động thân, lại cứ động tâm. Thế là, thân tâm họ làm sao tránh khỏi bệnh tật. Bệnh tật từ đây mà ra.

Trong Phật pháp có một phương pháp tu hành là lạy Phật. Mỗi ngày lạy mấy trăm lạy thậm chí mấy ngàn lạy. Người lạy nhiều nhất đến ba ngàn lạy. Khi lạy Phật, thân đang vận động, tất cả bộ phận đều vận động là dưỡng thân. Ngoài việc lạy Phật ra, lao động cũng là dưỡng thân. Tâm thanh tịnh, không vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, không lo lắng, dính mắc, tự nhiên con người hạnh phúc khỏe mạnh sống lâu. Cho nên Phật pháp giảng đạo lý, dạy bạn những phương pháp này đều phù hợp với chân tướng sự thật, tương ưng với hoàn cảnh sinh thái tự nhiên, bạn mới có thể chân thật đạt khỏe mạnh sống lâu, cho đến phước báu khác. Mỗi người đều có thể đạt đến hạnh phúc mỹ mãn bất luận giàu có hay bần tiện. Giàu có hay bần tiện là do tu đức. Tiền của từ bố thí tài mà ra. Bố thí tài là nhân, được tiền của là quả báo. Bạn tu nhân nhất định được quả báo. Nếu đời quá khứ hoặc hiện tại không tu nhân, bạn muốn phát tài cũng không thể. Hãy đọc qua Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ hiểu, chân thật là “Một bữa ăn, một ngụm nước đều do tiền định”.

Trong mạng đã có, dù bỏ cũng không mất; trong mạng không có, dù cầu cũng không được. Phật Bồ Tát, thiên địa quỷ thần cũng không cách gì. Bạn cầu Phật Bồ tát, cầu quỷ thần, cầu phát tài, quả nhiên liền phát tài, thành thật mà nói đó là trong mạng của bạn đã sẵn có, vừa khéo ngay lúc này gặp được cơ duyên, chứ không phải Phật Bồ tát linh hiển. Nếu quả thật Phật Bồ tát quỷ thần có linh thì một trăm người cầu phát tài, một trăm người đều phát tài, mới gọi là linh. Một trăm người cầu, mà chín mươi chín người phát tài, còn một người chưa thì vẫn không linh. Cho nên đầu óc chúng ta phải bình lặng, không để bị người lừa gạt, càng không nên bị quỷ thần lừa gạt. Bị người lừa gạt còn có thể tha thứ, nhưng bị quỷ thần lừa gạt là một việc không thể tha thứ. Phải có lý tánh, có trí tuệ mà quán sát, chúng ta mới có thể đạt được lợi ích chân thật.

Tóm lại, cúng dường Phật Bồ Tát những đồ cúng đều là biểu pháp, tuyệt đối không phải vì các ngài cần, mà nhờ vào những thứ này, mỗi giờ mỗi khắc nhắc nhở chính mình, để sáu căn của mình tiếp xúc với cảnh giới sáu trần niệm niệm đều có thể đạt được giác không mê, chánh không tà, tịnh không nhiễm. Chẳng hạn gia đình nghèo khó, không có khả năng mua sắm đồ cúng, vậy chúng ta ở trước mặt tượng Phật, cúng dường đơn giản nhất một ly nước. Đây là vật cúng quan trọng nhất trong các đồ cúng, nước biểu thị cái gì? Nước biểu thị cho tâm, nước trong sạch biểu thị tâm thanh tịnh. Nước không nổi sóng là bình, biểu thị bình đẳng. Cúng dường một ly nước, nhìn thấy nước nghĩ ngay đến thanh tịnh bình đẳng, đây là đồ cúng vô cùng quan trọng. Bạn có thể không cần thắp hương, không đốt đèn nến, cũng không cần hương hoa trái cây cúng dường, nhưng không thể không cúng một ly nước vì nó đại biểu tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Nhìn thấy nước liền nghĩ ngay đến chính mình, trong tất cả cảnh duyên, hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, phải biết thanh tịnh bình đẳng. Tâm thanh tịnh bình đẳng là tâm Phật, cũng chính là chân tâm.
(Trích: Khai thị Phật học cơ bản)

23. Vấn đề vãng sanh Tây phương cực lạc
(Chủ giảng: Lão P.S. Tịnh Không)

Hỏi: Đại chúng trong xã hội thường hiểu lầm và hoài nghi việc niệm Phật cầu sanh thế giới Tây phương cực lạc.

Người niệm Phật đương nhiên không hoài nghi đối với những gì Phật đã nói. Phật dạy người không vọng ngữ, vọng ngữ là đại giới của nhà Phật thì Phật làm gì vọng ngữ. Phật nói thế giới Tây phương cực lạc nhất định là chân thật.

Hiện tại khoa học kỹ thuật phát triển cũng phát hiện ra vô lượng tinh cầu trong thái hư không. Hiện nay cũng thường nghe nói đến người ngoài hành tinh, người ngoài thái không, sự việc này càng ngày càng nhiều. Địa cầu của chúng ta có người ở, lẽ nào tinh cầu khác không có người ở. Thế giới Tây phương cực lạc chẳng phải là một tinh cầu khác hay sao, đều là việc rất có thể. Đấy là chúng ta dùng khoa học cạn cợt nhất để trắc nghiệm, nó nhất định không phải giả. Nếu dùng khoa học kỹ thuật cao hơn để nói sẽ làm chúng ta càng dễ dàng lý giải. Khoa học gia chứng minh không gian là đa duy thứ, chúng ta gọi không gian ba chiều, bốn chiều. Chúng ta hiện đang ở trong không gian ba chiều, người ở trong không gian bốn chiều được xem như thần tiên. Khoa học gia chứng thực chí ít có đến mười một chiều không gian, cách nói này rất thú vị, rất giống trong Phật pháp nói về mười pháp giới. Do đây mà biết, nhà Phật nói mười pháp giới thực tế chính là không gian duy thứ không đồng nhau. Duy thứ càng cao, hoàn cảnh sinh hoạt của cảnh giới đó càng thù thắng, không gian sinh hoạt của họ càng rộng lớn. Đến duy thứ cao nhất, cứu cánh viên mãn thì không gian hoạt động của họ là tận hư không khắp pháp giới, khoa học gia cũng phát hiện ra.

Vì sao hình thành vấn đề này, họ tuyệt nhiên không biết; làm thế nào đột phá, họ cũng không biết. Nhưng kinh Phật lại nói rất thấu triệt, mười pháp giới hình thành do vọng tưởng phân biệt chấp trước. Vậy làm thế nào để đột phá? dùng công phu thiền định, đem không gian trùng trùng vô hạn độ này đột phá, sau đó bạn mới thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sanh, đó gọi là pháp giới nhất chân, tương ưng với khoa học gia đã phát hiện.

Hỏi: Trong pháp môn tịnh độ, lại có người hỏi rằng: “đại đức xưa đã nói ‘sanh thì nhất định sanh, đi thì thật không đi’, vậy rốt cuộc có vãng sanh hay không”?

Sanh thì nhất định sanh, đi thì thật không đi, vì sao thật không đi? bạn tuyệt nhiên không hề rời khỏi pháp giới này.

Chúng ta có thể dùng ti vi làm thí dụ, màn hình ti vi chỉ lớn như vầy, qua màn hình, bên này là Đài Loan, bên kia là nước Mỹ, bạn thấy một người mang hành lý lên máy bay đến nước Mỹ. Cảnh giới nước Mỹ hiện ra trước mặt, nhất định anh ta đã đi đến nước Mỹ, nhưng anh ta không hề rời khỏi màn hình. Cũng vậy, kênh đài hiện tại của chúng ta là thế giới ta bà, khi vừa chuyển kênh liền đến cõi nước Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc, nhưng thực ra vẫn ở bình diện này, vẫn trong pháp giới này. Cho nên từ nhất chân pháp giới mà nói, không có đến đi. Từ vãng sanh mà nói, chuyển đổi kênh là thật, mười pháp giới là mười kênh không giống nhau. Tuy kênh đài không giống nhau, nhưng đều trong pháp giới này, cũng đều đang ở trong một màn hình, không hề rời khỏi. Bạn từ thí dụ này mà thể hội. Bạn đối với chân tướng sự thật ít nhiều có thể lý giải đôi chút, sau đó mới biết mình có muốn vãng sanh tịnh độ hay không. Chỉ có sanh đến thế giới Tây phương cực lạc, chúng ta mới có thể đột phá được thời không duy thứ vô hạn. Việc này khoa học gia mãi đến hôm nay vẫn không cách gì đột phá. Họ biết nếu có thể tiến vào không gian bốn chiều, năm chiều, liền có thể trở về quá khứ hay tiến vào vị lai. Vậy thì dục giới thiên, sắc giới thiên, vô sắc giới thiên, duy thứ của họ không giống với duy thứ chúng ta. Ở trong cảnh giới đó, họ biết được quá khứ cũng biết được vị lai. Họ có thể hóa thân ở đời quá khứ cũng có thể ứng thân đến đời vị lai, thật được đại tự tại. Cho nên trùng trùng cảnh giới mà kinh Phật nói, dần dần được khoa học hiện đại chứng thực.

Tuy nhiên khoa học không biết được lẽ đương nhiên của nó, cũng không biết dùng phương pháp gì có thể đột phá, có thể tiến vào cảnh giới này. Chỉ có Phật pháp cao minh, hiểu rõ lẽ đương nhiên, cũng biết dùng phương pháp gì để đột phá, chúng ta nhờ đó liền khẳng định đối với thế giới Tây phương cực lạc. Vậy vãng sanh thế giới Tây phương cực lạc có tiêu cực không? không tiêu cực. Bạn nói nó tiêu cực, nó trốn tránh hiện thực, là hoàn toàn sai lầm, đây là thiên kiến. Phật đặc biệt nói rõ kinh Vô Lượng Thọ không phải kinh tiểu thừa mà là kinh đại thừa. Không những đại thừa mà đại thừa ngay trong đại thừa, nhất thừa ngay trong nhất thừa, là kinh điển cứu cánh liễu nghĩa, nên mới được mười phương tất cả chư Phật tán thán, tất cả chư Phật tuyên dương, đây là chân tướng sự thật, làm gì trốn tránh hiện thực.

Đến thế giới Tây phương cực lạc không phải đi hưởng thụ, nếu bạn vẫn còn ý niệm hưởng lạc thì cái vọng tưởng này khiến bạn không thể đi. Điều kiện đi thế giới Tây phương là “Tâm tịnh thời cõi nước tịnh”. Niệm Phật là phương pháp cần phải đạt đến tiêu chuẩn nhất định mới có thể vãng sanh. Tiêu chuẩn là tâm thanh tịnh, dùng phương pháp niệm Phật tu tâm thanh tịnh mới có năng lực và tư cách vãng sanh tịnh độ. Tâm không thanh tịnh, vọng tưởng phân biệt chấp trước vẫn tồn tại, thì mỗi ngày bạn niệm mười vạn Phật hiệu cũng không ích gì, người xưa nói “đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Cũng giống như người đọc sách, học tập rất dụng công, báng mạng mà học, khi thi thì không đạt tiêu chuẩn, vậy có ích gì. Cho nên phải chú trọng hiệu quả thực tế. Tiêu chuẩn kinh Di Đà là “Nhất tâm bất loạn”, chúng ta dùng phương pháp “Chấp trì danh hiệu” để đạt đến nhất tâm bất loạn.

Sanh đến thế giới Tây phương cực lạc là cầu học, đến nơi đó để hoàn thành học vị, để làm Phật, đồng nghĩa thành tựu trí tuệ cứu cánh viên mãn, học đến bản lĩnh đầy người, không gì không biết, không gì không thể. Sau đó bạn mới có thể ở hư không khắp pháp giới, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn, gọi là Phật độ chúng sanh, giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Đây là giá trị chân thật, nhất định phải niệm Phật cầu sanh thế giới cực lạc. Lời nói này tuyệt đối không gạt người, là lời tâm huyết của tất cả chư Phật hết mực chân thành khẩn thiết khuyên dạy chúng ta. Phật không có yêu cầu gì, không cần chúng ta phải cung kính họ cũng không cần chúng ta cúng dường, Phật vô điều kiện. Phàm hễ giả dối lừa gạt người là họ luôn có mục đích, luôn có ý đồ. Chư Phật Bồ tát đối với tất cả chúng sanh không có bất cứ ý đồ gì, cũng không có bất cứ điều kiện gì, mỗi câu đều là lời chân thật.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.57 khách