Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

hoasenmaimai
Bài viết: 659
Ngày: 02/03/13 05:19
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: ben tre

Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Bài viết chưa xem gửi bởi hoasenmaimai »

Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma)

Đầu thế kỷ thứ mười một sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn, cha là Hương-Chí vua nước nầy. Vua Hương-Chí sanh được ba người con trai, Ngài
Là Vương-tử thứ ba. Thưở nhỏ, Ngài đã có chí siêu việt và đặc tài hùng biện. Nhơn vua Hương-Chí thỉnh Tổ Bát-Nhã-Đa-La vào cung cúng dường, Ngài mới có duyên gặp Tổ.
Vua sanh ba người con trai đều kính tin Phật pháp. Người con lớn tên Nguyệt-Tịnh-Đa-La thích tu pháp niệm Phật tam muội. Người thứ hai tên Công-Đức-Đa-La thích tu bố thí làm phước. Người thứ ba tên Bồ-Đề-La thích thông lý Phật, lấy việc xuất thế làm trên. Vua thỉnh Ngài về cung cúng dường, bảo ba vị Thái-tử ra đảnh lễ Ngài. Ngài biết ba vị Thái-tử đều ham tu, muốn nghiệm thử trí mỗi người thế nào.

Sẵn nhà vua cúng dường hạt châu quý vô giá, Ngài lấy ra hỏi: -Ở đời còn có vật gì quý báu bằng hạt châu nầy chăng ? Nguyệt-Tịnh thưa: -Hạt châu nầy quý tột, ở đời không có gì hơn nó, chẳng phải trong nhà vua thì làm gì có hạt châu nầy. Công-Đức-Đa-La cũng đồng ý như vậy: Bồ-Đề-Đa-La thưa: -Châu nầy là của báu thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ báu chỉ có pháp bảo là tột. Đây là ánh sáng của thế gian, trong các thứ ánh sáng chỉ có ánh sáng trí tuệ là tột. Đây là trong sạch của thế gian, trong các thứ trong sạch, chỉ tâm trong sạch là trên hết. Nhưng ánh sáng của hạt châu nầy không thể tự chiếu, cần nhờ ánh sáng trí tuệ mới biện biệt được nó. Đã biện rõ mới biết là châu, đã biết là châu mới hiểu cái quý báu của nó. Nếu hiểu cái quý báu của nó, thì nó báu mà không biết báu. Nếu biện rõ nó là châu, thì nó châu mà chẳng tự biết châu. Châu mà chẳng tự biết châu, cần nhờ trí châu mới biện được thế châu. Báu mà chẳng tự biết báu, cần nhờ trí bảo mới rõ pháp bảo. Song mà, thầy tôi có đạo thì báu kia liền hiện. Chúng sanh có đạo thì tâm báu cũng thế.

Ngài khen ngợi tài biện luận của Bồ-Đề-Đa-La. Lại hỏi thêm: -Trong các vật, vật gì không tướng ? –Trong các vật, chẳng khởi là không tướng. –Trong các vật, vật gì là tối cao ? –Trong các vật, nhơn ngã là tối cao. –Trong các vật, vật gì là tối đại ? –Trong các vật, pháp tánh là tối đại. Ngài thầm vui biết là đại pháp khí sẽ nối dõi cho Ngài sau nầy.

http://tvsungphuc.net/?option=com_conte ... iew&id=119


hoasenmaimai
Bài viết: 659
Ngày: 02/03/13 05:19
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: ben tre

Re: Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Bài viết chưa xem gửi bởi hoasenmaimai »

Đạt Ma Huyết Mạch Luận

Tổ Sư rời bỏ vua Lương ra đi sau khi đã thuyết pháp tại triều đình mười chín ngày. Bài pháp này rất danh tiếng, ngày nay còn lưu truyền với tên gọi là Đạt Ma Huyết Mạch Luận 達磨血脈論. Về cơ bản, bài pháp gồm chín mục như sau: (1) Bản chất của tâm; (2) Phương thức; (3) Phật Tánh; (4) Pháp Thân; (5) Tĩnh tâm; (6) Thiền luận; (7) Vô minh; (8) Giác ngộ; (9) Phật là gì?

1. Bản chất của tâm

Tâm là Phật, không có Phật ở ngoài tâm. Tâm của mỗi người đồng điệu, tương ứng với thực tại muôn đời, với thực tại muôn nơi. Ngoài thực tại của tâm thì tất cả chỉ là huyễn tượng, chẳng có nhơn, chẳng có duyên, chẳng có lý do, chẳng có kết quả, chỉ có hành duy nhứt, đó là tư tưởng của tâm và sự an nghỉ của tâm, chính là niết bàn.

Tâm là Phật, Phật chính là tâm. Đi tìm một sự vật ngoài tâm mình là muôn bắt sự trống không. Tưởng tượng Phật lấy ở ngoài tâm, hình dung Phật ở bên ngoài chính là mê sảng.

2. Phương thức

Vậy thì phải tìm vào trong chứ không nhìn bên ngoài. Phải tự lắng mình vào mình và tự nhìn thấy Phật Tánh ở nơi chính mình. Tất cả chúng sanh đều là Phật như mình, không có thiện, không có ác, mà chỉ có động tác của tâm. Mà tâm là Phật. Không có ích gì sự cúng kiến, sự hoằng pháp nhiệt thành, giữ giới bố thí, cầu kinh và tất cả những thứ khác chỉ cần một điều duy nhứt: nhìn thấy Phật ở nơi mình. Sự nhìn thấy ấy sẽ đưa đến giải thoát và là niết bàn.

3. Phật Tánh

Không có bất cứ một cuốn kinh nào, hay bất cứ một sự tu khổ hạnh nào có thể đưa ta ra khỏi luân hồi. Sự học kinh và tu khổ hạnh hoàn toàn vô ích, phù phiếm. Không có một quyển sách nào đáng cho ta mở ra đọc. trong sự an tĩnh vô vi hoàn toàn hãy kiếm ở nơi mình, nơi chính mình. Đó mới đúng là Phật. Hãy nhìn Phật nơi mình, đó mới là sự nhìn thấy chơn thật duy nhứt mà thôi. Tất cả những hình tượng khác đều là sương mù ảo ảnh. Chỉ có một tội duy nhứt, là tội vô minh, tội không nhận được thấy ra được Phật Tánh ở nơi chính mình. Tội lỗi này rất nặng vì nó giữ ta trong cõi vô thường phù du. Ta phải tự giải thoát bằng cách tự khám phá lại hình bóng của mình.

4. Pháp Thân

Pháp Thân nầy đã có vĩnh cửu. Trải qua những luân hồi thăng trầm của những kiếp, Pháp Thân vẫn vô sinh, không diệt, không thêm, không bớt, không nhơ nhớp, không bị tẩy sạch, không yêu, không ghét, không đến, không đi, không đàn ông, không đàn bà, không già, không trẻ, không tu, không tục, không ừ, không không, v.v.

Pháp Thân không một, mà cũng không nhiều, không thánh mà cũng không phàm. Pháp Thân thung dung trong những kiếp liên tiếp, trong dòng sinh tử. Chính Pháp Thân nầy mà ta phải nhìn lại nơi chính mình ta phải di động và hành động. Pháp Thân chính là thần năng nhập thạch, thần năng phi hình, nhập thủy bất nịch, nhập hỏa bất phần [xuống nước không chìm, vào lửa không cháy] trong ánh sáng của tâm. Ta không thể diễn tả Pháp Thân nầy bằng lời nói. Ngoài những tên khác, ta còn gọi Pháp Thân là thánh thể (Phật Tánh, Chơn Tâm).

5. Tĩnh tâm

Tất cả những sự vật bên ngoài chỉ là hư ảo, giả tạm chẳng có gì thật ngoài ra Pháp Thân. Vô ích nguyện cầu, vô ích sùng bái những gì mà chính là mình, chỉ nên làm sao cho sự yên lặng, sự tĩnh tâm mà thôi. Chính những cái ấy giúp ta thấy Pháp Thân nơi mình, tức là Phật chính những biểu tượng vật chất là sai lầm. chính sự sai lầm ấy sẽ giữ ta lại, hoặc đưa ta vào vòng luân hồi tái sanh. Hãy bỏ đi những giả tưởng về thần thánh linh thiêng vì đó chính là ảo tưởng phù phiếm.

6. Thiền luận

Không có những gì hơn những ý tưởng vô hình của tâm thoát ra từ Phật Tánh. Chỉ có một điều ta thấy thật sự là Pháp Thân ở nơi ta. Phật có ý nghĩa là giác ngộ hay linh giác mà mọi người có thể đạt được. Sự giác ngộ chính là Thiền. Thiền không có nghĩa là tham thiền, suy tưởng gì cả. Đối với ta chỉ đạt đến Thiền là khi ta thấy được Phật Tánh, mà không kiến tánh thì chỉ là một kẻ phàm tục tầm thường.

Ta có thể nói với những môn đồ của ta như vầy: Các ngươi phải đạt đến Phật Tánh nơi các ngươi, tức là Pháp Thân, là thánh thể ở nơi chính các ngươi.

Không thể nào diễn tả được bởi vì không thể nói ra được, cho nên tất cả kinh luận đều vô ích.

Con người sẽ được giải thoát khi nào họ đã phủ nhận tất cả những bóng ma và những sai lầm ấy, khi họ chỉ gắn liền với Phật Tánh của họ. Giây phút giác ngộ nầy, giải thoát nầy, mỗi người hãy tự đi đến với chính mình, giáo lý chỉ có thể giúp đỡ khi người ta chuẩn bị. Giáo lý không thể tạo ra sự giác ngộ. Lãnh hội được Phật Tánh nơi chính mình, lại không thể học được Pháp Thân rất giản dị, ta không thể tạo ra được,ta chỉ lãnh hội được.

Đối với kẻ nào lãnh hội được Phật Tánh, thì không cần đến thiên đàng hay cũng không còn sợ vào địa ngục, không còn có mình, không còn có kẻ khác, không còn gì cả ở bên ngoài.

Vậy thì, việc lãnh hội Pháp Thân là một việc của đức tin tuyệt đối, không còn bị pha lẫn bóng tối của ngờ vực.

7. Vô minh

Kẻ nào lãnh hội được Phật Tánh thì không còn tạo nghiệp nữa dù làm bất cứ một hành động nào, bởi vì kẻ ấy đã được giác ngộ. Nghiệp chỉ đeo đuổi những kẻ nào chưa giác ngộ vì kẻ ấy đang còn ở trong vòng ngu tối vô minh. Chính sự ngu muội này đã tạo ra vòng đầu thai luân hồi ở địa ngục, làm thú và làm người. Bực giác ngộ không làm nên tội lỗi nữa và cũng không phạm tội nữa.

8. Giác ngộ

Những kinh kệ, những sự tu khổ hạnh, những công trình nghiên cứu, học hành chẳng có lợi ích gì cả, còn việc kiến tánh ta không thể nào học được. Tại sao có người đã chuẩn bị đàng hoàng và có thành tâm đứng đắn, thế mà vẫn không đạt đến được? Bởi vì nghiệp của họ chống đối lại, vì họ chưa trả hết nợ, họ chưa đủ trong sạch để đến giác ngộ. Sự hôn mê mù quáng, sự sai lầm, sự chai cứng, sự bất lực của họ là những hình phạt về những tội lỗi của họ trong quá khứ.

9. Phật là gì?

Phật ở trong tâm của mỗi người, giữ giới luật tu khổ hạnh, cầu kinh, học vấn, nghĩa lý, tất cả những việc này chẳng dùng được việc gì cả. Mục đích duy nhứt mà mỗi người cần phải đạt đến là sự giác ngộ. Khi nào đã đến sự giác ngộ là một vị Phật. Một vị Phật với tất cả chư Phật, dù cho kẻ ấy không đọc được một chữ nào hết.

Là Phật, nghĩa là thấy được Phật Tánh nơi chính mình, nơi tâm mình, bản thể vô hình và không rờ mó được mong manh như hư không. Tâm ấy mỗi người đều mang trong mình.

Tâm ơi hỡi tâm! Mi lớn đến nỗi bao trùm cả thế giới, mi nhỏ đến nỗi mũi kim không thể xuyên qua được. Hỡi tâm của ta, mi là Phật, mi chính là mi, ta phải qua Trung Hoa để truyền đạo lý.

https://nguoidentubinhduong.wordpress.c ... de-dat-ma/


hoasenmaimai
Bài viết: 659
Ngày: 02/03/13 05:19
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: ben tre

Re: Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Bài viết chưa xem gửi bởi hoasenmaimai »

Lục tổ Huệ Năng

Rồi Ngài Huệ Năng lần đến thôn Tào Hầu, quận Thiều Châu, không có người nào biết mà ẩn náu. Khi ấy có Lưu Chí Lược, nhà nho đãi Sư rất hậu, Chí Lược có người Cô là Ni Sư hiệu là Vô Tận Tạng thường tụng kinh Niết Bàn. Sư nghe qua liền biết nghĩa mầu nhiệm, bèn giải thuyết cho nghe. Ni Sư cầm quyển kinh hỏi chữ. Sư bảo không biết chữ nhưng cứ hỏi nghĩa Sư giải thích cho. Ni Sư nói: “Chữ còn chẳng biết sao hiểu được nghĩa” Sư nói: “Lý mầu nhiệm của chư Phật chẳng quan hệ gì với văn tự”.
Ni Sư ngạc nhiên và báo cho mọi người rõ: “Đây là người hiểu Đạo, nên thỉnh cúng dường”.

Thuở ấy, trong thôn có Tào Thúc Lương cháu 5 đời của Tào Thy và dân chúng ở gần đua nhau lại chiêm bái Sư. Đương thời, ở thôn Tào Khê có một ngôi chùa cũ tên là Bảo Lâm vì nạn binh lửa cuối đời Tùy đã để bỏ, người ta bèn cất lại rước Sư về ở đó. Ngôi chùa này nguyên do Ngài Trí Dược khuyên bảo dân Tào Hầu dựng nên và có bảo rằng: “Lối một trăm bảy chục năm nữa sẽ có vị Vô Thượng Pháp Bảo đắc đạo ở đây, kẻ đắc đạo đông như rừng, chùa cất thì đặt hiệu là Bảo Lâm.” Chùa cất xong quan Mục Thiều Châu là Hầu Kính Trung soạn tờ biểu dâng lên triều đình, được vua Lương Võ Đế chuẩn lời ban cho tấm biễn là Bảo Lâm Tự, đó là năm thứ ba triều Thiên Giám (504 ).

Ngài Huệ Năng ngụ ở đây hơn chín tháng, lại bị một số người truy lùng, Sư trốn qua ngọn núi phía trước, lại bị bọn chúng đốt núi nhưng may mắn Sư tránh khỏi, nhớ đến lời Ngũ Tổ dạy: Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn nên Sư đi đến huyện Tứ Hội theo đám thợ săn ở ẩn. Ở với đám thợ săn, Ngài tùy nghi mà nói đạo cho họ nghe, khi nào bọn thợ săn sai giữ lưới, mỗi khi thấy muông thú sa vào, Ngài đều thả hết. Đến mỗi bữa ăn, chỉ lấy rau ở trong nồi thịt mà ăn. Có kẻ hỏi thì đáp: “Chỉ ăn rau bên thịt”. Trải qua mười lăm năm, đến một ngày kia Ngài suy nghĩ, lúc này nên hoằng pháp, không thể ẩn núp nữa.

Bèn đi đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, ngày mồng 8 tháng Giêng Bính Tý (675 ), gặp lúc Ấn Tông Pháp Sư giảng kinh Niết Bàn. Khi ấy gió thổi lá phướng lay động, có hai ông Tăng bàn cãi với nhau, kẻ cho “gió động”, người cho “phướng động” chẳng ai chịu thua ai. Ngài Huệ Năng bước tới nói rằng: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướng động, ấy là lòng người động.” Mọi người ngạc nhiên.

Ấn Tông mời lên chiếu trên ngồi, cầu hỏi nghĩa lý Phật pháp, thấy Ngài Huệ Năng lời giản dị, lý chánh đáng, không do văn tự. Ấn Tông hỏi: “Ngài chắc không phải người thường. Từ lâu nghe Y, Pháp của Ngài Hoàng Mai truyền xuống phương Nam, chắc là Ngài phải chăng?” Ngài Huệ Năng đáp: “Không dám!”

Rồi Ấn Tông làm lễ xin đem Y, Bát cho đại chúng coi. Ấn Tông lại hỏi thêm: “Ngài Hoàng Mai giao phó cho Ngài thì chỉ thị những gì?” Ngài đáp: “Không chỉ thị gì, chỉ bàn thấy Tánh, chớ không bàn Thiền định, Giải thoát.” Ấn Tông hỏi: “Tại sao không bàn Thiền định và Giải thoát?” Ngài đáp: “Đó là hai pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp thì không phải hai”. Ấn Tông lại hỏi: “Thế nào là pháp không hai của Phật pháp?” Ngài đáp: “Pháp Sư giảng Kinh Niết Bàn, làm sáng tỏ Phật tánh, đó là Phật pháp chẳng có hai.

Như Ngài Cao Quí Đức Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: “Những kẻ phạm bốn giới cấm nặng, làm năm tội nghịch và bọn không tin Phật pháp (Nhứt Xiển Đề) có dứt mất thiện căn, Phật tánh hay không?” Phật đáp: “Thiện căn có hai; một thường; một vô thường. Phật tánh không thường cũng không vô thường, bởi vậy cho nên chẳng dứt đặng. Gọi là không hai: Một là thiện, hai là không thiện mà Phật tánh không thiện cũng không bất thiện nên gọi là không hai. Uẩn cùng với Giới, phàm phu thấy là hai, còn người đã đạt ngộ thì tánh này không hai. Tánh không hai tức là Phật tánh.”

Ấn Tông nghe xong, hoan hỷ chấp tay mà nói: “Tôi giảng kinh như ngói gạch, Ngài luận nghĩa như vàng ròng.” Ngài Huệ Năng bèn mở Pháp môn Đông Sơn ở gốc cây Bồ đề, cây này do Ngài Trí Dược đem từ Ấn Độ sang trồng tại đây. Vào năm đầu Thiên Giám của vua Lương Võ Đế (502), có dựng bia ghi: “Sau đây lối một trăm bảy chục năm sẽ có vị Bồ Tát xác thịt khai diễn thuyết thượng thừa tại dưới cây này độ cho vô lượng chúng là vị pháp chủ chơn truyền tâm ấn Phật vậy.” Nơi đây Ngài Cầu-Na-Bạch-Đà-La tam tạng pháp sư cũng có dựng bia vào thời Lưu Dụ (420-478), có ghi rằng: “Sau này sẽ có vị Bồ Tát xác thịt thọ giới ở đây.”

https://phatphap.wordpress.com/2007/08/ ... B%87-nang/


hoasenmaimai
Bài viết: 659
Ngày: 02/03/13 05:19
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: ben tre

Re: Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Bài viết chưa xem gửi bởi hoasenmaimai »

Thiền Sư Bổn Tịnh

Sư họ Trương, quê ở Ráng Châu, xuất gia từ thuở bé. Sau Sư đến tham học với Lục tổ Huệ Năng được Tổ truyền tâm. Sư từ giã Tổ, tìm đến núi Tư Không ở chùa Vô Tướng, chuyên ở nơi đây tu hành.

Ðời Ðường niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba (744 T.L.) vua Huyền Tông sai Trung sứ Dương Quang Ðình vào núi cắt dây thường xuân. Dương Quang Ðình tình cờ gặp được thất của Sư. Ðình lễ bái thưa:

- Ðệ tử mộ đạo đã lâu, cúi xin Hòa thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy.
Sư bảo:
- Người nghiên học Thiền tông trong thiên hạ đều hội về Kinh sư (kinh đô vua), thiên sứ nên trở về triều thưa hỏi là đầy đủ. Bần đạo ở gọp núi cạnh khe không có chỗ dụng tâm.
Quang Ðình thiết tha khóc lóc lễ lạy.
Sư bảo:
- Thôi! Chớ lễ bần đạo. Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo?
Ðình thưa:
- Ðệ tử trí thức tối tăm chưa biết Phật với Ðạo nghĩa ấy thế nào?
Sư bảo:
- Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hội Ðạo, không tâm là Ðạo.
- Thế nào tức tâm là Phật?
- Phật nhân tâm mà ngộ, tâm do Phật được bày. Nếu ngộ không tâm thì Phật cũng chẳng có.
- Thế nào không tâm là Ðạo?
- Ðạo vốn không tâm, không tâm gọi là Ðạo. Nếu rõ không tâm thì không tâm tức là Ðạo vậy.
Quang Ðình đảnh lễ tin nhận.


Trở về triều, Quang Ðình tâu hết việc trong núi cho vua nghe. Vua ban sắc lệnh sai Quang Ðình đi thỉnh Sư. Ngày mười ba tháng chạp, Sư theo sứ về đến đế đô, Vua thỉnh ở chùa Bạch Liên.
Ðến ngày rằm tháng hai năm sau, Vua mời hết những danh Tăng và các người học Phật uyên bác đến nội đạo tràng (đạo tràng trong cung) cùng Sư xiển dương Phật lý.


Khi ấy, có Thiền sư Viễn lên tiếng hỏi Sư:
- Nay đối Thánh thượng để xét lường tôn chỉ, cần phải hỏi thẳng, đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của Thiền sư lấy gì làm đạo?
Sư đáp:- Không tâm là đạo.
Viễn hỏi:- Ðạo nhân tâm mà có, đâu được nói không tâm là đạo?
Sư đáp:
- Ðạo vốn không tên, nhân tâm có đạo. Tâm và tên nếu có thì đạo không rỗng suốt. Tột tâm đã không thì đạo nương đâu mà lập? Cả hai đều là giả danh.
Viễn hỏi:- Thiền sư thấy thân tâm là đạo rồi chăng?
Sư đáp:- Sơn tăng thân tâm xưa nay là đạo.
Viễn hỏi:
- Vừa nói không tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?
Sư đáp:
- Không tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm đạo nhất như nên nói không tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không, đạo cũng không tột nguồn chẳng có.
Viễn hỏi:- Xem hình thể Thiền sư rất nhỏ đâu thể hội được lý này?
Sư đáp:
- Ðại đức chỉ thấy tướng Sơn tăng, chẳng thấy được không tướng của Sơn tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Ðại đức, kinh nói "phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức ngộ được đạo kia". Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
Viễn bảo:- Nay thỉnh Thiền sư ở trên tướng nói không tướng.
Sư đáp:
- Kinh Tịnh Danh nói: "Bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng." Ðại đức nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo.

Viễn nghe nói thất sắc lặng lẽ rút lui.

Sư có bài kệ:
Tứ đại vô chủ phục như thủy
Ngộ khúc phùng trực vô bỉ thử
Tịnh uế lưỡng xứ bất sanh tâm
Ủng quyết hà tằng hữu nhị ý
Xúc cảnh đản tợ thủy vô tâm
Tại thế tung hoành hữu hà sự.
Dịch:

Bốn đại không chủ cũng như nước
Dù gặp cong ngay chẳng kia đây
Hai nơi nhơ sạch tâm không sanh
Thông bít chưa từng có hai ý
Xúc cảnh chỉ như nước không tâm
Ở thế tung hoành nào có việc?

Một đại như thế, bốn đại cũng vậy. Nếu rõ bốn đại không chủ tức ngộ không tâm. Nếu rõ không tâm tự nhiên hợp đạo.

*

Thiền sư Minh Chí hỏi:
- Nếu nói không tâm là đạo, ngói gạch không tâm cũng ưng là đạo? Thân tâm xưa nay là đạo, tứ sanh thập loại đều có thân tâm cũng ưng là đạo?
Sư đáp:
- Ðại đức nếu hiểu bằng vào thấy nghe hiểu biết thì cùng đạo khác xa, tức là người cầu thấy nghe hiểu biết, không phải là người cầu đạo. Kinh nói: "không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý...". Sáu căn còn không, thấy nghe hiểu biết nương đâu mà lập. Cùng tột gốc nguồn chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Ðâu không đồng với cỏ cây ngói gạch.

Minh Chí lặng thinh thối lui.

Sư có bài kệ:

Kiến văn giác tri vô chướng ngại
Thanh hương vị xúc thường tam-muội
Như điểu không trung chỉ ma phi
Vô thủ vô xả vô tắng ái
Nhược hội ứng xứ bản vô tâm
Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại.
Dịch:

Thấy nghe hiểu biết không chướng ngại
Tiếng mùi vị chạm thường tam-muội
Như chim trong không mặc tình bay
Không thủ không xả không thương ghét
Nếu hội mỗi nơi vốn không tâm
Mới được tên là Quán Tự Tại.

*

Thiền sư Chơn hỏi:
- Ðạo đã không tâm, Phật có tâm chăng? Phật cùng với đạo là một, là khác?
Sư đáp:- Chẳng một chẳng khác.
Chơn hỏi:
- Phật độ chúng sanh vì có tâm, đạo không độ chúng sanh vì không tâm. Một độ một không độ đâu được không khác?
Sư đáp:
- Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo không độ, đây là Ðại đức vọng sanh thấy hai. Theo Sơn tăng tức chẳng phải vậy. Phật là tên suông, đạo cũng dối lập, cả hai đều không thật, toàn là giả danh. Trong một cái giả sao lại phân làm hai?
Chơn hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, chính khi lập danh nhân cái gì mà lập? Nếu có lập được, đâu thể nói là không?
Sư đáp:
- Phật với đạo nhân tâm mà lập, xét cùng cái tâm dựng lập, tâm ấy cũng không, tâm đã là không liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn liền ngộ vốn không. Gắng lập hai tên Phật, Ðạo, đây là cái thấy biết của người Nhị thừa.
Sư bèn nói bài kệ (Không Tu, Không Tác):

Kiến đạo phương tu đạo
Bất kiến phục hà tu
Ðạo tánh như hư không
Hư không hà sở tu
Biến quán tu đạo giả
Bác hỏa mích phù âu
Ðản khán lộng khối lỗi
Tuyến đoạn nhất thời hưu.
Dịch:
Thấy đạo mới tu đạo
Chẳng thấy lấy gì tu
Tánh đạo như hư không
Hư không tu chỗ nào?
Khắp xem người tu đạo
Vạch lửa tìm bọt nổi
Chỉ xem người gỗ máy
Ðứt dây một lúc dừng.

*

Thiền sư Pháp Không hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng phải chẳng thật, vì sao các hàng tôn túc từ xưa đều nói có tu có đạo?
Sư đáp :
- Ðại đức lầm hội ý kinh; đạo vốn không tu, Ðại đức cưỡng tu, đạo vốn không tác, Ðại đức cưỡng tác, đạo vốn không sự, Ðại đức cưỡng sanh đa sự, đạo vốn không biết, ở trong ấy cưỡng biết. Thấy hiểu như thế cùng đạo trái nhau. Tôn túc từ xưa không như thế, tự Ðại đức không hội, xin suy gẫm đó.

Sư có bài kệ:

Ðạo thể bản vô tu
Bất tu tự hiệp đạo
Nhược khởi tu đạo tâm
Thử nhân bất hội đạo
Khí khước nhất chân tánh
Khước nhập náo hạo hạo
Hốt phùng tu đạo nhân
Ðệ nhất mạc hướng đạo.
Dịch:

Thể đạo vốn không tu
Chẳng tu tự hiệp đạo
Nếu khởi tâm tu đạo
Người này không hiệp đạo
Bỏ mất một tánh chân
Lại vào nơi phiền lụy
Chợt gặp người tu đạo
Bậc nhất chớ hướng đạo.

*

Thiền sư An hỏi:
- Ðạo đã giả danh, Phật nói dối lập, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng là phương tiện tiếp vật độ sanh, tất cả là vọng lấy gì làm chân?
Sư đáp:
- Vì có vọng nên đem chân đối vọng. Xét cùng tánh vọng vốn không, chân cũng chưa từng có. Thế thì biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị trọn không thật thể, tột cội gốc nó thì tất cả đều không.
An hỏi:
- Ðã nói tất cả là vọng, vọng cũng đồng chân, chân vọng không khác, lại là vật gì?
Sư đáp:
- Nếu nói vật gì, vật gì cũng vọng. Kinh nói "không tương tợ, không so sánh, bặt đường nói năng, như chim bay trong không".
Thiền sư An thầm phục mà không biết mối manh.

Sư có bài kệ:

Suy chân, chân vô tướng
Cùng vọng, vọng vô hình
Phản quán suy cùng tâm
Tri tâm diệc giả danh
Hội đạo diệc như thử
Ðáo đầu diệc tự ninh.
Dịch:
Xét chân, chân không tướng
Tìm vọng, vọng không hình
Quán lại tâm tìm xét
Biết tâm cũng giả danh
Hội đạo cũng như vậy
Ðến cùng chỉ lặng yên.

*

Thiền sư Ðạt Tánh hỏi:
- Thiền thật chí vi chí diệu, chân vọng cả hai đều bặt, Phật, đạo cả hai chẳng còn, tu hành tánh là không, danh tướng chẳng thật, thế giới như huyễn, tất cả đều giả danh. Khi người đạt đến cái hiểu biết này cũng không thể đoạn dứt hai gốc thiện ác của chúng sanh!
Sư đáp:
- Hai gốc thiện ác đều nhân tâm mà có, tìm tột tâm nếu có thì gốc ắt thật, xét tâm đã không thì gốc nhân đâu mà lập. Kinh nói:
"Pháp thiện pháp ác từ tâm hóa sanh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có."

Sư nói bài kệ:

Thiện ký tùng tâm sanh
Ác khởi ly tâm hữu
Thiện ác thị ngoại duyên
Ư tâm thật bất hữu
Xả ác tống hà xứ
Thủ thiện linh thùy thủ
Thương nha nhị kiến nhân
Phan duyên lưỡng đầu tẩu
Nhược ngộ bản vô tâm
Thủy hối tùng tiền cựu.
Dịch:
Thiện đã từ tâm sanh
Ác đâu rời tâm có
Thiện ác là duyên ngoài
Nơi tâm thật chẳng có
Bỏ ác đẩy chỗ nào?
Lấy thiện bảo ai giữ?
Than ôi! Người thấy hai
Bám víu hai đầu chạy.
Nếu ngộ vốn không tâm
Mới hối lỗi từ trước.

*

Vị quan cận thần hỏi:
- Thân này từ đâu mà đến? Sau khi trăm tuổi trở về đâu?
Sư đáp:
- Như người khi mộng từ đâu mà đến? Khi thức giấc lại đi về đâu?
Quan thưa:
- Khi mộng không thể nói không, đã thức không thể nói có. Tuy có mà không từ đâu đến, đi không đi về đâu.
Sư nói:- Bần đạo thấy thân này cũng như mộng.

Có bài kệ:

Thị sanh như tại mộng
Mộng lý thật thị náo
Hốt giác vạn sự hưu
Hườn đồng thùy thời ngộ
Trí giả hội ngộ mộng
Mê nhân tín mộng náo
Hội mộng như lưỡng ban
Nhất ngộ vô biệt ngộ
Phú quí dữ bần tiện
Cánh diệc vô biệt lộ.
Dịch:
Thấy cuộc sống như mộng
Trong mộng thật là ồn
Chợt giác muôn việc hết
Lại đồng tỉnh cơn mộng
Người trí nhận biết mộng
Kẻ mê tin mộng ồn
Biết mộng như hai việc
Một ngộ không ngộ khác
Giàu sang cùng nghèo hèn
Lại cũng không đường khác.

*

Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai (761 T.L.), ngày mùng năm tháng năm, Sư qui tịch.
Vua sắc ban hiệu là Ðại Hiển Thiền sư.

http://www.thuongchieu.net/index.php/ch ... n-s-bn-tnh


hoasenmaimai
Bài viết: 659
Ngày: 02/03/13 05:19
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: ben tre

Re: Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Bài viết chưa xem gửi bởi hoasenmaimai »

Tuệ Trung Thượng Sĩ

Em gái Tuệ Trung là Hoàng Hậu Thiên Cẩm, một hôm thiết tiệc mời ông tham dự, trong bàn tiệc có đầy đủ thịt cá, chay mặn. Gặp thịt cá ông cũng không từ, tự nhiên gắp ăn, thấy thế Hoàng Hậu ngạc nhiên hỏi: “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì thành Phật sao được ?”

Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật. Phật chả cần làm anh. Em chẳng nghe cổ đức nói “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao ?””

Con người Tuệ Trung không phải điển hình sự phóng khoáng nầy là đủ, trong ông còn nhiều sự tự do. Ông đã là con người tùy tục làm giống như cuộc đời, những gì kẻ khác có ông cũng có nhưng, có nầy là lẽ của tương đồng, của tỉnh thức, và thực ngộ.
Khi mê thấy không sắc
Khi ngộ hết sắc không
Sắc không và mê ngộ
Xưa nay một lẽ đồng

http://thuvienhoasen.org/a17832/tue-tru ... n-long-uan


hoasenmaimai
Bài viết: 659
Ngày: 02/03/13 05:19
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: ben tre

Re: Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Bài viết chưa xem gửi bởi hoasenmaimai »

Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Nguyệt Khê Thiền Sư .

Hai câu danh tiếng : “Sắc tức thị không, Không tức thị Sắc” trong Bát Nhã Tâm Kinh thường bị một số người hiểu lầm lạm dụng dẫn chứng giải thích bậy bạ. Theo đúng ý kinh là : “Hiện tượng tức là Bản thể, Bản thể tức là Hiện tượng”, bởi vì lúc ấy tất cả hiện tượng và sắc chất chướng ngại đều biến thành tuyệt đối mà chẳng thể phân chia, tinh thần và vật chất đến đây đều biến thành bản thể của tuyệt đối, duy tâm luận với duy vật luận đến đây mới bỏ hết oán thù từ xưa nay, hai phái hoan hỉ hòa hợp thành một chẳng còn gì khác biệt nữa. Ấy là công lao vĩ đại của Phật Thích Ca nay tôi trình lại với đại chúng xem cho minh bạch.

Thiền Tông vốn không có áo ngoài bởi vì họ dùng “bất lập văn tự chỉ thẳng tâm người” làm tông chỉ. Nếu chúng ta nhất định muốn tìm ra cái áo ngoài của Thiền tông vậy thì những cách chư tổ thường dùng để tiếp dẫn người mậu học như phương pháp hét gậy chửi mắng và những lời nói cử chỉ kỳ lạ ghi trong lịch sử Thiền tông tức là cái áo ngoài chẳng thể biết của họ vậy.

https://duylucthien.wordpress.com/2011/ ... E1%BA%ADn/


hoasenmaimai
Bài viết: 659
Ngày: 02/03/13 05:19
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: ben tre

Re: Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Bài viết chưa xem gửi bởi hoasenmaimai »

Giáo môn của Tổ Sư Thiền có thể nói chia làm 3 phần :

Ngữ lục ( như phần hoasenmaimai đăng bên trên bao gồm những ngữ lục của các Tổ Sư khác ) .

Công án ( đa phần người học Tổ Sư Thiền ngày nay đều biết đến Công án , hoasenmaimai biết là có người thuộc nằm lòng , tuyệt nhiên phải thực hành được Công án thì mới đưa đến kiến tánh , nếu không thuộc lòng cũng vô ích ) .

Nhục thân ( các vị Tổ Sư kiến tánh đã để lại nhục thân của mình để làm bảo chứng cho pháp môn này vì vậy Tông môn của Tổ Sư Thiền là phải kiến tánh thật sự chứ không căn cứ vào lời nói ) .


sotam26
Bài viết: 631
Ngày: 30/01/09 02:14
Giới tính: Nam
Đến từ: NVM
Được cảm ơn: 3 time

Re: Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Bài viết chưa xem gửi bởi sotam26 »

hoasenmaimai đã viết:Thiền Sư Bổn Tịnh

Sư họ Trương, quê ở Ráng Châu, xuất gia từ thuở bé. Sau Sư đến tham học với Lục tổ Huệ Năng được Tổ truyền tâm. Sư từ giã Tổ, tìm đến núi Tư Không ở chùa Vô Tướng, chuyên ở nơi đây tu hành.

Ðời Ðường niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba (744 T.L.) vua Huyền Tông sai Trung sứ Dương Quang Ðình vào núi cắt dây thường xuân. Dương Quang Ðình tình cờ gặp được thất của Sư. Ðình lễ bái thưa:

- Ðệ tử mộ đạo đã lâu, cúi xin Hòa thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy.
Sư bảo:
- Người nghiên học Thiền tông trong thiên hạ đều hội về Kinh sư (kinh đô vua), thiên sứ nên trở về triều thưa hỏi là đầy đủ. Bần đạo ở gọp núi cạnh khe không có chỗ dụng tâm.
Quang Ðình thiết tha khóc lóc lễ lạy.
Sư bảo:
- Thôi! Chớ lễ bần đạo. Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo?
Ðình thưa:
- Ðệ tử trí thức tối tăm chưa biết Phật với Ðạo nghĩa ấy thế nào?
Sư bảo:
- Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hội Ðạo, không tâm là Ðạo.
- Thế nào tức tâm là Phật?
- Phật nhân tâm mà ngộ, tâm do Phật được bày. Nếu ngộ không tâm thì Phật cũng chẳng có.
- Thế nào không tâm là Ðạo?
- Ðạo vốn không tâm, không tâm gọi là Ðạo. Nếu rõ không tâm thì không tâm tức là Ðạo vậy.
Quang Ðình đảnh lễ tin nhận.


Trở về triều, Quang Ðình tâu hết việc trong núi cho vua nghe. Vua ban sắc lệnh sai Quang Ðình đi thỉnh Sư. Ngày mười ba tháng chạp, Sư theo sứ về đến đế đô, Vua thỉnh ở chùa Bạch Liên.
Ðến ngày rằm tháng hai năm sau, Vua mời hết những danh Tăng và các người học Phật uyên bác đến nội đạo tràng (đạo tràng trong cung) cùng Sư xiển dương Phật lý.


Khi ấy, có Thiền sư Viễn lên tiếng hỏi Sư:
- Nay đối Thánh thượng để xét lường tôn chỉ, cần phải hỏi thẳng, đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của Thiền sư lấy gì làm đạo?
Sư đáp:- Không tâm là đạo.
Viễn hỏi:- Ðạo nhân tâm mà có, đâu được nói không tâm là đạo?
Sư đáp:
- Ðạo vốn không tên, nhân tâm có đạo. Tâm và tên nếu có thì đạo không rỗng suốt. Tột tâm đã không thì đạo nương đâu mà lập? Cả hai đều là giả danh.
Viễn hỏi:- Thiền sư thấy thân tâm là đạo rồi chăng?
Sư đáp:- Sơn tăng thân tâm xưa nay là đạo.
Viễn hỏi:
- Vừa nói không tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?
Sư đáp:
- Không tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm đạo nhất như nên nói không tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không, đạo cũng không tột nguồn chẳng có.
Viễn hỏi:- Xem hình thể Thiền sư rất nhỏ đâu thể hội được lý này?
Sư đáp:
- Ðại đức chỉ thấy tướng Sơn tăng, chẳng thấy được không tướng của Sơn tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Ðại đức, kinh nói "phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức ngộ được đạo kia". Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
Viễn bảo:- Nay thỉnh Thiền sư ở trên tướng nói không tướng.
Sư đáp:
- Kinh Tịnh Danh nói: "Bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng." Ðại đức nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo.

Viễn nghe nói thất sắc lặng lẽ rút lui.

Sư có bài kệ:
Tứ đại vô chủ phục như thủy
Ngộ khúc phùng trực vô bỉ thử
Tịnh uế lưỡng xứ bất sanh tâm
Ủng quyết hà tằng hữu nhị ý
Xúc cảnh đản tợ thủy vô tâm
Tại thế tung hoành hữu hà sự.
Dịch:

Bốn đại không chủ cũng như nước
Dù gặp cong ngay chẳng kia đây
Hai nơi nhơ sạch tâm không sanh
Thông bít chưa từng có hai ý
Xúc cảnh chỉ như nước không tâm
Ở thế tung hoành nào có việc?

Một đại như thế, bốn đại cũng vậy. Nếu rõ bốn đại không chủ tức ngộ không tâm. Nếu rõ không tâm tự nhiên hợp đạo.

*

Thiền sư Minh Chí hỏi:
- Nếu nói không tâm là đạo, ngói gạch không tâm cũng ưng là đạo? Thân tâm xưa nay là đạo, tứ sanh thập loại đều có thân tâm cũng ưng là đạo?
Sư đáp:
- Ðại đức nếu hiểu bằng vào thấy nghe hiểu biết thì cùng đạo khác xa, tức là người cầu thấy nghe hiểu biết, không phải là người cầu đạo. Kinh nói: "không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý...". Sáu căn còn không, thấy nghe hiểu biết nương đâu mà lập. Cùng tột gốc nguồn chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Ðâu không đồng với cỏ cây ngói gạch.

Minh Chí lặng thinh thối lui.

Sư có bài kệ:

Kiến văn giác tri vô chướng ngại
Thanh hương vị xúc thường tam-muội
Như điểu không trung chỉ ma phi
Vô thủ vô xả vô tắng ái
Nhược hội ứng xứ bản vô tâm
Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại.
Dịch:

Thấy nghe hiểu biết không chướng ngại
Tiếng mùi vị chạm thường tam-muội
Như chim trong không mặc tình bay
Không thủ không xả không thương ghét
Nếu hội mỗi nơi vốn không tâm
Mới được tên là Quán Tự Tại.

*

Thiền sư Chơn hỏi:
- Ðạo đã không tâm, Phật có tâm chăng? Phật cùng với đạo là một, là khác?
Sư đáp:- Chẳng một chẳng khác.
Chơn hỏi:
- Phật độ chúng sanh vì có tâm, đạo không độ chúng sanh vì không tâm. Một độ một không độ đâu được không khác?
Sư đáp:
- Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo không độ, đây là Ðại đức vọng sanh thấy hai. Theo Sơn tăng tức chẳng phải vậy. Phật là tên suông, đạo cũng dối lập, cả hai đều không thật, toàn là giả danh. Trong một cái giả sao lại phân làm hai?
Chơn hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, chính khi lập danh nhân cái gì mà lập? Nếu có lập được, đâu thể nói là không?
Sư đáp:
- Phật với đạo nhân tâm mà lập, xét cùng cái tâm dựng lập, tâm ấy cũng không, tâm đã là không liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn liền ngộ vốn không. Gắng lập hai tên Phật, Ðạo, đây là cái thấy biết của người Nhị thừa.
Sư bèn nói bài kệ (Không Tu, Không Tác):

Kiến đạo phương tu đạo
Bất kiến phục hà tu
Ðạo tánh như hư không
Hư không hà sở tu
Biến quán tu đạo giả
Bác hỏa mích phù âu
Ðản khán lộng khối lỗi
Tuyến đoạn nhất thời hưu.
Dịch:
Thấy đạo mới tu đạo
Chẳng thấy lấy gì tu
Tánh đạo như hư không
Hư không tu chỗ nào?
Khắp xem người tu đạo
Vạch lửa tìm bọt nổi
Chỉ xem người gỗ máy
Ðứt dây một lúc dừng.

*

Thiền sư Pháp Không hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng phải chẳng thật, vì sao các hàng tôn túc từ xưa đều nói có tu có đạo?
Sư đáp :
- Ðại đức lầm hội ý kinh; đạo vốn không tu, Ðại đức cưỡng tu, đạo vốn không tác, Ðại đức cưỡng tác, đạo vốn không sự, Ðại đức cưỡng sanh đa sự, đạo vốn không biết, ở trong ấy cưỡng biết. Thấy hiểu như thế cùng đạo trái nhau. Tôn túc từ xưa không như thế, tự Ðại đức không hội, xin suy gẫm đó.

Sư có bài kệ:

Ðạo thể bản vô tu
Bất tu tự hiệp đạo
Nhược khởi tu đạo tâm
Thử nhân bất hội đạo
Khí khước nhất chân tánh
Khước nhập náo hạo hạo
Hốt phùng tu đạo nhân
Ðệ nhất mạc hướng đạo.
Dịch:

Thể đạo vốn không tu
Chẳng tu tự hiệp đạo
Nếu khởi tâm tu đạo
Người này không hiệp đạo
Bỏ mất một tánh chân
Lại vào nơi phiền lụy
Chợt gặp người tu đạo
Bậc nhất chớ hướng đạo.

*

Thiền sư An hỏi:
- Ðạo đã giả danh, Phật nói dối lập, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng là phương tiện tiếp vật độ sanh, tất cả là vọng lấy gì làm chân?
Sư đáp:
- Vì có vọng nên đem chân đối vọng. Xét cùng tánh vọng vốn không, chân cũng chưa từng có. Thế thì biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị trọn không thật thể, tột cội gốc nó thì tất cả đều không.
An hỏi:
- Ðã nói tất cả là vọng, vọng cũng đồng chân, chân vọng không khác, lại là vật gì?
Sư đáp:
- Nếu nói vật gì, vật gì cũng vọng. Kinh nói "không tương tợ, không so sánh, bặt đường nói năng, như chim bay trong không".
Thiền sư An thầm phục mà không biết mối manh.

Sư có bài kệ:

Suy chân, chân vô tướng
Cùng vọng, vọng vô hình
Phản quán suy cùng tâm
Tri tâm diệc giả danh
Hội đạo diệc như thử
Ðáo đầu diệc tự ninh.
Dịch:
Xét chân, chân không tướng
Tìm vọng, vọng không hình
Quán lại tâm tìm xét
Biết tâm cũng giả danh
Hội đạo cũng như vậy
Ðến cùng chỉ lặng yên.

*

Thiền sư Ðạt Tánh hỏi:
- Thiền thật chí vi chí diệu, chân vọng cả hai đều bặt, Phật, đạo cả hai chẳng còn, tu hành tánh là không, danh tướng chẳng thật, thế giới như huyễn, tất cả đều giả danh. Khi người đạt đến cái hiểu biết này cũng không thể đoạn dứt hai gốc thiện ác của chúng sanh!
Sư đáp:
- Hai gốc thiện ác đều nhân tâm mà có, tìm tột tâm nếu có thì gốc ắt thật, xét tâm đã không thì gốc nhân đâu mà lập. Kinh nói:
"Pháp thiện pháp ác từ tâm hóa sanh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có."

Sư nói bài kệ:

Thiện ký tùng tâm sanh
Ác khởi ly tâm hữu
Thiện ác thị ngoại duyên
Ư tâm thật bất hữu
Xả ác tống hà xứ
Thủ thiện linh thùy thủ
Thương nha nhị kiến nhân
Phan duyên lưỡng đầu tẩu
Nhược ngộ bản vô tâm
Thủy hối tùng tiền cựu.
Dịch:
Thiện đã từ tâm sanh
Ác đâu rời tâm có
Thiện ác là duyên ngoài
Nơi tâm thật chẳng có
Bỏ ác đẩy chỗ nào?
Lấy thiện bảo ai giữ?
Than ôi! Người thấy hai
Bám víu hai đầu chạy.
Nếu ngộ vốn không tâm
Mới hối lỗi từ trước.

*

Vị quan cận thần hỏi:
- Thân này từ đâu mà đến? Sau khi trăm tuổi trở về đâu?
Sư đáp:
- Như người khi mộng từ đâu mà đến? Khi thức giấc lại đi về đâu?
Quan thưa:
- Khi mộng không thể nói không, đã thức không thể nói có. Tuy có mà không từ đâu đến, đi không đi về đâu.
Sư nói:- Bần đạo thấy thân này cũng như mộng.

Có bài kệ:

Thị sanh như tại mộng
Mộng lý thật thị náo
Hốt giác vạn sự hưu
Hườn đồng thùy thời ngộ
Trí giả hội ngộ mộng
Mê nhân tín mộng náo
Hội mộng như lưỡng ban
Nhất ngộ vô biệt ngộ
Phú quí dữ bần tiện
Cánh diệc vô biệt lộ.
Dịch:
Thấy cuộc sống như mộng
Trong mộng thật là ồn
Chợt giác muôn việc hết
Lại đồng tỉnh cơn mộng
Người trí nhận biết mộng
Kẻ mê tin mộng ồn
Biết mộng như hai việc
Một ngộ không ngộ khác
Giàu sang cùng nghèo hèn
Lại cũng không đường khác.

*

Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai (761 T.L.), ngày mùng năm tháng năm, Sư qui tịch.
Vua sắc ban hiệu là Ðại Hiển Thiền sư.

http://www.thuongchieu.net/index.php/ch ... n-s-bn-tnh
Kính chư đh:
Nếu nói: thân tâm này là Mộng!_
thì:
_ Lục đạo sáu đường do đâu mà có!?
Nếu nói 6 đường cũng là Mộng !?
Vậy thì :
tôi gọi ông là "con bò" được không !?
Nếu vẫn cho là được!
tôi bắt ông ăn cỏ, uống nước sông! kéo cày được không !?
Đến đây chắn chắn là Không được rồi!?
Vì sao:
Vì Ngay từ đầu ông đã hiều lầm" Kinh Phật _ Ý Tổ : Khi tu hành thì không có "Thực Chứng!" chỉ chỉ vòng vòng ở Tưởng mà thôi!
(Kinh Phật: bát nhã Tâm Kinh_ Ý Tổ : Lấy Không Niệm: làm Tông.)
Kính chúc cả nhà Thân tâm thường an lạc.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.


hoasenmaimai
Bài viết: 659
Ngày: 02/03/13 05:19
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: ben tre

Re: Hiểu thêm Tổ Sư Thiền .

Bài viết chưa xem gửi bởi hoasenmaimai »

Không cần phải trích dẫn dài như vậy , có thể rút gọn lại ngay chỗ cần nói .

Ở trên ghi như vầy :

Vị quan cận thần hỏi:
- Thân này từ đâu mà đến? Sau khi trăm tuổi trở về đâu?
Sư đáp:
- Như người khi mộng từ đâu mà đến? Khi thức giấc lại đi về đâu?
Quan thưa:
- Khi mộng không thể nói không, đã thức không thể nói có. Tuy có mà không từ đâu đến, đi không đi về đâu.
Sư nói:- Bần đạo thấy thân này cũng như mộng.


Ở dười ghi lại như vầy :

Nếu nói: thân tâm này là Mộng!

dh sotam26 cố tình làm sai lệch lời của Tổ sư chăng ?


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.39 khách