- Con Người Chánh Niệm
Khoa học bây giờ hay nói tới sự sống như là một vật chất (la matière). Ban đầu là vật chất vô tri (la matière inerte). Ở Đông phương, trước khi thế giới thành lập, thì cái đó gọi là khối càn khôn hỗn độn. Tây phương hay dùng từ la soupe primitve, một thứ cháo lỏng nguyên thỉ, trong đó có những giới tử, điện tử... đủ thứ hết. La matière inerte tức là vật chất bất động, không có sự sống; từ đó mà trở thành la matière vivante nghĩa là chất sống linh động. Lúc ban đầu thì có những loài nấm, có những con a-míp, có những loài rêu, rong, lòng tong, đơn tế bào, đa tế bào, rồi sau mới có con người, tất cả đều được gọi là la matière vivante. Nhưng người ta vẫn dùng chữ la matière, tại vì người ta nghĩ ban đầu chỉ có vật chất thôi, nghĩa là chỉ có sắc. Họ không biết rằng sắc luôn ôm danh, và sắc chẳng qua là đối tượng của danh. Thật ra đối tượng của tưởng cũng là tưởng (L'oject de la perception est aussi perception). Cái mà họ gọi là la matière (matter), trước hết phải là đối tượng của tri giác, nó là tri giác, tức là danh, là tâm. Vì vậy cho nên tâm ôm lấy vật, mà vật cũng ôm lấy tâm. Tâm và vật, theo đạo Phật, là hai khía cạnh của thực tại. Có khi thực tại ấy hiện ra là tâm, có khi nó hiện ra là vật, nhưng kỳ thực nó không phải là vật, nó không phải là tâm. Cũng như chất điểm (particule élémentaire), mình gọi nó là sóng cũng không được, mà gọi nó là điểm cũng không xong, tại vì có khi nó biểu hiện ra như một làn sóng, có khi nó biểu hiện ra như một cái hạt. Kỳ thực nó là cả hai. Nó là sóng, nó là hạt. Đứng về phương diện hình thức thì hạt không thể là sóng, sóng không thể nào là hạt được. Một cái hạt (particule) và một cái sóng (onde) hai cái đó nó làm sao là một, nhưng kỳ thực hai cái là một. Cũng như mình vừa là cha vừa là con. Con làm sao là cha được? Nhưng kỳ thực có khi mình biểu hiện ra như cha, có khi mình biểu hiện ra như con. Mình là con, mình cũng đồng thời là cha hay là mẹ. Trái ổi khi mới bắt đầu sinh ra là đã có những hạt ở trong đó rồi. Trái ổi đó nó vừa là con mà nó cũng vừa là cha.
Lý luận hình thức nói: nếu đã là cha thì làm sao là con được? Nhưng sự thật thì thực tại tự biểu hiện khi thì là cha, khi thì là con, khi thì là sóng, khi thì là hạt, khi thì là danh, khi thì là sắc. Vậy thì la matière inerte là một với la matière vivante, và từ la matière vivante mình có la matière pensante. Khoa học nói con người là la matière pensante tức là cái sắc có suy tư, hoặc là sự suy tư biểu hiện ra sắc. Khoa khảo cổ học gọi tên con người vào giai đoạn đứng thẳng trên hai chân được với cái tên homo-erectus. Erectus là đứng thẳng trên hai chân. Rồi sau con người lại có tên là homo-sapiens. Homo-sapiens là con người có trí tuệ. Bây giờ có danh từ homo-conscius, con người có ý thức, con người có chánh niệm. Con người có chánh niệm, con người có ý thức, con người bắt đầu biết rằng mình có sinh thì có tử. Thở vào, tôi biết rằng tôi cũng phải bệnh. Thở vào, tôi biết rằng tôi cũng phải già. Thở ra, tôi biết rằng tôi cũng phải chết. Cái đó là con người có ý thức. Chính vì có ý thức, cho nên con người phải đau khổ hơn các loài khác. Từ ý thức đó, con người có lo lắng, ưu tư, sầu khổ, gọi là angoisse, và tâm hành này làm ra bệnh khá nhiều. Con người biết đặt vấn đề đau khổ, vấn đề chết. Các loài khác có nhận thức và trí tuệ nằm ở dưới mức độ thấp hơn, vì vậy không ý thức được là mình đang đau khổ, mình sẽ già, mình sẽ chết hay mình có thể biến thành hư vô. Chúng không có ý thức, hoặc ý thức ấy đang còn trong trạng thái sơ khởi, thành ra khổ đau không nhiều. Đến khi cần chết thì chết, đến khi cần bệnh thì bệnh, chứ các chúng sanh ấy không cần phải lo lắng trước như con người. Con người đau khổ nhiều hơn vì có cái angoisse, cái ưu tư ấy. Chính cái angoisse này đã tạo ra triết học. Tôi là ai? Tôi từ đâu tới? Ngày mai sẽ còn có tôi hay không? Những câu hỏi đó là những câu hỏi được nêu ra trong kinh Duyên Sanh mới học. Câu hỏi về quá khứ. Trong quá khứ có tôi hay không? Nếu có tôi thì tôi là con gì? Con đó có đẹp hay không? Hay là rất xấu? Trong quá khứ, có thể tôi là một con cóc hay không? Rồi trong tương lai sẽ có tôi hay là không? Nếu có thì tôi sẽ là con gì? Cái mặt tôi có đẹp hay không? Cái đuôi của tôi có dài hay không? Những câu hỏi như vậy. Tất cả những câu hỏi đó đều có tính triết học. Triết học angoisse. Loài người bị bệnh tâm thần một phần cũng vì cái angoisse đó.
Cha mẹ tôi có muốn có tôi hay không? Tôi ra đời có phải do một tai nạn hay không? Có ai thương tôi hay không? Tất cả những câu hỏi đó có thể làm cho ta đau khổ. Trong khi đó, chính cái khả năng có thể ý thức được, gọi là con người có chánh niệm, lại cũng là yếu tố cứu tinh cho con người và muôn loại. Chính cái ý thức đó giúp cho ta biết rằng tình trạng đi xuống của sinh môi trên trái đất đang là mối hăm dọa cho tất cả chủng loại. Chính nhờ ý thức đó mà chúng ta biết rằng tình trạng của trái đất đang lâm nguy, tại vì con người đã tàn phá trái đất và làm ô nhiễm sinh môi rất nhiều. Con người đang ý thức được được đau khổ đang lan tràn về phương diện áp bức chánh trị, bất công xã hội, khai thác và điên loạn. Cũng nhờ ý thức này mà con người thấy được và thấy được rồi thì có khả năng tự ngưng lại và giúp người khác ngưng lại để đừng đi tới sự đổ vỡ và tự hủy của cả trái đất. Thành ra, một mặt ý thức ấy đưa ra những lo lắng, ưu tư, buồn khổ, sợ hãi, bệnh tật, nhưng một mặt khác, nếu biết sử ý thức và chánh niệm đó, thì ta thấy được cái tình trạng, và biết mình phải làm gì và không nên làm gì để có thể chuyển hóa, đem lại an lạc, tươi vui và sự sống còn cho nhân loại. Đức Thế Tôn là một mẫu người tốt đẹp nhất của chủng loại homo-conscius, con người chánh niệm, con người đi thẳng, con người khéo léo (homo-habilis), con người biết suy tư (homo-sapiens). Danh từ homo-conscius[i/] này đã được bắt đầu sử dụng.
Trong khi ăn cơm, ta phải ăn như thế nào để có sự thoải mái, để có hạnh phúc. Chúng ta ngồi quây quần lại để ăn cơm với nhau, đó cũng là một sự thực tập rất sâu sắc, như chúng ta thở, chúng ta đi, chúng ta làm việc trong bếp. Ăn như thế nào mà tổ tiên cùng được ăn với ta: mẹ được ăn với ta, cha được ăn với ta, ông nội được ăn với ta, ông ngoại được ăn với ta. Ngồi thoải mái như là một người bình an vô sự, không lo lắng, không buồn phiền. Chúng ta có những người ở đây bốn năm rồi, năm năm rồi, sáu năm rồi, bảy năm rồi. Chúng ta mỗi ngày ăn cơm hai lần, ba lần, tính ra thì đã biết bao nhiêu bữa cơm trong những năm tháng đó. Có bao nhiêu bữa cơm thành công? Bụt dạy ta khi ăn đừng có nên để tâm ý chìm đắm vào những suy nghĩ vẩn vơ, mà nên an trú trong hiện tại, tiếp xúc sâu sắc với thức ăn và với tăng thân. Ăn như thế nào để có hạnh phúc, để có thoải mái, để có an lạc. Ăn như thế nào mà giải phóng được cho tất cả các thế hệ tổ tiên và con cháu.
Ngày xưa, hồi tôi còn bốn năm tuổi, mỗi lần mẹ đi chợ về thì được một cái bánh ít, hay là bánh in gì đó. Trước khi mẹ về thì mình đã vui rồi. Thành ra mình có thể đi thảnh thơi ở trong vườn, chơi với con ốc sên, chơi với hòn sỏi. Đến khi mẹ về thì mình mừng quá. Cầm lấy cái bánh mẹ cho, đi ra phía sau để ăn một mình. Và mình biết rất rõ là không nên ăn mau, phải ăn chậm chậm, càng chậm chừng nào càng tốt chừng đó. Cắn một miếng nhỏ để cho chất liệu của miếng bánh thấm vào trong lưỡi, rồi nhìn lên trời xanh, rồi cúi xuống, đưa chân phải hất con chó nhè nhẹ, lấy tay trái vuốt con mèo, rồi cắn thêm một miếng thứ hai. Cứ như vậy mà ăn hết cái bánh. Có khi ta để ra cả nửa tiếng đồng hồ mới ăn hết cái bánh. Tại vì trong lúc đó ta đâu phải lo lắng về danh, về lợi, về quá khứ, về tương lai? Ta hoàn toàn có khả năng sống trong hiện tại. Cái bánh in thời thơ ấu ấy là một kỷ niệm. Chúng ta ai cũng đã từng được sống như vậy. Lúc ấy, ta không tham danh, tham lợi, không thao thức về quá khứ, không thao thức về tương lai, không đặt những câu hỏi triết học: Ta là ai? Đời sống ta có nghĩa gì? Nhưng bây giờ ta còn có khả năng ăn được một cái bánh như vậy hay uống được một chén trà như vậy hay không?
Chúng ta tới đây là để ta học làm trở lại những gì mà chúng ta đã không có thể làm được nữa. Chúng ta tới đây để học đi trở lại cho vững chãi, cho thảnh thơi, đừng đi như bị ma đuổi. Chúng ta tới đây để học ngồi trở lại cho thoải mái như ngồi trên một đóa sen mà không phải ngồi trên một đống lửa hồng. Chúng ta học thở, học nói, học cười. Chúng ta phải học làm lại tất cả. Ngày xưa, mẹ chúng ta đã từng dạy chúng ta ăn, uống, lật, đứng dậy, đi, nói... chúng ta làm được. Bây giờ, chúng ta phải học lại tất cả. Tại vì chúng ta sinh ra một lần thứ hai ở trong ánh sáng của chánh pháp.