Các biểu hiện trong quá trình bảo nhậm tự tánh!!!
Đã gửi: 09/10/07 20:56
Box cố ý dành cho người đã thấy Tự Tánh (đã một lần trực ngộ bổn lai)... Nhưng cũng muốn ai đó biết được để tiếp tục con đường của Tổ.
...
Thường thì người trực ngộ bổn lai thì có 2 căn để trực ngộ đó là nhãn căn & nhĩ căn các truờng hợp các căn khác trực ngộ rất hiếm nên không bàn luận...
Thứ nhất là nhãn căn: sau thời công phu hay đã có căn duyên từ truớc tu hành, nên chỉ cần duyên hay bậc giác ngộ thị hiện chỉ dẫn thì trực ngộ ngay cái không động truớc mắt, nó vốn không tướng, cùng khắp dù cho cảnh sắc trứoc mắt có diêu dộng cũng không ảnh huởng về cái không động này, nó vấn cùng khắp nhìn xa nhìn gần cũng thấy nó nhắm mắt lại vần thấy nó, nó không bị vướng kẹt khi tâm theo vật, nhờ cái này mà rõ biết các cảnh sắc do duyên khởi lúc đó hành giả nhờ lời kinh Phật dạy, ngữ lục nơi Tổ mà biết là một cái không động vốn lạ, nhưng cũng vốn quen,vì từ nhỏ đến lớn vẫn sống bằng cái công động này (ví dụ: khi nhỏ lúc bị mẹ không cho đi chơi hay khóc không ai dỗ - khóc 1 hồi ngồi thừ ra đó đơ mắt nhìn vần thấy nó - nhưng không biết nó là gì - lớn lên tu hành nói về tánh không này cũng khong hiểu nhưng qua công phu thì trực nhận lại cái không động này)... Khi đó lần hồi xem xét các căn khác biết rõ đây chính là cái thể của cái biết thường biết xưa này do tâm diêu động với trần duyên nên quên mất nó đi...
Thứ hai là nhĩ căn: Cũng như nhãn căn cái nghe ngày cùng khắp, không phân biệt âm thanh, nó vốn không động thường tĩnh, không bị vướng kẹt nơi âm tướng, nhưng vẫn không lìa âm tướng để nghe, nó cũng vốn cùng khắp, không phải tu hành mà có, khi nhận ra nó thì nó vốn xưa nay vẫn dùng, không sai khác, mà thấy rằng cái không đọng của nghe biết này ai cũng có...
Do nhiều người nghĩ rằng thấy tánh là rất cao siêu, nhưng thực ra tại mỗi người đều hiển lộ không bị che mất bởi cái gì, chỉ do tâm phan duyên mà bỏ quên nó...
Lúc đó hành giả bắt đầu bước vào thế giới Tổ Sư Thiền, nhưng việc bảo nhậm vẫn còn nhiều, vì thấy được bổn tánh giác nhưng vẫn không khác người thường chưa thấy tánh do tập khí nghiệp thức thói quen lâu đời vẫn còn nhiều...Nên ý thức là vẫn phải tu vẫn phải bảo nhậm. Nhưng việc thông hiểu các công án hay kinh Đốn Siêu Phương Tiện đã rõ phần nào (chưa toàn diện hết)..
Trong quá trình bảo nhậm tánh, thân tâm bắt đầu có những biểu hiện chuyển biến... Nếu đúng Pháp truớc tiên bảo nhậm và sống với tánh không, nhưng nếu ai ý thức là tánh này thường sanh các trí thì việc dùng niệm trí vẫn như người bình thường (chỗ dùng trí này thực ra các Tổ ngày xưa là chỉ các cửa ải phải vượt qua - gọi là Tam Quan)... Nếu dùng tánh mà bỏ Trí cũng được nhưng phải thuần thục tánh này trong mọi thời, nhưng còn phải hiểu là đến lúc nào đó tánh này sống quen dần thì vẫn phải dùng trí tác Pháp. Nếu không sẽ rơi vào không giới của tánh không này mà đi vào đoạn diệt.
Các biểu hiện Thân Tâm khi bảo nhậm tánh không này:
1. Quên: đó là việc dừng trí suy diễn ít lại do việc giác về tánh thể, nên các tác Pháp bên ngoài sẽ quên dần, chỉ lồ lộ một thể tánh không này, cảm giác quên này mạnh lên dần, quên đến độ tột cùng là quên luôn sự tồn tại của Thân & Tâm, khi ấy là bước vào mức định rất cao, trong mọi thời, còn nếu không thì Ngồi Thiền cho đến được sự quên của ý thức chỉ còn lại tánh không của cái biết thường, lúc đó tự khắc nó sẽ chuyển vào Thánh Trí, Trí này thì thật siêu việc siêu đến nổi chỉ cần nhích niệm hướng vào vấn đề nào (đây là khởi tưởng - thọ) là tức vấn đề đó tuông trào không ngừng nghĩ cho đến rốt ráo hết vấn đề đó thậm chí có thể khởi cùng lúc rất nhiều vấn đề, nó chỉ là sự mái niệm của hành và thức & hoan toàn tự động, hành ấm đã bắt đầu nó tự động hoạt động mà không cần tác ý thức vào để suy niệm, ý thức lúc này chỉ phân biệt các pháp đó... Nhưng việc sống với trí đó phải thường xuyên nếu không cũng sẽ trở lại bình thường, vì sống với trí này là bắt đàu hành kết hợp với thức để chuyển đàn thức thành trí, hành sẽ tự hoạt đọng chứ không cần mái niệm... Gọi là trí vô sư, trí này siêu nhanh nhạy, nhạy đến mức chỉ cần thay đổi vấn đề suy niệm nó sẽ tự thông chảy ra mà không cần sự can thiệp của suy niệm suy nghĩ. Nhưng để vào được trí này nhanh nhất phải ngồi thiền (cái này đừng ccháp vào lời Tổ khi xưa - Tổ xưa phá chấp để không bụot tâm trong việc ngồi Thiền - còn ngày này ngồi Thiền làm cho yên thân mà hiển rõ dần tánh giác để buớc vào chố sâu chỉ định - Còn chấp vào việc ngồi hay không ngòi thiền là không nên), và không dễ gì được trí này nếu không thường xuyên ngồi Thiền, hay cố gằng ngồi thiền thì không thể đạt được trí này (phải ngồi cho đến khi vượt qua được những khó chịu đau đớn của việc ngồi lâu lúc này mới đi sâu vào định)... Nếu được trí này và thường xuyên sống với trí này thì việc chứng đạo sẽ không còn xa...
2. Ít khởi niệm tưởng: lẽ dĩ nhiên vì giác vào tự tánh thì niệm tưởng ít đãn, vọng tưởng ít khởi, mà khi khởi thì thật sự rõ biết, nên việc ít khởi niệm tưởng là có...
3. Ít thọ cảm giác: đây là biểu hiện rõ rệt nhất, đó là ít thọ nóng lạnh, đau khổ chóng qua, mọi dục nhiễm như ăn ngon, dâm dục, nóng giận, thích hưởng thụ sẽ ít dần, thay vào đó là sự an lạc yên định của Tâm... Nên cũng không thác mắc gì, khi người này sống khi trời ôi bức nhiều người không chịu được mà hành giả vẫn thấy bình thường (điều này do bình thường tự nhiên không phải do sự chịu đựng cố gắng mà có được). Nên Tâm hiền diệu ẩn nhẫn bắt đầu xuất hiện...
4. Khí lực nơi thân: khí lực trong thân sẽ thay đổi, các biểu hiện của khí lực, là thấy rõ có sự lưu chuyển khí trong thân, có sự thấy đổi chút íh thể tạng, như nhẹ nhàng, thanh thản, mát mẻ tự thân, nên việc đắc Tâm hay Thân là điều sẽ có khi có sự chuyển đổi cho Thân Tâm Tương ưng với nhau. Nó Thay đổi đến mọt lúc nào đó mà chuyển thân tâm, nên việc oai nghi tế hạnh bắt đầu xuất hiện mà không phải câu thúc thân tâm, như nhiều người nghĩ. Lúc đó tự nhiên thấy một số huyệt đạo trên cơ thể họi tụ khí do định lực và hành ấm lưư chuyển gôm lại, để sau này biết là sẽ khai mởi một kỹ năng gì đó đặc dị ở tâm, thay tự thoát ra ngồai nếu khí lực quá mạnh, điều này hành giả yên tâm, vì không phải là luyện khí công mà sợ tẩu hoả nhập ma, vì khí lực này tự nó điều hoà cho thâm tâm an định chứ không phải là sự thúc ép lưu chuyển khí trong thân như luyện thần khí ở luyện tập võ công hay luyện thần thông, nen việc tẩu hỏa nhập ma mà điên loạn như nhiều người lầm tưởng là hoàn toàn không, còn có thì thự ra trong tâm này cfon chất chứa điều gì chưa xả bỏ như cầu thần thông, cầu trí lực, lợi dưỡng....
5. Ý Niệm: Ý niệm nhạy bén bắt đầu xuất hiện, các biển hiện này là đôi khi nhận bíet tâm người đối thoại với mình tâm như thế nào, cũng tùy ào công phu nếu cao sẽ rõ từng ý niệm người khác, còn ít thì biết rõ người đó tâm như thế nào (buồn vui yêu ghét, sân hận kiêu mạn, nghi hoặc...)...
6. Lực gia trì của chư Phật Bồ Tát: bắt đầu cẩm nhận được các lực gia trì của các Bậc Giác ngộ có nhân duyên với mình, thường xuyên gia trì hộ niệm cho định lực của mình, pháp hạnh cho mình, tuy vẫn chưa biết vị đó là ai, nhưng ít nhiều cũng thấy việc tu hành xưa này của mỗi người điều có sự trợ lực từ các vị Phật Bồ Tát... Mình từ chối cũng không được... Vì đó Tâm chúng ta tương ưng đang đi vào còn đuờng giải thoát của các vị ấy... Bình thường do tâm diêu động vô minh nếu không tu hay tu kém sẽ không nhận ra được điều nầy là thật....
7. Nhận biết định lực: Bắt đầu nhận biết định lực của quốc đọ tu hành (như các vùng Thánh Địa), hay định lực của người chuyên tu khác tùy theo mức độ.
8. Phát hiện Tâm Ma: Tâm ma ai cũng có, các tâm này thường phá hoại công đức người tu rất nhiều, nên việc phát hiện các Tâm này là sự thật, tâm đó mà các vị dắc ngộ đi trứoc đã biện ma cho người sau này rõ biết, nếu không nhận diện được các Tâm Ma này thì chúng thường xuyên phá quấy, chỉ có cắt đứt chúng chính bằng trí huệ, nên phải mài luyện gươm trí huệ này cho thật bén để chặc đứt hoàn toàn lũ Ma Tâm này... Nếu nhận diện được chúng mà chặt đứt chúng bằng trí huệ thì chúng sẽ không bén mãn nữa, còn không chúng sẽ thường sanh khởi mà hủy hoại đạo lực tu hành....
Còn nhiều thay đổi khác tuy không nhiều nên không đề cập... Còn ai công phu sâu hơn thấy rõ hơn xin mở rộng góp ý thêm nhằm cũng cố mở rộng về Thiền Đốn Ngộ... Đừng sợ người khác nghĩ mình cao mạn mà hãy nghĩ vì lợi ích giải thoát cho nhiều người...
Kính!!!
...
Thường thì người trực ngộ bổn lai thì có 2 căn để trực ngộ đó là nhãn căn & nhĩ căn các truờng hợp các căn khác trực ngộ rất hiếm nên không bàn luận...
Thứ nhất là nhãn căn: sau thời công phu hay đã có căn duyên từ truớc tu hành, nên chỉ cần duyên hay bậc giác ngộ thị hiện chỉ dẫn thì trực ngộ ngay cái không động truớc mắt, nó vốn không tướng, cùng khắp dù cho cảnh sắc trứoc mắt có diêu dộng cũng không ảnh huởng về cái không động này, nó vấn cùng khắp nhìn xa nhìn gần cũng thấy nó nhắm mắt lại vần thấy nó, nó không bị vướng kẹt khi tâm theo vật, nhờ cái này mà rõ biết các cảnh sắc do duyên khởi lúc đó hành giả nhờ lời kinh Phật dạy, ngữ lục nơi Tổ mà biết là một cái không động vốn lạ, nhưng cũng vốn quen,vì từ nhỏ đến lớn vẫn sống bằng cái công động này (ví dụ: khi nhỏ lúc bị mẹ không cho đi chơi hay khóc không ai dỗ - khóc 1 hồi ngồi thừ ra đó đơ mắt nhìn vần thấy nó - nhưng không biết nó là gì - lớn lên tu hành nói về tánh không này cũng khong hiểu nhưng qua công phu thì trực nhận lại cái không động này)... Khi đó lần hồi xem xét các căn khác biết rõ đây chính là cái thể của cái biết thường biết xưa này do tâm diêu động với trần duyên nên quên mất nó đi...
Thứ hai là nhĩ căn: Cũng như nhãn căn cái nghe ngày cùng khắp, không phân biệt âm thanh, nó vốn không động thường tĩnh, không bị vướng kẹt nơi âm tướng, nhưng vẫn không lìa âm tướng để nghe, nó cũng vốn cùng khắp, không phải tu hành mà có, khi nhận ra nó thì nó vốn xưa nay vẫn dùng, không sai khác, mà thấy rằng cái không đọng của nghe biết này ai cũng có...
Do nhiều người nghĩ rằng thấy tánh là rất cao siêu, nhưng thực ra tại mỗi người đều hiển lộ không bị che mất bởi cái gì, chỉ do tâm phan duyên mà bỏ quên nó...
Lúc đó hành giả bắt đầu bước vào thế giới Tổ Sư Thiền, nhưng việc bảo nhậm vẫn còn nhiều, vì thấy được bổn tánh giác nhưng vẫn không khác người thường chưa thấy tánh do tập khí nghiệp thức thói quen lâu đời vẫn còn nhiều...Nên ý thức là vẫn phải tu vẫn phải bảo nhậm. Nhưng việc thông hiểu các công án hay kinh Đốn Siêu Phương Tiện đã rõ phần nào (chưa toàn diện hết)..
Trong quá trình bảo nhậm tánh, thân tâm bắt đầu có những biểu hiện chuyển biến... Nếu đúng Pháp truớc tiên bảo nhậm và sống với tánh không, nhưng nếu ai ý thức là tánh này thường sanh các trí thì việc dùng niệm trí vẫn như người bình thường (chỗ dùng trí này thực ra các Tổ ngày xưa là chỉ các cửa ải phải vượt qua - gọi là Tam Quan)... Nếu dùng tánh mà bỏ Trí cũng được nhưng phải thuần thục tánh này trong mọi thời, nhưng còn phải hiểu là đến lúc nào đó tánh này sống quen dần thì vẫn phải dùng trí tác Pháp. Nếu không sẽ rơi vào không giới của tánh không này mà đi vào đoạn diệt.
Các biểu hiện Thân Tâm khi bảo nhậm tánh không này:
1. Quên: đó là việc dừng trí suy diễn ít lại do việc giác về tánh thể, nên các tác Pháp bên ngoài sẽ quên dần, chỉ lồ lộ một thể tánh không này, cảm giác quên này mạnh lên dần, quên đến độ tột cùng là quên luôn sự tồn tại của Thân & Tâm, khi ấy là bước vào mức định rất cao, trong mọi thời, còn nếu không thì Ngồi Thiền cho đến được sự quên của ý thức chỉ còn lại tánh không của cái biết thường, lúc đó tự khắc nó sẽ chuyển vào Thánh Trí, Trí này thì thật siêu việc siêu đến nổi chỉ cần nhích niệm hướng vào vấn đề nào (đây là khởi tưởng - thọ) là tức vấn đề đó tuông trào không ngừng nghĩ cho đến rốt ráo hết vấn đề đó thậm chí có thể khởi cùng lúc rất nhiều vấn đề, nó chỉ là sự mái niệm của hành và thức & hoan toàn tự động, hành ấm đã bắt đầu nó tự động hoạt động mà không cần tác ý thức vào để suy niệm, ý thức lúc này chỉ phân biệt các pháp đó... Nhưng việc sống với trí đó phải thường xuyên nếu không cũng sẽ trở lại bình thường, vì sống với trí này là bắt đàu hành kết hợp với thức để chuyển đàn thức thành trí, hành sẽ tự hoạt đọng chứ không cần mái niệm... Gọi là trí vô sư, trí này siêu nhanh nhạy, nhạy đến mức chỉ cần thay đổi vấn đề suy niệm nó sẽ tự thông chảy ra mà không cần sự can thiệp của suy niệm suy nghĩ. Nhưng để vào được trí này nhanh nhất phải ngồi thiền (cái này đừng ccháp vào lời Tổ khi xưa - Tổ xưa phá chấp để không bụot tâm trong việc ngồi Thiền - còn ngày này ngồi Thiền làm cho yên thân mà hiển rõ dần tánh giác để buớc vào chố sâu chỉ định - Còn chấp vào việc ngồi hay không ngòi thiền là không nên), và không dễ gì được trí này nếu không thường xuyên ngồi Thiền, hay cố gằng ngồi thiền thì không thể đạt được trí này (phải ngồi cho đến khi vượt qua được những khó chịu đau đớn của việc ngồi lâu lúc này mới đi sâu vào định)... Nếu được trí này và thường xuyên sống với trí này thì việc chứng đạo sẽ không còn xa...
2. Ít khởi niệm tưởng: lẽ dĩ nhiên vì giác vào tự tánh thì niệm tưởng ít đãn, vọng tưởng ít khởi, mà khi khởi thì thật sự rõ biết, nên việc ít khởi niệm tưởng là có...
3. Ít thọ cảm giác: đây là biểu hiện rõ rệt nhất, đó là ít thọ nóng lạnh, đau khổ chóng qua, mọi dục nhiễm như ăn ngon, dâm dục, nóng giận, thích hưởng thụ sẽ ít dần, thay vào đó là sự an lạc yên định của Tâm... Nên cũng không thác mắc gì, khi người này sống khi trời ôi bức nhiều người không chịu được mà hành giả vẫn thấy bình thường (điều này do bình thường tự nhiên không phải do sự chịu đựng cố gắng mà có được). Nên Tâm hiền diệu ẩn nhẫn bắt đầu xuất hiện...
4. Khí lực nơi thân: khí lực trong thân sẽ thay đổi, các biểu hiện của khí lực, là thấy rõ có sự lưu chuyển khí trong thân, có sự thấy đổi chút íh thể tạng, như nhẹ nhàng, thanh thản, mát mẻ tự thân, nên việc đắc Tâm hay Thân là điều sẽ có khi có sự chuyển đổi cho Thân Tâm Tương ưng với nhau. Nó Thay đổi đến mọt lúc nào đó mà chuyển thân tâm, nên việc oai nghi tế hạnh bắt đầu xuất hiện mà không phải câu thúc thân tâm, như nhiều người nghĩ. Lúc đó tự nhiên thấy một số huyệt đạo trên cơ thể họi tụ khí do định lực và hành ấm lưư chuyển gôm lại, để sau này biết là sẽ khai mởi một kỹ năng gì đó đặc dị ở tâm, thay tự thoát ra ngồai nếu khí lực quá mạnh, điều này hành giả yên tâm, vì không phải là luyện khí công mà sợ tẩu hoả nhập ma, vì khí lực này tự nó điều hoà cho thâm tâm an định chứ không phải là sự thúc ép lưu chuyển khí trong thân như luyện thần khí ở luyện tập võ công hay luyện thần thông, nen việc tẩu hỏa nhập ma mà điên loạn như nhiều người lầm tưởng là hoàn toàn không, còn có thì thự ra trong tâm này cfon chất chứa điều gì chưa xả bỏ như cầu thần thông, cầu trí lực, lợi dưỡng....
5. Ý Niệm: Ý niệm nhạy bén bắt đầu xuất hiện, các biển hiện này là đôi khi nhận bíet tâm người đối thoại với mình tâm như thế nào, cũng tùy ào công phu nếu cao sẽ rõ từng ý niệm người khác, còn ít thì biết rõ người đó tâm như thế nào (buồn vui yêu ghét, sân hận kiêu mạn, nghi hoặc...)...
6. Lực gia trì của chư Phật Bồ Tát: bắt đầu cẩm nhận được các lực gia trì của các Bậc Giác ngộ có nhân duyên với mình, thường xuyên gia trì hộ niệm cho định lực của mình, pháp hạnh cho mình, tuy vẫn chưa biết vị đó là ai, nhưng ít nhiều cũng thấy việc tu hành xưa này của mỗi người điều có sự trợ lực từ các vị Phật Bồ Tát... Mình từ chối cũng không được... Vì đó Tâm chúng ta tương ưng đang đi vào còn đuờng giải thoát của các vị ấy... Bình thường do tâm diêu động vô minh nếu không tu hay tu kém sẽ không nhận ra được điều nầy là thật....
7. Nhận biết định lực: Bắt đầu nhận biết định lực của quốc đọ tu hành (như các vùng Thánh Địa), hay định lực của người chuyên tu khác tùy theo mức độ.
8. Phát hiện Tâm Ma: Tâm ma ai cũng có, các tâm này thường phá hoại công đức người tu rất nhiều, nên việc phát hiện các Tâm này là sự thật, tâm đó mà các vị dắc ngộ đi trứoc đã biện ma cho người sau này rõ biết, nếu không nhận diện được các Tâm Ma này thì chúng thường xuyên phá quấy, chỉ có cắt đứt chúng chính bằng trí huệ, nên phải mài luyện gươm trí huệ này cho thật bén để chặc đứt hoàn toàn lũ Ma Tâm này... Nếu nhận diện được chúng mà chặt đứt chúng bằng trí huệ thì chúng sẽ không bén mãn nữa, còn không chúng sẽ thường sanh khởi mà hủy hoại đạo lực tu hành....
Còn nhiều thay đổi khác tuy không nhiều nên không đề cập... Còn ai công phu sâu hơn thấy rõ hơn xin mở rộng góp ý thêm nhằm cũng cố mở rộng về Thiền Đốn Ngộ... Đừng sợ người khác nghĩ mình cao mạn mà hãy nghĩ vì lợi ích giải thoát cho nhiều người...
Kính!!!