BÍCH NHAM LỤC

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 52:
TRIỆU CHÂU ĐỘ LỪA ĐỘ NGỰA
CÔNG ÁN:
Tăng hỏi Triệu Châu: Nghe tiếng cầu đá Triệu Châu đã lâu, đến nơi chỉ thấy cầu khỉ. Triệu Châu bảo: Ông chỉ thấy cầu khỉ, nên chẳng thấy cầu đá. Tăng hỏi: Thế nào là cầu đá ? Triệu Châu đáp: Độ lừa độ ngựa.
GIẢI THÍCH:
Thành Triệu Châu có cây cầu đá do Lý Ưng tạo, đến nay nổi tiếng trong thiên hạ. Cầu khỉ tức là cây cầu bắc một cây. Vị Tăng này cố ý làm giảm uy quang Triệu Châu, nên hỏi: Nghe tiếng cầu đá Triệu Châu đã lâu, đến nơi chỉ thấy cầu khỉ. Triệu Châu đáp: Ông chỉ thấy cầu khỉ nên chẳng thấy cầu đá. Cứ chỗ hỏi của vị Tăng giống như lối nói chuyện bình thường. Triệu Châu dùng câu để câu y, quả nhiên y bị mắc câu. Theo sau y hỏi: Thế nào là cầu đá ? Triệu Châu đáp: Độ lừa độ ngựa. Quả thật, trong lời tự có chỗ xuất thân. Triệu Châu không giống Lâm Tế, Đức Sơn dùng gậy dùng hét, chỉ dùng ngôn cú sống chết. Công án này khéo khéo xem, chỉ giống như bình thường đấu cơ phong. Tuy nhiên như thế, cũng thật khó nương gá. Một hôm, Triệu Châu cùng Thủ tọa xem cầu đá. Châu hỏi: Là người nào tạo ? Thủ tọa đáp: Lý Ưng tạo. Châu hỏi: Khi tạo nhằm chỗ nào hạ thủ ? Thủ tọa đáp không được. Châu bảo: Bình thường nói cầu đá, hỏi đến chỗ hạ thủ cũng không biết. Một hôm, Triệu Châu quét đất, có vị Tăng hỏi: Hòa thượng là thiện tri thức vì sao lại có bụi ? Châu đáp: Bên ngoài đến. Tăng hỏi: Già-lam thanh tịnh vì sao lại có bụi ? Châu đáp: Lại có một điểm. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là đạo ? Châu đáp: Ngoài tường ấy. Tăng thưa: Chẳng phải hỏi đạo này, hỏi đại đạo. Châu đáp: Đại đạo thấu Trường An. Triệu Châu riêng dùng cơ này, Sư đến chỗ bình thật an ổn, vì người cũng không chạm bén đứt tay, tự nhiên cao vót, dùng được cơ này quá khéo. Tuyết Đậu tụng ra:
TỤNG:
Cô nguy bất lập đạo phương cao
Nhập hải hoàn tu điếu cự ngao
Kham tiếu đồng thời Quán Khê lão
Giải vân phách tiễn diệc đồ lao.
DỊCH:
Vút siêu chẳng lập đạo mới cao
Vào biển cần câu được cá ngao
Cười ngất đồng thời cùng lão Quán
Bảo rằng chụp tiễn uổng công lao.
GIẢI TỤNG:
Câu “vút siêu chẳng lập đạo mới cao”, Tuyết Đậu tụng Triệu Châu chỗ bình thường vì người, chẳng lập huyền diệu, chẳng lập cao vút. Như các nơi nói: Đập nát hư không, đập nát Tu-di, đáy biển sanh bụi, Tu-di vỗ sóng, mới gọi là đạo của Tổ sư. Do đó, Tuyết Đậu nói: “Vút siêu chẳng lập đạo mới cao.” Vách đứng muôn nhẫn, bày chỗ linh nghiệm kỳ đặc của Phật pháp, tuy là cô nguy cao vót chẳng bằng không lập cô nguy. Chỉ bình thường tự nhiên lăn trùng trục chẳng lập mà tự lập, chẳng cao mà tự cao, cơ thoát cô nguy mới thấy huyền diệu. Vì thế, Tuyết Đậu nói: “Vào biển cần câu được cá ngao.” Xem Sư là bậc Tông sư mắt sáng, thong thả buông một câu, dùng một cơ, chẳng câu tôm tép ốc trai, chỉ câu cá ngao to, quả là bậc tác gia. Một câu này dùng bày rõ phần đầu công án. Câu “cười ngất đồng thời cùng lão Quán”, có vị Tăng hỏi Quán Khê: Nghe danh Quán Khê đã lâu, đến nơi chỉ thấy cái ao ngâm gai. Quán Khê đáp: Ông chỉ thấy cái ao ngâm gai nên chẳng thấy Quán Khê. Tăng hỏi: Thế nào là Quán Khê ? Quán Khê đáp: Chụp tên gấp. Lại Tăng hỏi Hoàng Long: Nghe tiếng Hoàng Long đã lâu, đến nơi chỉ thấy con rắn khoang đỏ. Long đáp: Ông chỉ thấy con rắn khoang đỏ nên chẳng thấy Hoàng Long. Tăng hỏi: Thế nào là Hoàng Long ? Long đáp: Kéo dài lê thê. Tăng hỏi: Bỗng gặp Kim sí điểu đến thì sao ? Long đáp: Tính mạng khó còn. Tăng hỏi: Thế thì bị chim ăn rồi ? Long đáp: Cám ơn ông cúng dường. Đây là lập cô nguy, phải thì phải, chẳng khỏi phí công, không bằng Triệu Châu dùng lối bình thường. Thế nên, Tuyết Đậu nói: “Bảo rằng chụp tiễn uổng công lao.” Chỉ như Quán Khê, Hoàng Long thì gác lại, đến Triệu Châu nói “độ lừa độ ngựa” làm sao hội, thử biện xem ?


lừa, ngựa cũng có à ?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chanhientam đã viết:Đợt này ... màu đỏ mất tiêu. Không có bác, Ht nương vào đâu mà nói dóc đây. Buồn! ~x(

Cô Tâm thân mến,
nhiều khi mới post lên chưa có ý, đọc lại mới nẩy ra ý nên thêm vào sau vậy.
Chẳng phải là cố ý đùa cô. Xin lỗi nhé.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 53:
BÁ TRƯỢNG CON NGỖNG
LỜI DẪN:
Khắp cõi chẳng giấu, toàn cơ riêng bày, chạm đến không kẹt, rõ ràng có cơ xuất thân. Dưới câu không riêng, mỗi mỗi có ý giết người. Hãy nói cổ nhân cứu kính nhằm chỗ nào thôi hết, thử cử xem ?
CÔNG ÁN:
Mã Tổ cùng Bá Trượng dạo vườn, thấy bầy vịt trời bay qua. Mã Tổ hỏi: Là cái gì ? Bá Trượng thưa: Bầy vịt trời. Mã Tổ hỏi: Đi đâu rồi ? Bá Trượng thưa: Bay qua rồi. Mã Tổ liền nắm lỗ mũi Bá Trượng vặn mạnh. Bá Trượng đau quá la lên. Mã Tổ bảo: Đâu từng bay qua.
GIẢI THÍCH:
Chánh nhãn xem ra, lại là Bá Trượng đủ chánh nhân. Mã Tổ không gió dậy sóng. Các ông cần cùng Phật, Tổ làm thầy người tham lấy Bá Trượng, cần tự cứu chẳng xong tham lấy Mã Tổ. Xem cổ nhân trong mười hai giờ chưa từng chẳng ở trong ấy. Bá Trượng xuất gia từ thuở bé, học tập giới định tuệ, gặp lúc Mã Tổ xiển hóa ở Nam Xương tận tâm nương đỗ, hai mươi năm làm thị giả, cho đến tái tham dưới tiếng hét mới được đại ngộ. Hiện nay có người nói: Vốn không chỗ ngộ, làm cái cửa ngộ, dựng lập việc này. Nếu kiến giải thế ấy, như trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử. Đâu chẳng thấy cổ nhân nói: Nguồn chẳng sâu thì dòng không dài, trí chẳng lớn thì thấy chẳng xa. Nếu hiểu là dựng lập thì Phật pháp đâu đến ngày nay. Xem Mã Tổ cùng Bá Trượng đi dạo vườn thấy bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ đâu không biết vịt trời, tại sao lại hỏi thế ấy ? Hãy nói ý Ngài rơi tại chỗ nào ? Bá Trượng chỉ biết chạy theo sau. Mã Tổ nắm lỗ mũi Sư vặn mạnh, Bá Trượng chịu đau không nổi la lên. Mã Tổ bảo: Đâu từng bay qua. Bá Trượng liền tỉnh. Ngày nay có người hiểu lầm, vừa hỏi đến liền la lên, buồn cười nhảy chẳng ra. Hàng Tông sư vì người phải chỉ dạy cho thấy tột. Nếu họ chưa hiểu, chẳng nệ chạm bén đứt tay, chỉ cốt dạy họ rõ được việc này. Vì thế nói, hội thì giữa đường thọ dụng, chẳng hội thì thế đế lưu bố. Mã Tổ đương thời, nếu chẳng nắm đứng thì chỉ thành thế đế lưu bố. Phải là thấy cảnh gặp duyên xoay trở, dạy trở về chính mình, trong mười hai giờ không chỗ khiếm khuyết, gọi đó là tánh địa minh bạch. Nếu chỉ nương cỏ gá cây, nhận cái trước lừa sau ngựa, có dùng vào chỗ gì ? Xem Mã Tổ, Bá Trượng dụng thế ấy, tuy giống như sáng tỏ tinh lanh, mà chẳng ở chỗ sáng tỏ tinh lanh. Bá Trượng chịu đau không nổi la lên, nếu thấy thế ấy thì khắp cõi chẳng giấu, mỗi mỗi hiện thành. Vì thế nói, một chỗ thấu thì ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời thấu. Hôm sau, Mã Tổ lên toà, chúng vừa tụ họp, Bá Trượng ra cuốn chiếu. Mã Tổ xuống tòa về phương trượng, hỏi Bá Trượng: Ta vừa lên tòa chưa nói pháp, vì sao ông lại cuốn chiếu ? Bá Trượng thưa: Hôm qua bị Hòa thượng nắm lỗ mũi đau. Mã Tổ hỏi: Hôm qua ông nhằm chỗ nào lưu tâm ? Bá Trượng thưa: Ngày nay lỗ mũi lại chẳng đau. Mã Tổ bảo: Ông biết sâu việc ngày nay. Bá Trượng làm lễ, trở về liêu thị giả khóc. Đồng sự thị giả hỏi: Ông khóc cái gì ? Bá Trượng nói: Huynh đến hỏi Hòa thượng. Thị giả đến hỏi Mã Tổ. Mã Tổ bảo: Ông hỏi lấy y xem ? Thị giả lại về liêu hỏi Bá Trượng. Bá Trượng cười hả hả ! Thị giả nói: Ông vừa rồi khóc, giờ đây tại sao lại cười ? Bá Trượng nói: Tôi vừa rồi khóc, giờ đây cười. Xem Sư sau khi ngộ lăn trùng trục ngăn chặn chẳng đứng, tự nhiên linh hoạt. Tuyết Đậu tụng ra:
TỤNG:
Dã áp tử
Tri hà hứ
Mã Tổ kiến lai tương cộng ngữ
Thoại tận sơn vân hải nguyệt tình
Y tiền bất hội hoàn phi khứ.
Dục phi khứ
Khước bả trụ
Đạo ! Đạo !
DỊCH:
Con vịt trời
Biết là mấy
Mã Tổ thấy rồi cùng nhau nói
Nói tột biển trăng mây núi lòng
Như xưa chẳng hội lại bay mất.
Muốn bay mất
Lại nắm đứng
Nói ! Nói !
GIẢI TỤNG:
Tuyết Đậu ngay đầu liền tụng “con vịt trời, biết là mấy”, hãy nói có nhiều ít ? “Mã Tổ thấy rồi cùng nhau nói”, tụng này Mã Tổ hỏi Bá Trượng “là cái gì”, Bá Trượng đáp “bầy vịt trời”. “Nói tột biển trăng mây núi lòng” là tụng hỏi Bá Trượng “đi đâu rồi”. Mã Tổ vì Sư ý chỉ tự nhiên thoát thể. Bá Trượng như trước chẳng hội, lại nói “bay qua rồi”. Hai lớp lầm qua. Hai câu “muốn bay mất, lại nắm đứng”, Tuyết Đậu cứ bản án kết tội. Lại nói “nói ! nói !” đây là chỗ Tuyết Đậu chuyển thân. Hãy nói, nói cái gì ? Nếu la đau là lầm. Nếu chẳng la đau, lại làm sao hội ? Tuy nhiên, Tuyết Đậu tụng thật khéo, song cũng nhảy không khỏi.

- Nói! Nói!
- Chẳng mất


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC Tắc 54

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 54:
VÂN MÔN LẠI XÒE NGỬA HAI TAY
LỜI DẪN:
Thoát khỏi sanh tử, xoay lăn cơ quan, thảnh thơi cắt sắt chặt đinh, tùy chỗ che trời che đất. Hãy nói là chỗ hành lý của người nào, thử cử xem ?
CÔNG ÁN:
Vân Môn hỏi Tăng: Vừa rời chỗ nào ? Tăng thưa: Tây Thiền. Vân Môn hỏi: Gần đây Tây Thiền có ngôn cú gì ? Tăng liền xòe ngửa hai bàn tay. Vân Môn đánh một tát. Tăng thưa: Thoại đầu của con còn. Vân Môn lại xòe ngửa hai bàn tay. Tăng không nói được. Vân Môn liền đánh.
GIẢI THÍCH:
Vân Môn hỏi vị Tăng vừa rời chỗ nào, Tăng thưa Tây Thiền. Cái này là đương diện thoại, giống như điện chớp. Vân Môn hỏi gần đây có ngôn cú gì, cũng chỉ là thuyết thoại bình thường. Vị Tăng này quả thật là bậc tác gia, lại lật ngược để nghiệm Vân Môn, liền xòe ngửa hai bàn tay. Nếu là người tầm thường gặp phải cái nghiệm này, liền thấy tay chân rối loạn. Vân Môn có cơ chọi đá nháng lửa, làn điện chớp, liền đánh một tát. Tăng nói đánh tức là phải, làm gì được thoại đầu của con. Vị Tăng này có chỗ chuyển thân. Vì thế, Vân Môn buông ra xòe ngửa hai bàn tay. Vị Tăng không nói được. Vân Môn liền đánh. Xem Vân Môn tự là tác gia, đi một bước biết chỗ rơi một bước, khéo xem trước lại giỏi ngó sau, chẳng mất đường lối. Vị Tăng này chỉ khéo xem trước, chẳng giỏi ngó sau.
TỤNG: Hổ đầu hổ vĩ nhất thời thâu
Lẫm lẫm oai phong tứ bách châu
Khước vấn bất tri hà thái hiểm
Sư vân phóng quá nhất trước.
DỊCH: Đầu cọp đuôi cọp một lúc thâu
Lẫm lẫm oai phong bốn trăm châu
Lại hỏi tại sao mà quá hiểm
Sư rằng phóng qua một nước.
GIẢI TỤNG:
Tuyết Đậu tụng thoại này rất dễ hiểu, đại ý chỉ tụng cơ phong của Vân Môn. Vì thế nói: “Đầu cọp đuôi cọp một lúc thâu”. Cổ nhân nói: Chận đầu cọp thâu đuôi cọp, câu thứ nhất rõ tông chỉ. Tuyết Đậu chỉ căn cứ bản án kết tội, thích Vân Môn giỏi chận đầu cọp lại khéo nắm đuôi cọp. Vị Tăng xòe ngửa hai tay, Vân Môn liền đánh là chận đầu cọp. Vân Môn xòe ngửa hai tay, Tăng không nói được, liền đánh là nắm đuôi cọp. Đầu đuôi đồng thâu, mắt như sao băng, tự nhiên như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện xẹt. Liền được “Lẫm lẫm oai phong bốn trăm châu”, khiến cho cả thế giới gió thổi vèo vèo. “Lại hỏi tại sao mà quá hiểm”, quả là có chỗ hiểm. Tuyết Đậu nói “phóng qua một nước”. Hãy nói hiện nay khi chẳng phóng qua lại là sao ? Người cả đại địa thảy nên ăn gậy. Hàng thiền hòa tử ngày nay đều nói: “Đợi khi Vân Môn xòe ngửa hai tay, cũng là trả lại cho ông ta bổn phận thảo liệu.” Giống thì cũng giống, phải thì chưa phải. Vân Môn không thể chỉ thế ấy bảo ông thôi, vẫn còn có việc khác.

Xòe tay ngửa ra là bày cả pháp giới. Lại làm sao trả lời?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC TẮC 55

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 55:
ĐẠO NGÔ ĐẾN NHÀ PHÚNG ĐIẾU
LỜI DẪN:
Ẩn mật toàn chân, đương đầu nhận chứng, dẫm trên nước để chuyển vật, ngay đó thừa đương, nhằm trong chọi đá nháng lửa, làn điện chớp, ngồi dứt lầm lẫn. Ở chỗ chận đầu cọp nắm đuôi cọp, vách đứng ngàn nhẫn thì gác lại, phóng một đường, lại có chỗ vì người hay không, thử cử xem ?
CÔNG ÁN:
Đạo Ngô cùng Tiệm Nguyên đến nhà Phật tử cúng điếu. Tiệm Nguyên vỗ quan tài nói: Sanh ư ? Tử ư ? Đạo Ngô nói: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên hỏi: Vì sao chẳng nói ? Đạo Ngô đáp: Chẳng nói chẳng nói. Hai thầy trò về đến giữa đường, Tiệm Nguyên thưa: Hòa thượng mau vì con nói, nếu chẳng nói đánh Hòa thượng. Đạo Ngô nói: Đánh thì mặc đánh, nói tức chẳng nói. Tiệm Nguyên liền đánh. Sau Đạo Ngô tịch, Tiệm Nguyên đến Thạch Sương thuật lại lời trước. Thạch Sương nói: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên hỏi: Vì sao chẳng nói ? Thạch Sương nói: Chẳng nói chẳng nói. Tiệm Nguyên ngay lời nói liền có tỉnh. Một hôm, Tiệm Nguyên cầm cái mai ở trên pháp đường đi từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông. Thạch Sương hỏi: Làm gì ? Tiệm Nguyên nói: Tìm linh cốt tiên sư. Thạch Sương bảo: Nước dâng lênh láng, sóng dậy ngập trời, tìm cái gì là linh cốt tiên sư ? (Tuyết Đậu trước ngữ: Trời xanh ! Trời xanh !) Tiệm Nguyên nói: Nên khéo gắng sức. (Thái Nguyên Phù nói: Linh cốt tiên sư vẫn còn.)
GIẢI THÍCH:
Đạo Ngô cùng Tiệm Nguyên đến nhà Phật tử cúng điếu. Tiệm Nguyên vỗ quan tài nói: Sanh ư ? Tử ư ? Đạo Ngô nói: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Nếu nhằm dưới câu nhập được, dưới lời biết trở về, chỉ chỗ này là then chốt thấu thoát sanh tử. Nếu không được thế, thường thường đối diện lầm qua. Xem cổ nhân đi đứng nằm ngồi chẳng ngại lấy việc này làm niệm. Vừa đến nhà người điếu tang, Tiệm Nguyên liền vỗ quan tài nói: Sanh ư ? Tử ư ? Đạo Ngô chẳng dời một mảy tơ, đáp rằng: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên đối diện lầm qua chạy theo ngữ cú, hỏi vì sao chẳng nói. Đạo Ngô nói chẳng nói chẳng nói. Đạo Ngô đáng gọi là lòng son mảnh mảnh, đem lầm đến lầm. Tiệm Nguyên vẫn chẳng tỉnh, về đến giữa đường lại nói Hòa thượng mau vì con nói, nếu không nói đánh Hòa thượng. Kẻ này biết gì tốt xấu, nên nói tâm tốt chẳng được báo tốt. Đạo Ngô như trước tâm lão bà tha thiết, nói với y: Đánh thì mặc đánh, nói tức chẳng nói. Tiệm Nguyên liền đánh. Tuy nhiên như thế, lại là kia thắng một nước. Đạo Ngô vì kia máu tuôn giọt giọt thế ấy mà Tiệm Nguyên vẫn chẳng lãnh hội. Đạo Ngô bị y đánh, liền nói với y: Ông hãy đi, e trong viện Tri sự dò biết việc này sẽ gây họa cho ông. Thầm bảo Tiệm Nguyên đi, Đạo Ngô thật rất mực từ bi.
Sau Tiệm Nguyên đến một viện nhỏ, nghe cư sĩ tụng phẩm Phổ Môn: “nên dùng thân Tỳ-kheo được độ, liền hiện thân Tỳ-kheo mà vì thuyết pháp…”, bỗng nhiên đại ngộ. Sư nói: Khi xưa ta lầm trách tiên sư, đâu biết việc này chẳng ở trên ngôn cú. Người xưa nói: Bậc đại nhân không lường, bị ngữ mạch xoay đi. Có nhóm người tình giải nói: Đạo Ngô bảo chẳng nói chẳng nói, tức là nói rồi vậy, gọi là đánh lưng thì nhào lộn, khiến người dò tìm chẳng được. Nếu hiểu thế ấy làm sao bình ổn. Nếu người chân đạp đất thật thì chẳng cách một mảy tơ. Như chuyện Thất hiền nữ đi dạo rừng Thi-đà, có vị chỉ tử thi hỏi: Tử thi tại đây, người ở chỗ nào ? Chị cả đáp: Làm gì ? Làm gì ? Cả chúng nghe đều chứng vô sanh pháp nhẫn. Thử nói có bao nhiêu cái, ngàn cái muôn cái chỉ là một cái. Sau Tiệm Nguyên đến Thạch Sương thuật lại việc trước. Thạch Sương như xưa nói: Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. Tiệm Nguyên hỏi: Vì sao chẳng nói ? Thạch Sương bảo: Chẳng nói chẳng nói. Tiệm Nguyên liền ngộ. Hôm khác, Tiệm Nguyên cầm cái mai ở trước pháp đường đi từ Đông qua Tây, từ Tây qua Đông, ý muốn trình kiến giải của mình. Thạch Sương hỏi: Làm gì ? Tiệm Nguyên nói: Tìm linh cốt tiên sư. Thạch Sương liền cắt đứt gót chân y nói: Ta trong ấy, nước dâng lênh láng, sóng dậy ngập trời, tìm cái gì là linh cốt tiên sư ? Tiệm Nguyên đã tìm linh cốt tiên sư, tại sao Thạch Sương lại nói thế ấy ? Đến trong đây là chỗ sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói, ngay lời này tiến được mới biết từ thủy chí chung toàn cơ thọ dụng. Nếu ông khởi đạo lý suy nghĩ tìm hiểu tức là khó thấy. Tiệm Nguyên nói: Nên khéo gắng sức. Xem Sư sau khi ngộ, nói được tự nhiên kỳ đặc. Mảnh xương trên đảnh của Đạo Ngô như màu vàng, khi đánh liền phát ra tiếng đồng. Tuyết Đậu trước ngữ: “trời xanh ! trời xanh !” ý tại hai bên. Thái Nguyên Phù nói “linh cốt tiên sư vẫn còn”, tự nhiên nói được ổn đáng.
Đoạn văn này đồng thời đưa ra một bên. Hãy nói thế nào là chỗ tỉnh yếu ? Thế nào là chỗ gắng sức ? Đâu chẳng nghe nói: Một chỗ thấu, ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời thấu. Nếu nhằm chỗ chẳng nói chẳng nói thấu được, là ngồi cắt đầu lưỡi người trong thiên hạ. Nếu thấu chẳng được, phải tự tham tự ngộ, chẳng nên dễ dàng qua ngày, đáng tiếc thay ngày tháng ! Tuyết Đậu tụng ra:
TỤNG: Thố mã hữu giác
Ngưu dương vô giác
Tuyệt hào tuyệt ly
Như sơn như nhạc
Huỳnh kim linh cốt kim du tại
Bạch lãng thao thiên hà xứ trước.
Vô xứ trước
Chích lý Tây qui tằng thất khước.
DỊCH: Thỏ ngựa có sừng
Trâu dê không sừng
Chẳng chút mảy may
Như núi như non
Linh cốt vàng ròng nay vẫn còn
Sóng dậy ngập trời chỗ nào đến.
Không chỗ đến
Lẻ dép về Tây bặt dấu luôn.
GIẢI TỤNG:
Tuyết Đậu riêng hội chú cước, Sư là con cháu Vân Môn, phàm trong một câu đủ ba câu tôi luyện, nhằm chỗ khó nói nói phá, nhằm chỗ vạch chẳng ra vạch ra. Nhằm thẳng chỗ khẩn yếu kia tụng ra “thỏ ngựa có sừng, trâu dê không sừng”. Hãy nói thỏ ngựa vì sao có sừng ? Trâu dê vì sao không sừng ? Nếu thấy được lời trước, mới biết Tuyết Đậu có chỗ vì người. Có người hiểu lầm nói: Chẳng nói là nói, không câu là có câu, thỏ ngựa không sừng lại nói có sừng, trâu dê có sừng lại nói không sừng. Thế thật là không dính dáng. Đâu chẳng biết cổ nhân thiên biến vạn hóa, hiện thần thông như thế, chỉ vì đả phá cái hang quỉ tinh linh này của ông. Nếu thấu được chẳng tiêu một chữ liễu. “Thỏ ngựa có sừng, trâu dê không sừng, bặt lông bặt sợi, như núi như non”, bốn câu này như viên ma-ni bảo châu, Tuyết Đậu nhả ra trọn vẹn trước mặt ông. Phần sau chỉ là căn cứ bản án kết tội. “Linh cốt vàng ròng nay vẫn còn, sóng dậy ngập trời chỗ nào đến”, đây là tụng lời của Thạch Sương và Thái Nguyên Phù, vì cớ sao không chỗ đến ? “Chiếc dép về Tây từng lạc mất”, rùa linh lê đuôi, đây là chỗ Tuyết Đậu chuyển thân vì người. Cổ nhân nói: Kia tham câu sống chẳng tham câu chết. Đã là mất đi một đóm lửa kia, vì sao lại đua nhau tranh ?

(Bài này có bài bình riêng)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

MỘT KHÓA BẢN THIỀN TRONG “ BÍCH NHAM TẬP”

Bích Nham Tập do Tuyết Đậu tuyển chọn 100 công án trong “Truyền Đăng Lục” để nêu lên, bình xướng, giảI thích. Tuy gọI là giảI thích , nhưng đọc giả càng đọc thì lạI càng thấy mù tịt, tốI nghĩa hơn. Nhưng một khi đã hiểu rõ “ ý chỉ của Thiền” rồI thì đọc lạI thấy rất sáng sủa, dễ hiểu, và dí dỏm nữa.

Xin trình bày tắc 55: Đạo Ngô và Tiệm Nguyên điếu tang.
Đạo Ngô (thầy) và Tiệm Nguyên (trò) đến một nhà nọ điếu tang. Tiệm Nguyên vỗ vào hòm nói
- Sống ư? Chết ư ?
(Tuyết Đậu bình : Nói gì thế? Tốt lắm, chẳng tỉnh táo, Gã này còn lờ mờ giữa hai đường)
Đạo Ngô bảo
- Sống ư? Ta không nói. Chết ư? Ta không nói.
(Chà rồng gầm thì sương mù dậy, cọp gừ thì gió trổI lên. Nón độI vừa đầu. Lòng bà nộI thiết tha thay)
Tiệm Nguyên :
- TạI sao không nói
(Trật lấc rồI ! quả nhiên hỏng bét)
Đạo Ngô :
- Không nói là không nói.
(Nước dơ đổ lên đầu. Mũi tên trước còn nhẹ, mũi tên sau mớI đau)

Cả hai trên đường về ( Rất tỉnh táo nhé)
Tiệm Nguyên nói:
- Bẩm hòa thượng nói cho con nghe đi! Nếu hòa thượng không nói, con quật ngã hòa thượng liền.
(Có thế chứ! Ít gặp được kẻ khôn ngoan. Đa số là bọn ngu ngơ. Bọn này vào địa ngục lẹ như tên bắn).
Đạo Ngô :
- Quật thì cứ việc quật, còn nói thì không nói.
(Việc hệ trọng phảI lập lạI, bị cướp mà không hay. Cái lão này bết bùn cùng mình. Sơ tâm vẫn không sửa).
Tiệm Nguyên bèn đánh cho.
(Hay lắm, đánh đi! Nhưng hãy nói đánh mà làm gì? Té ra có kẻ bị ăn đòn vô cớ).

Về sau khi Đạo Ngô đã tịch, Tiệm Nguyên đến vớI Thạch Sương và đem chuyện trước kia kể lạI
(Biết mà cố phạm. Chẳng biết phảI hay không phải. Nếu phảI thì thiệt là quá kỳ).
Thạch Sương :
- Sống ư? Ta không nói. Chết ư? Ta không nói
(Ha ha mớI mẻ quá chừng. Thứ cơm nước hằng bữa này mà lạI có kẻ dùng).
Tiệm Nguyên
- TạI sao không nói?
(LờI tuy một mà ý lạI hai. Thử hỏI giống hay khác câu hỏI trước kia?)
Thạch Sương:
- Không nói là không nói
(TrờI đất! sóng Tào Khê cũng như vậy. Biết bao kẻ phàm ngu bị chết đuốI trên cạn.)
Do lờI này mà Tiệm Nguyên tỉnh ngộ.
(Cái gã mù, đừng mà mắt sơn tăng này nha)

Một hôm Tiệm Nguyên vác xẻng vào pháp đường, đi qua đi lại.
(Đó là gã sống lạI trong cái chết. Tốt! nhờ tiên sư mớm hơi cho. Đừng ai hỏI hết, hãy xem gã bẻn lẻn)
Thạch Sương hỏI :
- Làm gì vậy?
( Nhắm mắt bước càn theo chân ngườI).
Tiệm Nguyên:
- Tìm linh cốt tiên sư .
- ( Trễ rồI, treo gói thuốc sau xe tang. HốI hân ban đầu không cẩn thận. Nhà ngươi bảo sao?)
Thạch Sương:
- Sóng sông nhấp nhô, sóng biển ồ ạt, Tìm linh cốt nào của tiên sư?
(Cái này nên để cho ông thầy khác làm mớI được. Thành bè, thành bọn mà làm gì?)
Đây là lờI của Tuyết Đậu: - TrờI ơi ! TrờI ơi.
(Trễ rồI, giặc đã bỏ chạy mớI dương cung. Thiệt đáng chôn chung một chỗ)
Tiệm Nguyên nói :
- Chính là lúc nên ra sức.
(Nói thử xem rồI ra sao? Tiên sư từng nói vớI nhà ngươi những gì? Thủy chung gã này không làm sao dứt mình ra khỏI).
Đây là lờI của Thái Nguyên Phù: Linh cốt của tiên sư còn đó
(ĐạI chúng thấy không? Y như làn chớp. Đấy là đôi dép rách . Vẫn cứ lầm).

BÀI TỤNG CỦA TUYẾT ĐẬU

Thố mã hữu giác
Ngưu dương vô giác
Tuyệt hào tuyệt ly
Như sơn như nhạc
Huỳnh kim linh cốt kim do tạI
Bạch lãng thao thiên hà xứ trước
Vô xứ trước
Chích lý tây qui tằng thất ước.

BÌNH CỦA TUYẾT ĐẬU

Thỏ, ngựa có sừng
(Cắt đứt ra, thiệt là lạ lùng, thiệt là mớI mẻ)
Trâu dê không sừng
(Cắt ra thành hình thù gì? Mà mắt ai thì được, ta thì đừng hòng).
Không chút mảy may
(Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Các ngươi mò ở đâu?)
Bằng núi bằng non
(Ở chỗ nào? Đất bằng sóng dậy. Hãy vuốt mạnh cái mũi của ngươi đi)
Linh cốt vàng ròng nay còn đây
(Cắt lưỡI, chẹn họng. Để sang một bên, chỉ e không ai hiểu y)
Sóng biển ồ ạt thôi hết đường
(Bỏ qua một chút. Chân bước trật rồi. Mắt, tai để không vô)
Thôi hết đường
(Quả nhiên lạI chuyện đó. Quả nhiên chìm lỉm xuống hố sâu).
Lẻ dép về tây bặt dấu luôn.
(Cha ông làm không xong để lụy đến con cháu. Khi đánh phái nói: TạI sao lạI ở đây?).


Thỏ và ngựa làm sao mà có sừng được? Nhưng mà thỏ và ngựa mà thêm cho chúng cái sừng thì cũng có thể tưởng tượng ra được.
Như vậy là từ không mà làm thành có
Còn Trâu và dê, chẳng có con nào mà không có sừng, nhưng nếu đem trâu, dê, cắt sừng của chúng đi thì vẫn được
Như vậy là từ có mà làm thành không (Làm thành cái không có trong tự nhiên)
Vậy chúng ta thấy rằng những con vật thỏ ngựa có sừng và trâu dê không sừng chẳng phảI là thực có, mà cũng chẳng phảI là không thể có.

Cũng như vậy, Tâm là cái gì không thể thấy, không thể nắm bắt, không thể hình dung được (cai không) nhưng không phảI là không có
BởI vì tìm không thấy, lấy không được nên mớI bảo là
- chẳng chút mảy may
nhưng mà không có gì mà không ngoài tâm nên nó
- Bằng núi, bằng non.
Nó rất to lớn đồ sộ , sừng sững ra đó như một dẫy núi vậy, mà không ai thấy.
Đạo Ngô mất đi, mà chẳng phảI mất đi, vì ngài đã trở về vớI tâm thể, mà tâm thể thì vẫn nguyên như cũ. Cái cốt lõi của con ngườI Đạo Ngô không mất đi nên Tuyết Đậu mớI nói
- Linh cốt vàng ròng nay còn đây.
Nhưng tạI sao ta không thấy ? Chúng ta không thấy chỉ vì niệm niệm che mờ chân tâm , ý thức che mờ chân trí , lớp sau tiếp lớp trước, không bao giờ ngừng như sóng xô bờ ồ ạt. Vì vậy Tuyết Đậu nói
- Sóng vỗ ồ ạt thôi hết đường
Sóng vỗ ồ ạt, chận bước tiến của ta , cũng như ý niệm trùng trùng chặn con đường tiến đến giác ngộ vậy.
Cũng chỉ bởI vậy mà Tổ Bồ Đề đành lẻ dép trở về Tây. Cũng có nghĩa là chúng sinh u mê quá nên tổ đành trở về vớI chính mình, trở về tâm.

Cái hay của văn học ở đây là chữ “lẻ dép” , nó vừa thích hợp vớI huyền thoạI, vừa diễn tả đúng tâm trạng của một ngườI đã đi nhanh, đi quá nhanh, trở về vớI bản thể, trở về vớI chính mình, và chỉ có một mình mình mà thôi.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tiệm Nguyên vỗ hòm nói:
- Sống ư? Chết ư?
Rõ ràng là Tiệm Nguyên chưa hiểu gì về Thiền, Đứng trước sống và chết, gã còn hoang mang, chẳng biết con ngườI đi về đâu giữa hai đường này. Sống ư? Chết ư ngườI nằm đây đã đi về đâu? BởI vậy Tuyết Đậu mớI nói “ gã này còn mù mờ giữa hai đường”.
Đạo Ngô bảo
- Sống ư, ta không nói , chết ư? Ta không nói.
Đạo Ngô là một thiền sư giác ngộ. Hiển nhiên là ngài biết “sự thật tốI hậu”. nhưng không có đường diễn tả. Cái sự thật tốI hậu ấy nó không có miệng để nói, mà nó cũng không hề dấu diếm điều gì. Nó luôn luôn bầy ra đấy, nó luôn luôn nói “Tôi là như thế”. Nó không nói nhưng không phảI là nó không trả lời. Vì thế Đạo Ngô mớI bảo
- Sống ư? ta không nói, chết ư? Ta không nói.
Hiển nhiên ngài đã trả lờI rồi. Chính vì thế mà Tuyết Đậu mớI bảo Rồng gầm thì sương mù dậy, cọp gừ thì gió nổI lên , ý nói ngườI ngộ đạo thì nói ra một câu là đã khác thường rồI, nói ra là đã gần chân lý rồi. Ngoài ra câu này trả lờI thỏa đáng , trúng vào câu hỏI của Tiệm Nguyên nên Tuyết Đậu nói “Nón độI vừa đầu”. Và lòng đạI bi của Đạo Ngô, mong giáo hóa cho học trò được ngài ví là “Lòng bà nộI thiết tha thay”.

Tiệm Nguyên hỏI:
- TạI sao không nói?
Chỗ này ai cũng biết nói câu đó là “ Trật lấc, quả nhiên hỏng bét rồI” như lờI bình của Tuyết Đậu.

Đạo Ngô :
- Không nói là không nói.
Chỗ này Đạo Ngô nghĩ “Mày không biết thì cho mày mù luôn” nên mớI bảo vậy. Vì thế Tuyết Đậu bình rằng
(Nước dơ đổ lên đầu, mũi tên trước còn nhẹ, mũi tên sau mớI đau). Đau vì không hiểu mà nghe xong câu này là mù luôn.
Thực sự là Đạo Ngô “ Không lờI để nói, không lý để bàn” nên mớI nói vậy, mà có cố gượng bàn thì càng ngày càng xa sự thật mà thôi. Cứ để cho Tiệm Nguyên tự tìm hiểu, sau này có cơ duyên sẽ tự ngộ. Nếu nói ra thì sẽ làm mất cơ duyên của ngườI học, vì trí óc đã bị sự hiểu biết làm sai lệch cản trở, không thể ngộ được nữa.

Trên đường về (dĩ nhiên lúc bình thường, cả hai cùng tỉnh táo)
Tiệm Nguyên nói
- Bẩm hòa thượng nói cho con nghe đi, nếu hòa thượng không nói, con quật ngã liền.
Dĩ nhiên là Tiệm Nguyên nghĩ rằng Đạo Ngô biết mà không chịu nói nên mớI hăm dọa như thế. Tuyết Đậu khen cái dũng khí cũng như cái quyết tâm của Tiệm Nguyên trong việc tìm chân lý, ngài nói (Có thế chứ, ít gặp được kẻ khôn ngoan. )
Đạo Ngô bảo
- Quật thì cứ quật, còn nói thì không nói.
Đạo Ngô vì lòng từ bi mà không nói,và cùng vì bảo vệ Phật pháp mà không nói. BởI vậy Tuyết Đậu mớI bình rằng “ bị cướp mà không hay ”. Ngài cũng chê Đạo Ngô xử sự vụng về để xẩy ra như vậy (Cái lão này bết bùn cùng mình,. Sơ tâm vẫn không sửa).
Tiệm Nguyên bèn đánh cho
Tuyết Đậu bình (Hay lắm, đánh đi . Nhưng hãy nói đánh mà làm gì? Có kẻ ăn đòn vô cớ). Chúng ta theo dõi từ đầu , biết rõ rằng chẳng phảI Đạo Ngô không nói mà ngài đã nói rồI, vả lạI dù Tiêm Nguyên có đánh cũng không giảI quyết được vấn đề nên Tuyết Đậu nói “Có kẻ ăn đòn vô cớ”.

Về sau khi Tiệm Nguyên đến ở một ngôi chùa nhỏ, tình cờ nghe một đệ tử tụng kinh Phổ Môn đến câu “ Ưng dĩ tì khưu thân đắc độ giả, tức hiện tì khưu thân nhi vị thuyết pháp”. Tiệm Nguyên hốt nhiên đạI ngộ, và tự nhủ “Quả thực ta đã lầm, lúc ấy ta chẳng hiểu tiên sư làm gì hết. Sự tình này thật chẳng ở nơi lờI”.
Sau này khi Đạo Ngô đã tịch, Tiệm Nguyên đến vớI Thạch Sương và đem chuyện trước kia kể lại. Thạch Sương cũng bảo
- Sống ư? Ta không nói, chết ư? Ta không nói
- TạI sao không nói?
- Không nói là không nói
Do lờI này mà Tiệm Nguyên tỉnh ngộ.

Một hôm Tiệm Nguyên vác xẻng vào pháp đường , đi qua đi lại. Thạch Sương hỏI
- Làm gì vậy?
Tiệm nguyên đáp
- Tìm linh cốt tiên sư.
Thạch Sương:
- Sóng sông nhấp nhô, sóng biển ồ ạt, tìm linh cốt nào của tiên sư?
(ý nói lớp sóng sau phủ lấp lớp sóng trước, lớp ngườI sau thế chỗ lớp ngườI trước. Còn lạI gì của tiên sư đâu mà tìm.).
Tuyết Đậu bình rằng “ trờI ơi, trờI ơi” , là chỉ linh cốt của Đạo Ngô.
Tiệm Nguyên nói :
- Chính là lúc nên gia sức.
Chỗ này có vẻ kỳ lạ, câu trả lờI không ăn nhập gì đến câu hỏi. Nhưng ta cũng biết rằng Phật giáo quan niệm rằng “ trong tâm con ngườI, niệm nọ nối tiếp niệm kia trôi mau như làn nước chảy. Nhiệm vụ của ngườI tu hành, sau khi đã ngộ được chân tâm, là phảI làm sao để ngừng dòng chẩy ấy lạI, ngừng dòng ý thức. Tâm thể lặng yên, thanh tịnh thì ánh sáng trí tuệ mớI hiển hiện được” vì thế nên Tiệm Nguyên mớI trả lờI rằng “ Chính là lúc nên gia sức”.
Thái Nguyên Phù nói :
- Linh cốt của tiên sư vẫn còn đó
LờI này được hiểu như thế nào?
Tuyết Đậu bình rằng
- ĐạI chúng thấy không? Y như làn chớp. Đấy là đôi dép rách , vẫn cứ lầm.
Nghĩa là “ ĐạI chúng thấy đó, đạt đạo giả vùa nghe đã biết câu trả lờI, nhanh như làn chớp. Và cái câu trả lờI đó chỉ một cái rất đỗI quen thuộc, mà chúng ta đã sài nhiều lần lắm rồI, y như một đôi dép rách vậy, thế mà ai nấy vẫn cứ lầm”.

LờI bình của Viên Ngộ.

Đây là bài bình tụng của Tuyết Đậu cho thấy ngài thấu suốt tắc này ra sao. Vốn là dòng dõi Vân Môn, phàm trong một câu, ngài đặt búa rìu cả ba câu. Nhắm vào chỗ khó nói mà nói toạc ra, Nhắm vào chỗ khó khơi mở mà khơi mở ra. Bài tụng đi ngay vào chỗ khẩn yếu. Tụng rằng
Thỏ ngựa có sừng
Trâu dê không sừng.
Thử hỏI thỏ và ngựa làm sao có sừng, mà trâu dê lạI không sừng? Nếu các ngườI thấu triệt công án trên mớI biết Tuyết Đậu vì sự lợI ích của kẻ khác ở chỗ nào? Có kẻ nhấm lẫn mà cho rằng: không nói tức là nói , không lờI tức là lời. Như thỏ và ngựa vốn không sừng mà nói có sừng, trâu dê có sừng lạI bảo không sừng.
Hiểu cớ sự như thế chẳng ăn nhập gì tớI đây.Há không biết rằng cổ nhân thiên biến vạn hóa , hiện ra thần thông như vậy cốt là vì các ngườI , để các ngườI phá tan hang tốI của ma quái. Nếu các ngườI qua được đây , chẳng có gì đáng giá cả.
Thỏ ngựa có sừng
Trâu dê không sừng
Không chút mảy may
Bằng núi bằng non.

Bốn câu này như một mani bửu châu mà Tuyết Đậu ném hết ra trước mặt các ngươi. Những câu chót cứ theo khoản mà kết án.
Linh cốt vàng ròng nay còn đây
Sóng biển ồ ạt , thôi hết đường

Chỗ này nhắc tớI những lờI của Thạch Sương và Thái Nguyên Phù. Nhưng sao lạI nói
Thôi hết đường
Lẻ dép về Tây bặt dấu luôn

Như con linh qui xóa dấu đi. Đây là chỗ Tuyết Đậu xoay mình vì kẻ khác. Cổ nhân nói “Hãy xét câu sống, đừng xét câu chết”. Nếu dấu vết đã mất, tạI sao cả một bọn ngườI tranh nhau giành lấy?


Có một việc phảI nói thêm: Trong bài tụng thì các câu sau là
Huỳnh kim linh cốt kim do tạI
Bạch lãng thao thiên hà xứ trước
Vô xứ trước
Chích lý tây qui tằng thất ước

Có nghĩa là
Linh cốt vàng ròng nay còn đây
Sóng vỗ ồ ạt, không chỗ bám
Không chỗ bám
Lẻ dép về tây đành lỗI hẹn

Hai câu trên nhắc lạI lờI nói của Thạch Sương và Thái Nguyên Phu.
Thạch Sương nói rằng
Sóng sông nhấp nhô, sóng biển ồ ạt, linh cốt nào của tiên sư?
Cho nên khi bình, ngài Tuyết Đậu nói rằng
(bỏ qua một chút, chân bước trật rồI, mắt tai để không vô).
Ý nghĩa của nó là niệm niệm chẳng tạm dừng, che lấp mất chân tính nên dẫn đến sai lầm. Vì sai đường, bước trật nên không ngộ được, không ngộ được nên tai, mắt cũng không thể thấy được tâm.

Tuy bình như vậy, nhưng trong bài tụng thì Tuyết Đậu lạI nói rằng
Bạch lãng thao thiên, hà xứ trước
Vô xứ trước

Nghĩa là
Sóng bủa trắng trờI, bám vào đâu?
Không nơi bám
Đây nói về một tính chất của tâm, hay của chân như : Mặc dầu bên ngoài mưa giông, bão tố, dù xao động vô cùng, nhưng tâm vẫn không nhiễm, Nó vốn không nên mọI xao động bên ngoài đều không tác động gì đến tâm cả.

Vì không ai hiểu cả nên Tổ Đạt Ma đành lẻ dép về tây, lỡ cái hẹn là đem gieo hạt giống Bồ-Đề ở Đông độ. Lúc đó thờI hoàn cảnh là như vậy, nhưng thực tế sau này chúng ta thấy rằng hạt giống ban đầu mà tổ gieo đã phát triển rất tốt ở phương đông này vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 56:
KHÂM SƠN MỘT MŨI PHÁ CỔNG

LỜI DẪN:
Chư Phật chẳng từng ra đời, cũng không một pháp cho người. Tổ sư chẳng từng Tây sang, chưa bao giờ lấy tâm truyền trao. Chính vì thời nhân chẳng liễu, hướng ngoài tìm cầu, trọn chẳng biết dưới gót chân chính mình có một đoạn đại sự nhân duyên, ngàn thánh dò tìm cũng chẳng được. Chỉ là hiện nay thấy chẳng thấy, nghe chẳng nghe, nói chẳng nói, biết chẳng biết, từ chỗ nào được ? Nếu chưa hay thấu triệt, hãy nhằm trong hang sắn bìm hội lấy, thử cử xem ?

CÔNG ÁN:
Thiền khách Lương Toại hỏi Khâm Sơn: Khi một mũi tên phá ba cổng thì thế nào ? Khâm Sơn bảo: Dẫn ông chủ trong ba cổng ra xem ? Lương nói: Thế ấy thì biết lỗi ắt cải. Khâm Sơn bảo: Lại đợi khi nào ? Lương nói: Tên tốt bắn chẳng đến đích, liền ra đi. Khâm Sơn gọi: Xà-lê lại đây ! Lương xoay đầu. Khâm Sơn nắm đứng nói: Một mũi phá ba cổng hãy gác lại, thử vì Khâm Sơn bắn tên xem ? Lương suy nghĩ, Khâm Sơn đánh bảy gậy, nói: Hãy cho gã này nghi ba mươi năm.

GIẢI THÍCH:
Thiền khách Lương Toại cũng thật là một viên chiến tướng, nhằm trong tay Khâm Sơn xoay trái lộn phải, khiến rơi roi rớt dây, rốt sau đáng tiếc cung gãy tên mất. Tuy nhiên như thế, tướng quân họ Lý tự có tiếng khen, chẳng được phong hầu cũng là nhàn. Công án này một ra một vào, một bắt một thả, đương cơ thấy mặt đề, thấy mặt đương cơ nhanh, trọn chẳng rơi nơi có không được mất, gọi là huyền cơ, nhìn qua thấy có chút ít lực lượng, liền có chỗ sẩy chân. Vị Tăng này cũng là hàng Thiền tăng anh linh, đặt câu hỏi quả là kinh quần. Khâm Sơn là bậc Tông sư tác gia, liền biết chỗ rơi của câu hỏi. Câu hỏi “khi một mũi tên thấu ba cổng thì thế nào”, ý Khâm Sơn trả lời, ông bắn được hãy gác qua, thử dẫn ông chủ trong ba cổng ra xem ? Lương nói “thế ấy thì biết lỗi ắt cải”, quả thật kỳ đặc. Khâm Sơn bảo: “Lại đợi khi nào ?” Xem kia đối đáp thế ấy, chỗ hỏi của Khâm Sơn không có chút ít thiếu trống. Sau Thiền khách Lương lại nói: “tên tốt bắn chẳng đến đích”, phủi áo ra đi. Khâm Sơn vừa thấy y nói thế ấy, liền gọi: Xà-lê lại đây ! Thiền khách Lương quả nhiên nắm chẳng đứng, xoay đầu lại. Khâm Sơn nắm đứng nói: “Một mũi thấu ba cổng gác lại, hãy vì Khâm Sơn bắn tên xem ?” Lương suy nghĩ, Khâm Sơn đánh bảy gậy, theo sau cho y một câu chú “hãy cho gã này nghi ba mươi năm”. Hiện nay một số thiền hòa tử trọn bảo: Vì sao chẳng đánh tám gậy hay sáu gậy, chỉ đánh bảy gậy ? Kia bảo thử vì Khâm Sơn bắn tên xem, liền đánh. Thế là giống thì cũng giống, phải thì chưa phải. Công án này phải trong hông ngực chẳng chứa tí xíu đạo lý so sánh, vượt ngoài ngôn ngữ, mới có một câu phá ba cổng và có chỗ bắn tên. Nếu còn phải và quấy thì dò tìm chẳng được. Vị Tăng khi ấy, nếu là hảo hán Khâm Sơn cũng bị nguy hiểm, đã không thể hành lệnh này, chẳng khỏi đảo hành. Hãy nói ông chủ trong cổng cứu kính là người nào ? Xem Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG: Dữ quân phóng xuất quan trung chủ
Phóng tiễn chi đồ mạc mãng lỗ
Thủ cá nhãn hề nhĩ tất lung
Xả cá nhĩ hề mục song cổ.
Khả lân nhất phốc phá tam quan
Đích đích phân minh tiễn hậu lô.
Quân bất kiến
Huyền Sa hữu ngôn hề
Đại trượng phu tiên thiên vi tâm Tổ.

DỊCH: Chủ nhân trong cổng vì anh dẫn
Những kẻ bắn tên chớ sơ hở
Giữ con mắt chừ tai điếc rồi
Bỏ lỗ tai chừ hai mắt tối.
Đáng thương một mũi phá tam quan
Quả thật đường sau tên quá rõ.
Anh chẳng thấy
Huyền Sa có lời chừ
Đại trượng phu tiên thiên là tâm Tổ.

GIẢI TỤNG:
Bài tụng này có mấy câu rút trong bài tụng Qui Tông. Ngày xưa Qui Tông nhân làm bài tụng nên lấy hiệu là Qui Tông. Trong tông môn gọi đó là nói lên tông chỉ. Sau này Đồng An nghe chuyện bảo: Lương Công khéo bắn tên mà không hay trúng đích. Có vị Tăng hỏi: Thế nào được trúng đích ? Đồng An bảo: Chủ trong cổng là người nào ? Sau có vị Tăng thuật lại cho Khâm Sơn, Khâm Sơn nói: Lương Công thế ấy vẫn chưa khỏi được cái miệng Khâm Sơn. Tuy nhiên như thế, Đồng An chẳng phải hảo tâm. Tuyết Đậu nói “chủ nhân trong cổng vì anh dẫn”. Mở mắt cũng đúng, nhắm mắt cũng đúng có hình không hình thảy đều chặt làm ba khúc. Câu “những kẻ bắn tên chớ sơ hở”, nếu bắn tên giỏi thì chẳng sơ hở, nếu bắn tên dở thì bắn là sơ hở. Hai câu “giữ con mắt chừ tai điếc rồi, bỏ lỗ tai chừ hai mắt tối”, hãy nói giữ con mắt vì sao lỗ tai điếc ? Bỏ lỗ tai vì sao hai mắt tối ? Lời này phải không giữ bỏ mới hay thấu được, nếu có giữ bỏ thì khó thấy. Hai câu “đáng thương một mũi phá tam quan, quả thật đường sau tên quá rõ”: Khi Thiền khách Lương hỏi thế nào một mũi phá ba cổng, Khâm Sơn bảo dẫn ông chủ trong cổng ra xem, cho đến rốt sau công án của Đồng An thảy là đường sau của tên. Cứu kính phải thế nào ? “Anh chẳng thấy, Huyền Sa có lời chừ, đại trượng phu tiên thiên là tâm Tổ.” Bình thường cho tâm là cực tắc Tổ tông. Trong đây tại sao trước khi trời đất chưa sanh vẫn cho là Tổ của tâm này ? Nếu biết rõ cái thời tiết này mới rõ được ông chủ trong cổng. Quả thậtõ đường sau tên quá rõ, nếu cần trúng đích sau mũi tên rõ ràng có đường. Hãy nói thế nào là đường sau mũi tên ? Phải tự đem hết tinh thái mới được. Câu “đại trượng phu tiên thiên là tâm Tổ”, Huyền Sa thường lấy câu này dạy chúng, đây là trong tụng Qui Tông. Tuyết Đậu lầm dùng cho là lời của Huyền Sa. Hiện nay người tham học cho tâm này là Tổ tông, dù tham đến đức Phật Di-lặc ra đời cũng chưa hội. Nếu là kẻ đại trượng phu, tâm vẫn là con cháu. Trời đất chưa phân đã là đầu thứ hai. Hãy nói chính khi ấy, làm sao là trước trời đất ?

Ông chủ nào ? ở trong cổng nào?
Nếu có cổng đã chẳng có ông chủ

Tiên là trước, Thiên là trời, là trời đất.
Trước khi trời đất sanh ra là cái gì?
Trước khi một niệm mống khởi là cái gì ?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 57:
TRIỆU CHÂU KẺ TỚ RUỘNG NHÀ

LỜI DẪN:
Trước khi chưa thấu được, như núi bạc vách sắt, đến khi thấu được, chính mình xưa nay là vách sắt núi bạc. Hoặc có người hỏi: Phải làm sao ? Chỉ nói với y: Nếu nhằm trong ấy bày được một cơ thấy được một cảnh, ngồi đoạn yếu tân, chẳng thông phàm Thánh, chưa là việc phần ngoại. Nếu chưa được như thế, xem lấy bóng dáng cổ nhân.

CÔNG ÁN:
Tăng hỏi Triệu Châu: “Chí đạo không khó, chỉ hiềm giản trạch”, thế nào là chẳng giản trạch ? Triệu Châu đáp: Trên trời dưới trời, chỉ ta hơn hết. Tăng thưa: Đây vẫn là giản trạch. Triệu Châu bảo: Kẻ tớ ruộng nhà, chỗ nào là giản trạch ? Tăng không đáp được.

GIẢI THÍCH:
Tăng hỏi Triệu Châu chí đạo không khó chỉ hiềm giản trạch, trong bài Tín Tâm Minh của Tam Tổ mở đầu là hai câu này. Có nhiều người hiểu lầm. Vì sao ? Chí đạo vốn không khó cũng không chẳng khó, chỉ là chỉ hiềm giản trạch. Nếu hiểu thế ấy một muôn năm cũng chưa mộng thấy. Triệu Châu thường lấy câu này hỏi người. Vị Tăng đem câu này hỏi lại Triệu Châu. Nếu nhằm trên ngôn cú tìm thì vị Tăng này là kinh thiên động địa. Nếu chẳng ở trên ngôn cú lại làm sao ? - Lại tham ba mươi năm, cây chốt cửa này phải xoay được mới mong mở ra. Nhổ râu cọp phải là có thủ đoạn bổn phận mới được. Vị Tăng này chẳng ngại nguy vong, dám nhổ râu cọp, nói rằng: “Vẫn còn giản trạch.” Triệu Châu nhằm miệng liền bít, nói: “Kẻ tớ ruộng nhà, chỗ nào là giản trạch ?” Nếu hỏi đến kẻ khác liền thấy tay chân rối loạn, đâu ngờ lão này là bậc tác gia, nhằm chỗ động không được liền động, chỗ xoay không được liền xoay. Nếu ông thấu được, tất cả ngôn cú ác độc, nhẫn đến ngàn sai muôn trạng hí luận ở thế gian, đều là thượng vị đề-hồ. Nếu đến được chỗ thật, mới thấy Triệu Châu lòng son từng mảnh. Kẻ tớ ruộng nhà là tiếng người làng Phước Đường mắng người giống như không ý trí. Vị Tăng này nói “vẫn còn giản trạch”. Triệu Châu bảo: “Kẻ tớ ruộng nhà, chỗ nào là giản trạch ?” Cặp mắt Tông sư phải đến thế ấy, như chim cánh vàng vạch biển bắt rồng nuốt. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG: Tợ hải chi thâm
Như sơn chi cố
Văn manh lộng không lý mãnh phong
Lữ nghị hám ư thiết trụ.
Giản hề trạch hề
Đương hiên bố cổ.

DỊCH: Giống như biển sâu
Dường thể núi cứng
Muỗi nhặng ở trong gió mạnh đùa
Cào kiến lay cây cọc sắt.
Giản chừ trạch chừ
Ngay hiên treo trống.

GIẢI TỤNG:
Tuyết Đậu chú hai câu “giống như biển sâu, dường thể núi cứng”. Tăng nói vẫn là giản trạch. Tuyết Đậu nói vị Tăng này giống như “muỗi nhặng ở trong gió mạnh đùa, cào kiến lay cây cọc sắt”. Tuyết Đậu khen ông ấy lớn mật. Vì sao ? Đây là người trên dùng mà y dám nói thế ấy. Triệu Châu cũng không tha y, nói: “Kẻ tớ ruộng nhà, chỗ nào là giản trạch ?” Đâu chẳng phải gió mạnh cọc sắt sao ? Hai câu “giản chừ trạch chừ, ngay hiên treo trống”, rốt sau Tuyết Đậu đề khởi bảo cho được sống. Nếu biết được mười phần minh bạch, sau này ông tự liễu vậy. Tại sao ? Đâu chẳng thấy nói: Muốn được thân thiết, chớ đem hỏi đến hỏi. Thế nên “ngay hiên treo trống”.

Giản trạch là phân biệt, chon lựa
Vì có phân biệt, chọn lựa nên tâm không bình đẳng
Vì tâm không bình đẳng nên thấy pháp ngàn sai, muôn khác. Từ đó mà thế giới hình thành. Nếu ngay từ đầu một niệm chẳng khởi thì làm gì có ngày hôm nay.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC TẮC 58

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 58:
TRIỆU CHÂU BỐI RỐI

CÔNG ÁN:
Tăng hỏi Triệu Châu: “Chí đạo không khó, duy hiềm giản trạch”, phải là sào huyệt của thời nhân chăng ? Triệu Châu đáp: “Đã có người hỏi tôi, mà mãi đến năm năm vẫn còn bối rối.”

GIẢI THÍCH:
Triệu Châu bình sanh chẳng hành gậy hét, mà dùng được còn hơn gậy hét. Vị Tăng này hỏi rất kỳ quái, nếu không phải là Triệu Châu thì khó đáp được cho y. Bởi Triệu Châu là hàng tác gia, chỉ nói với y “đã có người hỏi tôi, mãi đến năm năm vẫn còn bối rối”. Chỗ hỏi vách cao ngàn nhẫn, chỗ đáp cũng chẳng nhẹ hơn. Nếu thế ấy hội, chính là đương đầu, nếu chẳng thế ấy hội, chớ khởi so tính đạo lý. Đâu chẳng thấy Tông Đạo giả trụ Đầu Tử, lúc còn ở trong hội Tuyết Đậu làm thơ ký, Tuyết Đậu dạy tham “chí đạo không khó, duy hiềm giản trạch”, nơi đây có tỉnh. Một hôm, Tuyết Đậu hỏi: Chí đạo không khó, duy hiềm giản trạch, ý nghĩa thế nào ? Tông nói: Súc sanh, súc sanh. Sau Tông ở ẩn tại Đầu Tử, phàm đi trụ trì đều lấy cà-sa gói giầy cỏ chung với kinh sách. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là tông phong của Đạo giả ? Tông đáp: Cà-sa gói giầy cỏ. Tăng hỏi: Chưa biết ý chỉ thế nào ? Tông nói: Dưới chân trần toàn gai góc. Vì thế, nói cúng Phật chẳng ở nhiều hương, nếu vượt qua khỏi thì bắt tha tại ta. Đã là một hỏi một đáp rõ ràng hiện thành, tại sao Triệu Châu lại nói bối rối ? Hãy nói phải là sào huyệt của thời nhân chăng ? Triệu Châu ở trong sào huyệt đáp y, hay ở ngoài sào huyệt đáp y ? Phải biết việc này không ở trên ngôn cú. Có người tin được đến thấu xương thấu tủy, như rồng gặp nước, tợ cọp tựa núi.

TỤNG: Tượng vương tần thân
Sư tử hao hống
Vô vị chi đàm
Tắc đoạn nhân khẩu
Nam Bắc Đông Tây
Ô phi thố tẩu.

DỊCH: Voi chúa gầm gừ
Sư tử hầm hét
Nói bàn vô vị
Miệng người bít lấp
Nam Bắc Đông Tây
Quạ bay thỏ chạy.

GIẢI TỤNG:
Triệu Châu nói đã có người hỏi tôi, mãi đến năm năm vẫn còn bối rối, giống như “voi chúa gầm gừ, sư tử hầm hét”. Bốn câu sau “nói bàn vô vị, miệng người bít lấp, Nam Bắc Đông Tây, quạ bay thỏ chạy”, Tuyết Đậu nếu không có câu rốt sau thì chỗ nào lại có Tuyết Đậu ? Đã là quạ bay thỏ chạy, hãy nói Triệu Châu, Tuyết Đậu, Sơn tăng cứu kính rơi ở chỗ nào ?

Hai người, người hỏi như voi chúa gầm gừ, người trả lời như sư tử hầm hét. Đều là những bậc tác gia cả , nhưng mọi lời nói đều vô vị, không chỗ diễn tả, bít lấp miệng người. Chỉ ở ngoài lời nói tự do, tự tại như nam bắc đông tây, quạ bay, thỏ chạy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC (tắc 59)

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 59:
TRIỆU CHÂU SAO CHẲNG DẪN HẾT

LỜI DẪN:
Trùm trời bao đất, vượt Thánh siêu phàm, trên đầu trăm cỏ chỉ ra Niết-bàn diệu tâm, trong rừng binh khí điểm định được mạng mạch của Thiền tăng. Hãy nói thừa ân lực người nào được thế ấy, thử cử xem ?

CÔNG ÁN:
Tăng hỏi Triệu Châu: “Chí đạo không khó, duy hiềm giản trạch” vừa có nói năng là giản trạch, Hòa thượng vì người thế nào ? Triệu Châu bảo: Sao chẳng dẫn hết lời này ? Tăng thưa: Con chỉ nhớ đến đó. Triệu Châu bảo: Chỉ là chí đạo không khó, duy hiềm giản trạch.

GIẢI THÍCH:
Triệu Châu nói chỉ là chí đạo không khó, duy hiềm giản trạch, như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp, bắt tha sống chết, được tự tại như thế. Các nơi đều nói: Triệu Châu có lối biện luận siêu quần. Triệu Châu bình thường dạy chúng có một thiên này: Chí đạo không khó, duy hiềm giản trạch, vừa có nói năng là giản trạch là minh bạch. Lão tăng chẳng ở trong minh bạch, các ông lại tiếc giữ hay không ? Có vị Tăng hỏi: Đã chẳng ở trong minh bạch lại tiếc giữ cái gì ? Triệu Châu nói: Ta cũng không biết. Tăng thưa: Hòa thượng đã không biết, vì sao nói chẳng ở trong minh bạch ? Triệu Châu bảo: Hỏi việc thì được, lễ bái rồi ra. Về sau, vị Tăng này chỉ bám chỗ sơ hở kia đi hỏi Triệu Châu, hỏi hẳn là kỳ đặc, song chỉ là tâm hành. Nếu là người khác không làm gì được y, nhưng với Triệu Châu là hàng tác gia, liền nói “sao chẳng dẫn hết lời này”. Vị Tăng cũng biết chuyển thân nhả hơi, liền nói “con chỉ nhớ đến đó”, dường như đã được an bài. Triệu Châu tùy thanh niêm khởi liền đáp chẳng cần suy tính. Cổ nhân gọi đó là tương tục, cũng rất khó. Sư biện rồng rắn, phân tốt xấu, quả là hàng bổn phận tác gia. Triệu Châu móc đi tròng mắt của vị Tăng này, mà chẳng phạm mũi nhọn, chẳng mắc suy tính, tự nhiên hay khéo. Ông gọi là câu có cũng chẳng được, gọi là câu không cũng chẳng được, gọi là câu chẳng có chẳng không cũng chẳng được, ly tứ cú tuyệt bách phi. Vì sao ? Nếu luận việc này như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp, phải nhìn nhanh mới thấy. Nếu là trù trừ nghĩ nghị chẳng khỏi tan thân mất mạng. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG: Thủy sái bất trước
Phong xuy bất nhập
Hổ bộ long hành
Quỉ hào thần khấp
Đầu trường tam xích tri thị thùy ?
Tương đối vô ngôn độc túc lập.

DỊCH: Nước rưới chẳng dính
Gió thổi chẳng lọt
Cọp bước rồng đi
Quỉ than thần khóc
Đầu dài ba thước biết là ai ?
Đối diện không lời một chân đứng.

GIẢI TỤNG:
Bốn câu “nước rưới chẳng dính, gió thổi chẳng lọt, cọp bước rồng đi, quỉ than thần khóc”, khó có chỗ cho ông gặm nhấm. Bốn câu tụng này là lời đáp của Triệu Châu, giống như rồng bay cọp nhảy. Vị Tăng này chỉ được một trường xấu hổ. Chẳng những vị Tăng này, dù cho quỉ cũng than, thần cũng khóc, giống như gió thổi cỏ nghiêng. Hai câu rốt sau đáng gọi là người thân được, “đầu dài ba thước biết là ai, đối diện không lời một chân đứng”. Có vị Tăng hỏi cổ đức: Thế nào là Phật ? Cổ đức đáp: Đầu dài ba thước, cổ dài hai tấc. Tuyết Đậu dẫn dùng, chưa biết quí vị lại hiểu chăng ? Sơn tăng cũng chẳng hiểu. Tuyết Đậu một lúc thoát thể vẽ ra hình Triệu Châu ở đây rồi. Quí vị phải chín chắn để mắt xem.

Vẽ ra rồi,
biết là ai?
Ai chẳng biết
.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC Tắc 60

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 60:
VÂN MÔN CÂY GẬY HÓA RỒNG

LỜI DẪN:
Chư Phật cùng chúng sanh xưa nay không khác, núi sông cùng chính mình đâu có sai biệt, vì sao lại lẫn thành hai bên ? Nếu hay xoay lăn thoại đầu, ngồi đoạn yếu tân, bỏ qua tức chẳng được. Nếu chẳng bỏ qua thì trọn đại địa chẳng tiêu một cái nắm. Thế nào là chỗ xoay lăn thoại đầu, thử cử xem ?

CÔNG ÁN:
Vân Môn cầm cây gậy chỉ chúng nói: Cây gậy hóa làm rồng, nuốt hết càn khôn rồi vậy, núi sông đất liền chỗ nào được ?

GIẢI THÍCH:
Như Vân Môn nói cây gậy hóa làm rồng, nuốt hết càn khôn rồi vậy, núi sông đất liền chỗ nào được ? Nếu nói có ắt mù, nếu nói không ắt chết, lại thấy Vân Môn chỗ vì người chăng ? Trả cây gậy lại cho ta. Người nay chẳng hội chỗ riêng bày của Vân Môn, lại nói tức sắc minh tâm, gá vật bày lý. Như đức Phật Thích-ca bốn mươi chín năm thuyết pháp, không thể không biết cái nghị luận này, cớ sao lại đưa cành hoa, Ca-diếp cười chúm chím ? Ông già này lại hồ đồ nói: Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, phân phó cho Ma-ha Ca-diếp. Lại đâu cần riêng truyền tâm ấn. Quí vị đã là khách dưới cửa Tổ sư, lại rõ được cái tâm riêng truyền chăng ? Trong ngực nếu có một vật thì núi sông đất liền quả nhiên hiện tiền, trong ngực nếu không một vật thì bên ngoài toàn không mảy tơ, nói gì lý cùng trí hiệp, cảnh cùng thần hội. Cớ sao ? Bởi một hội thì tất cả hội, một sáng thì tất cả sáng. Trường Sa nói: “Người học đạo mà chẳng biết chân, chỉ vì từ xưa nhận thức thần, vô lượng kiếp nay gốc sanh tử, kẻ si liền gọi người xưa nay.” Nếu chợt đập tan ấm giới, thân tâm nhất như, ngoài thân không thừa, vẫn chưa được một nửa, nói gì là tức sắc minh tâm, gá vật bày lý. Cổ nhân nói: Một hạt bụi vừa dấy, đại địa toàn thâu. Hãy nói là hạt bụi nào ? Nếu biết được hạt bụi này thì biết được cây gậy. Vừa nắm cây gậy đưa lên liền thấy tung hoành diệu dụng. Nói thoại thế ấy, sớm thành sắn bìm rồi, huống là lại hóa làm rồng. Tạng chủ Khánh nói: 5048 quyển lại có nói thoại thế ấy chăng ? Vân Môn có khi nhằm chỗ cây gậy đưa ra toàn cơ đại dụng, vì người một cách linh động. Ba Tiêu dạy chúng: Lỗ mũi của Thiền tăng trọn ở trên đầu cây gậy. Vĩnh Gia cũng nói: “Chẳng phải tiêu hình việc truyền rỗng, gậy báu Như Lai còn dấu vết.” Thuở xưa Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng trải tóc trên bùn để đón Phật kia. Phật Nhiên Đăng nói: Chỗ này nên cất chùa. Khi ấy có một vị Thiên tử bèn cặm một cọng cỏ, nói: Cất chùa xong. Quí vị hãy nói tin tức này từ chỗ nào được ? Tổ sư nói: Đầu gậy thủ chứng, dưới hét thừa đương. Hãy nói thừa đương cái gì ? Chợt có người hỏi thế nào là cây gậy, phải chăng liền nhào lộn ? phải chăng liền vỗ tay ? Thảy đều là đùa tinh hồn, tức cười không dính dáng. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG: Trú trượng tử thôn càn khôn
Đồ thuyết đào hoa lãng bôn
Thiêu vĩ giả bất tại noa vân quặc vụ
Bộc tai giả hà tất táng đảm vong hồn.
Niêm liễu giả
Văn bất văn
Trực tu sái sái lạc lạc
Hưu cánh phân phân vân vân
Thất thập nhị bổng thả khinh thứ
Nhất bách ngũ thập nan phóng quân.

DỊCH: Cây gậy này nuốt càn khôn
Luống nói hoa đào sóng đưa
Đốt đuôi nào bởi gom mây cuộn mù
Phơi mang nào hẳn vỡ mật mất hồn.
Niêm rồi vậy
Nghe chẳng nghe
Phải là sạch trọi thong dong
Thôi lại lăng xăng rối rắm
Bảy mươi hai gậy vẫn tha nhẹ
Một trăm năm chục khó cho anh.
Sư cầm gậy bước xuống tòa, đại chúng một lúc chạy tan.

GIẢI TỤNG:
Vân Môn vì người chìu uốn, Tuyết Đậu vì người chặt thẳng. Do đó, bác hẳn hóa làm rồng, không nhận nói như thế chỉ là “cây gậy này nuốt càn khôn”. Đại ý Tuyết Đậu muốn khởi tình giải của người, nên nói “luống nói hoa đào sóng đưa”, chẳng cần hóa làm rồng. Bởi Võ môn có ba cấp sóng, mỗi năm đến tháng ba hoa đào trôi theo sóng, những cá lớn hay lội ngược nước nhảy qua sóng liền hóa làm rồng. Tuyết Đậu nói dù hóa làm rồng cũng là nói suông. “Đốt đuôi nào bởi gom mây cuộn mù”, con cá nhảy qua được Võ môn, tự có lửa trời đốt đuôi của nó, rồi gom mây cuộn mù bay đi. Ý Tuyết Đậu nói dù hóa làm rồng cũng chẳng ở chỗ gom mây cuộn mù. “Phơi mang nào hẳn vỡ mật mất hồn”, lời tựa trong Thanh Lương sớ nói: “Chứa chất hạnh Bồ-tát còn phải phơi mang ở Long môn.” Đại ý nói cảnh giới Hoa Nghiêm chẳng phải người tiểu đức tiểu trí đến được, như con cá nhảy qua Long môn, qua chẳng khỏi bị điểm trán trở lại, phải chịu khốn nơi bãi cát vũng cạn, phơi mang vậy. Ý Tuyết Đậu nói đã điểm trán trở lại ắt vỡ mật tan hồn. “Niêm rồi vậy, nghe chẳng nghe”, lại chú cước ở dưới rằng một lúc vì ông quét sạch rồi. Quí vị “phải là sạch trọi thong dong, thôi chớ lăng xăng rối rắm”. Nếu ông lại lăng xăng rối rắm thì mất đi cây gậy rồi. “Bảy mươi gậy vẫn tha nhẹ”, Tuyết Đậu vì ông tha cái nặng dùng cái nhẹ. Cổ nhân nói: Bảy mươi hai gậy trở thành một trăm năm mươi. Người nay hiểu lầm lại tính theo số mục, lý đáng phải bảy mươi lăm gậy, vì sao chỉ có bảy mươi hai gậy ? Đâu chẳng biết cổ nhân ý tại ngôn ngoại. Vì thế nói: Việc này không ở trong ngôn cú, khỏi bị người sau xuyên tạc. Lý do Tuyết Đậu dẫn dụng, dù cho ông được sạch trọi thong dong, chính nên cho ông bảy mươi hai gậy, vẫn là tha nhẹ. Nếu không được như thế, một trăm năm mươi gậy khó tha anh. Một lúc tụng xong, lại cầm cây gậy lớp lớp vì nhau. Tuy nhiên thế ấy, cũng không một người trong da có máu.

Khó quá, khó quá

Chấp nhận cây gậy là chấp nhận càn khôn.
Cây gậy hóa rồng, chẳng cần phải vượt vũ môn
Cái chính là thành rồng chẳng phải để gom mây, cuộn mù.
Vượt qua không nổi, rơi trở lại cõi khổ
Niêm rồi vậy
Đã vì ông quét sạch trơn.
Hãy thong dong, chẳng cần lăng xăng, rối rắm
Nếu lại lăng xăng thì mất cây gậy rồi vậy.
Tha 72 gậy, mà phải ăn 150.
Vác gậy xuống tòa, đuổi đánh.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.31 khách