KINH KIM CANG QUYẾT NGHI

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NGHI VẤN 15
Nếu bố thí không trụ tướng là sanh tâm vô sở trụ thì làm sao hòa hợp được với Bát Nhã?

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề ! Nếu Bồ-Tát đem tâm trụ nơi pháp mà bố thí thì cũng như người đi vào nơi tối tăm, chắc chắn không thấy chi hết. Còn nếu Bồ-Tát không đem tâm trụ nơi pháp mà bố thí thì cũng như mở mắt thấy mọi loại sắc vật dưới ánh sáng mặt trời.

GIẢI THÍCH
Nếu tâm đã trụ một pháp nào, một nơi nào thì đó là tự nó kết hợp với vô minh và do đó bị chướng ngại. Cái tâm đó được so sánh với người đi vào tăm tối, không thấy gì hết. Cái tâm không trụ vào đâu hết thì không bị chướng ngại nào và cũng vì các quan niệm về nhân và ngã đã quên. Cho nên nó ví như mặt trời soi sáng vạn vật. Thế thì cái tâm vô trụ không gì khác hơn là Bát Nhã chân thật. Cái mà Đức Phật đã tự mình chứng nghiệm chính là cái tâm này.

NGHI VẤN 16
Nếu cái tâm vô trụ đó là Bát Nhã đi nữa thì làm sao nó có thể hòa hợp được với Tâm và Phật?

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề! Về đời sau , như có thiện nam, thiện nữ nào thường thọ trì, đọc tụng kinh này, thì Như Lai dùng trí tuệ Phật sẽ biết rõ , thấy rõ những người đó đều thành tựu được công đức vô lượng, vô biên. Này Tu Bồ Đề! Nếu có thiên nam, thiện nữ buổi sáng dùng thân mình nhiều như cát sông Hằng mà bố thí, buổi chiều cũng lại dùng thân mình như cát sông Hằng mà bố thí, và tiếp tục dùng thân mình để bố thí như vậy trong trăm ngàn vạn ức kiếp. Lại như có người nghe được kinh này, đem lòng tin tưởng, không chống đối, thì phước đức của người này sẽ trội hơn những người trước. Huống là ghi chép, thọ trì, đọc tụng và đem giảng giải cho người khác nghe.

GIẢI THÍCH
Tu Bồ Đề hoài nghi cái trí của mình không biết có hòa hợp với cái trí của Phật không. Phật giảng giải rằng : Kinh này là Bát Nhã, Bát Nhã không có văn tự nhưng ở đây văn tự là Bát Nhã. Kinh mà ngài đang giảng thuyết đây là toàn thể Bát Nhã. Nếu có người nào nghe, tin và thọ trì nó thì tâm họ sẽ hòa hợp một cách kỳ diệu với Trí của Phật, và Đức Phật, do trí huệ của ngài biết rõ công đức đó. Công đức do một ý niệm chỉ trong khoảng khắc hòa hợp ngay với Phật tâm. Dù có ai bố thí thân mạng nhiều như cát sông Hằng ba thời mỗi ngày cũng không thể so sánh với công đức do một ý niệm thành tâm tin tưởng vào ý kinh. Chỉ một ý niệm thôi, đã là thể nhập vào Trí Huệ Bát Nhã của Phật một cách tốt đẹp. và công đức đã là nhiều hơn người trước, huống chi là ghi chép, đọc tụng, giảng thuyết cho người khác nghe.

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề! Tóm lại công đức gặt hái do kinh này không thể tưởng tượng được, không thể đo lường được và không có bờ bến. Như Lai giảng thuyết nó cho những bậc Đại Thừa và Tối Thượng Thừa. Nếu có người đủ năng lực để thọ trì, đọc tụng và giảng thuyết kinh này rộng ra cho người khác nghe thì Như Lai sẽ biết rõ , sẽ thấy rõ, những người đó đều thành tựu công đức không thể tả, không thể đo lường, không bờ bến, không thể tưởng tượng được. Hạng người như thế mới gánh vác nổi cái pháp Vô Thượng, Chánh-Dẳng, Chánh Giác của Như Lai. Vì sao ? Này Tu Bồ Đề! Nếu ta ưa thích cái pháp nhỏ và chấp trước vọng kiến về ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì không thể nghe, thọ trì, đọc tụng và giảng giải kinh này cho kẻ khác.

GIẢI THÍCH
Pháp Bát Nhã này chỉ đem lại lợi ích cho những người có căn cơ thật tốt. Chấp bôn tướng :Ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thuộc phần thô thì nay nói đến chấp trước vọng kiến về : Ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thuộc phần vi tế.

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề ! Bất cứ nơi nào có kinh này thì tất cả các bậc : Trời, Người, Thần trong thế gian đều phải cúng dường. Nên biết nơi đó là Tháp Phật phải được tôn kính, làm lễ đi vòng quanh, dùng các thứ hoa và hương dâng cúng nơi đó.
Lại nữa này Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này mà bị người khinh rẻ , thì đáng lẽ họ bị tội ác và nghiệp quả kiếp trước ràng buộc phải sa vào đường ác. Nhưng vì bị người khinh rẻ trong đời này nên tội nghiệp kiếp trước đều tiêu diệt và họ đạt đến Vô Thượng, Chánh-Đẳng, Chánh-Giác.


GIẢI THÍCH
Đoạn văn kinh này ca ngợi Bát Nhã có lợi ích xa lìa mọi chướng ngại, thoát khỏi mọi ràng buộc. Chẳng những nó giúp chúng ta diệt trừ tội lỗi mà còn giúp chúng ta đạt đến quả vị cao nhất.

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề! ta nhớ lại quá khứ, trong vô số kiếp , trước khi Phật Nhiên Đăng giáng lâm, ta đã gặp tám mươi bốn ngàn ức vị Phật mà ta đã cúng dường phụng sự không một sơ sót nào. Lại như nơi mạt thế sau này, có người có thể thọ trì, đọc tụng kinh này thì công đức lớn hơn sự cúng dường các vị Phật của ta nhiều. Công đức của ta chưa được một phần trăm, một phần ngàn, một phần vạn, một phần ức công đức của người đó. Thật ra không thể dùng con số nào để so sánh được.
Này Tu Bồ Đề! như trong đời mạt pháp sau này , có thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng kinh này thì công đức họ thâu được , nếu ta kể ra đầy đủ thì kẻ nào nghe được chắc chắn sanh tâm rối loạn, hồ nghi và không tin.
Này Tu Bồ Đề! Nên biết ý nghĩa kinh này không thể tưởng tượng được và cái quả báo của nó cũng không thể tưởng tượng được.


GIẢI THÍCH
Đức Phật ca ngợi những kẻ đã ngộ Bát Nhã trong nhất niệm tức khắc đã được sinh vào trong nhà Phật và đời đời , kiếp kiếp không khi nào bị tách rời khỏi Phật. Công đức của họ vì thế cao không có gì hơn được. Trong thời mạt pháp sau này, những kẻ có thể tin kinh này thì công đức càng lớn hơn nữa. Cái đức của Bát Nhã không thể tưởng tượng được nên quả báo của nó cũng không thể tưởng tượng được.

LỜI DẶN
Từ khi câu hỏi đầu tiên “ Làm sao trụ và hàng phục cái tâm?” được nêu lên, thì đến nay đã phá tan tất cả các mối nghi ngờ của đám chúng sanh phàm phu đã phát đại tâm tu theo hạnh Bồ-Tát. Tuy nhiên chấp ngã và chấp pháp có phần thô và có phần vi tế.
Chấp ngã là xem cái tâm và cái thân ngũ uẩn như là cái ngã.
Chấp Pháp là chấp những việc làm của mình khi thực hành sáu pháp Ba-La-Mật (đôi khi liên kết với sáu trần ) để cầu cho được quả Bồ Đề.
Hai thứ chấp này đều do chấp nơi sắc tướng. Để phá nghi ngờ của những người mới phát tâm Bồ-Đề mà chưa ngộ Bát-Nhã , Đức Phật chỉ cho họ thấy là “ Không có chúng sanh để cứu độ”.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

PHẦN II

Các vị Bồ-Tát đã giác ngộ Bát Nhã mà vẫn còn chấp ý niệm :
Trí huệ có thể chứng, là biểu hiện vi tế của chấp ngã ( Ta chứng)
Chấp Chân Như là biểu hiên vi tế của chấp nhân. ( có cái ngoài Ta)
Chấp cái gì có thể biểu hiện và giác ngộ là chấp chúng sanh ( Có chúng sanh)
Chấp những biểu hiện chưa quên bỏ được và vẫn luôn luôn âm thầm bám víu như một sinh mạng là chấp thọ giả. (là ý niệm, là chấp trước)

Câu 1 ( vì cho là Ta chứng, Ta đắc)
Câu 2 ( Cho là có Chân Như, là có một cái khác, ngoài Ta)
Câu 3 (Chấp Ta đã giác ngộ, và người kia cũng đã giác ngộ là tâm chúng sanh. Sở dĩ dùng chữ “ biểu hiện” là vì có những chúng sanh không có hình tướng).
Câu 4 ( là những ý niệm, tình cảm, chấp trược còn tồn đọng trong tâm )

Bốn sắc tướng trên đây thật là tối cực vi tế được gọi là tồn ngã (chấp sự bảo tồn cái ngã) và giác ngã (chấp sự giác ngộ cái ngã). Nếu phá tan cái chấp về ngã đó sẽ thấy không có quả Phật có thể cầu.

VĂN KINH
Lúc ấy Tu Bồ Đề bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác thì nên trụ vào đâu? Làm sao hàng phục cái tâm?
Phật dạy Tu Bồ Đề:
- Thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác phải phát tâm như thế này : Ta phải diệt độ cho tất cả chúng sanh và đã diệt độ tất cả chúng sanh rồi, nhưng thật ra không có chúng sanh nào được diệt độ. Vì sao? Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ-Tát có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì không phải là Bồ-Tát ! Vì sao? Này Tu Bồ Đề! thực không có pháp nào để phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.


GIẢI THÍCH
Những người mới phát tâm Bồ Đề là những người trong đám phàm phu, mới bắt đầu phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh, do đó họ còn chấp vào sắc tướng. Trong khi tu hành họ còn chấp vào thể xác ngũ uẩn . Khi bố thí họ còn chấp vào sắc tướng, vào lục trần để cầu quả phước ?Trong khi cầu quả Bồ-Đề họ còn chấp trước vào sắc tướng hóa thân của Phật. Họ còn nghĩ Niết Bàn là một nơi nào đó, trang nghiêm đẹp đẽ, được xây dụng bằng bảy báu. Trong mọi hành vi họ còn chưa ly cách được sắc tướng, vì thế họ còn cách xa Bát-Nhã.
Đức Phật phá trừ mọi chấp trước về sắc tướng, gồm ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng.
Các Bồ -Tát đã ngộ Bát-Nhã nhưng vẫn có ý niệm rằng “ Trí huệ có thể chứng được “, và tạo nên một cái ngã vi tế gồm hai phần : Tồn ngã (bảo tồn quan niệm về ngã) và Giác ngã ( quan niệm có thể giác được cái ngã nhờ pháp). Chính vì cái ngã này nên họ mới thấy có chúng sinh cần phải độ. Vì lẽ đó, Đức Thế Tôn phá tan mối nghi này, ngài nói “ Bồ Tát phải phát tâm diệt độ cho tất cả chúng sanh, và đã diệt độ cho tất cả chúng sanh rồi, nhưng thật ra không có chúng sanh nào được diệt độ”. Vì sao? Vì Nếu Bồ -Tát không có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, và chúng sanh cũng không có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng thì chúng sanh trong căn bổn đã là Như Như rồi thì không thể diệt độ được nữa.

NGHI VẤN 17
Tu Bồ Đề nghĩ: Nếu không có pháp nào để đưa con người đến Bồ Đề thì Bát Nhã mà tôi lãnh ngộ không phải một pháp sao? Lúc Đức Thế Tôn ở nơi Phật Nhiên Đăng nhờ đắc pháp này nên được thọ ký thành Phật, đó há không phải là được Bồ Đề thật sao? Sao lại nói là không có pháp nào có thể thâu hoạch?

VĂN KINH
- Này Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Lúc Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng, Ngài có pháp chi để đạt đến Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác không?
- Bạch Thế Tôn! Không. Theo như tôi hiểu lời Ngài giảng dạy thì lúc ở nơi Phật Nhiên Đăng, Ngài không có pháp chi để đạt đến Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Phật nói :
- Đúng thế! Này Tu Bồ Đề! Đúng thế! Thật không có pháp nào nhờ đó mà Như Lai đạt đến Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Này Tu Bồ Đề! Nếu có pháp nào mà nhờ đó Như Lai đạt đến Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác thì Phật Nhiên Đăng đâu có thọ ký cho ta “ Qua đời sau ngươi sẽ thành Phật , danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni”. Vì thật ra không có pháp nào để đạt đến Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác cho nên Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho ta “ Qua đời sau ngươi sẽ thành Phật , danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni “.


GIẢI THÍCH
Quả Bồ Đề là có sẵn, chúng sanh đã tự Như rồi. Nên không có chứng đắc nữa. Của báu trong nhà không phải do ngoài đem tới. Nếu có một pháp có thể chứng đắc được tất không phải của báu trong nhà. Do đó nếu Thế Tôn có chứng đắc, Phật Nhiên Đăng đã không thọ ký cho Ngài. Chỉ là khi thời tiết tới, Vô minh tiêu hết thì Chân Như mới hiển lộ hoàn toàn .
Đức Phật nói không thể chứng đắc Bồ Đề để phá tan mối chấp trước về Phật. Tu Bồ Đề nghi rằng Thế Tôn đã thật sự chứng đắc khi ở nơi Phật Nhiên Đăng. Thế Tôn phá tan ước đoán sai lầm này để cho ông thấy rõ “Không có pháp nào để đạt đến Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác ”.

Trang 19)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NGHI VẤN 18
Tu Bồ Đề nghĩ : Pháp Bát Nhã là nguyên nhân chân thật để thành Phật. Nếu bây giờ nói không có pháp thì tức là không có nguyên nhân vậy. Nếu không có nguyên nhân thì làm sao có thể thâu đắc quả Bồ Đề?

VĂN KINH
- Vì sao? Như Lai có nghĩa là tất cả các pháp đều giống như nhau. Nếu có ai nói “ Như Lai đắc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác”, này Tu Bồ Đề! Thật ra không có pháp nào mà nhờ đó Đức Phật đắc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Này Tu Bồ Đề! Cái Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác mà Phật đã đạt đến thật ra tự nó không phải là thật mà cũng không phải là hư. Vì thế Như Lai mới dạy rằng tất cả các pháp đều là Phật pháp. Này Tu Bồ Đề! nói tất cả các pháp, tức không phải là tất cả các pháp. Này Tu Bồ Đề! Ví như có người thân to lớn…
Tu Bồ Đề nói
- Bạch Thế Tôn! Như Lai nói thân người to lớn thật ra không phải là thân to lớn, đó mới gọi là thân to lớn.


GIẢI THÍCH
Tu Bồ Đề không hiểu thấu chân thể của Pháp Thân ở trên cả hai : nhân và quả cho nên còn chấp Đức Như Lai đã tu hành và đã đắc quả. Phật phá cái chấp này bằng giáo lý “ Vô sở đắc”. Chữ Như Lai không thể dùng để gọi những vật có sắc tướng. Nó là Như Như tuyệt đối trong bản thể của mọi sự vật. Mọi sự vật trong căn bản đều là Như Như, há phải nhờ tu hành mới chứng được Như Như sao. Vì thế Phật mới nói thật không có pháp nào làm cho Phật đắc quả Bồ Đề.
Trong Thiền Tông gọi đó là “con đường hướng thượng” mà các vị Phật quá khứ, hiện tại và vị lai cấm con người dòm ngó tới. Ai dòm ngó sẽ trở nên mù (đối với chân lý) vì trong đó không còn sự tìm kiếm, nắm giữ gì nữa. Cái Bồ Đề , Niết Bàn của Như Lai không có gì là kỳ lạ, đặc biệt cho lắm. Chỉ cần đừng nảy sanh những ý kiến điên đảo, trái ngược về sự đoạn diệt hoặc trường cửu đối với sự vật là đủ rồi. Bởi vậy Phật mới nói “ Nó không thật mà cũng không hư, bởi tất cả các pháp đều không phải là pháp. Nếu hiểu được cái thân to lớn không phải là thân thì hiểu được tất cả các pháp không phải là pháp.

NGHI VẤN 19
Tu Bồ Đề nghĩ rằng : Các Bồ -Tát dùng Pháp để diệt độ cho chúng sanh, nếu không có pháp diệt độ thì đâu gọi là Bồ-Tát được

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề! Bồ -Tát cũng như thế đó, nếu nói “Ta phải diệt độ vô lượng chúng sanh “ thì không đáng được gọi là Bồ -Tát. Vì sao? Này Tu Bồ Đề, không có pháp nào gọi là Bồ -Tát . Vì lẽ đó Phật dạy rằng trong tất cả các pháp, không một pháp nào có ngã, có nhân, có chúng sanh, có thọ giả cả.
Này Tu Bồ Đề ! Nếu như Bồ -Tát nói “ Ta phải trang nghiêm cõi Phật ” thì không đáng được gọi là Bồ -Tát. Vì sao? Vì Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức không phải trang nghiêm, đó là trang nghiêm.
Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ -Tát thấu đáo cái pháp vô ngã thì Như Lai mới gọi họ là Bồ -Tát chân thật.


GIẢI THÍCH
Tu Bồ Đề còn chấp rằng Bồ -Tát có một pháp để độ sanh, vì độ sanh để trang nghiêm cõi Phật, trang nghiêm hạnh Bồ -Tát. Nhưng Đức Phật dạy rằng Cõi Phật vốn đã thanh tịnh, quang minh, trang nghiêm, trường cửu, vô tướng. Không cần phải trang nghiêm nữa. Chỉ cần không có ý niệm về một nơi an trụ như thế là đã trang nghiêm cõi Phật rồi vậy. Và nếu còn chấp có Bồ -Tát độ sanh là còn chấp ngã, chấp pháp. Bồ -Tát phải đạt được NHỊ VÔ NGÃ (nhị vô ngã là nhơn vô ngã và pháp vô ngã : Nhơn vô ngã là nhận thức được mình, người , chúng sanh không có thật, chỉ do ngũ uẩn giả hợp mà thành. Pháp vô ngã là nhận thức pháp không có thật, chỉ do nhân duyên sanh ra). Ai thấu hiểu giáo lý Nhơn, Pháp vô ngã thì Như Lai mới gọi họ là Bồ -Tát chơn thật.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NGHI VẤN 20
NẾU bồ Tát không thấy chúng sanh để cứu độ hoặc cõi Phật để trang nghiêm vậy Như Lai có ngũ nhãn để làm gì?

CHÁNH VĂN
- Này Tu Bồ Đề! ý ngươi thế nào? Như Lai có nhục nhãn chăng?
- Bạch Thế Tôn! Có. Như Lai có nhục nhãn.
- Này Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có thiên nhãn chăng?
- Bạch Thế Tôn! Có. Như Lai có thiên nhãn.
- Này Tu Bồ Để! Ý ngươi thế nào? Như Lai có huệ nhãn chăng?
- Bạch Thế Tôn! Có. Như Lai có huệ nhãn.
- Này Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có pháp nhãn chăng?
- Bạch Thế Tôn! Có. Như Lai có pháp nhãn.
- Này Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có Phật nhãn chăng?
- Bạch Thế Tôn! Có. Như Lai có Phật nhãn.
- Này Tu Bồ Đề! Như cát sông Hằng, Phật có bảo đó là cát không?
- Bạch Thế Tôn! Có. Như Lai bảo đó là cát.
- Này Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như có bao nhiêu số cát trong sông Hằng thì lại có bấy nhiêu sông Hằng. Lai như số thế giới Phật nhiều bằng số cát của tất cả sông Hằng đó, như thế số thế giới Phật có phải là nhiều không?
- Bạch Thế Tôn! Thật là nhiều
Phật dạy Tu Bồ Đề :
- Chúng sanh trong tất cả thế giới Phật đó có bao nhiêu thứ tâm khác nhau, Như Lai đều biết hết. Tại sao? Vì các thứ tâm mà Như Lai nói đó đều không phải là tâm, tức là tâm, tại sao thế? Này Tu Bồ Đề! Không thể nào tìm được cái tâm quá khứ, cái tâm hiện tại và cái tâm vị lai.


GIẢI THÍCH
Tu Bồ Đề nghĩ rằng Phật có ngũ nhãn vậy phải có đối tượng cho ngũ nhãn này. Đức Thế Tôn nói năm loại mắt của ngài không phải thật là mắt, mà ngài chỉ dùng tâm của chúng sinh làm mắt vậy. Có bao nhiêu chúng sinh trong các thế giới nhiều như cát của các sông Hằng , họ có bao nhiêu loại tâm Đức Như Lai đều biết rõ, thấy rõ tất cả. Vì tất cả chúng sinh đều là ở trong tự tâm của ngài, vì thế khi một tư tưởng nảy sinh trong tâm một chúng sinh cũng là ở trong tâm ngài, làm sao Như Lai không biết rõ?
Tu Bồ Đề lại nghĩ rằng Tâm chúng sanh có sanh diệt, như vậy tâm của Đức Như Lai cũng có sanh diệt hay sao? Đức Như Lai giải thích rằng Tâm của chúng sanh trong căn bản là Như Như, không bao giờ sanh diệt, giống như tâm Đức Như Lai, hằng tịch diệt và bình đẳng. Đức Như Lai và chúng sinh rõ ràng là yên lặng, bất động, không sanh, diệt, cũng không đi, về. Đó gọi là Tâm, Phật và chúng sanh không sai biệt. Và vì thế không thể tìm được tâm trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai.

NGHI VẤN 21
Khi phá các chấp, Đức Thế Tôn đã nói: không có cõi Phật phải trang nghiêm, không có chúng sanh phải cứu độ, Thế Tôn e rằng Tu Bồ Đề có thể cho rằng cõi Phật và chúng sanh đều là không và như vậy thì bố thí không được phước đức và cũng không cần phải tu nữa. Vì vậy đức Phật nói thêm

VĂN KINH
- Này Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào ? Nếu có người đêm bảy báu chất đầy tam thiên đại thiên thế giới mà bố thí thì người này, do nhân duyên đó, có được phước nhiều chăng?
- Bạch Thế Tôn! Có. Do nhân duyên đó, người ấy được phước thật nhiều.
- Này Tu Bồ Đề! Nếu phước đức đó có thật thì Như Lai đã không nói phước đức thật nhiều. Như Lai nói phước đức thật nhiều là vì không có phước đức.


GIẢI THÍCH
Đoạn kinh văn này Phật dạy về phước đức vô tướng. Tu Bồ Đề chấp trước sắc tướng và tưởng rằng bố thí như thế thì được phước đức thật. Ông không hiểu rằng người bố thí, người nhận thí và vật bố thí trong căn bản đều là không (không có thật) thì tất nhiên phước đức thâu được cũng không có. Đức Thế Tôn nói rằng : Phước đức thật nhiều là vì không có phước đức nào hết, nhưng do tâm đã thoát khỏi sự chấp trước những cái hư vọng lớn lao như hư không nên được xem như phước đức lớn lao vô cùng.

NGHI VẤN 22
Tu Bồ Đề nghe nói tâm không trụ sắc tướng khi cứu độ chúng sanh và trang nghiêm cõi Phật, ông liền nghi ngờ “ Cứu độ chúng sanh và trang nghiêm cõi Phật là nguyên nhân để thành Phật. Nếu không có chúng sinh để cứu độ và cõi Phật để trang nghiêm thì không có nhân, và nếu Không có Bồ - Đề để chứng đắc là không có quả. Vậy Đức Phật hiện nay do đâu mà có được?

VĂN KINH
- Này Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Có thể bằng vào sắc thân hoàn toàn đầy đủ mà nhân thức Phật chăng ?
- Bạch Thế Tôn! Không. Không thể lấy sắc thân hoàn toàn đầy đủ mà nhận thức Như Lai được . Tại sao? Vì Như Lai nói sắc thân hoàn toàn đầy đủ, tức là không phải sắc thân hoàn toàn đầy đủ , đó gọi là sắc thân hoàn toàn đầy đủ.
- Này Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Có thể bằng vào các tướng hoàn toàn đầy đủ mà nhận thức Như lai chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không. Không thể bằng vào các tướng hoàn toàn đầy đủ mà nhận thức Như Lai. Tại sao? Vì Như Lai nói các tướng hoàn toàn đầy đủ, tức không phải các tướng hoàn toàn đầy đủ, đó gọi là các tướng hoàn toàn đầy đủ.


GIẢI THÍCH
Sắc thân hoàn mỹ là Báo Thân Phật, được trang nghiêm bằng muôn ngàn đức hạnh vì đã trải qua vô số kiếp cứu độ chúng sinh, trang nghiêm cõi Phật nên cảm được cái quả báo này. Nhưng Báo Thân này trong căn bản là Pháp Thân nên Ngài mới nói “ Nó không phải là sắc thân hoàn mỹ ” Nhưng vì Pháp Thân và Báo Thân là một nên Ngài lại nói “ Nó được gọi là sắc thân hoàn mỹ”.
Để phá tan cái chấp về sắc tướng (khách thể), Ngái phá trừ cái thấy sai lầm (chủ thể). Vì Báo Thân là một với Pháp Thân nên không có sắc tướng nào có thể thấy được. Trí tuệ và thể xác cả hai đều là Như Như. Vì thế cái “bịnh thấy” tiêu tan mất. Cảnh (khách thể) và Trí (chủ thể) dung hòa làm một thì Pháp Thân tự hiển lộ.

(trang 23)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH KIM CANG QUYẾT NGHI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NGHI VẤN 23
Nếu Phật vốn không có sắc tướng có thể thấy được , tức là không có thân thể, thì ai thuyết pháp đây?

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề! Ngươi đừng nói Như Lai có ý niệm này “ Ta phải giảng thuyết các pháp “. Đừng có ý niệm đó. Tại sao? Vì nếu có ai nói “ Như Lai có thuyết pháp” tức là phỉ báng Phật, không hiểu nổi ý nghĩa ta dạy. Này Tu Bồ Đề! Khi Như Lai thuyết pháp, thật ra không có pháp nào để thuyết , đó gọi là thuyết pháp.

GIẢI THÍCH
Chúng sanh thấy Báo Thân, Hóa Thân của Như Lai đang thuyết pháp. Nhưng thật ra Như Lai xuất hiện ra đời, không có cái pháp nào để thuyết cả. Ngài chỉ tùy nghi dùng phương tiện để phá những cái chấp sai lầm của chúng sanh. (Thí dụ chúng sanh có cái sai lầm là thấy sắc tướng như là có thật) Ngài chỉ dùng các từ đơn độc như “ phải” hay “không phải” để ngăn chận tư tưởng sai lầm của đệ tử. Hộ niệm họ, dẫn dắt họ cho đến khi năng và sở dung hòa làm một thì Pháp Thân tự hiển lộ.

NGHI VẤN 24
Tu Bồ Đề đã hiểu thấu : Pháp Thân không giảng thuyết hay dạy dỗ gì cả, nhưng ông không hiểu chúng sanh đời vị lai có thể tin tưởng và thọ trì nó không.

VĂN KINH
Lúc ấy Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trong những đời sau, sẽ có chúng sanh nghe được pháp này và đem lòng tin tưởng chăng?
Phật nói:
- Này Tu Bồ Đề! “Họ chẳng phải là chúng sanh và cũng chẳng phải là không phải chúng sanh ”. Vì sao? Này Tu Bồ Đề! Vì những chúng sanh đó, Như Lai nói thật ra , họ không phải là chúng sanh, đó là chúng sanh.


GIẢI THÍCH
Tu Bồ Đề nghĩ là Phật Pháp cao thâm quá như vậy, không biết chúng sanh đời sau này có thể tin và thọ trì được không. Đó là kiến chấp của ông về thời gian chưa dứt bỏ được.
Đức Phât đáp “ Họ chẳng phải là chúng sanh mà cũng chẳng phải là không phải chúng sanh” ý ngài muốn nói chúng sanh trong căn bản là Như Như tuyết đối, các pháp cũng Như Như tuyệt đối, Thời gian cũng Như Như nên tam thế: quá khứ, hiện tại, vị lai bình đẳng .
Những chúng sanh đó không phải là chúng sanh vì trong căn bản là Như Như, nhưng cũng chẳng phải là không phải chúng sanh, vì Chân Như tùy duyên hòa hợp với các pháp để sanh ra sắc tướng (của chúng sanh) . Do đó chúng sanh không phải thật sự là chúng sanh, chỉ là giả có , không phải thật sự có chúng sanh. Được gọi là chúng sanh mà thôi.

NGHI VẤN 25
Nếu Pháp Thân không có sắc tướng và không có Pháp để đạt đến thì tại sao Thế Tôn nói: Thực hành các đức hạnh tốt sẽ giúp con người chứng đắc Bồ -Đề ?

VĂN KINH
Tu Bồ Đề bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn! Phật đạt đến Vô Thượng Chánh-Đẳng, Chánh-Giác , thật ra Phật không có chứng đắc gì hết ?
Phật nói:
- Đúng thế, này Tu Bồ Đề! đúng thế. Ta không chứng đắc đạo quả Vô Thượng Chánh-Đẳng, Chánh-Giác cho đến một pháp nhỏ. Đó mới gọi là Vô Thượng Chánh-Đẳng, Chánh-Giác. Hơn nữa, này Tu Bồ Đề! cái pháp này bình đẳng, không có chỗ cao, thấp. Vì thế mới gọi là Vô Thượng Chánh-Đẳng, Chánh-Giác. Tu theo bất cứ thiện pháp nào miễn là hiểu biết không có ngã, không có nhân, không có chúng sanh, không có thọ giả chắc chắn sẽ đạt đến Vô Thượng Chánh-Đẳng, Chánh-Giác. Này Tu Bồ Đề! Cái gọi là thiện pháp, Như Lai nói không phải là thiện pháp, đó mới gọi là thiện pháp.


GIẢI THÍCH:
Tu Bồ Đề đã hiểu rằng Pháp Thân vô tướng, thanh tịnh, và không có một pháp nào thâu hoạch được, nhưng ông vẫn còn nghi ngờ vì Phật đã dạy: Tu theo tất cả các thiện pháp sẽ đạt đến Bồ Đề mà nay Phật lại nói thật ra Phật không chứng đắc gì hết. Vậy quả Bồ Đề là không sao ?
Phật dạy : Bởi vì Phật và chúng sanh bình đẳng như nhau, không phải là hai thực thể sai biệt, đó là Bồ Đề chứ không phải quả Phật là một cái gì có thể thực hiện và thu hoạch được.
Phật dạy tu theo thiện pháp để đắc quả Bồ Đề chỉ là không chấp tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Vì vậy tu mà không tu, cho nên đắc cũng như không đắc, vì không có gì để thâu hoạch được. Thực ra không một thiện pháp nào có thể đắc quả Bồ Đề, chỉ là buông bỏ bốn tướng, Cho nên nói cái gọi là thiện pháp không phải là thiện pháp, nhưng nó mới đem lại quả Bồ Đề cho nên đó mới gọi là thiện pháp.

(trang 25)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH KIM CANG QUYẾT NGHI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NGHI VẤN 26
Khái niệm về thiện pháp là sai vậy pháp nào là hoàn hảo nhất?

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề! Như có người dùng bảy báu chồng chất nhiều bằng tất cả núi Tu Di trong tam thiên đại thiên thế giới dem bố thí. Lại như có người chỉ thọ trì, đọc tụng bài kệ bốn câu của kinh Bát-Nhã Ba-La-Mật này và đem giảng giải cho kẻ khác nghe, thì so sánh phước đức của người này , phước đức người trước chưa được một phần trăm, phần ngàn, phần vạn, phần ức…cho đến dùng toàn số mà thí dụ thì cũng không thể so sánh được.


GIẢI THÍCH
Nếu có ai đem bảy báu chất đầy hư không, cao như tất cả các ngọn núi Tu Di trong tam thiên đại thiên thế giới mà bố thí, thì phước đức của người này cũng không bằng phước đức của người thụ trì một bài kệ bốn câu trong kinh này, đem đọc tụng, giảng giải cho người khác nghe. Vì sao vậy, Vì phước đức của người trước còn chấp sắc tướng,còn mong cầu lợi ích nên bị giới hạn. Còn phước đức của người sau là phước đức vô tướng, là phước đức do Bát-Nhã đem lại nên siêu việt hơn người trước. Pháp bố thí bảy báu đầy cả hư không là một thiện pháp, nhưng không phải là cao nhất. Thọ trì bốn câu kệ trong kinh này là một cách để đạt đến Bát Nhã. Đó là một sự hiểu biết, không phải là thiện pháp nhưng nó có khả năng đưa đến Bồ - Đề nên nó là thiện pháp cao nhất.

NGHI VẤN 27
Nếu Phật và chúng sanh bình đẳng như nhau, Nếu chúng sanh là Như Như thì chắc là không có chúng sanh vậy. Vậy tại sao Như Lai lại nói “phải cứu độ chúng sanh” ?

KINH VĂN
Này Tu Bồ Đề! Ý người thế nào? Các ngươi chớ nói Như Lai có ý niệm “Ta phải độ chúng sanh”. Này Tu Bồ Đề! Đừng có ý niệm đó. Tại sao? Vì thật ra Như Lai không có độ chúng sanh nào hết. Nếu Như Lai có độ chúng sanh là Như Lai có chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Này Tu Bồ Đề ! Như Lai nói có ngã thật ra không phải có ngã, nhưng kẻ phàm phu cho là có ngã. Này Tu Bồ Đề! Phàm phu đó, Như Lai nói chẳng phải là phàm phu, đó mới gọi là phàm phu.

GIẢI THÍCH
Nếu nói chúng sanh và Phật bình đẳng như nhau , bình đẳng giống nhau thì không có Phật và không có chúng sanh vậy. Nếu Phật nói “ Ta độ chúng sanh” thì có ngã và nhân (chúng sanh). Nếu ngã và nhân còn thì cái chấp về sắc tướng chưa diệt. Do đó, Như Lai nói “ Ta phải độ chúng sanh” mà không có cái chấp về ngã. Nếu chấp ngã thì Như Lai là phàm phu. Nhưng với Như Lai thì phàm phu chẳng phải là phàm phu thì làm gì còn ngã, làm gì có thánh nhân. Chỉ còn con đường duy nhất, bằng phẳng, vô tư. Đến đây là cùng cực.

NGHI VẤN 28
Nếu Pháp Thân không có ngã và Báo Thân không thể nhận thức được bằng sắc tướng , thì Đức Thế Tôn với sắc thân ba mươi hai tướng á không phải là Phật sao?

VĂN KINH
- Này Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Có nên thấy ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai chăng?
Tu Bồ Đề nói
- Nên như thế, nên như thế! Hễ thấy ba mươi hai tướng thì nên cho đó là Như Lai
Phật nói
- Này Tu Bồ Đề! Nếu thấy ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai vậy.
Tu Bồ Đề bạch Phật
- Bạch Thế Tôn! Theo tôi hiểu ý nghĩa Phật nói thì không nên thấy ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai.
Lúc đó Thế Tôn bèn thuyết bài kệ này:

Thấy ta trong sắc tướng
Thấy ta trong âm thanh
Kẻ ấy theo tà đạo
Không thể thấy Như Lai

( Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai )


GIẢI THÍCH
Tu Bồ Đề đã hiểu biết Pháp Thân vô ngã và Báo Thân vô tướng là chân Phật. Nhưng ông không biết Đức Phật mà ông đang thấy với ba mươi hai tướng là ai, và ông chấp rằng đó là Thế Tôn. Đức Thế Tôn phá kiến chấp của ông, ngài nói rằng Nếu vậy thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng vậy cũng là Như Lai. Tu Bồ Đề hiểu ra là không thể nhận thức Như Lai bằng sắc tướng và âm thanh. Đức Phật nói bài kệ trên.

NGHI VẤN 29
Tu Bồ Đề nghe nói Báo Thân và Pháp Thân đều vô tướng và Hóa Thân Phật không có thật, nên ông liền chấp Pháp Thân bị đoạn diệt. Đức Phật giải thích:

VĂN KINH
- Này Tu Bồ Đề! Nếu như ngươi có ý niệm này: “Như Lai không nhờ nơi thân tướng hoàn toàn đầy đủ để đạt đến Vô Thượng, Chánh-Đẳng, Chánh-Giác”.
- Này Tu Bồ Đề! Đừng có ý niệm: “Như Lai không nhờ nơi thân tướng hoàn toàn đầy đủ để đạt đến Vô Thượng, Chánh-Đẳng, Chánh-Giác”.
- Này Tu Bồ Đề! Nếu như ngươi có ý niệm này: “ Người phát tâm Vo Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác “ nói rằng “Các Pháp đều đoạn diệt”. Đừng có ý niệm đó. Tại sao? Vì khi người phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, họ không cho sắc tướng của các pháp đều đoạn diệt.
- Này Tu Bồ Đề! Như có Bồ -Tát đem bố thí bảy báu chứa đầy các thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Lại như có người hiểu biết tất cả các pháp đều vô ngã và thành tựu được đức nhẫn nhục, thì Bồ -Tát này được phước đức nhiều hơn Bồ -Tát trước. Vì sao? Này Tu Bồ Đề! “ Là vì các vị Bồ -Tát không thọ nhận phước đức việc làm của họ”.
Tu Bồ Đề bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn vì sao Bồ -Tát không thọ nhận phước đức?
- Này Tu Bồ Đề! Bồ -Tát không nên có lòng quyến niệm khi làm việc phước đức. Vì lẽ đó mới nói Bồ -Tát không thọ nhận phước đức.


GIẢI THÍCH
Khi Tu Bồ Đề nghe nói phải từ bỏ sắc tướng để thấy Phật, thì nảy sanh kiến chấp đoạn diệt. Đức Phật bảo không nên nảy sanh ý niệm đó, vì nếu có ý niệm đó tức là nói các pháp đều đoạn diệt. Người phát tâm Bồ Đề không nói sắc tướng của các pháp là đoạn diệt, mà chỉ nói các pháp vô ngã mà thôi.
Nếu có người biết các pháp là vô ngã và thành tựu được nhẫn nhục, thì công đức của người này hơn công đức của người đem bảy báu chất đầy hư không ra bố thí. Vì sao? Bởi vì họ không nhận một phước đức nào cho mình. Nói như vậy không có nghĩa là không có phước đức, Chỉ là không tham muốn và chấp trước vào phước đức mà thôi. Mặc dầu khi Bồ -Tát làm việc phước đức xem như “ Không có kẻ làm, không có việc làm và không có người thọ nhận” Nhưng không thể hủy diệt nghiệp quả của nó được.
Trong bốn mươi chín năm thuyết pháp, Đức Thế Tôn chỉ nói tiếng “KHÔNG” mà thôi. Vì sao? Tất cả chúng sanh đều chấp ngã trong mọi sự, mọi vật, và Như Lai chỉ dùng tiếng “KHÔNG” để phá trừ cái chấp đó.

(trang 27)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH KIM CANG QUYẾT NGHI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NGHI VẤN 30
Tu Bồ Đề nghĩ: Mặc dầu Thế Tôn dạy rằng không có ngã, không có người thọ nhận phước đức. Nhưng hiện nay Như Lai đang đi, đứng, nằm, ngồi đó thôi.

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề! Như có người nói “ Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc nằm, hoặc ngồi v v…” thì người đó không hiểu ý nghĩa của ta giảng dạy. Vì sao? Vì Như Lai không từ nơi nào đến, cũng không đi đến nơi nào, vì thế gọi là Như Lai.


GIẢI THÍCH
Tu Bồ Đề còn kiến chấp về tướng đến, đi. Thật ra Như Lai há có đến và đi sao? ( nơi nào là Như Lai? Nơi nào chẳng phải Như Lai?). Đến lúc này mọi kiến chấp đã tan biến, mọi tình thức đã quên mất, thì “động“ và “tịnh“ không khác nhau. Đạt đến thực tế tuyệt diệu của Như Như.

VĂN KINH
- Này Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghiền nát tam thiên đại thiên thế giới này thành vi trần . Ý ngươi thế nào? Những vi trần đó có nhiều không?
Tu Bồ Đề nói
- Bạch Thế Tôn! Thật là nhiều. Vì sao? Vì nếu những vi trần đó có thật thì Phật không nói đó là những vi trần. Tại sao? Phật nói những vi trần chẳng phải là những vi trần, đó gọi là những vi trần. Bạch Thế Tôn! Khi Như Lai nói đến tam thiên đại thiên thế giới, thì đó chẳng phải là thế giới, đó gọi là thế giới. Vì sao? Vì nếu thật có thế giới thì đó là tướng hợp nhất.
Như Lai nói:
- Tướng hợp nhất , chẳng phải là tướng hợp nhất. Đó gọi là tướng hợp nhất.
- Này Tu Bồ Đề! Tướng hợp nhất đó không thể nói đến. Nhưng kẻ phàm phu lại ham muốn chấp trước nó.


GIẢI THÍCH
Thế giới nghiền nát thành vi trần, mọi vi trần đều giống như nhau. Nó không khác nhau nhưng không thể nói nó là một được.
Cũng thế, thế giới là một , nhưng do các vi trần hợp thành nên cũng không thể nói nó là một.
Tóm lại, thế giới và vi trần đều không thể xác định rõ ràng là một, là khác do đó nó không có thực.
Nói thế giới do các vi trần hợp nhất là theo cách nói của phàm phu, vì phàm phu chấp tướng nên thấy là một. Thực tế thì Thế giới không phải một, vì do nhiều vi trần hợp thành, không phải là khác, vì mọi vi trần đều giống nhau.
Do phàm phu chấp nhị biên : hoặc là một, hoặc là khác nên không thể chấp nhận thực tánh của chúng.
Nếu vi trần có thực thì đã chẳng họp thành thế giới (vì mất đi tánh chất của nó), nếu thế giới có thật đã chẳng thể nghiền thành vi trần.
Cũng vì thế mà chúng sinh không thể hiểu được Tam Thân Phật lại đồng nhất thể.

NGHI VẤN 31
Nếu Pháp Thân bình đăng và nếu mọi sự vật đều là không có thật, tức là không thể quan niệm được, tại sao Phật lại nói đến kiến thức về bốn sắc tướng?

VĂN KINH
- Này Tu Bồ Đề! Nếu ngươi nói ”Phật có nói về ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến” Này Tu Bồ Đề!Ý ngươi thế nào? Người đó có hiểu ý nghĩa ta dạy chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không, người đó không hiểu ý nghĩa Như Lai dạy. Tại sao? Vì khi Như Lai nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến tức chẳng phải là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Đó là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến.
- Này Tu Bồ Đề! người phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác đối với tất cả các pháp nên thấy, nên tin và hiểu biết như thế này, là chẳng nên để tâm sanh tướng pháp. Này Tu Bồ Đề! nói là tướng pháp, Như Lai lại dạy chẳng phải là tướng pháp. Đó gọi là tướng pháp


GIẢI THÍCH
Khi đức Thế Tôn nói kiến thức về bốn sắc tướng, thì không phải thực sự là có kiến thức nào về sắc tướng có thể chỉ thị và giảng thuyết. Để phá tan cái chấp về kiến thức có bốn sắc tướng, ngài nói KHÔNG. Chữ KHÔNG này khác với những chữ không trước kia. Chữ KHÔNG này được dùng để trừ tuyệt kiến thức sai lầm về sắc tướng mà chúng sinh còn chấp trong tâm. Không phải Đức Phật đã nói có “tướng kiến” ấy nhưng đó là “tướng kiến” mà chúng sanh còn chấp vậy. (Trước đây Thế Tôn nói không với ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Nay lại nói không với ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến).
Chúng sinh còn mê loạn trong kiến thức về sắc tướng. Ban đầu họ chấp về sự có thật sắc tướng ngũ uẩn của thân tâm, và sắc tướng của lục trần. Vì thế họ bố thí để cầu phước đức. Đức Thế Tôn phá giải kiến chấp này bằng giáo lý vô trụ.
Kế đó họ chấp sắc tướng cõi Phật được trang nghiêm bằng công đức. Đức Phật phá cái chấp này. Ngài nói rằng “Không có cõi Phật để trang nghiêm”.
Họ lại chấp rằng phước đức sẽ làm cho Báo Thân Phật cảm nhận và xuất hiện. Đức Phât phá cái chấp này, ngài nói: Đó không phải là sắc thân hoàn toàn, đầy đủ.
Họ chấp trước về sắc tướng của Tam Thân Phật. Thế Tôn nói Hóa Thân không phải thật, Báo Thân vô tướng để phá.
Họ lại chấp Pháp Thân có sắc tướng, Đức Phật phá cái chấp này, ngài nói : Pháp Thân không phải là sắc tướng.
Họ chấp Pháp Thân có ngã. Đức Phật nói : Tất cả pháp đều không có ngã.
Họ lại chấp: Đức Như Lai có sắc tướng của Tam Thân. Đức Phật phá cái chấp này bằng giáo lý “Phi nhất, phi dị” tức Thật tướng không phải MỘT, không phải KHÁC.

Đến đây tất cả kiến thức sai lầm đều bị phá. Mọi ý niệm về sắc tướng bị tiêu diệt. Chính đây là lúc mà cái LÝ căn bản đạt đến chỗ cùng cực của nó. Tất cả vọng tưởng được thấy nay không còn nữa thì cái vọng kiến có khả năng xem thấy chúng cũng tiêu tan mất. Đây là pháp tắc cùng cực, tối hậu của Bát Nhã . Nó thấu thẳng vào con đường siêu việt của Pháp Thân.

Vì thế Đức Phật đã khuyến cáo họ: Kẻ nào phát tâm Bồ Đề phải thấy, biết, tin, hiểu như thế này đối với mọi sự, mọi vật “ Không nên để sắc tướng của mọi sự, vật phát sanh trong tâm. Chỉ lúc đó mới có cái biết chân thật, cái thấy chân thật, cái tin chân thật, cái hiểu chân thật và vĩnh viễn không còn tri kiến hư ngụy nào, mê chấp nào có thể đột khởi trong tâm nữa vậy ”.
Kiến chấp về nhân và pháp đều tiêu tan, kiến chấp về Thánh, Phàm không còn. Ngôn ngữ cũng dứt, đoạn. Hoạt động của tâm trí bị tiêu diệt. Vì diêu động cái tâm là sai, động niệm tức quấy.
Ngài dạy: “Cái gọi là Pháp tướng cũng không phải là Pháp tướng “. Đây mới là Pháp tướng chân thật, không phải là pháp tướng do vọng kiến nhận thấy.
Đây là giáo lý tối thượng của Bát Nhã.


NGHI VẤN 32
Ngài Tu Bồ Đề nhĩ rằng : Nếu Pháp Thân không thuyết pháp thì người thuyết pháp phải là Hóa Thân. Cái pháp do Hóa Thân giảng thuyết không thể đạt đến cảnh giới của Pháp Thân vậy thì làm sao những kẻ thọ trì pháp đó có thể thâu được lợi ích?

VĂN KINH
Này Tu Bồ Đề! Như có người lấy bảy báu chất đầy vô lượng thế giới đem ra bố thí. Lai như có thiện nam, thiện nữ phát tâm Bồ Đề và chỉ thọ trì, đọc tụng bài kệ bốn câu trong kinh này đem ra giảng giải cho người khác nghe thì phước đức người này trội hơn phước đức người trước.
Thế nào là giảng giải cho người khác? Đó là không chấp sắc tướng, giữ mình Như Như bất động.


GIẢI THÍCH
Tu Bồ Đề hoài nghi rằng cái pháp mà Hóa Thân giảng thuyết không thể đạt tới cảnh giới Pháp Thân thì làm sao có thể có lợi ích được? Phật nói Hóa Thân giảng thuyết tức Pháp Thân giảng thuyết đó vậy. Vì Pháp Thân, Báo Thân, Hóa Thân Tam Thân đồng nhất thể, không khác nhau chút nào. Nếu chỉ thọ trì bốn câu kệ của cái pháp này, diễn nói cho người khác nghe thì phước đức sẽ vô song vì đã từ bỏ mọi sắc tướng và ở trong trạng thái Như Như bất động. Đến đây thì sự thuyết pháp về vi trần và thế giới đã sáng tỏ lắm vậy.

NGHI VẤN 33
Nếu Pháp Thân đã tịch diệt thì làm sao có thể thuyết pháp được?

Đoạn kế đây chỉ dạy một phương pháp tham thiền là pháp Chánh Quán.
Vì Bát Nhã không tịch cho nên phải dùng cách giả quán, tức là xem hiện tượng trước. Từ cái giả (hiện tượng) nhập vào cái không (Chân Như). Do đó nên gọi là Chân Không, vì giả tức là chân vậy. Tại vì sao? Là vì

Nhất thiết pháp hữu vi
Như mộng huyễn, bào ảnh
Như điện, diệt như lộ
Ưng dĩ như thị quán


Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn
Như ảo ảnh, bọt nước, bóng hình
Như giọt sương như điện chớp
Phải nên tham thiền như thế đó.



GIẢI THÍCH
Tham thiền theo pháp Chánh Quán tuyệt diệu trên đây sẽ dẫn dắt vào Chân Không của Bát Nhã. Vì Chân Không minh tịch cho nên phải nhờ cái giả (hiện tượng) đặng quán. Nếu quán sáu hiện tượng được dùng làm thí dụ trên đây là : Giấc mộng, ảo ảnh, bọt nước, bóng hình, giọt sương, điện chớp được thành công thì Chân Không tự nhiên xuất hiện.
Từ trước đến nay các điều giảng dạy đều có mục đích hiển lộ LÝ THỂ Chân Như . Nay cách tham thiền theo pháp quán lại được chỉ dạy. Các người tu hành nên tùy theo đó mà vào Bát Nhã. Tới đây là chỗ cùng cực của cảnh giới chân thực của Pháp Thân.

VĂN KINH
Khi Phật giảng kinh này xong thì Trưởng lão Tu Bồ Đề và các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di các vị Thánh Hiền, Nhân, Thiên cua thế giới nghe lời Phật dạy đều lấy làm vui mừng, tin tưởng, và theo đó mà tu hành.

GIẢI THÍCH
Đây là phần kết luận kinh theo lệ thường. Phàm ai nghe kinh này đều tràn ngập vui mừng, và tâm họ hòa hợp một cách kỳ diệu với giáo lý vừa được giảng dạy. Tâm đã hòa hợp như thế thì lòng tin càng chân thật , thọ trì càng tha thiết và sự phụng hành của họ quả thật không uổng vậy.

Đến đây là hết bộ Kinh Kim Cang.Quyết Nghi.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH KIM CANG QUYẾT NGHI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Có một đoạn bổ sung để làm rõ về bốn tướng ở ngay sau PHẦN II, (chữ màu xanh)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.49 khách