HOÀNG LONG BA CỬA ẢI
(Sách: Thơ Thiền Đường Tống, Đỗ Tùng Bách, trang 281-288)
Từ đời Tống về sau, sự truyền thừa của Thiền tông: Ở tông Qui Ngưỡng cơ hồ dứt mất, trong bốn tông còn lại, chỉ có tông Lâm Tế hưng thịnh hơn cả, tông Tào Động còn thanh thế tương đương. Dưới tông Lâm Tế còn phát sinh ra hai phái Hoàng Long và Dương Kỳ. Thời Nam Tống phái Dương Kỳ thật kiệt xuất, song nếu so với mức độ hưng thịnh của thời "Năm tông phái của một nguồn Tào Khê" thì không bằng. Khi triều Tống diệt vong, Thiền tông chẳng dứt như sợi dây, Thiền và Giáo dần dần pha trộn vào nhau.
Tông Lâm Tế truyền đến đời Tống, vị tông chủ đã tịch, người và pháp đều mất, tuy có sự truyền thừa nhưng tệ bệnh ngày càng phát sinh, sử dụng đánh hét dần dần trở thành náo loạn. Chánh Thiên Hồi Hổ, Ngũ Vị Quân Thần của tông Tào Động sa đà vào trong lý giải. Khi ấy hình thành phong trào tham công án, khán thoại đầu, ngồi thiền nhập định. Thiền sư Hoàng Long Tử Tâm chỉ trích rằng:
- Ngài Tâm Văn nói: "Thiền tăng nhân vì tham thiền đến nỗi mắc bệnh quá nhiều. Có người bị bệnh ở tai mắt, chỉ lấy giương mày, trợn mắt, ghé tai, gật đầu làm thiền. Có người mắc bệnh ở miệng và lưỡi, chỉ lấy lời nói điên đảo, quát mắng loạn xạ làm thiền. Có người mắc bệnh ở tay chân, chỉ vì lấy việc tiến trước, lùi sau, chỉ đông trỏ tây làm thiền. Có người bệnh ở hông ngực chỉ vì lấy việc tới chỗ cùng tận huyền diệu vượt ngoài tình kiến làm thiền. Cứ thật mà bàn thì tất cả đều là bệnh..."
- Thiền Môn Bảo Huấn, quyển hạ.
Ấy là bài xích việc tông Lâm Tế dùng đánh hét làm náo loạn; Tông Qui Ngưỡng vẽ vòng tròn chẳng qua là trò trỏ tay, quơ chân; tông chỉ của Tào Động rơi vào trong hang huyền; bởi vì không thể minh tâm kiến tánh, nên người đời sau bắt chước rập khuôn thủ đoạn tiếp dẫn người học của các bậc tông sư đã qua, đều là làm bừa và làm trò cười cho mọi người. Hoàng Long Huệ Nam ra đời trong bối cảnh này, có công lao rất lớn không hổ thẹn là nhân vật trung hưng của thiền môn.
Thiền sư Huệ Nam, họ Chương, người Tín Châu (nay là Thượng Nhiêu, tỉnh Giang Tây), đã từng nương thiền sư Lạc Đàm Trừng, phân tòa tiếp người, nhưng nhờ chịu ảnh hưởng của thiền sư Vân Phong Văn Duyệt nên chuyển sang tham học nơi ngài Thạch Sương Sở Viên. Chính lúc Huệ Nam đến ra mắt Thạch Sương, Thạch Sương đã chẳng giữ chức vụ gì và đang dừng chân ở Hành Nhạc, nên Huệ Nam phải đến pháp hội của Phước Nghiêm Hiền và làm thơ ký tại đây. Sau khi Hiền thị tịch, quan Quận thủ mời thỉnh Thạch Sương ra làm trụ trì. Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 17 có ghi lại nhân duyên gặp gỡ của hai người như sau:
- Sau khi Hiền thị tịch, quan Quận thủ mời Từ Minh (tức Thạch Sương) giữ chức trụ trì, khi Từ Minh đến nơi xong, Sư nghe Từ Minh luận nói phần nhiều chê bai các nơi đều thuộc tà giải. Chính chỗ sư được mật chỉ nơi Lặc Đàm cũng bị ngài bác bỏ. Sư liền vào thất, Từ Minh nói:
- Thư ký đã lãnh đồ chúng và du phương nổi tiếng khắp tùng lâm, nếu còn có nghi ngờ hãy ngồi mà thương lượng.
Sư thành khẩn tha thiết xin chỉ dạy. Từ Minh bảo:
- Ông học thiền Vân Môn ắt thông được yếu chỉ. Như nói: "Tha Động Sơn ba gậy". Động Sơn khi ấy có đáng cho ăn gậy hay không?
Sư đáp:
- Nên cho ăn gậy.
Từ Minh nghiêm nghị bảo:
- Nghe tiếng ba gậy liền bảo là nên cho ăn gậy, vậy ông từ sáng đến chiều nghe quạ kêu, chim hót thảy đều nên cho ăn gậy.
Minh liền ngồi ngay thẳng để Sư đốt hương lễ bái.
Minh lại hỏi:
- Triệu Châu nói: "Bà già ở Đài Sơn bị ta khám phá", thử chỉ ra chỗ khám phá xem?
Sư nghe hỏi toát mồ hôi mà chẳng đáp được.
Hôm sau Sư lại vào thất, bị Từ Minh mắng chửi. Sư nói:
- Mắng chửi đâu phải là qui củ từ bi thí pháp!
Từ Minh cười nói:
- Ông cho đó là mắng chửi sao?
Ngay câu này Sư đại ngộ, làm bài tụng như sau:
- Trội nhất tùng lâm là Triệu Châu
Lão bà nơi khám có mối manh
Hiện nay bốn bể như gương sáng
Bộ hành thôi chớ ghét con đường.
Và đem trình Từ Minh. Minh gật đầu.
Thế là chỗ ngộ của Hoàng Long là do nơi công án "Triệu Châu khám phá bà già". Công án "Tam quan" cưa Sư làm chấn động đương thời, thi tụng nói về công án này rất nhiều.
Trong thất Sư thường hỏi tăng:
- Mọi người đều có quê quán, quê quán của thượng tọa ở đâu?
Đang lúc hỏi qua đáp lại. Sư duỗi tay ra bảo:
- Tay tôi sao giống tay Phật?
Hỏi chỗ sở đắc của tông sư mà các vị đến tham thỉnh, Sư liễn duỗi chân nói:
- Chân tôi sao giống chân lừa?
Hơn ba mươi năm, Sư dạy ba câu này, không ai có khế hội ý chỉ. Nếu có ai đáp thì Sư chưa từng bảo là đúng hay không đúng, trong tùng lâm gọi đó là "Hoàng Long tam quan" (Ba cửa ải của Hoàng Long).
Sư tự làm bài tụng:
Phiên âm:
- Sanh duyên hữu ngữ nhân giai thức
Thủy mẫu hà tằng ly đắc hà
Đản kiến nhật đầu đông bạng thượng.
Thùy năng cánh khiết Triệu Châu trà.
Dịch thơ:
- Có lời quê quán người đều biết
Con sứa lìa tôm nào được đâu!
Chỉ thấy mé đông mặt trời mọc
Ai hay uống được trà Triệu Châu?.
Dịch thơ:
- Ngã thủ Phật thủ kiêm cử
Thiền nhân trực hạ tiến thủ
Bất động can qua đạo xuất
Đương xứ siêu Phật, việt Tổ.
Dịch thơ:
- Tay tôi tay Phật cùng giơ (đưa ra)
Thiền nhân lập tức lãnh hội
Chẳng động gươm đao nói ra
Ngay đây siêu Phật, vượt Tổ.
Phiên âm:
- Ngã cước lô cước tịnh hành
Bộ bộ đạp trước vô sanh
Hội đắc vân thu nhật quyễn
Phương tri thử đạo tung hoành.
Dịch thơ:
- Chân tôi chân lừa cùng hành (đi)
Bước bước dẫm nẻo vô sanh
Hội được mây cuốn trời quang
Mới biết đạo này tung hoành..
Tổng tụng:
- Sanh duyên đoạn xứ thân lô cước
Lô cước thân thời Phật thủ khai
Vị báo Ngũ hồ tham học giả
Tam quan nhất nhất thấu tương lai.
Tụng chung:
- Chỗ quê quán đoạn, chân lừa duỗi
Tay Phật đồng thời cũng mở ra
Bảo cùng người học mọi nơi biết
Tam quan mỗi cửa, hãy thấu qua!
Thơ tụng cổ của thiền nhân đều là các bài tụng giải thích công án của người trước, dùng biểu hiện cảnh giới của tự kỷ và Hoàng Long Huệ Nam tự mình làm tụng về công án của mình. Hơn nữa có bài tụng từng phần, có bài tụng chung, mỗi cách thức khác nhau.
"Hoàng Long tam quan" nếu như không có bốn bài kệ này, quả thật là không có dấu vết để dò tìm. Từ khi có bốn bài kệ này mới có thể nhờ thơ để đoán ý. Chỗ mà thiền gia gọi là Tam quan, chính là Sơ quan, Trùng quan và Lao quan. Nhờ tổng tụng làm cương lĩnh để nghiên cứu phần tụng, có thể hiểu được ý nghĩa rõ ràng: Quê quán là Sơ quan, là việc của sức giới, nhưng sắc không phải nhất như, nên phải nhờ sắc giới để biết không giới, nhờ giả hữu để biết diệu hữu, có quê quán là điều mọi người cùng biết cùng hiểu, nên nói: "Có lời quê quán người đều biết". Nhờ giả hữu mà diệu hữu, tự tánh hàm nhiếp tất cả, con sứa tỷ dụ cho Thể, con tôm tỷ dụ cho Dụng, cả hai không rời nhau. "Chỉ thấy mé Đông mặt trời mọc", tỷ dụ đã biết tự tánh diệu thể, mặc dù còn rơi ở một bên nhưng đã biết diệu thể hữu vi. Trong Tục đế có Chơn đế chẳng hội thì giống như thiền nhân mờ mịt vô tri, khỏi phải uống trà phạt của Triệu Châu, qua được cửa ải này là vượt qua khỏi Sơ quan.
Câu "Chỗ quê quán đoạn chân lừa duỗi". Chân tôi, chân lừa là Trùng quan, để so sánh từ sơ quan đến trùng quan, từ "Thật hữu" đến "Chơn không", là nhờ hành động mà đến, bước đạp nhằm "vô sanh", như mây tạnh trời quang, tất cả vô ngại, dọc ngang tự tại, đều là then máy đạt đạo cho nên Tổng tụng mới nói: Lúc chân lừa duỗi thì tay Phật cũng mở ra". Tay ta, tay Phật là Lao quan, ví dụ sau khi thành đạo, duỗi tay cứu người; tay ta duỗi ra giống như sự duỗi tay của Phật, mặc áo thuyết pháp vì đời làm thuyền từ, cho nên mới muốn: "Thiền nhân lập tức lãnh hội", không được bỏ lỡ cơ duyên. Nếu như chẳng do dự suy nghĩ, chẳng động đến gươm đao, không làm điều gì tổn thương và xúc phạm thì cùng với Phật Tổ không khác.
Bài thi tụng của thiền sư Chiếu Giác Tổng có thể nói là đạt nguyên ý của ngài Hoàng Long:
Phiên âm:
- Phật thủ tài khai cổ giám minh
sul là vô đắc ẩn tiêm hình
Triêu triêu nhật nhật đông biên xuất
Đa thiểu hành nhân vấn Bính Đinh.
Dịch xuôi:
Tay Phật vừa xòe ra, gương xưa tự tánh cũng vừa phát sáng. Chiếu soi sum la vạn tượng, không thể dấu diếm một mảy may. Mặt trời mỗi ngày từ phương Đông hiện lên cũng như chí đạo từ sắc giới hiển lộ. Nhưng người cầu đạo giống như khách bộ hành đi hỏi lửa ở đâu". (Đạo ở chỗ nào?)
Dịch thơ:
- Tay Phật xòe ra gương sáng soi
Vạn tượng không sao dấu bóng hình
Mỗi sáng phương đương mặt trời mọc
Không ít hành nhân hỏi Bính Đinh..
Bài kệ của thiền sư Cảnh Phước Thuận, văn từ trang nhã, ý tứ sâu sa:
Phiên âm:
- Trường giang vân tán thủy thao thao
Hốt nhĩ cuồng phong lãng tiện cao
Bất thức tự gia huyền diệu ý
Thiên ư lãng lý chiêm phong đào.
Dịch xuôi:
Sau khi xua tan những chướng ngại, tự tánh giống như) Sóng nước Trường giang chảy phăng phăng, hiện bày trước mắt. Công án "Hoàng Long tam quan" chẳng qua là nhân gió mà dậy sóng. Thiền nhân cầu đạo chẳng biết được thâm ý của ông chài (mục đích là câu được cá. Cá ẩn dưới sông nước). Công án của Hoàng Long cốt để kiến đạo, lại nghiêng về bên sóng gió, quên đi sự tồn tại của cá.
Dịch thơ:
- Trường giang con nước chảy thao thao
Chợt gặp cuồng phong sóng nổi cao
Chẳng biết ý sâu lão chài nọ
Nghiêng bên gió động nổi ba đào..
Dưới cửa Hoàng Long, các bậc cao tăng rất nhiều hơn ba mươi người như: Hoàng Long Tổ Tâm, Đông Lâm Thường Tổng. Bảo Phong Khắc Văn, Vân Cư Nguyên Hựu. Về sau đều là lãnh tụ của một phương, làm rạng rỡ pháp hệ Hoàng Long.