ĐẠI MAI
TRÁI MAI CHÍN
(Trích: Thơ Thiền Đường Tống - Đỗ Tùng bách, trang 188-197)
Thiền sư Pháp Thường ở núi Đại Mai, họ Trịnh, người xứ Tương Dương, Hồ Bắc. Thuở bé xuất gia ở chùa Ngọc Tuyền, Kinh Châu. Cảnh Đức Truyền Đặng Lục, quyển 7 ghi về quá trình đắc pháp và hoằng pháp của Sư như sau:
Ban đầu Sư tham vấn Đại Tịch (Thụy hiệu của Mã Tổ), hỏi:
- Thế nào là Phật?
Đại Tịch nói:
- Tức tâm tức Phật (chính tâm này là Phật).
Sư liền đại ngộ. Vào niên hiệu Trinh Nguyên (785-804) đời Đường, Sư trụ trì nơi mà Mai Tử Châu thuở xưa đã từng ẩn dật, đó là núi Đại Mai cách huyện Ngân bảy mươi dặm về phía Nam. Trong hội Diêm Quan có một vị tăng vào núi tìm trúc để làm gậy, lạc đường đi đến am Sư, hỏi ông:
- Hòa thượng ở núi này đã được bao lâu?
Sư đáp:
- Chỉ thấy bốn núi xanh lại vàng.
- Có đường nào ra núi chăng?
- Theo dòng suối mà đi ra.
Tăng trở về kể lại cho Diêm Quan.
Diêm Quan nói:
- Lúc ta ở Giang Tây, có lần gặp một nhà sư. Từ đó về sau chẳng biết tin tức. Có lẽ là nhà sư này chăng?
Nói xong liền sai vị tăng ấy đến mời Sư xuống núi. Sư có làm kệ từ tạ rằng:
- Rừng lạnh cây khô nương náu sống
Bao phen xuân đến chẳng thay lòng
Tiều phu bắt gặp còn chẳng đoái
Đâu phiền khách quý khổ cầu mong.
Đại Mai là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất ở Giang Tây, Diêm Quan Tề An cũng là đệ tử của Mã Tổ, Đại Mai Pháp Thường nhận được một lời khai thị của Mã Tổ, lập tức liễu ngộ, ở ẩn nơi núi Đại Mai, nghĩa là làm bạn với núi, nương tựa vào mây để nuôi lớn thánh thai - những ngày bảo nhậm, không để cho cảnh giới ngộ mất đi - Sau đó, Sư trả lời câu hỏi của đệ tử ngài Diêm Quan, lời nói ẩn chứa huyền cơ
"Chỉ thấy bốn núi xanh lại vàng", nghĩa là quên hết năm tháng, ở trong cảnh giới thánh, mới hay thể hội được "đại toàn", thế là đã trả xong vấn đề biến hóa của thế giới hiện tượng, còn hiển thị được ý cảnh của việc tu trì. Diêm Quan Tề An nghe xong câu đáp của Đại Mai, biết rằng Sư đã được yếu chỉ nên lúc đó thỉnh Sư ra núi. Pháp Thường dùng kệ để từ chối
"Rừng lạnh cây khô nương náu sống", nghĩa là nhìn thấu sắc tướng, chứng ngộ tự tánh, thân thể như cây không, tâm như tro lạnh, một mình nương náu nơi "rừng lạnh", như như chẳng động.
"Bao phen xuân đến chẳng thay lòng", đã trải qua bao phen "tro lạnh lại nóng", "cây khô đâm chồi" vẫn không thay đổi tâm ý ban đầu. Thân thể như cây khô, tiều phu lựa làm củi còn chẳng thèm để ý đến, thì đâu có nhọc gì đến khách quý tức người thợ mộc giỏi dùng ánh mắt tinh tường chuyên môn để tìm gỗ tốt? Biểu thị ý không ra khỏi núi của Sư.
Dù cho viên ngọc sáng được dấu kín, nhưng không thể tự dấu ánh sáng của mình. Về sau, Pháp Thường ra hoằng pháp, Mã Tổ biết được tin này liền phái người đến khảo nghiệm trình độ tu trì của Sư:
Đại Tịch nghe Sư trụ sơn, liền sai một vị tăng đến hỏi rằng:
- Hòa thượng gặp Mã Tổ, được cái gì mà trụ núi này?
Sư đáp:
- Mã sư nói với tôi:
"Tức tâm tức Phật" (chính tâm này là Phật).
Vị tăng bảo:
- Gần đây nghe Mã sư nói
"Phi tâm phi Phật".
Sư nói:
- Lão già này cứ mê hoặc người ta mãi, mặc tình cho ông ta Phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết Tức tâm tức Phật.
Vị tăng ấy trở về kể lại với Mã Tổ. Mã Tổ nói: "Đại chúng! Trái mai đã chín".
Sau khi người tu thiền ngộ đạo, thấu suốt tự tánh, tự nhiên đứng vững gót chân, chẳng cần nương người khác để hiểu, người ta nói gì thì nói, dù cho lời nói là của bậc thượng trí hay kẻ hạ ngu nhưng đều chẳng đổi thay, tức là ý này, vì người ấy đã thật biết rõ ràng. Pháp Thường đã từ lời khai thị "Tức tâm tức Phật" của Mã Tổ, thể hội sâu yếu đạo, nên khi Mã Tổ đổi cách nói là "Phi tâm phi Phật" thì đối với Sư trở thành dư thừa. Bởi vì bất kỳ lời nói nào cũng giống như cái nơm để bắt cá; khi bắt được cá rồi thì đâu cần biết cái nơm lớn nhỏ ra sao, hình thức như thế nào, do đó Sư mới phê bình Mã Tổ "Lão già này cứ mê hoặc người ta mãi" và dốc lòng tin tưởng những gì chính mình thâu lượm được, chẳng theo lời nói của Mã Tổ mà thay đổi. Vì thế Mã Tổ đặc biệt khen Sư rằng: Trái mai đã chín, nghĩa là sự ngộ đạo và tu trì của Đại Mai đã trọn vẹn và thành thục. Câu nói: "Trái mai đã chín" về sau trở thành đề tài để các thiền sư biểu đạt kiến giải thiền của mình như qua các bài tụng dưới đây:
Phiên âm:
- 1. Hà tùng y thực trụ thâm vân
Cái thị đương niên thố kiến nhân
Mai một nhất sanh tâm tức Phật
Vạn niên thiên tải bất thành trần.
Sở Vân Nam thiền sư(1)
Dịch thơ:
- Ăn cây mặc cỏ chốn núi sâu
Cũng bởi năm xưa lầm gặp người
Chôn vùi một kiếp tâm tức Phật
Muôn đời chẳng mất công án này.
Chú thích:
(1) Sở Vân Nam (813-888):
Thiền tăng đời Đường, người Phác Châu, Trung Quốc. Khi ra hoằng pháp, Sư lần lượt trụ trì các chùa Bảo Lâm núi Chi Hình, Từ Vân núi Thiên Đốn.
Tác phẩm: Bát nhã Tâm kinh tụng một quyển, Phá tà luận một quyển.
Phiên âm:
- 2. Lang tâm diệp bạc thiếp băng thanh
Lang thuyết hoàng kim thiếp bất ưng
Giả sư ngẫu nhiên thông nhất tiếu
Bán sanh thùy tín thủ cô đăng.
Giản Ông Kính.
Dịch thơ:
- Lòng chàng phụ bạc, thiếp kiên trinh
Dẫu có cho vàng thiếp chẳng ưng
Giả sử thấy vàng liền cười nhận
Nửa đời tiết phụ có ai tin.
Phiên âm:
- 3. Đa ta tôn tiền yểu điệu nương
Hảo tương u mộng não Tương Vương
Thiềntâm dĩ tác triêm nê nhứ
Bất trục đôn gphong thượng hạ cuồng.
Ngũ Tổ Tiêu.
Dịch thơ:
- Đa tạ cô nàng dáng thướt tha
Giống như thần nữ đắm Tương Vương
Tâm thiền đã định như bông thấm
Chẳng có quay cuồng theo gió đông.
Phiên âm:
- 4. Đại Mai tử thục
bàng lão dĩ tiểnti
Chánh nhân nghiệm chơn vọng
Tương phùng phách thủ quy.
Tùng Nguyên Nhạc thiền sư(2).
Dịch thơ:
- Đại Mai, trái mai chín
Bàng lão đã tiên tri
Măt huệ xét (nghiệm) thật giả
Gặp gỡ dắt nhau về.
Chú thích:
(2) Sùng Nhạc ((1139-12090: Thiền tăng đời Tống, họ Ngô, hiện Tung Nguyên, người Long Tuyền, Xứ Châu (Triết Giang), Trung Quốc, đệ tử của thiền sư Mật Am Hàm Kiệt, tông Lâm Tế phái Dương Kỳ.
Thuở nhỏ Sư có chí xuất gia, 23 tuổi mới thọ ngũ giới Sa di, lần lượt tham kiến các bậc tôn túc tỏng thiềm lâm như: Yết Linh Thạch Diệu, Đại Huệ Tông Cảo, Ứng Am Đàm Hoa v.v... Sư lần lượt trụ trì chùa Báo Ân Quang Hiếu, các thiền viện Thật Tế, Tiến Phước, Trí Độ, Vân Nham hoằng hóa cực thịnh. Niên hiệu Khánh Nguyên thứ 3 (1197), Sư trụ trì chùa Linh Á và khai sáng chùa Hiển Thân Báo Từ. Đệ tử Thiện Khai, Quang Mục vì Sư biên tập Tùng Nguyên Hòa thượng ngữ lục hai quyển. Lục Du soạn tháp minh.
Phiên âm:
- 5. Bàng công thân đáo thụ hàng kỳ
Nhất kiếm đương đầu trảm vạn cơ (ky)
Bất thị tùng tiền sanh giảo phá
Vị tha mai tử thực đa thời.
Tâm Am Trù.
Dịch thơ:
- Đích thân Bàng lão đã dựng cờ
Một gươm liền chặt đứt muôn cơ
Chẳng phải xưa kia trái mai sống
Mới hay trái ấy chín lâu rồi.
Có thể thấy Pháp Thường là người thấy suốt và thực ngộ sự ấn khả của Mã Tổ không sai chút nào. "Trái mai đã chín" chẳng phải là việc dễ dàng gì, biết bao nhiêu là công phu tham cầu, công phu bảo nhậm mới đạt đến sự thành tựu như thế.
---------------------------
battinh thử họa ý một bài:
- Tức tâm tức Phật, ngộ đương cơ
Phi tâm phi Phật, Tổ trở lời
Mặc kệ lão già phi tâm Phật
Mai này bảo nhậm "Pháp Thường" thôi.