LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

Xin chào mọi người, Mộng Giác xin giới thiệu cùng mọi người dịch phẩm mới LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC của Liên Trì Đại Sư. Và sẽ lần lượt gởi lên toàn bộ tác phẩm này.
LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC
Liên Trì Đại Sư
Thích Quảng Trí Soạn Dịch
Kính dâng:
Giác linh Hoà Thượng Bổn sư thượng Đức hạ Niệm chứng minh; Người đã nuôi lớn Pháp thân huệ mạng con.
Cha mẹ người đã nuôi dưỡng con trưởng thành mà con chưa một lần đền đáp thâm ân…

Thay lời tựa
Đức Thế Tôn sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, liền nói Kinh Hoa Nghiêm Nhất thừa đại đạo, diễn bày cảnh giới bất tư nghì, những mong độ hết chúng sanh. Nhưng căn tánh của chúng sanh cao thấp không đồng nên Ngài lại mở bày Tam thừa, rộng nói tám vạn bốn ngàn Pháp môn, trong ấy lưu xuất Pháp môn Tịnh độ.
Kinh Đại Tập nói: “Đời mạt Pháp, ức ức người Tu hành ít có kẻ đắc đạo, chỉ nương theo Pháp môn Niệm Phật mà thoát ly sanh tử.” Lời huyền ký của đức Thế Tôn hơn 2500 năm về trước đến nay quả thật ứng nghiệm. Ngày nay, mặc dù Kinh điển sách vở Phật giáo ngày càng phong phú, đầy đủ hơn xưa và người Tu đạo quả là nhiều “như lông trâu” nhưng người đắc đạo thì “như sừng thỏ.” Rất may đức Thế Tôn cũng đã tiên liệu trước nên đã để lại cho chúng ta một Pháp môn khế hợp với mọi căn tánh của chúng sanh, dù hàng thượng căn thượng trí cũng chẳng thể vượt qua Pháp này. Vì vậy, ngài Phổ Hiền đại sĩ, vị trưởng tử của Pháp hội Hoa Nghiêm, đã phát mười Nguyện lớn khuyên hải chúng trong Hoa Tạng đồng quy về thế giới Cực Lạc. Ngài Đại Thế Chí Pháp vương tử trong Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhớ Phật niệm Phật chẳng cần phương tiện tự được tâm khai.” Cho đến như ngài Mã Minh, Long Thọ, Thế Thân v.v… là những bậc đại Tổ sư mà dù học giả hoặc hành giả thuộc truyền thống nào cũng phải nghiêng đầu cuối phục trước hành trạng kỳ vĩ của các Ngài vậy mà các Ngài đều làm Luận xiển dương và lấy Tịnh độ làm nơi quy hướng. Bậc thượng trí đã vậy, thế thì kẻ hạ căn ngu tối thì sao? Lẽ dĩ nhiên lòng từ vô lượng của chư Phật nào có để sót một ai. Cho nên Quán Kinh nói: “Nếu có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện, ngũ nghịch, thập ác … do các ác nghiệp đã tạo đúng ra phải bị đọa vào ác đạo nhiều kiếp thọ khổ nhưng đến lúc lâm chung, nếu gặp Thiện tri thức dạy bảo niệm: “Nam Mô A Di Ðà Phật” người ấy tin nhận tha thiết trì niệm. Do chí thành xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ được tám mươi ức kiếp tội nghiệp sanh tử. Lúc mạng chung, thấy hoa Sen hiện ra trước người ấy, trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc.” Bằng chứng rõ ràng là ông Trương Thiện Hoà, Trương Chung Quỳ v.v…một đời làm ác, đến lúc lâm chung được Thiện tri thức khuyên bảo rồi chí tâm niệm Phật được vãng sanh. Do đó nên biết, Pháp môn Tịnh độ hợp với ba căn gồm thâu tám giáo, tâm yếu của chư Phật!
Sự hành trì của Pháp môn Tịnh độ vô cùng đơn giản chỉ cần có đủ niềm tin sâu sắc, chí nguyện tha thiết và hành trì kiên cường dù trong hoàn cảnh nào cũng chẳng đổi thay thì quyết định sẽ vãng sanh. Cho nên, người xưa nói: “Dù cho Phật Tổ có tái thế bảo xả bỏ Pháp môn Tịnh độ, các Ngài sẽ truyền dạy Pháp môn khác thẳng tắt hơn, cũng xin đảnh lễ tạ từ, được vậy mới gọi là chân tín, thiết nguyện.” Rồi nương nơi lòng tin chân thật ấy chấp trì câu hồng danh “A Di Đà Phật”. Dùng công phu ấy làm chánh hạnh, còn tất cả những hạnh môn khác làm trợ hạnh. Ngoài ra, mỗi khi làm được việc Thiện nào cũng đều hồi hướng sanh về Tây phương, vậy thì vãng sanh quyết có phần.
Do nhân duyên đưa đẩy, chúng tôi đọc được quyển Liên Trì Toàn Tập, thấy trong phần tịnh độ có nhiều bài rất hay, nên với lòng tha thiết mong chia xẻ cùng hành giả Tu Tịnh nghiệp, chúng tôi chẳng ngại ngu hèn, soạn dịch quyển Liên Trì Đại Sư Tịnh độ Ngữ Lục mong kết duyên Bồ đề cùng mọi người và nguyện đời đời làm pháp hữu, giúp nhau tu tập cho đến khi thành tựu quả vị bồ đề.
Tài liệu sử dụng chính yếu là bộ Liên Trì Toàn Tập (7 tập) và Vân Thê Tịnh độ Vựng Ngữ (1tập), Liên Trì Khuyến Sách (1 tập). Ban đầu chúng tôi dự định sẽ sưu tập và dịch toàn bộ những Pháp ngữ liên hệ về Pháp môn Tịnh độ của đại sư nhưng sau khi hoàn tất chúng tôi thấy dầy và nhiều đoạn trùng lập. Vì vậy, chúng tôi chọn phần nào trùng lập thì cắt bỏ, phân loại nào theo loại ấy và đặt tên lại theo chủ đề. Tuy nhiên, riêng về quyển Kinh A Di Đà sớ sao, không trích dịch vì bản này đã được Đại Sư Hành Trụ dịch rồi và Đáp Tịnh độ Tứ Thập Bát Vấn cũng không dịch vì sẽ dịch vào một dịp khác.
Mặc dù đã tận lực nhưng chúng con e rằng bản dịch vẫn còn nhiều thiếu sót, cuối mong chư Tôn đức cùng Thiện hữu tri thức từ bi chỉ dạy. Nhân đây chúng con xin thành kính tri ân H.T Viện chủ chùa Trung Hoa Đại Giác Tự (tại Ấn Độ), H.T Trí Chơn và T.T Viên Lý… đã khuyến khích chúng con trên bước đường dịch thuật. Ngoài ra, cũng xin chân thành cảm tạ những bậc Thiện hữu tri thức đã hổ trợ cũng như khuyến khích và giúp đỡ chúng con để bản dịch này được hoàn tất. Cuối cùng chúng con xin thành kính tri ân các vị tác giả của những tác phẩm mà trong phần dịch thuật chúng con đã tham khảo và xin nguyện đem công đức này, hồi hướng bốn ân cùng ba cõi Pháp giới chúng sanh đều được vãng sanh về nước Cực Lạc, đồng thành Phật đạo.
Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật tác đại chứng minh
Am Ngọa Vân
Ấn Độ, ngày Phật thành đạo, PL 2546
Tỳ kheo Thích Quảng Trí kính đề
Sửa lần cuối bởi Monggiac vào ngày 14/08/07 11:09 với 1 lần sửa.


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Re: LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

Từ trái qua phải Đại Thế Chí Bồ Tát, Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát
Từ trái qua phải Đại Thế Chí Bồ Tát, Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát
tayphuongtamthanh.jpg (156.43 KiB) Đã xem 4312 lần


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Khuyên trì danh niệm Phật

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

1. Khuyên trì danh niệm Phật 1

Giáo lý Pháp môn Tịnh độ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật tự thân tuyên nói, chư Bồ-tát tạo Luận, Tổ sư và Thánh hiền đồng xiển dương. Từ xưa đến nay số người quy hướng nhiều như số cát sông Hằng.
Tuy rằng chỉ một Pháp môn niệm Phật, nhưng phương tiện tu tập gồm có bốn môn[1]: một trì danh niệm Phật, hai quán tượng niệm Phật, ba quán tưởng niệm Phật, bốn thật tướng niệm Phật. Phương Pháp tu tập tuy có khác nhưng rốt cuộc cũng quy về thật tướng. Bốn Pháp này lại chia làm hai nhóm: trì danh và quán tưởng.
Pháp quán tưởng thì Kinh Thập Lục Quán dạy rất rõ, nay tôi chỉ Luận bàn về Pháp trì danh.
Kinh A Di Đà dạy rằng: “Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn nào nghe danh hiệu Phật A Di Đà, chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày một lòng không loạn, người này khi lâm chung được đức Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước của Đức Phật A Di Đà.”
Đoạn văn trên đã khai mở Pháp môn thù thắng: “Trì Danh Hiệu Phật”, Pháp môn này phát xuất từ kim khẩu của Đức Thế Tôn.
Cổ Đức dạy: “Quán cảnh vi tế, chúng sanh tâm tạp; Dùng tạp tâm quán tưởng thì Pháp quán khó mong thành tựu. Cho nên, đấng đại giác Thế Tôn, thương xót chỉ dạy chúng ta Pháp “trì danh hiệu Phật”, vì Pháp này dễ dàng thực hiện, chỉ cần niệm danh hiệu Phật, nối nhau không dứt, liền được vãng sanh.”
Thánh hiền xưa nay, khen ngợi Pháp trì danh là cửa ngõ quan trọng dễ vãng sanh và dễ thoát ly sanh tử bậc nhất. Nếu trì danh đạt được thật tướng tức đồng với Pháp quán vậy. Thành tựu như thế ắt sanh về thượng phẩm. Là bậc đại trí chớ sanh tâm nghi ngờ.
Đức Phật khuyên chúng ta phải thường xuyên Sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng. Phiền não vô minh dứt sạch mới mong thành tựu quả vị Bồ đề.
Chư vị Phật tử có mặt hôm nay, trong Pháp môn Sám hối thì từ “Nhị thừa Thánh nhân”, các bậc viên tâm đại sĩ cho đến “Đẳng giác” đều nên Sám hối. Như trên các bậc đại sĩ còn phải Sám hối. Đã Sám hối lẽ nào không cầu vãng sanh ư? Bậc Thánh hiền, hàng vô học còn vậy, huống chi phàm phu tục tử chúng ta là hàng hữu học, há không cầu Sám hối và nguyện vãng sanh hay sao?
Tôi nay xin khuyên tất cả Phật tử, cùng chúng sanh đang luân hồi trong ba cõi sáu đường, phải một lòng nhất tâm niệm Phật, tha thiết cầu sanh về miền Cực Lạc an vui. Nguyện cầu Phật lực từ bi gia hộ, tiếp dẫn hết thảy chúng sanh cùng sanh An Dưỡng.

Chú Thích:

[1] Bốn môn niệm Phật:
a. Thật Tướng Niệm Phật: niệm tánh Phật bản lai của chính mình. Đây là quán Pháp thân thật tướng của Phật, kết quả sẽ chứng được Chân Như Tam Muội. Pháp này không gồm thâu bậc trung, hạ căn và nếu không phải là bậc thượng thượng căn, tất không thể ngộ nhập. Vì thế trong tông Tịnh Độ ít có người đề xướng, mà phần hoằng hóa lại thuộc về các vị bên Thiền Tông.
b. Quán Tưởng Niệm Phật: chiếu theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, để quán tưởng y báo chánh báo nơi cõi Cực Lạc. Trong Kinh này có dạy mười sáu phép quán, nếu quán hạnh được thuần thục, thì lúc mở mắt hay nhắm mắt hành giả đều thấy cảnh Cực Lạc hiện tiền, tâm thần dạo chơi nơi cõi Tịnh, khi mạng chung quyết định sẽ vãng sanh. Công hiệu của Pháp này lớn lao không thể nghĩ bàn, nhưng vì cảnh quán quá vi tế sâu mầu, nên ít người hành trì được thành tựu.
c. Quán Tượng Niệm Phật: phương thức đem một bức tượng Phật A Di Đà để trước mặt, ghi nhận mọi nét của bức tượng ấy, rồi quán tưởng cho đến khi dù không có tượng, lúc mở mắt nhắm mắt đều thấy hình tượng Phật hiện rõ nơi trước.
d. Trì Danh Niệm Phật: là niệm Phật ra tiếng hay niệm thầm, bốn chữ hoặc sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật”. Trì bốn chữ “A Di Đà Phật” được điểm lợi là dễ nhiếp tâm; trì đủ sáu chữ được điểm lợi là dễ phát khởi sự thành kính cơ cảm. Phương Pháp này trong Kinh Phật Thuyết A Di Đà, Đức Thích Tôn đề xướng, pháp này hiện đang được thông dụng nhứt.


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Re: Khuyên trì danh niệm Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

2. Khuyên trì danh niệm Phật 2

Kinh A Di Đà nói: “Nếu có người niệm Phật, đến khi lâm chung sẽ được sanh về cõi nước kia.” Kinh Thập Lục Quán lại nói “Người niệm Phật khi sanh về cõi nước kia, hoa Sen chia thành chín phẩm có cao thấp khác nhau.”
Pháp môn niệm Phật thích hợp với mọi căn cơ trình độ chúng sanh, không phân biệt nam nữ, Tăng tục, sang hèn, hiền ác, hễ câu Phật hiệu được nghe qua tai thì đều được lợi lạc. Vì vậy, bất cứ chúng sanh nào tha thiết niệm Phật thì tuỳ theo khả năng liểu ngộ, công hạnh tu tập sâu dày, hạn hẹp của mỗi cá nhân mà khi vãng sanh liền thọ phẩm vị cao thấp khác nhau chẳng đồng vậy. Thế nên, phải biết trên thế gian này ai ai cũng có thể ứng dụng hành trì Pháp môn niệm Phật.

Nếu là người giàu có, mọi thứ đều sẵn sàng, chính là người nên niệm Phật.
Nếu là người bần cùng, nghèo nàn, chỉ có vài người thân, chính là người nên niệm Phật.
Nếu là người đông con nhiều cháu, dòng họ đã có người thừa kế, chính là người nên niệm Phật.
Nếu là người không con cháu thì chẳng bị ràng buộc, chính là người nên niệm Phật.
Nếu người có con cháu hiếu thảo, chăm lo mọi điều, rảnh rang nhàn hạ, chính là lúc nên niệm Phật.
Nếu người có con cháu bất hiếu, chẳng chút ân tình, chính là lúc nên niệm Phật.
Nếu người không bệnh khổ, thân tâm khỏe mạnh, chính là lúc nên niệm Phật.
Nếu người chịu nhiều bệnh khổ, tự thân đã kinh nghiệm được cuộc đời là vô thường, chính là lúc nên niệm Phật.
Nếu người tuổi già, cận kề cái chết, chính là lúc nên niệm Phật.
Nếu là người tuổi trẻ, thân tâm khoẻ mạnh, tinh thần minh mẫn, chính là lúc nên niệm Phật.
Nếu là người ở nơi thanh nhàn, tâm không bị quấy nhiễu, chính là lúc nên niệm Phật.
Nếu là người bận rộn, nên tranh thủ chút thì giờ rảnh rỗi mà niệm Phật.
Nếu là người xuất gia, thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian, chính là người nên niệm Phật.
Nếu là người tại gia, biết thế gian như nhà lửa, chính là người nên niệm Phật.
Nếu là người thông minh, hiểu rõ về Pháp môn Tịnh độ, chính là người nên niệm Phật.
Nếu là người ngu đần, không có khả năng phân biệt, chính là người nên niệm Phật.
Nếu là người trì Luật mà Luật là do chính Đức Phật chế, thì càng phải nên niệm Phật.
Là người trì Kinh mà Kinh là lời Phật thuyết, chính là người nên niệm Phật.
Như người Tu Thiền, mà Thiền là tâm Phật, chính là người nên niệm Phật.
Như người ngộ đạo, ngộ cần Phật chứng, chính là người nên niệm Phật.

Nay kính khuyến mọi người, hãy gấp rút mau mau hành trì Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về nước an lạc, chín phẩm vãng sanh, hoa nở thì liền thấy Phật nghe Pháp, rốt ráo đều được thành Phật. Đến lúc bấy giờ mới biết tự bản tâm chúng ta xưa nay vốn Phật.


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Re: LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

3. Khuyên trì danh niệm Phật 3


Là người học Phật, không nên chú trọng hình tướng. Điều quan trọng là phải chân thật Tu hành. Hàng cư sĩ tại gia thì không nhất thiết cần cắt tóc hay mặc áo nâu sòng như Tu sĩ, vẫn có thể mặc thường phục âm thầm tu tập, điều cốt yếu là chân thật hạnh.
Người thích yên tĩnh, không cần phải tham gia vào niệm Phật hội mới niệm Phật mà tự mình có thể ở nơi yên tĩnh niệm Phật.
Người ngại chỗ đông người thì đâu nhất thiết phải đến Chùa nghe Kinh, tự mình có thể đóng cửa niệm Phật.
Những người biết chữ thì tự tìm hiểu giáo lý, rồi y lời Phật dạy mà niệm Phật.
Hành hương ngàn dặm xa xôi, chi bằng ngồi tại nhà yên tĩnh chú tâm niệm Phật.
Cúng dường phụng sự tà sư, không bằng hiếu thuận với cha mẹ một lòng chí thành mẫn thiết niệm Phật.
Giao thiệp cùng bạn ác, không bằng một mình thanh tịnh niệm Phật.
Ký thác kho chứa cho đời sau, không bằng hiện đời Tu phước niệm Phật.
Hứa nguyện cúng tế, cầu sự bảo hộ của quỷ thần, không bằng sửa đổi sai lầm, Tu thân dưỡng tánh niệm Phật.
Thà rằng dốt nát niệm Phật còn hơn học tập Kinh điển tà sư ngoại đạo.
Sai lầm đàm luận lý Thiền, không bằng dốc lòng chân thật giữ giới niệm Phật.
Mong cầu sự linh ứng của ma quỷ, không thể sánh bằng chí thành tin sâu nhơn quả niệm Phật.
Nói tóm lại, hành giả phải dùng tâm ngay thẳng, trừ bỏ việc ác để niệm Phật, niệm Phật như vậy gọi là Thiện nhơn. Nhiếp tâm diệt trừ tán loạn, gọi là Hiền nhơn. Ngộ được chơn tâm, đoạn trừ lậu hoặc, gọi là Thánh nhân.
Lại khuyên những người hết sức nhàn rỗi hãy tinh tấn niệm Phật. Phàm những ai đã lo xong việc dựng vợ, gả chồng cho con, trong nhà trước sau có người chăm lo mọi việc, thân tâm an nhàn vô sự, không vướng bận việc gì, chính là lúc nên hết lòng niệm Phật. Mỗi ngày tự mình qui định thời khóa Tu niệm, từ một ngàn cho đến trăm ngàn, tùy theo khả năng, khi đã quy định thời khóa rồi, phải kiên định trọn đời thọ trì không thiếu sót.
Đối với những ai có khi bận rộn, khi rảnh rổi, nghĩa là nửa thông và nửa không. Tuy không phải là người an nhàn vô sự, hãy tùy cơ tùy thời mà dụng công niệm Phật, nghĩa là lúc bận rộn thì lo toan sự việc, đến khi rảnh rỗi thì nhất tâm niệm Phật, tự định khóa niệm từ trăm đến ngàn câu Phật hiệu để làm tư lương cho sự vãng sanh Tịnh độ.
Nay khuyên những ai bận rộn hoặc vì kế sanh nhai hoặc vì bận bịu việc nhà, dù suốt ngày lo toan công việc cũng nên cố gắng tranh thủ chút thời gian nào đó trong ngày để niệm Phật. Mỗi ngày sáng chiều hai thời Tu Pháp Thập Niệm [1]. Ngoài ra, trong khi làm việc thầm niệm trong tâm. Mỗi người hãy tùy khả năng, sức lực của mình mà hành trì, hồi hướng cầu sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc.

[1] Pháp Thập niệm: Mỗi sáng sau khi làm vệ sinh cá nhân xong, đến trước tượng Phật hoặc xoay về phương Tây chắp tay ngang ngực, chí thành xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” hết một hơi gọi là một niệm, tiếp tục niệm như vậy mười hơi gọi là mười niệm. Tùy hơi dài ngắn, không kể niệm được bao nhiêu câu Phật hiệu, hễ hết một hơi là một niệm. Tiếng niệm không cao, không thấp, chẳng nhanh chẳng chậm, điều lượng vừa phải, mười hơi liên tục, khiến tâm không tán loạn, chuyên tinh làm công, gọi là Pháp “Thập niệm". Pháp này chủ ý mượn hơi nhiếp tâm.


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Re: LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

4. Khuyên hai chúng tại gia
Suốt một đời người chỉ quanh quẩn bên mẹ cha, vợ chồng, con cái và bà con quyến thuộc. Trong khi tất cả đều do nhân duyên đời trước, tạm thời hội ngộ, cuối cùng cũng chia ly. Sự chia ly ấy cũng chưa có chi đáng buồn hay đáng khổ cả! Điều chúng ta nên buồn khổ, là để luống qua một đời, không chịu niệm Phật vậy.
Nay phải buông xả vạn duyên, tự thường hồi quan phản chiếu vào trong mà niệm Phật. Đây mới chính là việc lớn, khẩn cấp của đời người. Thiết yếu là niệm câu hồng danh cho thật thuần thục. Khi niệm Phật, tâm phải lắng nghe lại tiếng mình niệm, mỗi chữ mỗi câu rõ ràng, nhớ niệm không quên. Trong mọi thời khắc, chân thật dụng công, khi vọng tưởng nổi lên, không được dung dưỡng chạy theo tạp niệm. Sáng chiều hai lần lễ Phật, nghĩ đến nỗi khổ của thế gian, chân thành mẫn thiết phát nguyện, cầu sanh Tịnh độ. Tu tập như vậy không thiếu sót, lần lựa đến lúc lâm chung, chánh niệm tự nhiên rõ ràng, liền được vãng sanh, trong hoa Sen báu, ở cõi Cực Lạc, của Phật A Di Đà, vĩnh viễn xa lìa các khổ!

5. Khuyên Thị giả
Ông đã rời bỏ quê hương, xa lìa ân ái, đã là thành viên của Tăng đoàn thì tất cả người thân quyến thuộc cho đến bạn hữu đều không nên liên hệ. Ta nay tuổi đã cao, còn sống chắc không lâu; Ông tuy trẻ tuổi nhưng chẳng phải trường thọ, sống mãi không chết, ai hay cơn vô thường bao giờ sẽ đến? Nếu không tinh tấn tu hành, thời gian thấm thoát qua mau, về sau hối hận không kịp. Hãy để tâm suy xét, mau mau hồi đầu chánh niệm, chớ nên phóng dật.
Đắm mê nhiễm cảnh, đó là nhân sâu địa ngục. Không được tham trước đồ vật đẹp, khi chết sẽ không thể mang theo một vật. Không được giao thiệp bạn ác, bằng không sẽ thâm nhiễm hạnh ác. Không nên tự thị mình còn trẻ, vì mạng người trong hô hấp. Không được sanh tâm sân hận, đó là giặc cướp công đức, về sau hối cũng không kịp.



Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Re: LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

6. Khuyên tu bốn hạnh nhẫn
Một, từ nay về sau phải tự khích lệ tinh thần, khiến thân tâm khinh an. Trong bốn oai nghi đều nghĩ đến sự khổ não của chúng sanh trong tam đồ mà nhất tâm niệm Phật.
Hai, từ nay về sau dù có người mắng chưởi, dùng lời xấu ác phỉ báng, cho đến đánh đập, khạc nhổ vào mặt, cũng phải nhẫn chịu, một lòng nhất tâm niệm Phật.
Ba, từ nay về sau dù có người vong ân bội nghĩa, lấy oán báo ân, cũng phải nhẫn chịu, một lòng nhất tâm niệm Phật.
Bốn, từ nay về sau nếu có người bức não, hoặc bắt ép ta làm việc không đúng với chánh Pháp, phải nhẫn nhục dùng chánh ngữ khuyên bảo hoặc dùng lời nhún nhường tùy nghi khuyên nhủ. Nếu không được cũng chớ sanh tâm sân hận, chỉ một lòng nhất tâm niệm Phật.

7. Khuyên người tại gia lớn tuổi
Sắc thân tứ đại, chắc chắn sẽ suy tàn theo năm tháng, nhưng tâm tánh vốn không sanh diệt. Hãy buông bỏ muôn duyên, chế phục thân tâm, gắng sức niệm câu Phật hiệu cho tinh thuần. Khi tâm Tịnh tức cõi Phật tự Tịnh, sau khi vãng sanh thì vô sanh chẳng cầu mà tự đạt.
Người già có ba việc: Một, Phật nói: “Mạng người trong hơi thở.” Lời này áp dụng cho tất cả mọi người, huống chi người đã trên bảy mươi (70) thì ai biết thần chết sẽ đến viếng thăm lúc nào? Nay đem hết tất cả mọi việc giao phó cho con cháu, tâm không còn vướng bận. Hai, ngoài sanh tử đại sự, tất cả các việc còn lại hãy dẹp bỏ hết. Ba, tất cả các Pháp đều phù du huyễn mộng, có sanh tất có diệt, càng đeo đuổi càng khát khao, hãy dõng mãnh đề kỳ chánh niệm, tạm thời chưa dù chưa thể nhất tâm nhưng dụng tâm không thối chuyển, siêng năng hành trì lâu ngày thì quần ma tự thối hàng, thiên hạ thái bình. Trên tuy phân ba việc nhưng vẫn không ngoài vọng tưởng. Tất cả chỉ là việc trong mộng, bóng trong gương, trăng treo đáy nước, đều giả huyễn không thật, mê hoặc thế nhơn, phải dùng chánh trí quán phá.


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Khuyên người nữ lúc lâm chung

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

8. Khuyên người nữ lúc lâm chung

Mặc dù hình tướng nam nữ có sai biệt nhưng bản tánh vốn không hai, vậy sao lại để năm chướng làm trở ngại? Đối với Pháp môn niệm Phật điều thiết yếu là “nhất tâm”. Nếu tâm tha thiết chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà, được một lòng không loạn thì quyết định vãng sanh về cõi nước Cực Lạc, chẳng luận người ấy là nam hay nữ!

9. Tịnh độ là thật có

Có người nói: “Duy tâm Tịnh độ, ngoài ra chẳng có cõi Cực Lạc nào cách đây mười muôn ức cõi Phật cả.” Thuyết duy tâm Tịnh độ, nguyên phát xuất từ Kinh điển, lời này không sai. Nhưng vì người dẫn cứ chẳng đúng thời đúng lúc và lạm dụng câu nói ấy nên đã làm sai đi Tông chỉ của lời này.
Phàm khi nói đến tâm tức cảnh thì phải biết rằng cảnh cũng tức là tâm. Ngoài cảnh không tâm, ngoài tâm không cảnh, cảnh chính là tâm, tâm cảnh tương giao hòa hợp. Thế nên, toàn cảnh tức tâm, toàn tâm tức cảnh. Vậy, sao chấp tâm bỏ cảnh, nếu phế cảnh mà nói tâm vậy thì chưa đạt chân tâm.
Có người nghi: “Khi lâm chung Thánh chúng đến tiếp dẫn, cùng nhạc trời, tràng phang lầu đài v.v… đó chỉ là cảnh tướng do tâm người lâm chung hiện ra mà thôi chứ chẳng thật có Cực Lạc.” Nói rằng “do tự tâm”, đúng khi chỉ riêng người lâm chung thấy cảnh giới ấy; Nhưng ở đây, lúc bấy giờ cả đại chúng cùng thấy tràng phang, bảo cái cùng nhạc trời từ từ mất dần về phương Tây, riêng mùi hương lạ lưu lại trong phòng nhiều ngày không mất. Thế thì tại sao nhạc trời lầu các, tràng phang v.v… chẳng tan dần về phương khác mà chỉ ẩn dần về phương Tây? Sau khi người lâm chung, mùi hương lạ kia vẫn còn, vậy thì làm sao có thể nói không có Tịnh độ được?
Lại như có người ở trong định thấy tên Ngài Viên Chiếu Bản Thiền sư, ở trên Sen báu nơi cõi Cực Lạc, vậy lẽ nào tâm người nhập định ấy lại là tâm của Ngài Viên Chiếu được sao?
Nay xin hỏi: khi người lâm chung thấy cảnh địa ngục hiện, có phải là do tâm hay không?
Đáp: Do tâm.
Hỏi: Người đó có đọa địa ngục không?
Đáp: Chắc đọa.
Hỏi: Nếu thật đọa địa ngục, vậy thì cảnh địa ngục là có thật. Thế thì, tâm hiện cõi Tịnh độ thì tại sao lại nói chẳng thật sanh về Tịnh độ và chẳng thật có cõi Tịnh độ? Thế nên cổ đức bảo: “Thà nói có như Tu Di, còn hơn nói không như hạt cải.” Xin hãy thận trọng.


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Re: LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

10. Tịnh độ khởi tín
Muốn phát khởi niềm tin Tịnh độ, trước hết phải chuyên tâm đọc những Kinh sách tịnh độ. (Niệm Phật Thập Yếu, Lá Thơ Tịnh Độ, Pháp Môn Tịnh Độ, Kinh A Di Đà Sớ Sao và Kinh A Di Đà yếu giải v.v…chú dịch giả) Sau khi đã có niềm tin vững chắc nơi Pháp môn niệm Phật rồi, lúc ấy hãy đọc những Kinh sách khác. Phàm khi đọc Kinh sách, chớ tham lam, gấp vội đọc một lần cho xong, mỗi ngày chỉ nên đọc một ít, dùng nhiều ngày hoàn tất việc đọc; Phải dùng tâm tinh tế nghiên cứu, từ từ sẽ phát khởi niềm tin sâu sắc nơi Pháp môn Tịnh độ. Niềm tin ấy chính là cửa thiết yếu để vào đạo. Cổ nhân nói: “Trong các Pháp môn để thoát ly sanh tử, niệm Phật đứng hàng đầu.” Lời này không phải hư dối vậy!
Với pháp cao thanh trì, mặc trì và kim cang trì, nếu hành trì không đúng thời và không khéo léo hòa hợp thì chẳng những không đem lại lợi ích, ngược lại bị chính nó làm tổn hại. Ví dụ khi mệt mỏi sau một ngày làm việc mà dùng pháp cao thanh trì thì chắc chắn lại càng mệt hơn. Khi ấy nên mặc trì thì có thể dưỡng thần giúp thân thể mau phục hồi sức lực.
Từ nay, mỗi khi vọng tưởng tán loạn nổi lên, chỉ cần nhẹ nhàng, đề cử âm thanh Phật hiệu nhiếp tâm an trụ, sau khi tâm an trụ nơi câu Phật hiệu rồi, lúc bấy giờ đề khởi câu thoại đầu “Ai là người niệm Phật?” Chỉ một câu thoại đầu, nhất tâm Tham cứu, không để một chút vọng tưởng nào xen vào. Nếu vọng tưởng tái phát thì đề khởi âm thanh Phật hiệu chế ngự, khi vọng tưởng tan biến, lại tiếp tục khán câu thoại đầu. Nếu vọng niệm không sanh, vẫn Tham cứu câu thoại đầu như trước. Khi Tham cứu câu thoại đầu, phải buông xả mọi việc, mặc dù buông bỏ vạn duyên, nhưng việc khán thoại đầu vẫn không trở ngại, mãi Tham cứu như vậy, có ngày sẽ được khai ngộ.


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Re: LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

11. Khai thị người bệnh 1

Người thế gian, khi gặp cảnh thuận liền sanh tâm vui vẻ và bình an; khi gặp cảnh nghịch, liền sanh tâm lo sầu và cảm thấy nguy khốn. Nhưng gặp cảnh thuận đâu đủ gọi là may mắn? Gặp cảnh nghịch có chi đáng gọi rủi ro? Tâm luôn mê đắm, mong cầu mọi sự đều như ý thì chắc hẳn chẳng bao giờ phát khởi tâm cầu xuất thế, mong thoát ly sanh tử! Do vì mọi sự không như ý nên mới sanh tâm chán ghét sự gông cùm, trói buộc của thế gian mà phát tâm xuất thế.
Khi muôn khổ thay nhau áp bức thì phải dùng chánh trí quán sát: “Khổ do đâu mà có? Do từ thân sanh. Thân do đâu sanh? Do nghiệp sanh. Nghiệp do đâu sanh? Do lậu hoặc sanh. Vì vô minh nên tạo nghiệp, do nghiệp thọ thân, vì có thân nên chịu khổ.” Nay nếu đốn phá được phiền não thì tất cả đều vắng lặng. Có lẽ ngươi lại hỏi: “Phương Pháp phá trừ phiền não?” Chỉ cần ngươi tinh tấn Tham cứu câu thoại đầu, lấy đây làm công phu; Nắm chặt lấy câu thoại đầu, khởi nghi tình, rồi đánh tan chúng; Một khi đã khai ngộ thì tất cả các lậu hoặc đều tận trừ, phiền não liền tiêu tan; Xin hãy suy nghĩ cho kỹ, chớ có bỏ qua.
Nghe tin ngươi bệnh, nay ta sẽ vì ngươi chỉ bày ba phương pháp điều trị:
Một là đối trị: Bệnh nguyên là do lao lực và uất ức gây nên, nay phải dùng ẩn dật để đối trị lao lực, dùng thư thả để đối trị uất ức.
- Ẩn dật không có nghĩa là lười biếng, lãnh đạm vô tình mà là buông bỏ vạn duyên, như trẻ sơ sanh, sáu thức chẳng hành hoạt, vậy tức là ẩn dật.
- Thư thả không có nghĩa là phóng túng không giới hạn mà là biết thân như huyễn mộng, tùy duyên mà sống, không để cảnh giới giả huyễn mê hoặc. Dù sức khỏe có phục hồi hay không phục hồi, cho đến sống hay chết cũng đều buông xả, đây gọi là thư thả.
Hai là điều nhiếp: Điều nhiếp chính là ăn uống tiết độ, cẩn thận thuốc uống.Về ăn uống không cần phải luận, nhưng thuốc không nên uống quá nhiều, phải biết những thứ như bá, hoàng cầm, liên, v.v… đều là những loại thuốc mang tánh hàn, loài kim thuộc hàn, tánh nước lạnh, tánh âm càng tăng, thì tánh hỏa càng giảm. Nếu dùng quá nhiều sẽ khiến bao tử bị tổn thương trước khi điều trị được những thứ bệnh khác, ăn mà không thể nuốt xuống, hoặc lủng bao tử thì phiền lắm thay, cần phải nên tham khảo cùng những vị y sư.
Ba là chánh niệm: Như trước đã trình bày, khổ từ thân mà có, thân do nghiệp mà sanh v.v… Bệnh là một trong tám món khổ, chúng do nhân duyên hỗ tương nhau mà thành. Nay phải chuyên cần, ngày đêm Tham cứu. Nếu tâm quán sát không chuyên nhất thì đề khởi câu Phật hiệu làm thoại đầu căn bản, hồi quang phản chiếu, niệm niệm chiếu soi; Đến khi tâm thức bị một niệm này đốn hạ thì lậu hoặc phiền não liền bị phá sạch; Lậu hoặc đã phá trừ thì mười hai nhân duyên sẽ tự ngưng. Xin hãy tận lực thi hành ba việc trên này.

Phải biết rằng mọi việc đều do nhân duyên đời trước tạo thành, chẳng luận là thuận, nghịch, bế tắt, thông suốt, cho đến sống chết, hãy ném chúng vào biển cả, chớ sanh lo buồn, cố gắng thâu nhiếp thân tâm, quán chiếu vào bên trong, trì niệm câu Phật hiệu, miên miên mật mật, không ngưng không nghỉ, đây là việc quan trọng chớ quên.
Niệm Phật không những minh tâm kiến tánh, đồng thời trị lành vạn bệnh. Thảng như có người khuyên tu tiên, cầu trường sanh bất tử, xin chớ nghe theo, ta sợ trước cái chết ngươi đánh mất chánh kiến nên nói trước vậy.
Cơn bệnh đến nổi này thì nguy kịch lắm rồi, hãy viết tất cả những gì muốn nói vào thơ gởi cho mẹ và con ngươi, khiến trong tâm không còn việc gì vướng bận, để có thể nhất tâm chánh niệm. Nếu bình thường, ngươi có niềm tin sâu sắc vào Pháp môn Tịnh độ, thì nay tâm nhãn đã có thể soi chiếu bốn chữ hồng danh, mỗi mỗi rõ ràng, chẳng chút gián đoạn. Vậy, hôm nay hay ngày mai ra đi cũng chẳng ngại gì, cho đến không đi mà sống đến một trăm hai mươi tuổi cũng được. Đây là những lời tối quan trọng, bình thường là bạn thâm giao, nay chính là lúc nương cậy, nên ta nói những lời này. Đã cấp bách lắm rồi, không còn thời gian cho những việc linh tinh nữa, quan trọng là chớ tham sống sợ chết, mà hỏng đi đại sự của một đời.


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Re: LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

12. Khai thị người bệnh 2
Vọng niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc. Bệnh lâu ngày, nay mới uống thuốc, không thể lành ngay. Tích vọng từ vô thỉ, nay mới niệm Phật, vọng niệm không thể liền trừ, lý này không khác. Chẳng quản vọng tưởng rối ren, chỉ chuyên tâm niệm Phật, niệm niệm tinh - thiết, chữ chữ rõ ràng, câu câu tiếp nối, hết sức chấp trì, một câu Phật hiệu, không nghĩ tưởng việc gì khác, đến khi tâm niệm thuần thục, tự nhiên sẽ có đường hướng thượng. Thiết yếu là chơn thật huân Tu lâu ngày, sẽ có lúc tự nhiên thông suốt, cũng như người mài sắt thành kim, luyện sắt thành thép, lời này chắc chắn không sai. Vào đạo nhiều nẻo, riêng Pháp này cực kỳ thẳng tắt, xin chớ bỏ qua, chớ nên bỏ qua.
Người xưa nói: “Bệnh tật chính là thuốc hay cho chúng sanh.” Vì vậy, khi bệnh chúng ta nên sanh tâm hoan hỷ, vì nhờ bệnh nên ta mới ý thức được thân này là giả huyễn, có chi đáng trau chuốt ? Khi gặp việc không như ý, không nên khởi phiền não, hãy nhẫn nại niệm Phật.
Lại nói: “Sống chết đều do nhân duyên đời trước.” Nên chi, trong cơn bệnh, phải khởi tâm cầu giải thoát. Đối với sự sống chết chớ nên sợ hãi, hãy bình tâm chánh niệm, đối diện với nó và xem đó như là cơ hội cho chúng ta vứt bỏ cái thân giả huyễn này, để đạt được Pháp thân thanh tịnh an vui nơi miền Cực Lạc.
Phải biết rằng quá khứ như huyễn, hiện tại như huyễn, vị lai như huyễn. Khi bệnh phải nhẫn nại muôn ngàn, đừng đem lòng mong cầu mau hết bệnh, hãy buông bỏ muôn duyên, giữ vững chánh niệm, một lòng niệm Phật. Đây chính là phương thuốc nhiệm mầu chữa lành vạn bệnh.
Khi bệnh nên buông bỏ tất cả mọi việc, kể cả cái hình hài này, tâm không vướng bận một vật. Nếu không thể buông xả, mong ngươi hãy tạm thời buông bỏ, sau này sẽ tính. Mỗi khi vọng tưởng rối rắm nổi lên, không thể chế ngự thì chỉ nên đơn thuần nhất tâm niệm Phật chế phục, lâu ngày tịnh niệm thuần thục vọng tưởng tự ngưng.
Vinh hoa phú quý của thế gian chẳng qua chỉ được một lúc rồi sẽ tan biến; Nguy nan khổ não cũng chỉ tồn tại phút giây rồi biến mất. Tất cả mọi việc tụ tán đều do nhân duyên túc nghiệp đời trước, chẳng phải là sức người có thể đổi thay; Những gì có thể làm được bây giờ là tận tình buông xả vạn duyên, nhất tâm niệm Phật.
Khi đã tận tâm chữa trị bằng thuốc nhưng cơn bệnh không thuyên giảm thì cần phải buông bỏ muôn duyên, khiến tâm niệm rỗng rang, không chút tình lự, rồi ở trong tâm không đó, đề khởi câu Phật hiệu, không ngưng không nghỉ một giây phút nào, chí thành mẫn thiết niệm đến lúc câu Phật hiệu thuần thục, bấy giờ nghiệp chướng tự nhiên tiêu trừ. Khi nghiệp chướng đã tiêu trừ, đêm ngủ sẽ được bình yên, thân tâm sẽ được an lạc! Người niệm Phật thiết yếu phải phát nguyện lìa bỏ cõi đời ác trược này, tha thiết cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc, như con thơ nhớ mẹ hiền.
Tâm không thì nghiệp cũng không và thân không thì bịnh cũng không. Nếu tâm còn chút nghi ngờ thì phải một lòng buông xả. Kinh Kim Cang nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng.” Đã là hư vọng thì như hoa đốm hư không, như bọt nước, như việc trong mộng. Vậy sao khởi lòng nghi? Hãy ăn uống tiết độ, xả bỏ ưu tư, ngăn trừ sân hận, cẩn thận giữ gìn thân, khẩu, ý cho trong sạch. Trong tất cả mọi thời, chỉ nương tựa một câu Phật hiệu, chớ để tạm quên, vậy tức là tâm luôn chiếu sáng, tỉnh tỉnh không mê.
Người xưa nói: “Tạp niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc.” Niệm Phật chính là để trị tạp niệm. Nếu không thể trị hết vọng niệm là do vì tâm niệm không tha thiết. Khi tạp niệm khởi, phải gia tăng lòng tha thiết chí thành, niệm mỗi chữ mỗi câu rõ ràng, tinh nhất không xen lẫn một niệm nào khác, dù là niệm Thiện hay Ác cũng đều phải trừ sạch thì tạp niệm, vọng tưởng tự nhiên không khởi!


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Monggiac
Bài viết: 686
Ngày: 19/07/07 17:41

Re: LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ TỊNH ĐỘ NGỮ LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Monggiac »

13. Khai thị học giả

Nội dung của bộ Đại tạng không gì hơn là: Giới, Định, Huệ. Người đọc Kinh thường phạm vào hai lỗi:
Một là chấp vào câu văn lời Kinh mà không đạt được thâm ý Kinh văn muốn diễn đạt.
Hai là hiểu rõ ý Kinh nhưng không áp dụng vào đời sống Tu tập của chính bản thân mình. Do vậy chỉ tự lãng phí thời gian, lại tăng thêm tán loạn, tuy cũng có thể gieo duyên giải thoát nhiều đời về sau.
Nếu thường huân Tu giới, định, huệ chính là tụng niệm muôn ngàn quyển Kinh, là an trụ nơi Phật Pháp trong từng mỗi phút giây. Phải biết rằng người huân Tu giới định huệ đây cũng tương đồng với người niệm Phật.
Giới tức là giữ thân, tâm trong sạch, không làm việc ác. Nếu niệm Phật được một lòng không loạn, các việc ác tự ngưng, đây chính là Giới. Định tức là không tán loạn. Nếu nhất tâm niệm Phật, tâm không nghĩ việc gì khác thì đấy chính là Định. Huệ tức là chiếu sáng rõ ràng. Nếu quán âm thanh Phật hiệu, mỗi chữ mỗi câu rõ ràng, lại quán ta là người niệm Phật, Phật đối tượng bị ta niệm, cả hai đều không tịch, không thấy người và ta thì đó chính là Huệ vậy.
Niệm Phật như vậy tức là thường Tu Giới, Định, Huệ cần chi phải chấp trước đeo đuổi văn tự. Ngày tháng qua mau, mạng người vô thường, mau như cơn nước dốc, mong rằng hành giả Tu Tịnh nghiệp nên xem sống chết là việc lớn, cần giải quyết ngay trong đời này. Xin chớ xem lời tôi nói là sai để rồi không tin mà để uổng phí một đời vô ích.
Kẻ ngu mê không giác, điên đảo hành sự, mãi luân chuyển trong sanh tử, chưa từng tạm ngưng. Thánh nhân thương xót, đem Tam học [1] dạy cho, dìu dắt ra khỏi Tam giới.
Dùng Giới ngăn trừ sai lầm, dùng Định nhiếp trừ tán loạn, dùng Huệ phá trừ phiền não, diệt trừ lậu hoặc, phục hoàn thể giác, chiếu sáng rực rỡ như người tỉnh mộng. Mặt trời tuy sáng nhưng không sáng bằng chân thể, bầu trời tuy cao rộng nhưng không rộng bằng chân tâm. Đây chỉ là lược nói mà thôi.
Ngày nay nhiều người thường nói Tham Thiền ngộ đạo, thoát ly sanh tử. Nhưng không biết rằng tại Ta-bà Tu đạo liểu ngộ hiếm và khó như “lông rùa sừng thỏ.” Đó là theo chiều dọc thoát ly Tam giới, dù chứng quả Tư-đà-hàm [2] cũng còn phải một lần đến một lần đi, huống chi là kẻ phàm phu. Chúng sanh ở cõi Ta-bà, phần nhiều trước hết phải vãng sanh Tây phương, sau mới ngộ đạo. Pháp môn Tịnh độ vãng sanh Cực Lạc, gọi là đi ngang tắt ra khỏi ba cõi, nếu y theo đó Tu trì thì vạn người Tu vạn người giải thoát.

[1] Tam Học tức là Giới Định và Tuệ
[2] Tư-đà-hàm: Sau khi phá hết 88 món kiến-hoặc, Tu hành lần lần phá tư-hoặc. Trong 9 phẩm cõi dục, phá được 6 phẩm trước thì chứng bậc tư-đà-hàm cũng gọi là Nhất-Lai vì chỉ còn một lần sanh xuống nhân gian


Nguyện cho tôi, mọi người, tất cả loài hữu tình, vô tình, loài có sinh mạng, có hơi thở, không hơi thở, chúng sanh trong mười phương, đều thoát khỏi hận thù, khổ đau, được sống trong an lạc, không làm tổn hại ai, biết chia sẻ và thương yêu nhau, rốt ráo đều được giác ngộ giải thoát.
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.32 khách