BÍCH NHAM LỤC

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 44: HÒA SƠN BIẾT ĐÁNH TRỐNG

CÔNG ÁN:
Hòa Sơn dạy chúng: Tập học gọi là nghe, tuyệt học gọi là gần, qua được hai cái này là thật qua. Có vị Tăng ra hỏi: Thế nào là thật qua ? Hòa Sơn đáp: Biết đánh trống. Tăng lại hỏi: Thế nào là chân đế ? Hòa Sơn đáp: Biết đánh trống. Tăng hỏi: Tức tâm tức Phật thì chẳng hỏi, thế nào là phi tâm phi Phật ? Hòa Sơn đáp: Biết đánh trống. Tăng hỏi: Khi người hướng thượng đến làm sao tiếp ? Hòa Sơn đáp: Biết đánh trống.

GIẢI THÍCH:
Hòa Sơn dạy chúng: “Tập học gọi là nghe, tuyệt học gọi là gần, qua được hai cái này là thật qua.” Đoạn này xuất xứ từ bộ luận Bảo Tạng. Học đến vô học gọi là tuyệt học. Vì thế nói, nghe cạn ngộ sâu, nghe sâu chẳng ngộ gọi là tuyệt học.
Vĩnh Gia nói: “Bao năm về trước tôi học vấn, cũng từng thảo sớ tầm kinh luận.” Tập học đã hết gọi là “tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân”. Đến chỗ tuyệt học mới cùng đạo gần nhau, qua được hai cái học này gọi là thật qua. Vị Tăng này quả là minh mẫn, liền đưa lời này ra hỏi Hòa Sơn. Hòa Sơn đáp “biết đánh trống”. Nên nói lời vô vị nói vô vị. Muốn rõ công án này phải là người hướng thượng mới hay thấy lời nầy chẳng dính lý tánh, cũng không chỗ nghị luận. Thẳng đó liền hội, giống như thùng lủng đáy, mới là chỗ an ổn của Thiền tăng, khế hợp với ý Tổ sư từ Tây sang. Vì thế Vân Môn nói: Tuyết Phong đá cầu, Hòa Sơn đánh trống, Quốc sư chén nước, Triệu Châu uống trà, trọn nêu lên việc hướng thượng. Tăng lại hỏi, thế nào là chân đế ? Đáp biết đánh trống. Chân đế là chẳng lập một pháp. Nếu là tục đế thì muôn vật đầy đủ. Chân tục không hai là Thánh đế nghĩa thứ nhất. Tăng lại hỏi, tức tâm tức Phật thì chẳng hỏi, thế nào là phi tâm phi Phật ? Đáp biết đánh trống. Tức tâm tức Phật thì dễ tìm, đến phi tâm phi Phật thì rất khó, ít có người đến. Tăng lại hỏi, khi người hướng thượng đến làm sao tiếp ? Đáp biết đánh trống. Người hướng thượng tức là người thấu thoát tự tại. Bốn câu đáp này, các nơi lấy làm tông chỉ, gọi là Hòa Sơn Bốn Đánh Trống. Đến như Tăng hỏi Cảnh Thanh: đầu năm mới lại có Phật pháp hay không, Cảnh Thanh đáp: Có. Tăng hỏi: Thế nào là Phật pháp đầu năm ? Cảnh Thanh nói: Đầu năm mới mở phúc, muôn vật đều mới. Tăng thưa: Tạ Thầy đáp thoại. Cảnh Thanh nói: Lão tăng ngày nay mất lợi. Giống loại đáp thoại này có mười tám thứ mất lợi. Lại có vị Tăng hỏi Đại sư Tịnh Quả: Khi hạc đậu tùng côi thì thế nào ? Tịnh Quả đáp: Dưới gót chân một trường hổ thẹn. Tăng lại hỏi: Khi tuyết phủ ngàn núi thì thế nào ? Đáp: Sau khi mặt trời lên, một trường hổ thẹn. Tăng hỏi: Khi Hội Xương sa thải thần Hộ pháp đi về đâu ? Đáp: Hai kẻ ngoài ba cửa, một trường hổ thẹn. Các nơi gọi là Ba Hổ Thẹn. Bảo Phước hỏi Tăng: Trong điện là Phật gì ? Tăng đáp: Hòa thượng định đúng xem ? Bảo Phước nói: Ông già Thích-ca. Tăng thưa: Chớ lừa người. Bảo Phước nói: Lại là ngươi lừa ta. Lại hỏi Tăng: Ông tên gì ? Tăng thưa: Hàm Trạch. Bảo Phước nói: Nếu gặp khi khô cạn thì thế nào ? Tăng thưa: Ai là người khô cạn ? Bảo Phước nói: Ta. Tăng thưa: Hòa thượng chớ lừa người. Bảo Phước nói: Lại là ngươi lừa ta. Lại hỏi Tăng: Ông làm nghề gì mà ăn to thế ? Tăng thưa: Hòa thượng cũng chẳng nhỏ. Bảo Phước làm thế ngồi xổm. Tăng thưa: Hòa thượng chớ lừa người. Bảo Phước nói: Lại là ngươi lừa ta. Lại hỏi Tăng coi phòng tắm: Nồi nước tắm rộng bao nhiêu ? Tăng thưa: Thỉnh Hòa thượng lường xem. Bảo Phước làm thế lường. Tăng thưa: Hòa thượng chớ lừa người. Bảo Phước nói: Lại là ngươi lừa ta. Các nơi gọi là Bảo Phước Bốn Lừa Người. Đến như Tuyết Phong bốn thùng sơn, đều là bậc Tông sư từ trước, mỗi vị xuất phát ý chỉ thâm diệu làm cơ tiếp người. Tuyết Đậu ở sau dẫn một đoạn, y Vân Môn dạy chúng, tụng ra công án này:
TỤNG:
Nhất duệ thạch
Nhị ban thổ
Phát cơ tu thị thiên quân nỗ
Tượng Cốt lão sư tằng côn cừu
Tranh tợ Hòa Sơn giải đả cổ.
Báo quân tri
Mạc mãng lỗ
Điềm giả điềm hề khổ giả khổ.

DỊCH:
Một khuân đá
Hai ban đất
Phát cơ phải là ngàn quân nỏ
Lão sư Tượng Cốt từng đá cầu
Nào giống Hòa Sơn biết đánh trống.
Bảo anh hay
Chớ bướng bỉnh
Ngọt là ngọt chừ đắng là đắng.

GIẢI TỤNG:
Một hôm Qui Tông công tác công cộng khiêng đá. Qui Tông hỏi: Duy na đi chỗ nào ? Duy na thưa: Đi khuân đá. Qui Tông bảo: Đá từ ông khuân, tức chẳng được động đến giữa cây đòn. Mộc Bình có Tăng mới đến, trước sai ba lần gánh đất. Mộc Bình có tụng dạy chúng: “Núi Đông lộ hẹp, núi Tây thấp, mới đến chớ từ ba gánh đất, thương ông giữa đường đã nhiều năm, rõ ràng chẳng hiểu lại thành tối.” Sau có vị Tăng hỏi: Trong ba gánh không hỏi, việc ngoài ba gánh là thế nào ? Mộc Bình đáp: Thiên tử thiết luân hoàn trung lệnh. Tăng câm họng, Mộc Bình liền đánh. Vì thế nói “một khuân đá, hai ban đất”. “Phát cơ phải là ngàn quân nỏ”, Tuyết Đậu dùng cây nỏ ngàn quân dụ cho lời này, cần thấy chỗ kia vì người. Ba mươi cân là một quân, một ngàn quân tức là ba muôn cân. Phải là rồng to, cọp mạnh, thú dữ mới dùng đến cây nỏ này. Nếu là chim hạc hay vật nhỏ ắt không nên khinh thường mà phát. Vì thế, cây nỏ ngàn quân chẳng vì gà chuột mà phát cơ. “Lão sư Tượng Cốt từng đá cầu”, một hôm Tuyết Phong thấy Huyền Sa đến, ba trái cầu gỗ đồng thời phóng ra, Huyền Sa liền làm thế chẻ bia. Tuyết Phong thâm nhận đó. Tuy nhiên thảy là chỗ toàn cơ đại dụng, đều không bằng Hòa Sơn “biết đánh trống”. Quả thật thẳng tắt, chỉ là khó hội. Vì thế Tuyết Đậu nói “nào giống Hòa Sơn biết đánh trống”. Lại ngại người chỉ ở trên đầu lời nói làm kế sống, chẳng biết lai do, lại sanh càn càn rỡ rỡ. Cho nên nói “bảo anh hay, chớ bướng bỉnh”, phải thật đến loại điền địa này mới được. Nếu thật không bướng bỉnh, “ngọt là ngọt chừ đắng là đắng”. Tuy nhiên Tuyết Đậu niêm lộng như thế, cứu kính cũng nhảy chẳng khỏi.

Bởi vì học đến vô học nên mọi ngôn từ, câu nghĩa đều không còn ý nghĩa nữa, nghe như nghe tiếng trống mà thôi


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC (tắc 45)

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 45:

TRIỆU CHÂU ÁO VẢI BẢY CÂN

LỜI DẪN:
Cần nói liền nói cả thảy không đối, nên đi liền đi toàn cơ chẳng nhượng, như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp, nhanh như chớp, lẹ như gió, mau như nước chảy, gấp như đi trên đao bén, đưa lên kiềm chùy hướng thượng, chưa khỏi mất cở líu lưỡi. Đưa ra một đường, thử cử xem ?

CÔNG ÁN:
Tăng hỏi Triệu Châu: Muôn pháp về một, một về chỗ nào ? Triệu Châu đáp: Ta ở Thanh Châu dệt được một áo vải nặng bảy cân.

GIẢI THÍCH:
Nếu nhằm chỗ một kích động liền đi mà hội được, lỗ mũi các vị Hòa thượng già ở mọi nơi, một lúc xỏ xong, không làm gì được ông, tự nhiên nước tụ thành đầm. Nếu do dự thì Lão tăng ở dưới gót chân ông. Chỗ tỉnh yếu của Phật pháp chẳng phải ở nhiều lời, chẳng phải ở nói lắm. Chỉ như vị Tăng này hỏi Triệu Châu “muôn pháp về một, một về chỗ nào”? Triệu Châu lại đáp “ta ở Thanh Châu dệt được một áo vải nặng bảy cân”, nếu nhằm trên ngữ cú mà biện thì lầm nhận định bàn tinh (một tiêu chuẩn cố định). Nếu chẳng nhằm trên ngữ cú mà biện, tại sao lại nói thế ấy ? Công án này tuy khó thấy mà dễ hội, tuy dễ hội lại khó thấy. Khó thì núi bạc vách sắt, dễ thì liền đó tỉnh tỉnh, không có chỗ cho ông suy nghĩ phải quấy. Thoại này cùng câu Phổ Hóa nói “ngày mai ở trong viện Đại Bi có trai”, lại không có hai thứ. Một hôm, có Tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang ? Triệu Châu đáp: Cây bá ở trước sân. Tăng thưa: Hòa thượng chớ đem cảnh chỉ người. Triệu Châu bảo: Lão tăng chẳng từng đem cảnh chỉ người. Xem kia thế ấy, nhằm chỗ cực tắc chuyển chẳng được mà chuyển được, tự nhiên che trời che đất. Nếu chuyển chẳng được thì chạm đến thành kẹt. Hãy nói Triệu Châu có Phật pháp thương lượng hay không ? Nếu nói có Phật pháp, Triệu Châu đâu từng nói tâm nói tánh, nói huyền nói diệu. Nếu nói không có chỉ thú Phật pháp, Triệu Châu chẳng từng cô phụ lời hỏi của ông. Đâu chẳng thấy Tăng hỏi Hòa thượng Mộc Bình: thế nào là đại ý Phật pháp, Mộc Bình đáp: Trái bí đao này lớn như thế. Lại Tăng hỏi Cổ đức: Chỗ núi sâu vực thẳm vắng bặt không người, lại có Phật pháp hay không ? Cổ đức đáp: Có. Tăng hỏi: Thế nào là Phật pháp trong núi sâu ? Cổ đức đáp: Cục đá lớn là lớn, nhỏ là nhỏ. Xem loại công án này lời kỳ quái tại chỗ nào ? Tuyết Đậu biết chỗ rơi của kia, nên vạch bày nghĩa lộ vì ông tụng ra:

TỤNG:
Biên tịch tằng ai lão cổ chùy
Thất cân sam trọng kỷ nhân tri
Như kim phao trịch Tây Hồ lý
Hạ tải thanh phong phó dữ thùy.

DỊCH:
Biên tịch từng đưa lão cổ chùy
Áo vải bảy cân mấy người tri
Như nay ném thẳng Tây Hồ ấy
Hạ tải gió lành gởi cho ai.

GIẢI TỤNG:
Trong mười tám lối hỏi, câu hỏi này gọi là biên tịch. Tuyết Đậu nói “biên tịch từng đưa lão cổ chùy”, biên tịch muôn pháp đem về một mối. Vị Tăng này cốt xô đẩy Triệu Châu. Triệu Châu quả là hàng tác gia gặp chỗ chuyển không được, có con đường xuất thân, dám mở miệng to nói “ta ở Thanh Châu dệt một áo vải nặng bảy cân”. Tuyết Đậu nói “Áo vải bảy cân mấy người tri, như nay ném thẳng Tây Hồ ấy”, muôn pháp về một, một cũng chẳng cần. Áo vải bảy cân cũng chẳng cần, đồng thời ném xuống Tây Hồ. Tuyết Đậu ở Thúy Phong Động Đình có Tây Hồ. Câu “Hạ tải gió lành gởi cho ai”, đây là Triệu Châu dạy chúng: Nếu ông hướng Bắc đến vì ông thượng tải, nếu ông hướng Nam đến vì ông hạ tải. Nếu ông từ Tuyết Phong, Vân Cư đến cũng là kẻ gánh bản. Tuyết Đậu nói gió lành như thế kham gởi cho ai. Thượng tải là vì ông nói tâm nói tánh, nói huyền nói diệu, các thứ phương tiện. Nếu là hạ tải thì không có những thứ nghĩa lý huyền diệu. Có người gánh một gánh thiền đến chỗ Triệu Châu, một điểm cũng sử dụng không được, đồng thời vì y nhồi thành khối khiến sạch trơn thong dong, không có một sự kiện nào gọi là ngộ rồi đồng chưa ngộ. Như nay có người trọn làm vô sự để hội. Có người nói: “Không mê không ngộ, chẳng cần lại cầu. Chỉ như khi Phật chưa ra đời, khi Tổ Đạt-ma chưa sang xứ này, chẳng phải chẳng thế ấy, dùng Phật ra đời làm gì, Tổ sư Tây sang làm gì ?” Thảy như thế nào có dính dáng. Cần phải đại triệt đại ngộ rồi, như xưa núi là núi nước là nước, cho đến muôn pháp thảy đều hiện thành, mới làm người vô sự. Long Nha nói: “Học đạo trước cần có ngộ do, lại như từng dự hội đua thuyền, tuy nhiên gác cũ đất nhàn rỗi, một phen gánh vác mới nên thôi.” Chỉ như áo vải bảy cân này của Triệu Châu, xem thấy người xưa nói như vàng như ngọc. Sơn tăng nói thế ấy, các ông nghe thế ấy, thảy đều là thượng tải. Hãy nói thế nào là hạ tải ? Dưới ba cây đòn tay nhà, xem lấy.


Biên tịch là đưa mọi pháp về một mối, phép này để làm khó các thiền sư, nên Triệu Châu nói : đưa cho lão tăng cái chùy xưa ấy làm gì?
Lời đáp:Ta ở Thanh Châu có may một cái áo vải nặng bảy cân, có mấy ai hiểu được. Ai không hiểu thì cứ ôm cái áo vải ấy mà tìm hiểu, còn ai đã hiểu rằng "Vạn pháp qui về một, một cũng còn phải quên" thì quẳng quách cái áo ấy (lời đáp) xuống Tây Hồ cho rồi.
Hạ tải là giảm bớt độ khó của những lời nói hướng thượng, ai là người nhận được.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC (Tắc 46)

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 46: CẢNH THANH TIẾNG MƯA RƠI

LỜI DẪN:
Một chùy liền thành siêu phàm vượt Thánh, nửa câu khả dĩ mở trói gỡ niêm, như đi trên tảng băng, chạy trên kiếm bén, ngồi trong khối thanh sắc, đi trên đầu thanh sắc. Diệu dụng dọc ngang gác lại, khoảng sát-na liền đi thế nào, thử cử xem ?

CÔNG ÁN:
Cảnh Thanh hỏi Tăng: Ngoài cửa là tiếng gì ? Tăng thưa: Tiếng mưa rơi. Cảnh Thanh bảo: Chúng sanh điên đảo quên mình theo vật. Tăng thưa: Hòa thượng thì thế nào ? Cảnh Thanh bảo: Toàn chẳng quên mình. Tăng thưa: Toàn chẳng quên mình ý chỉ thế nào ? Cảnh Thanh bảo: Xuất thân vẫn còn dễ, thoát thể nói rất khó.

GIẢI THÍCH:
Chỉ trong này khéo tiến lấy, cổ nhân dùng một cơ một cảnh cần tiếp người. Một hôm, Cảnh Thanh hỏi Tăng: Ngoài cửa là tiếng gì ? Tăng thưa: Tiếng mưa rơi. Thanh bảo: Chúng sanh điên đảo quên mình theo vật. Lại hỏi: Ngoài cửa là tiếng gì ? Tăng thưa: Tiếng chim bột cưu. Thanh bảo: Muốn được chẳng chuốc nghiệp vô gián, chớ chê bai chánh pháp Như Lai. Lại hỏi: Ngoài cửa là tiếng gì ? Tăng thưa: Tiếng rắn bắt nhái kêu. Thanh bảo: Sẽ bảo chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh. Những câu này với công án ở trước không có hai thứ. Hàng Thiền tăng ở trong đây thấu được thì ở trong thanh sắc chẳng ngại tự do. Nếu thấu chẳng được liền bị thanh sắc lôi. Công án này, các nơi gọi là lời “tôi luyện”. Nếu là “tôi luyện” chỉ thành tâm hạnh, không thấy được chỗ vì người của cổ nhân. Cũng gọi lời này là “thấu thanh sắc”, một sáng đạo nhãn, hai sáng thanh sắc, ba sáng tâm tông, bốn sáng vọng tình, năm sáng triển diễn. Song nếu không chín chắn, sao khỏi thành hang ổ. Cảnh Thanh hỏi: Ngoài cửa là tiếng gì ? Tăng thưa: Tiếng mưa rơi. Lại nói: Chúng sanh điên đảo quên mình theo vật. Người ta lầm hội, cho là cố ý chuyển người, quả thật không dính dáng. Đâu chẳng biết Cảnh Thanh có thủ đoạn vì người, mật lớn chẳng nệ một cơ một cảnh, rất mực chẳng tiếc lông mày. Cảnh Thanh đâu chẳng biết tiếng mưa rơi, tại sao lại hỏi ? Phải biết cổ nhân dùng sào dò bóng cỏ, cốt nghiệm vị Tăng này. Vị Tăng này khéo xô đẩy liền hỏi: Hòa thượng thì sao ? Liền được Cảnh Thanh vào bùn vào nước, nói với ông “toàn chẳng quên mình”. Vị Tăng kia quên mình theo vật là phải, Cảnh Thanh vì sao cũng quên mình ? Phải biết nghiệm trong câu kia liền có chỗ xuất thân. Vị Tăng này quá lầm lẫn cốt cắt đứt lời này, hỏi: Chỉ cái chẳng quên mình ý chỉ thế nào ? Nếu là tông môn Đức Sơn, Lâm Tế thì gậy hét đã hiện. Cảnh Thanh thông qua một bước, tùy kia tạo sắn bìm, nói với kia “xuất thân còn là dễ, thoát thể nói rất khó”. Tuy nhiên thế ấy, người xưa nói tương tục cũng rất khó. Cảnh Thanh chỉ một câu làm vị Tăng này sáng việc lớn dưới gót chân. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:
Hư đường vũ trích thanh
Tác giả nan thù đối
Nhược vị tằng nhập lưu
Y tiền hoàn bất hội
Hội bất hội
Nam sơn Bắc sơn chuyển bàng bái.

DỊCH:
Nhà trống tiếng mưa rơi
Tác giả khôn đối đáp
Nếu bảo từng nhập lưu
Như trước lại chẳng hội
Hội chẳng hội
Núi Nam núi Bắc mưa xối xả.

GIẢI TỤNG:
“Nhà trống tiếng mưa rơi, tác giả khôn đối đáp”, nếu nói tiếng mưa rơi thì quên mình theo vật, chẳng nói tiếng mưa rơi lại làm sao chuyển vật ? Đến trong ấy, dù là tác giả cũng khó đối đáp. Vì thế, cổ nhân nói: “Thấy cùng thầy bằng, kém thầy nửa đức, thấy vượt hơn thầy, mới kham truyền thọ.” Nam viện nói: “Dưới gậy vô sanh nhẫn, lâm cơ chẳng nhượng thầy.” “Nếu bảo từng nhập lưu, như trước lại chẳng hội”, trong kinh nói: “Ban đầu trong cái nghe nhập lưu vong sở, sở nhập đã lặng, hai tướng động tịnh rõ ràng chẳng sanh…” Nếu nói là tiếng mưa rơi thì chẳng phải. Nếu nói chẳng phải tiếng mưa rơi cũng chẳng phải. Phần trước bài tụng hai hét cùng ba hét. Tác giả biết cơ biến chính là loại tụng này. Nếu nói là vào thanh sắc cũng chẳng phải. Nếu gọi là thanh sắc, như trước chẳng hiểu ý kia. Ví như lấy tay chỉ mặt trăng, mặt trăng chẳng phải là ngón tay. Hội cùng chẳng hội, núi Bắc núi Nam mưa xối xả vậy.

Nếu đáp : tiếng mưa rơi tức là chạy theo thanh sắc, chạy theo cảnh là quên chính mình vậy. Vì vậy Cảnh Thanh nói : Toàn chẳng quên mình. Mà chẳng đáp "tiếng mưa rơi" thì cũng không có lời đáp khác. Đến đây không có lời để diễn tả, cho nên Cảnh Thanh bảo " Thoát thể rất khó nói"


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC (Tắc 47)

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 47: VÂN MÔN SÁU CHẲNG THÂU

LỜI DẪN:
Trời nói gì đâu bốn mùa đi vậy, đất nói gì đâu vạn vật sanh vậy. Nhằm chỗ bốn mùa đi khả dĩ thấy thể, ở chỗ vạn vật sanh khả dĩ thấy dụng. Hãy nói nhằm chỗ nào thấy được Thiền tăng ? Lìa sạch ngôn ngữ động dụng, đi đứng ngồi nằm, dẹp hết môi mép cuống họng, lại biện được chăng ?

CÔNG ÁN:
Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là Pháp thân ? Vân Môn đáp: Sáu chẳng thâu.

GIẢI THÍCH:
Vân Môn nói sáu chẳng thâu hẳn là khó nắm. Nếu nhằm khi điềm ứng chưa phân nắm được, đã là đầu thứ hai. Nếu nhằm khi điềm ứng đã sanh tiến được, lại rơi vào đầu thứ ba. Nếu nhằm trên ngôn cú biện minh, rốt cuộc tìm chẳng được. Cứu kính cái gì là Pháp thân ? Nếu là hàng tác gia vừa nghe cử lên liền đứng dậy đi ra. Nếu chờ suy đợi cơ, hãy lắng nghe xử phân. Thượng tọa Phù ở Thái Nguyên trước là Giảng sư, một hôm lên tòa giảng về Pháp thân, nói “dọc cùng tam tế, ngang khắp mười phương”. Có một Thiền khách ở dưới tòa nghe liền bật cười. Phù xuống tòa, hỏi: Vừa rồi tôi có chỗ nào dở, mong Thiền giả vì chỉ cho. Thiền khách nói: Tọa chủ chỉ giảng được bên lượng của Pháp thân, mà chẳng thấy Pháp thân. Phù hỏi: Cứu kính thế nào mới phải ? Thiền khách bảo: Hãy tạm bãi giảng, ngồi trong thất vắng, ắt được tự thấy. Phù làm như lời Thiền khách. Một đêm ngồi yên lặng bỗng nghe đánh chuông canh năm, hốt nhiên đại ngộ, liền chạy gõ cửa Thiền khách nói: Tôi ngộ rồi. Thiền khách hỏi: Ông thử nói xem ? Phù nói: “Kể từ ngày nay tôi chẳng nắm cái lỗ mũi của cha mẹ sanh ra.” Trong kinh nói: “Chân Pháp thân Phật ví như hư không, ứng vật hiện hình như trăng trong nước.” Lại Tăng hỏi Giáp Sơn: Thế nào là Pháp thân ? Giáp Sơn đáp: Pháp thân không tướng. Hỏi: Thế nào là Pháp nhãn ? Đáp: Pháp nhãn không tỳ. Vân Môn nói: Sáu chẳng thâu. Công án này có người nói: Chỉ là sáu căn sáu trần sáu thức, sáu cái này từ Pháp thân sanh, nên sáu căn thâu nó không được. Nếu tình giải thế ấy, quả thật chẳng dính dáng, lại làm đới lụy Vân Môn. Cần thấy liền thấy, không có chỗ cho ông đục đẽo. Trong kinh nói: “Pháp ấy chẳng phải chỗ suy nghĩ phân biệt hay hiểu.” Vân Môn đáp câu hỏi phần nhiều gợi lên tình giải của người. Vì thế, trong một câu phải đủ ba câu, lại chẳng cô phụ lời hỏi của ông, hợp thời hợp tiết, một lời một câu, một chấm một vạch cũng có chỗ xuất thân. Cho nên nói: “Một câu thấu, ngàn câu muôn câu đồng thời thấu.” Hãy nói là Pháp thân, là Tổ sư ? Tha ngươi ba mươi gậy. Tuyết Đậu tụng ra:
TỤNG: Nhất nhị tam tứ ngũ lục
Bích nhãn Hồ Tăng sổ bất túc
Thiếu Lâm mạn đạo phó Thần Quang
Quyện y hựu thuyết qui Thiên Trúc.
Thiên Trúc mang mang vô xứ tầm
Dạ lai khước đối Nhũ Phong túc.
DỊCH: Một hai ba bốn năm sáu
Hồ Tăng mắt biếc đếm không đủ
Thiếu Lâm dối nói trao Thần Quang
Cuộn áo lại bảo về Thiên Trúc.
Thiên Trúc mênh mang không chỗ tìm
Đêm về lại đến Nhũ Phong ngủ.
GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu thực tài ở chỗ không thưa hở, xuất phát nhãn mục tụng cho người thấy. Vân Môn nói “sáu chẳng thâu”. Tuyết Đậu vì sao nói “một hai ba bốn năm sáu”, liền nói “Hồ Tăng mắt biếc đếm không đủ” ? Bởi vì, “chỉ cho lão Hồ biết, chẳng cho lão Hồ hiểu”. Phải là trả lại cho con cháu trong nhà kia mới được. Như trên nói “một lời một câu hợp thời tiết”, nếu thấu được mới biết nói không ở trong ngôn cú. Nếu chưa được thế, chẳng khỏi khởi tình giải. Ngũ Tổ lão sư nói: “Phật Thích-ca Mâu-ni, khách hạ tiện làm con, cây bá ở trước sân, một hai ba bốn năm.” Nếu nhằm dưới ngôn cú Vân Môn thấy được cùng tột thì đến cảnh giới này. “Thiếu Lâm dối nói trao Thần Quang”, Nhị Tổ trước tên Thần Quang. Nhẫn đến sau này lại nói “về Thiên Trúc”, Tổ Đạt-ma tịch, nhập tháp dưới núi Hùng Nhĩ. Khi ấy Tống Vân vâng lệnh đi sứ Tây về, đến ngọn núi phía Tây thấy Tổ Đạt-ma quảy một chiếc giày trở về Tây thiên… Tống Vân về triều tâu lại, triều đình cho khai tháp xem, chỉ thấy để lại một chiếc giày. Tuyết Đậu nói “kỳ thật việc này làm sao phân phó”? Đã không phân phó “cuộn áo lại bảo về Thiên Trúc”. Hãy nói vì sao xứ này lại có sáu vị thứ lớp trao truyền nhau ? Trong đây quả thật kỳ quái, phải là nắm được mới có thể nhập. Câu “Thiên Trúc mênh mang không chỗ tìm, đêm về lại đến Nhũ Phong ngủ”, thử nói hiện nay ở chỗ nào ? Sư liền đánh, nói: Mù !

Sáu chẳng thâu, chẳng phải nói đến sáu vị Tổ Sư của Thiền Tông, mà là nói Pháp Thân vượt ngoài sự thấy biết của sáu giác quan, cho nên cả sáu thứ này đều không nhận thấy được


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC (Tắc 48)

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 48:
CHIÊU KHÁNH LẬT NGƯỢC ẤM TRÀ
CÔNG ÁN:
Vương Thái Phó vào chùa Chiêu Khánh nấu trà. Khi ấy Thượng tọa Lãng cùng Minh Chiêu đang soạn ấm trà. Lãng lật ngược ấm trà lại. Thái Phó thấy hỏi: Dưới lò trà là cái gì ? Lãng nói: Thần bưng lò. Thái Phó hỏi: Đã là thần bưng lò vì sao lại lật ngược ấm trà ? Lãng đáp: làm quan ngàn ngày mất ở một buổi. Thái Phó phủi áo đi ra. Minh Chiêu nói: Thượng tọa Lãng ăn cơm Chiêu Khánh xong, lại đi ngoài sông đánh gốc cây cháy. Lãng hỏi: Hòa thượng thì sao ? Minh Chiêu bảo: Phi nhân được cơ hội thuận tiện. Tuyết Đậu nói: Khi ấy chỉ đạp nhào lò trà.

GIẢI THÍCH:
Muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên. Vương Thái Phó coi Tuyền Châu, tham vấn Chiêu Khánh đã lâu. Một hôm nhân vào chùa, Thượng tọa Lãng nấu trà, lật úp ấm trà. Thái Phó cũng là hàng tác gia, vừa thấy lật úp ấm trà liền hỏi: Thượng tọa ! Dưới lò trà là gì ? Lãng đáp: Thần bưng lò. Quả là trong lời có vang, song đầu đuôi trái nhau, mất đi tông chỉ, chạm bén đứt tay, chẳng những cô phụ chính mình cũng xúc phạm kẻ khác. Cái này tuy không có việc được mất, song nêu lên, như trước có thân sơ, có đen trắng. Nếu luận việc này chẳng ở trên ngôn cú, lại cũng nhằm trên ngôn cú biện chỗ sống. Vì thế nói kia tham câu sống chẳng tham câu chết. Cứ theo Thượng tọa Lãng nói thế ấy như chó điên đuổi bóng. Thái Phó phủi áo ra đi, dường như không chấp nhận kia. Minh Chiêu nói: Thượng tọa Lãng ăn cơm Chiêu Khánh xong, lại đi ngoài sông đánh gốc cây cháy. Gốc cây cháy tức là gốc cây ở trong đồng hoang bị lửa cháy, gọi là gốc cây cháy. Dùng câu này để chỉ Thượng tọa Lãng chẳng nhằm chỗ chánh mà đi, lại nhằm bên ngoài mà chạy. Lãng đẩy lại hỏi: Hòa thượng thì sao ? Chiêu đáp: Phi nhân được cơ hội thuận tiện. Minh Chiêu tự nhiên có chỗ xuất thân, cũng chẳng cô phụ câu hỏi của kia. Cho nên nói chó dữ cắn người chẳng nhe răng. Hòa thượng Triết ở Qui Sơn nói: Vương Thái Phó giống như cướp ngọc mà được bông tua chiếc mũ. Minh Chiêu không cam chịu đựng, khó gặp cơ hội tốt. Đại Qui nếu làm Thượng tọa Lãng thấy Thái Phó phủi áo ra đi, liền buông ấm trà xuống cười ha hả ! Tại sao ? - Thấy đó chẳng chụp ngàn năm khó gặp. Như Bảo Thọ hỏi Hồ Đinh Giao: Đã lâu nghe danh Hồ Đinh Giao, có phải đây chăng ? Giao thưa: Phải. Thọ hỏi: Lại đóng được hư không chăng ? Giao thưa: Mời Thầy đập phá. Thọ liền đánh. Giao chẳng nhận. Thọ bảo: Ngày khác sẽ có ông thầy lanh mồm vì ông điểm phá. Giao sau gặp Triệu Châu thuật lại câu nói trước. Châu hỏi: Ông vì sao bị Bảo Thọ đánh ? Giao thưa: Chẳng biết lỗi tại chỗ nào ? Châu bảo: Chỉ một đường tơ này còn không thể được, lại bảo đập phá hư không. Giao liền thôi. Châu nói thế: Hãy đóng một đường tơ này. Giao khi đó có tỉnh. Thầy Mễ Thất ở Kinh Triệu đi hành cước về, có vị Lão túc hỏi: Sợi dây kéo nước đứt bỏ ngoài đường, ban đêm người ta cho là rắn, chưa biết thầy Thất khi thấy Phật gọi là gì ? Thầy Thất đáp: Nếu có cái để thấy tức đồng chúng sanh. Lão túc nói: Cũng là hạt đào ngàn năm. Quốc sư Trung hỏi Cung Phụng Tử Lân: Nghe nói Cung Phụng chú giải kinh Tư Ích phải chăng ? Cung Phụng đáp: Phải. Quốc sư bảo: Phàm chú kinh phải hiểu ý Phật mới được. Phụng đáp: Nếu chẳng hiểu đâu dám nói chú kinh. Quốc sư sai thị giả đem một chén nước, bảy hột gạo, một chiếc đũa để trên cái chén, trao cho Cung Phụng, hỏi: Ấy là nghĩa gì ? Phụng đáp: Chẳng hiểu. Quốc sư bảo: Ý của Lão sư còn chẳng hiểu, lại nói gì ý Phật ? Vương Thái Phó với Thượng tọa Lãng nói như thế, người hiểu không phải một. Rốt sau Tuyết Đậu lại nói: Khi ấy chỉ đạp nhào lò trà. Minh Chiêu tuy như thế, trọn chẳng bằng Tuyết Đậu. Tuyết Phong ở trong hội Động Sơn làm trưởng phòng trai, một hôm đãi gạo. Đông Sơn hỏi: Làm gì ? Phong thưa: Đãi gạo. Động Sơn hỏi: Đãi gạo bỏ cát, đãi cát bỏ gạo ? Phong thưa: Gạo cát đồng thời bỏ. Động Sơn hỏi: Đại chúng lấy gì ăn ? Phong liền úp chậu lại. Động Sơn bảo: Nhân duyên của ông không phải ở đây. Tuy nhiên thế ấy, đâu giống Tuyết Đậu nói “khi ấy chỉ đạp nhào lò trà”. Bậc nhất đẳng là thời tiết gì ? Đến chỗ dụng kia vượt nay suốt xưa, có chỗ sống linh hoạt.

TỤNG:
Lai vấn nhược thành phong
Ứng cơ phi thiện xảo
Kham bi độc nhãn long
Tằng vị trình nha trảo.
Nha trảo khai
Sanh vân lôi
Nghịch thủy chi ba kinh kỷ hồi.

DỊCH:
Đến hỏi nếu thành phong
Ứng cơ chẳng khéo léo
Đáng buồn một mắt rồng
Chưa từng trình nanh vuốt.
Nanh vuốt bày
Mây sấm dậy
Sóng vỗ ngược dòng bao giờ về.

GIẢI TỤNG:
Hai câu “đến hỏi nếu thành phong, ứng cơ chẳng khéo léo”, là nói chỗ hỏi của Thái Phó giống như vận dụng rìu thành gió. Đây là xuất xứ từ Trang Tử, trong ấy nói: Người đất Vĩnh lấy đất trét vách, còn trống một lỗ nhỏ xíu, bèn vò một hòn đất tròn ném vào liền kín, khi ấy có chút đất nhỏ rơi dính chót mũi ông ta. Bên cạnh có người thợ mộc bảo: Anh bổ chỗ thiếu rất khéo, tôi vận dụng chiếc rìu vì anh phủi chút bùn ở chót mũi. Mảnh bùn dính chót mũi bằng con ruồi đậu, bảo anh thợ mộc đẽo nó. Anh thợ mộc vận dụng chiếc rìu thành gió đẽo sạch mảnh bùn mà chẳng chạm đến lỗ mũi, người đất Vĩnh đứng bình thường không đổi sắc mặt, để nói hai người đều khéo léo. Thượng tọa Lãng tuy ứng với cơ mà lời không khéo. Vì thế, Tuyết Đậu nói “đến hỏi nếu thành phong, ứng cơ không khéo léo, đáng buồn một mắt rồng, chưa từng trình nanh vuốt”. Minh Chiêu nói rất kỳ đặc, song chưa có nanh vuốt dồn mây dậy mưa. Tuyết Đậu đứng bên chẳng nhận, không chịu nổi liền thay kia nói ra. Tuyết Đậu thầm hợp với ý kia, tự tụng lời đạp nhào lò trà. “Nanh vuốt bày, mây sấm dậy, sóng vỗ ngược dòng bao giờ về.” Vân Môn nói: Chẳng mong ông có tài sóng ngược nước, chỉ có ý thuận dòng cũng được. Vì thế nói: Dưới câu sống tiến được vĩnh kiếp chẳng quên. Thượng tọa Lãng cùng Minh Chiêu ngữ cú tợ chết. Nếu cần thấy chỗ sống, chỉ xem Tuyết Đậu đạp nhào lò trà.

Thượng tọa Lãng lật úp ấm trà là hiển dụng, là nói “ vốn không”, vì vậy mới nói “Ăn cơm Chiêu Khánh”. Nhưng câu sau , trả lời câu hỏi dưới lò trà là gì, mà nói là “Thần bưng lò” thì trật lấc, lại rơi vào phân biệt, chấp trước. Nếu tâm đã không rồi thì chẳng trà cũng chẳng lò, lại cũng chẳng có nơi để lò trà nữa. Cho nên Tuyết Đậu đạp nhào lò trà. Còn Minh Chiêu thì bảo là Thượng tọa Lãng ăn cơm Chiêu Khánh rồi mà chạy ra đánh gốc cây cháy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC (TẮC 49)

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 49:
TAM THÁNH CÁ VÀNG PHỦNG LƯỚI
LỜI DẪN:
Bảy xoi tám phủng cướp trống đoạt cờ, trăm vòng ngàn lớp, xem trước ngó sau, cỡi đầu cọp nắm đuôi cọp, chưa phải tác gia. Đầu trâu mất đầu ngựa về, cũng chưa là kỳ đặc. Hãy nói khi người quá lượng đến thì thế nào, thử cử xem ?
CÔNG ÁN:
Tam Thánh hỏi Tuyết Phong: Cá vàng vọt phủng lưới, chưa biết lấy gì làm thức ăn ? Tuyết Phong đáp: Đợi ông ra khỏi lưới đến, vì ông nói. Tam Thánh nói: Là thiện tri thức của một ngàn năm trăm người mà thoại đầu cũng chẳng biết. Tuyết Phong nói: Lão tăng trụ trì nhiều việc.
GIẢI THÍCH:
Tuyết Phong, Tam Thánh tuy nhiên một ra một vào, một xô một đẩy, chưa phân thắng bại. Hãy nói hai vị tôn túc này đủ con mắt gì ? Tam Thánh từ Lâm Tế nhận ấn ký trải khắp các nơi, đều được các nơi đãi vào hàng cao khách. Xem Sư đặt câu hỏi bao nhiêu người dò tìm chẳng được. Vả lại chẳng dính lý tánh Phật pháp. Hỏi con cá vàng vọt phủng lưới, chưa biết lấy gì làm thức ăn ? Thử nói ý Sư thế nào ? Cá vàng vọt phủng lưới bình thường đã chẳng ăn mồi thơm của người, chẳng biết lấy gì làm thức ăn ? Tuyết Phong là tác gia dường như nhàn rỗi, chỉ lấy một hai phần đáp kia, lại vì kia nói “đợi ông ra khỏi lưới đến, vì ông nói”. Phần Dương gọi là hỏi “trình giải”, tông Tào Động gọi là hỏi “mượn việc”. Phải là vượt quần thoát loại, được đại thọ dụng, trên đảnh có con mắt, mới gọi là cá vàng vọt phủng lưới. Nào ngờ Tuyết Phong là hàng tác gia chẳng ngại làm giảm uy danh của người, nên nói đợi ông ra khỏi lưới đến, vì ông nói. Xem hai vị nắm vững phong cương, vách đứng muôn trượng. Nếu chẳng phải Tam Thánh một câu này liền đi chẳng được. Nhưng Tam Thánh cũng là hàng tác gia mới biết nói với kia, là thiện tri thức của một ngàn năm trăm người mà thoại đầu cũng chẳng biết. Tuyết Phong lại nói “Lão tăng trụ trì nhiều việc”. Câu này thật cứng rắn cao ngạo. Hai vị tác gia gặp nhau, một bắt một thả, gặp mạnh liền yếu, gặp tiện liền quí. Nếu ông khởi hiểu hơn thua thì chưa mộng thấy Tuyết Phong. Xem hai vị lúc đầu nguy hiểm cao vót, rốt sau hai người đều là kẻ chết. Hãy nói có được mất, hơn thua chăng ? Những vị tác gia khác đối đáp ắt chẳng như thế. Tam Thánh ở chỗ Lâm Tế làm Viện chủ, Lâm Tế sắp tịch dạy: Sau khi ta đi, chẳng được diệt chánh pháp nhãn tạng của ta. Tam Thánh ra thưa: Đâu dám diệt chánh pháp nhãn tạng của Hòa thượng. Lâm Tế hỏi: Về sau có người hỏi ông làm sao ? Tam Thánh liền hét. Lâm Tế nói: Ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta đến bên con lừa mù này diệt rồi. Tam Thánh liền lễ bái. Sư là chân tử của Lâm Tế mới dám đối đáp như thế. Tuyết Đậu rốt sau chỉ tụng cá vàng vọt phủng lưới, bày chỗ tác gia thấy nhau.

TỤNG:
Thấu võng kim lân
Hưu vấn đới thủy
Diêu càn đảng khôn
Chấn liệp bãi vĩ.
Thiên xích kình phún hồng lãng phi
Nhất thanh lôi chấn thanh tiên khỉ
Thanh tiên khỉ
Thiên thượng nhân gian tri kỷ kỷ.
DỊCH:
Thủng lưới cá vàng
Thôi bảo dính nước
Rung càn động khôn
Mang chấn đuôi quạt.
Ngàn thước cá kình phun sóng to
Một tiếng sấm vang gió mạnh nổi
Gió mạnh nổi
Trên trời nhân gian mấy người biết.
GIẢI TỤNG:
Hai câu “thủng lưới cá vàng, thôi bảo dính nước”, Ngũ Tổ tiên sư nói chỉ trong một câu này tụng xong vậy. Đã là cá vàng vọt thủng lưới há kẹt trong nước, ắt ở chỗ nước nổi mênh mông sóng dậy ngập trời. Hãy nói trong mười hai giờ lấy cái gì làm thức ăn ? Các ông hãy nhằm dưới ba cây đòn tay, trước cái đơn bảy tấc, thử định đúng xem ? Tuyết Đậu nói việc này tùy phần niêm lộng, như loại cá vàng khi “mang chấn đuôi quạt” thì “rung càn động khôn”. Câu “ngàn thước cá kình phun sóng to” là tụng Tam Thánh nói “là thiện tri thức của một ngàn năm trăm người mà thoại đầu cũng chẳng biết”, như cá kình phun sóng to. Câu “một tiếng sấm vang gió mạnh nổi” là tụng, Tuyết Đậu nói “Lão tăng trụ trì nhiều việc”, giống như một tiếng sấm gió mạnh nổi dậy. Đại cương tụng hai vị đều là hàng tác gia. Hai câu “gió mạnh nổi, trên trời nhân gian mấy người biết”, thử nói hai câu tụng này rơi tại chỗ nào ? Chữ tiên là gió, khi gió mạnh thì trên trời nhân gian có mấy người hay biết.

Cá vàng vọt thủng lưới dụ cho người đã thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi lưới mê, chẳng nhiễm tình trần. Vì vậy mới nói “ Thủng lưới cá vàng, thôi bảo dính nước “ Những người như vậy thì dùng “ Thuyền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn ” há chịu ăn cơm của người.
Chỉ hai câu này là đủ ý. Những câu sau chỉ nói thêm về diệu dụng sau khi đã vọt thủng lưới mà thôi.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC (tắc 50)

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 50:
VÂN MÔN TRẦN TRẦN TAM-MUỘI
LỜI DẪN:
Vượt qua giai cấp siêu tuyệt phương tiện, cơ cơ hợp nhau, cú cú vào nhau. Ví chẳng phải vào cửa đại giải thoát, được dụng đại giải thoát, lấy gì quyền hành Phật Tổ, qui giám tông thừa. Hãy nói đương cơ cắt đứt, nghịch thuận tung hoành, làm sao nói được câu xuất thân, thử mời cử xem ?
CÔNG ÁN:
Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là trần trần tam-muội ? Vân Môn đáp: Cơm trong bát, nước trong thùng.
GIẢI THÍCH:
Lại định đúng được chăng ? Nếu định đúng được thì lỗ mũi Vân Môn ở trong tay các ông. Nếu định đúng chẳng được thì lỗ mũi các ông ở trong tay Vân Môn. Vân Môn có câu chặt đinh cắt sắt, trong một câu đủ ba câu. Có người hỏi đến liền nói, cơm trong bát, mỗi hạt đều tròn, nước trong thùng, mỗi giọt đều ướt. Nếu hiểu thế ấy, chẳng thấy chỗ Vân Môn đoan đích vì người.
TỤNG:
Bát lý phạn dũng lý thủy
Đa khẩu a sư nan hạ chủy
Bắc đẩu Nam tinh vị bất thù
Bạch lãng thao thiên bình địa khỉ.
Nghĩ bất nghĩ
Chỉ bất chỉ
Cá cá vô côn trưởng giả tử.
DỊCH:
Cơm trong bát, nước trong thùng
Ông thầy lanh mồm khó mở miệng
Sao Bắc sao Nam vị khác nào
Sóng bủa ngập trời đất bằng dấy.
Nghĩ chẳng nghĩ
Dừng chẳng dừng
Mỗi mỗi không quần con trưởng giả.
GIẢI TỤNG:
Ở trước, Tuyết Đậu tụng Vân Môn đối một nói “đối một nói, quá cao tột, quả chùy không lỗ thêm hạ chốt”. Sau tụng Mã Tổ ly tứ cú tuyệt bách phi nói “Tạng đầu bạc, Hải đầu đen, Thiền tăng mắt sáng hội chẳng được”. Nếu nơi công án này thấu được thì thấy tụng kia. Tuyết Đậu mở đầu nói “cơm trong bát, nước trong thùng”, trong lời có vang, trong câu trình cơ. Tiếp “ông thầy lanh mồm khó mở miệng”, theo sau vì ông chú cước. Nếu ông nhằm trong này cần tìm huyền diệu đạo lý, so sánh càng khó mở miệng. Tuyết Đậu đến đây cũng được ông ta thích ngay mở đầu nắm đứng, sợ e trong chúng có người đủ mắt sáng nhìn thấu, nên đến phần sau lại phóng qua một nước, rồi cúi xuống vì kẻ sơ cơ vạch bày tụng ra khiến người thấy. Bắc Đẩu như xưa ở phương Bắc, sao Nam như xưa ở phương Nam, vì thế nói “sao Bắc sao Nam vị khác nào”. Câu “sóng bủa ngập trời đất bằng dấy”, bỗng nhiên đất bằng dậy sóng phải làm sao ? Nếu nhằm trên sự xem thì dễ, nếu nhằm dưới ý căn tìm thì mò bắt chẳng được. Cái này giống hệt cây cọc sắt, lung lay chẳng được, nhổ lên chẳng được. Nếu ông nghĩ nghị muốn hiểu thì chẳng hiểu, muốn dừng mà không dừng. Loạn trình túi dốt chính là “mỗi mỗi không quần con trưởng giả”. Thơ của Hàn Sơn nói: “Lục cực thường thêm khổ, cửu duy luống tự bàn, có tài vứt cỏ rậm, không thế đóng cửa bồng, trời lên núi vẫn tối, khói hết hang còn mờ, trong kia con trưởng giả, mỗi mỗi thảy không quần.”

Thế nào là trần trần Tam Muội ? ( Tam Muội lộ bầy)
Chơn như lúc nào chẳng lộ bày, chỉ là mình tự che mắt nên không thể thấy.
Vì thế Vân Môn nói " luôn luôn lộ bày như cơm trong bát, nước trong thùng mà anh thấy kia"
Sao Bắc Đẩu vẫn ở phuơng Bắc, Sao Nam Tào vẫn ở phuơng Nam, nào có gì khác.Vạn pháp vẫn tự như, thế mà bỗng nhiên đất bằng dậy sóng, đi hỏi " Thế nào là trần trần tam muội " Dù anh suy nghĩ hay không, dù có dừng lại hay không, anh vẫn là con trưởng giả mà chẳng có cái quần mà mặc.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Chanhientam
Bài viết: 959
Ngày: 11/09/07 15:44

Re: BÍCH NHAM LỤC (tắc 50)

Bài viết chưa xem gửi bởi Chanhientam »

binh đã viết:TẮC 50:
Thế nào là trần trần Tam Muội ? ( Tam Muội lộ bầy)
Chơn như lúc nào chẳng lộ bày, chỉ là mình tự che mắt nên không thể thấy.
Vì thế Vân Môn nói " luôn luôn lộ bày như cơm trong bát, nước trong thùng mà anh thấy kia"
Sao Bắc Đẩu vẫn ở phuơng Bắc, Sao Nam Tào vẫn ở phuơng Nam, nào có gì khác.Vạn pháp vẫn tự như, thế mà bỗng nhiên đất bằng dậy sóng, đi hỏi " Thế nào là trần trần tam muội " Dù anh suy nghĩ hay không, dù có dừng lại hay không, anh vẫn là con trưởng giả mà chẳng có cái quần mà mặc.
Là ... bác Bình hả? :)


Chanhientam
Bài viết: 959
Ngày: 11/09/07 15:44

Re: BÍCH NHAM LỤC (Tắc 46)

Bài viết chưa xem gửi bởi Chanhientam »

binh đã viết:TẮC 46: CẢNH THANH TIẾNG MƯA RƠI
CÔNG ÁN:
Cảnh Thanh hỏi Tăng: Ngoài cửa là tiếng gì ? Tăng thưa: Tiếng mưa rơi. Cảnh Thanh bảo: Chúng sanh điên đảo quên mình theo vật. Tăng thưa: Hòa thượng thì thế nào ? Cảnh Thanh bảo: Toàn chẳng quên mình. Tăng thưa: Toàn chẳng quên mình ý chỉ thế nào ? Cảnh Thanh bảo: Xuất thân vẫn còn dễ, thoát thể nói rất khó.
Nếu đáp : Tiếng mưa rơi tức là chạy theo thanh sắc, chạy theo cảnh là quên chính mình vậy. Vì vậy Cảnh Thanh nói : Toàn chẳng quên mình. Mà chẳng đáp "tiếng mưa rơi" thì cũng không có lời đáp khác. Đến đây không có lời để diễn tả, cho nên Cảnh Thanh bảo " Thoát thể rất khó nói"
Mưa rơi thì nói mưa rơi, pháp thế nào nói đúng thế ấy, sao lại bảo là chạy theo cảnh quên mình? Không lý người giác ngộ là phải nín hết?

Đã nói không có lời nào để diễn tả. Vậy câu TOÀN CHẲNG QUÊN MÌNH có khác câu TIẾNG MƯA RƠI không, mà Tăng thì bị cho là quên mình theo vật còn Cảnh Thanh thì không thấy nói đến? Vậy lỗi có phải là nằm ở câu TIẾNG MƯA RƠI chăng? ;)


Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

TẮC 51

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TẮC 51:
TUYẾT PHONG LÀ CÁI GÌ
LỜI DẪN:
Vừa có phải quấy, lăng xăng mất tâm; chẳng rơi giai cấp, lại không dò tìm. Hãy nói thả đi là phải, nắm đứng là phải ? Đến trong đây còn có mảy tơ đường hiểu, vẫn kẹt nói bàn, còn mắc cơ cảnh, trọn là nương cỏ gá cây. Dù cho liền đến chỗ độc thoát, chưa khỏi muôn dặm trông quê nhà, lại nắm được chăng ? Nếu chưa nắm được, chỉ lý hội công án hiện thành, thử cử xem ?

CÔNG ÁN:
Khi Tuyết Phong ở am có hai vị Tăng đến lễ bái. Tuyết Phong thấy đến, lấy tay đẩy cửa am, phóng thân ra ngoài, nói: Là cái gì ? Tăng cũng nói: Là cái gì ? Tuyết Phong cúi đầu về am. Vị Tăng sau đến Nham Đầu, Nham Đầu hỏi: Ở đâu đến ? Tăng thưa: Lãnh Nam đến. Nham Đầu hỏi: Từng đến Tuyết Phong chưa ? Tăng thưa: Từng đến. Nham Đầu hỏi: Có những ngôn cú gì ? Tăng thuật lại việc trước. Nham Đầu hỏi: Ông ấy nói gì ? Tăng thưa: Không nói, chỉ cúi đầu về am. Nham Đầu nói: Ôi ! Ta hối hận buổi đầu chẳng nói với y câu rốt sau, nếu nói với y thì người trong thiên hạ làm gì được lão Tuyết. Tăng đến cuối hạ nhắc lại việc trước thưa hỏi. Nham Đầu hỏi: Sao không hỏi sớm ? Tăng thưa: Chưa dám khinh thường. Nham Đầu nói: Tuyết Phong tuy cùng ta đồng điều sanh, chẳng cùng ta đồng điều tử, cần biết câu rốt sau chỉ là thế.

GIẢI THÍCH:
Phàm là người phù trì tông giáo phải biện rõ đương cơ, biết tiến thoái phải quấy, rành giết sống giữ tha. Nếu như con mắt mờ mờ mịt mịt đến nơi gặp hỏi thì hỏi, gặp đáp thì đáp, không biết lỗ mũi ở trong tay người khác. Tuyết Phong, Nham Đầu đồng tham kiến Đức Sơn. Vị Tăng này tham vấn Tuyết Phong kiến giải chỉ đến thế ấy, cho đến yết kiến Nham Đầu cũng chẳng từng thành được một việc, luống phiền hai vị lão Tôn túc, một hỏi một đáp, một giữ một tha, thẳng đến ngày nay người trong thiên hạ thành khúc mắc rối loạn, phân giải không ra. Hãy nói khúc mắc rối loạn ở tại chỗ nào ? Tuyết Phong tuy trải khắp nơi, rốt sau ở quán trọ Ngao Sơn nhờ Nham Đầu kích phát mới được dứt bặt đại triệt. Nham Đầu sau bị sa thải, ở bên hồ làm người đưa đò, hai bên bờ treo mỗi bên một cái bản, có người cần qua gõ một tiếng bản. Nham Đầu nói: Ông qua bờ kia, liền trong lùm lau múa chèo chui ra. Tuyết Phong về Lãnh Nam ở am, vị Tăng này cũng là người cửu tham, Tuyết Phong thấy đến lấy tay đẩy cửa am phóng thân ra ngoài nói là cái gì ? Như hiện nay có hỏi thế ấy, liền chụp lấy nghiền ngẫm. Vị Tăng này cũng lạ, chỉ đáp lại là cái gì ? Tuyết Phong cúi đầu về am. Thường thường bảo đây là vô ngữ hội vậy. Vị Tăng này dò tìm chẳng được. Có người nói Tuyết Phong bị một câu hỏi của vị Tăng này khiến phải lặng câm về am. Đâu chẳng biết ý Tuyết Phong có chỗ độc hại. Tuyết Phong tuy được tiện nghi đâu ngờ giấu thân lại bày bóng. Sau vị Tăng mang công án này từ Tuyết Phong đến Nham Đầu nhờ phán xét. Đến nơi, Nham Đầu hỏi: Ở đâu đến ? Tăng thưa: Lãnh Nam đến. Hỏi: Từng đến Tuyết Phong chăng ? Nếu cần thấy Tuyết Phong chỉ một câu hỏi này khéo để mắt xem thấy. Đáp: Từng đến. Hỏi: Có ngôn cú gì ? Lời này cũng chẳng phải qua suông. Vị Tăng chẳng hiểu, chỉ thiết chạy theo ngữ mạch kia chuyển. Hỏi: Ông ấy nói gì ? Đáp: Sư cúi đầu không nói về am. Vị Tăng này đâu chẳng biết Nham Đầu mang giày cỏ đi trong bụng ông mấy lượt rồi. Nham Đầu nói: Ôi ! Ta hối hận buổi đầu chẳng nói với y câu rốt sau, nếu nói với y câu rốt sau thì người trong thiên hạ làm gì được lão Tuyết. Nham Đầu cũng là giúp mạnh chẳng giúp yếu. Vị Tăng như trước vẫn tối mịt mịt chẳng phân đen trắng, ôm một bụng nghi, cho thật là Tuyết Phong chẳng hội, đến cuối hạ lại nhắc việc ấy để thưa thỉnh. Nham Đầu bảo: Sao chẳng hỏi sớm ? Lão già này mưu mô làm sao ! Tăng thưa: Chẳng dám khinh thường. Nham Đầu nói: Tuyết Phong tuy cùng ta đồng điều sanh, chẳng cùng ta đồng điều tử, cần biết câu rốt sau chỉ là thế. Nham Đầu quá mực chẳng tiếc lông mày, các ông cứu cánh làm sao hội ? Tuyết Phong ở trong hội Đức Sơn làm phạn đầu một hôm trai trễ, Đức Sơn ôm bát đến pháp đường, Tuyết Phong nói: Chuông chưa kêu, trống chưa đánh, ông già ôm bát đi đâu ? Đức Sơn không nói, cúi đầu về phương trượng. Tuyết Phong thuật lại với Nham Đầu. Nham Đầu nói: Cả nhà Đức Sơn chẳng hội câu rốt sau. Đức Sơn nghe, bảo thị giả gọi đến phương trượng hỏi: Ông chẳng nhận Lão tăng sao ? Nham Đầu thưa thầm ý này. Đến hôm sau, Đức Sơn thượng đường chẳng giống bình thường. Nham Đầu ở trước Tăng đường vỗ tay cười to, nói: Đáng mừng ông già hiểu câu rốt sau, sau này người trong thiên hạ không làm gì được ông, tuy nhiên như thế, chỉ được ba năm. Công án này như Tuyết Phong thấy Đức Sơn đều không nói. Sẽ bảo là được tiện nghi, đâu biết làm giặc rồi vậy. Bởi Sư từng làm giặc, sau này cũng khéo làm giặc. Vì thế, cổ nhân nói: Một câu rốt sau mới đến cửa chắc (lao quan). Có người nói Nham Đầu hơn Tuyết Phong. Hẳn là hiểu lầm rồi vậy. Nham Đầu thường dùng cơ này dạy chúng: “Kẻ mắt sáng không hang ổ, bỏ vật là thượng, theo vật là hạ, câu rốt sau giả sử thân thấy Tổ sư đến cũng lý hội chẳng được.” Trai trễ, Đức Sơn ôm bát đến pháp đường. Nham Đầu nói cả nhà Đức Sơn chưa hội được câu rốt sau. Tuyết Đậu niêm: Từng nghe nói độc nhãn long nguyên lai chỉ đủ một con mắt. Đâu chẳng biết Đức Sơn là con cọp không răng, nếu chẳng phải Nham Đầu biết được, sao biết hôm qua cùng ngày nay chẳng đồng. Các ông cần hội câu rốt sau chăng ? Chỉ cho lão Hồ biết, chẳng cho lão Hồ hiểu. Từ xưa đến nay, công án muôn sai ngàn khác như rừng gai góc, nếu ông thấu được thì người trong thiên hạ không làm gì được ông, chư Phật ba đời đứng ở dưới gió. Nếu ông thấu chẳng được thì tham: Nham Đầu nói “Tuyết Phong tuy cùng ta đồng điều sanh chẳng cùng ta đồng điều tử”, chỉ một câu này tự nhiên có chỗ xuất thân. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:
Mạt hậu cú
Vị quân thuyết
Minh ám song song để thời tiết
Đồng điều sanh dã cộng tương tri
Bất đồng điều tử hoàn thù tuyệt.
Hoàn thù tuyệt
Huỳnh đầu bích nhãn tu chân biệt
Nam Bắc Đông Tây qui khứ lai
Dạ thâm đồng khán thiên nham tuyết.

DỊCH:
Câu rốt sau
Vì anh nói
Sáng tối song song đấy thời tiết
Đồng điều sanh mọi người cùng biết
Chẳng đồng điều tử lại đặc biệt.
Lại đặc biệt
Đầu vàng mắt biếc nên phân rõ
Đông Tây Nam Bắc về lại qua
Đêm khuya đồng thấy tuyết ngàn núi.

GIẢI TỤNG:
“Câu rốt sau, vì anh nói”, Tuyết Đậu tụng câu rốt sau này, ý kia vì nhau toàn rơi trong cỏ, tụng dù có tụng tột cũng chỉ được đôi chút màu lông. Nếu cần thấy thấu cũng chưa được. Thế mà dám há miệng nói to “sáng tối song song đấy thời tiết”, vì ông mở một đường tàn, cũng vì ông một câu đập chết rồi vậy. Rốt sau lại vì ông chú giải. Như một hôm Chiêu Khánh hỏi La Sơn: Nham Đầu nói thế ấy thế ấy, chẳng thế ấy, chẳng thế ấy, ý chỉ thế nào ? La Sơn gọi: Đại sư ! Khánh ứng thinh: Dạ ! La Sơn bảo: Hai sáng cũng hai tối. Khánh lễ tạ rồi đi. Sau ba ngày, Khánh lại hỏi: Ngày trước nhờ lòng từ bi của Hòa thượng chỉ dạy, nhưng khán chẳng vỡ. La Sơn nói: Tận tình vì ông rồi. Khánh thưa: Hòa thượng cầm lửa đi. La Sơn bảo: Nếu thế ấy, cứ chỗ Đại sư nghi hỏi ra. Khánh thưa: Thế nào là hai sáng hai tối ? La Sơn bảo: Đồng sanh cũng đồng tử. Khánh lễ tạ rồi đi. Sau có vị Tăng hỏi Chiêu Khánh: Khi đồng sanh cũng đồng tử thì thế nào ? Khánh đáp: Ngậm lấy miệng chó. Tăng thưa: Đại sư nhận lấy miệng ăn cơm. Vị Tăng ấy lại đến hỏi La Sơn: Khi đồng sanh chẳng đồng tử thì thế nào ? La Sơn đáp: Như trâu không sừng. Tăng hỏi: Khi đồng sanh cũng đồng tử thì thế nào ? La Sơn đáp: Như cọp mọc sừng. Câu rốt sau chính là đạo lý này.
Trong hội La Sơn có vị Tăng lấy ý này đến hỏi Chiêu Khánh. Khánh đáp: Kia đây đều biết, cớ sao ? Nếu ta đến Đông Thắng Thần Châu nói một câu, Tây Cù Da Ni Châu cũng biết, trên trời nói một câu, nhân gian cũng biết, tâm tâm biết nhau, mắt mắt chiếu nhau. Đồng điều sanh vẫn là dễ thấy, chẳng đồng điều tử lại đặc biệt. Thích-ca, Đạt-ma cũng dò tìm chẳng được. “Đông Tây Nam Bắc về lại qua”, cảnh giới có đôi chút đẹp. “Đêm khuya đồng thấy tuyết ngàn núi”, hãy nói là song minh hay song ám, là đồng điều sanh hay đồng điều tử ? Thiền tăng đủ mắt sáng thử phân rành xem ?

Khởi dụng, muôn nhà đều biết. Khi không khởi dụng, Thánh tìm cũng chẳng thấy. Tâm thể tĩnh lặng, sáng vằng vặc, pháp giới như ngàn ngọn núi tuyết dưới ánh trăng khuya


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Chanhientam
Bài viết: 959
Ngày: 11/09/07 15:44

Re: BÍCH NHAM LỤC

Bài viết chưa xem gửi bởi Chanhientam »

Đợt này ... màu đỏ mất tiêu. Không có bác, Ht nương vào đâu mà nói dóc đây. Buồn! ~x(


thientinh82
Bài viết: 231
Ngày: 29/11/07 07:26
Giới tính: Nam

Re: BÍCH NHAM LỤC (Tắc 46)

Bài viết chưa xem gửi bởi thientinh82 »

Chanhientam đã viết:
binh đã viết:TẮC 46: CẢNH THANH TIẾNG MƯA RƠI
CÔNG ÁN:
Cảnh Thanh hỏi Tăng: Ngoài cửa là tiếng gì ? Tăng thưa: Tiếng mưa rơi. Cảnh Thanh bảo: Chúng sanh điên đảo quên mình theo vật. Tăng thưa: Hòa thượng thì thế nào ? Cảnh Thanh bảo: Toàn chẳng quên mình. Tăng thưa: Toàn chẳng quên mình ý chỉ thế nào ? Cảnh Thanh bảo: Xuất thân vẫn còn dễ, thoát thể nói rất khó.
Nếu đáp : Tiếng mưa rơi tức là chạy theo thanh sắc, chạy theo cảnh là quên chính mình vậy. Vì vậy Cảnh Thanh nói : Toàn chẳng quên mình. Mà chẳng đáp "tiếng mưa rơi" thì cũng không có lời đáp khác. Đến đây không có lời để diễn tả, cho nên Cảnh Thanh bảo " Thoát thể rất khó nói"
Mưa rơi thì nói mưa rơi, pháp thế nào nói đúng thế ấy, sao lại bảo là chạy theo cảnh quên mình? Không lý người giác ngộ là phải nín hết?

Đã nói không có lời nào để diễn tả. Vậy câu TOÀN CHẲNG QUÊN MÌNH có khác câu TIẾNG MƯA RƠI không, mà Tăng thì bị cho là quên mình theo vật còn Cảnh Thanh thì không thấy nói đến? Vậy lỗi có phải là nằm ở câu TIẾNG MƯA RƠI chăng? ;)
Cốt yếu nơi sáng hay chẳng sáng, lời chỉ là bóng huyễn.
Nhưng, nương bóng huyễn lại có thể gạn được sáng tối!

Câu "Tiếng mưa rơi" chẳng lỗi mà lỗi. Nếu liễu thì chẳng lỗi. Vì chẳng liễu nên khi bị gạn lại chẳng có chỗ chuyển thân, không hiện được 1 câu xuất cách, nên rồng rắn biện phân, mà bị Cảnh Thanh nắm lấy!
Thế nên, nói cứ nói, nhưng chẳng cho có chỗ dính chấp, nhưng phải có dấu chân Sư Tử mới chẳng khỏi lỗi lầm!
Lại, đã nói là chẳng lỗi, là liễu, là sáng, thì phải có chỗ tự tại chuyển thân, "đụng đến liền lăn trùng trục".

Kỳ thật, chính khi diễn tả mà không có chút gì là tả mới thật là tả khéo, cho nên tuy tâm sáng vằng vặc chẳng dấu tích mà Cảnh Thanh gượng trong hư không vẽ rắn vẽ rồng. Thương thay, có nhiều kẻ từ nơi chỗ nhấc chân để chân chẳng chạm đất, không bóng dáng của Cảnh Thanh lại chụp lấy, biến thật thành giả, làm hại ô uế cả câu "toàn chẳng quên mình"! Vừa nghe "toàn chẳng quên mình" lại mất "mình" rồi!

Nếu cho "Toàn chẳng quên mình" là thật khác với "Tiếng mưa rơi" tức đã hóa khéo thành vụng, lại cô phụ Cảnh Thanh!
Thế mà, cho giống nhau cũng chẳng khỏi có lỗi với tâm lão bà của Cảnh Thanh!

Lại, ý chỉ của "thoát thể nói rất khó" chẳng phải nằm trong chỗ "không có lời để diễn tả" mà chính thực là đang tả vậy! Ai có thấy được y bát Cảnh Thanh trình chăng?
Lại, ngay bây giờ, nói gằn từng tiếng "Tiếng mưa rơi", lại bảo là quên mình theo vật hay là chẳng quên mình? Lại là lỗi cùng chẳng lỗi? Lại là xuất thân hay thoát thể? Xuất thân nào mà thoát thể nào? Thật xuất hay thoát chăng? Lại dễ cùng khó chăng?
Người xưa liễu đường xưa, đã nói "góc trống động", cùng với câu trên giống mà chẳng giống. Vì sao lại nói "động" mà chỉ là "góc trống", chẳng là cả trống? Lại động thật chăng, hay có cái chẳng động? động là phải hay chẳng động là phải? góc trống động hay cả trống động là phải?
Nên mới nói, hay cho Cảnh Thanh dùng một câu làm vị Tăng sáng việc dưới gót chân!
Kính.


Tri tri kiến kiến
Bổn vô kiến tri
Thường kiến thường tri
Chân tri chân kiến
---------
Nhất thừa Lục tự Đại pháp khai
Nhất niệm thâm tâm đáo Liên Đài
Phật quả, Phật nhân đồng thời hiển
Niệm niệm trực chỉ Diệu Như Lai
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.49 khách