Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CÁC BÀI THUYẾT GIẢNG VỀ TỌA THIỀN
(Trích sách: Ba Trụ Thiền (The Three Pillars Of Zen)
Nguyên tác: Philip Kapleau
Dịch giả: Đỗ Đình Đồng - Trang 64 - 118)

  • 1. LÝ THUYẾT VÀ THỰC HÀNH TỌA THIỀN
Những gì tôi sắp nói với quý vị đặt căn bản trên các lời dạy của tôn sư tôi, lão sư Đại Vân(1), mặc dù chính người thuộc phái Tào Động, người vẫn không tìm được một bậc thầy tài năng thực sự trong phái đó và vì thế mà người đã đến tu đầu tiên ở chùa Tung Nguyên (Shogen), rồi đến chùa Nanzen, hai tự viện phái Lâm Tế. Ở chùa Nam Thiền (Nanzen), kết quả người đã nắm được mật nghĩa thâm sâu của Thiền dưới sự hướng dẫn của lão sư Dokutan (Độc Đàm), một bậc sư xuất chúng.

Trong khi sự thực không thể chối cãi được là người ta phải trải qua tu tập để hiểu chân lý của Thiền, lão sư Đại Vân cảm thấy rằng tâm trí con người hiện đại quá biết là những bài giảng kiểu này chỉ có nghĩa như là những điều sơ đẳng để thực hành cho những người mới bắt đầu. Người đã kết hợp những cái hay nhất của mỗi phái và thiết lập một phương pháp dạy Thiền độc đáo. Quý vị sẽ không tìm thấy được ở bất cứ nơi nào tại Nhật cách dạy Thiền toàn bích và giản dị như vậy, rất phù hợp với khí chất của tâm trí con người hiện đại, như tại tự viện của người. Là môn đệ của người trong khoảng hai mươi năm, nhờ ân huệ của người, tôi đã có thể mở được con mắt Tâm của mình ở mức độ nào đó.

Trước khi bắt đầu các bài giảng của người, lão sư Đại Vân đã khuyên chúng ta hãy lắng nghe. Điểm thứ nhất là mọi người hãy lắng nghe với đôi mắt mở rộng nhìn ông - nói cách khác, bằng toàn bộ con người mình vì ấn tượng chỉ ghi nhận được qua cái nghe thông thường thì khá cạn cợt giống như nghe đài phát thanh. Điểm thứ nhì, là mọi người phải lắng nghe các bài giảng thuyết này như chỉ được nói cho mỗi một mình nghe vì một cách lý tưởng là như thế. Bản tánh con người là nếu có hai người cùng nghe, thì mỗi người chỉ cảm thấy có một nửa trách nhiệm để hiểu và nếu có mười người cùng nghe, thì mỗi người cảm thấy chỉ có một phần mười trách nhiệm. Song vì quý vị đông và đối với mọi người, tôi cũng nói y như nhau, tôi yêu cầu quý vị đến thành từng nhóm. Song quý vị phải lắng nghe như chỉ có mỗi một mình mình và chính quý vị phải tự mình giải những gì đã nói.

Bài thuyết giảng này được chia thành mười một phần và sẽ được trình bày trong khoảng tám buổi giảng. Bài thứ nhất lý giải về tọa thiền và các phương pháp tu tập trực tiếp, bài kế nói về các khuyến cáo đặc biệt và những bài sau nói về các vấn đề xuất hiện trong lúc tọa thiền cùng cách giải quyết các vấn đề ấy.

Thực ra kiến thức về lý thuyết hay các nguyên tắc tọa thiền không phải là một tiên đề để thực hành. Một người tu tập dưới sự hướng dẫn của một bậc thầy có thực tài chắc chắn sẽ nắm được lý thuyết này theo mức độ tu tập chín muồi. Song người học ngày nay về mặt lý trí có khả năng biện biệt hơn những người đi trước họ trong Thiền, sẽ không theo đúng các chỉ dẫn, trước tiên họ phải biết lý do nằm phía sau các chỉ dẫn đó. Do đó tôi cảm thấy nên bàn các vấn đề có tính cách lý thuyết. Song cái khó của lý thuyết thì vô cùng. Các kinh điển Phật giáo, giáo lý Phật giáo và triết học Phật giáo không gì khác hơn là những cách tri thức về tọa thiền và tọa thiền là minh chứng thực tiễn của những cái ấy. Từ trong lãnh vực mênh mông này, bây giờ tôi rút ra những điều cốt yếu nhất để quý vị thực hành.

Chúng ta bắt đầu với Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì chúng tôi nghĩ rằng tất cả quý vị đều biết ngài đã bắt đầu với con đường ép xác, chịu những hành hạ và khổ hạnh, mà những người trước ngài không bao giờ dám thử, kể cả sự kiêng ăn lâu dài. Nhưng ngài đã không đạt được giác ngộ bằng các phương tiện này, suýt chết vì đói và kiệt sức và đã nhận ra rằng theo đuổi một con đường chỉ có thể đưa đến cái chết là vô ích. Vì thế, ngài đã uống sữa cúng dường, dần dần lấy lại sức và quyết định theo con đường trung dung giữa việc ép xác và tự do phóng túng. Từ đó, ngài chỉ sùng mộ tọa thiền đến sáu năm và kết quả vào một buổi sáng ngày mồng tám tháng mười hai đúng trong khoảnh khắc chợt thấy sao mai lấp lánh trên bầu trời phương Đông, ngài đã đạt được giác ngộ viên mãn. Chúng ta tin tất cả điều ấy như một sự thật lịch sử.

Trong các kinh điển Phật giáo, những lời Phật đã tự nhiên thốt ra ngay lúc ấy, được ghi lại nhiều cách khác nhau. Theo kinh Hoa Nghiêm (Kegon), ngay lúc giác ngộ, ngài đã bất chợt kêu lên: "Kỳ diệu thay! Tất cả chúng ta vốn là Phật, đều được phú cho trí tuệ và đức hạnh, song vì tâm con người vướng kẹt trong vọng niệm nên không nhận ra điều ấy". Lời tuyên bố đầu tiên của Phật về sự giác ngộ của ngài dường như là một trong những điều đáng sợ và đáng kinh ngạc nhất. Vâng, kỳ diệu thay tất cả loài người dù thông minh hay ngu độn, nam hay nữ, đẹp hay xấu, cũng đều nguyên vẹn và đầy đủ như họ vốn vậy. Nói thế có nghĩa là bản tánh mọi người vốn không tỳ vết, toàn hảo, không khác với bản tánh của Phật A Di Đà hay bất cứ một vị Phật nào khác. Tuyên bố đầu tiên này của Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là kết luận cuối cùng của Phật giáo. Song con người bất an và lo âu, sống cuộc sống dở điên dở dại vì tâm mình, bị phủ cứng lớp vỏ mê hoặc nặng nề, trở nên điên đảo. Vì thế chúng ta cần trở về với cái toàn hảo xưa nay của mình để thấy qua hình ảnh hư dối của chính mình là bất toàn, tội lỗi và đánh thức cái tánh thanh tịnh và toàn hảo vốn có của mình.

Phương tiện hữu hiệu nhất để thực hiện được điều ấy là tọa thiền. Không những chỉ một mình Phật Thích Ca Mâu Ni mà nhiều môn đệ của ngài cũng đã đạt giác ngộ qua tọa thiền. Hơn nữa, trong suốt 2.500 năm, từ khi Phật diệt độ, vô số tín đồ ở Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản, bằng cách nắm lấy cái chìa khóa này, đã giải đáp cho chính mình câu hỏi nền tảng: "Sống và chết là cái gì?" Ngay cả ngày nay cũng có nhiều người đã có thể vứt cả âu lo, phiền não và tự giải thoát mình qua tọa thiền.

Giữa Như Lai (tức một đức Phật đã viên thành tối thượng) và chúng ta, những con người thường, trong bản chất không có gì khác nhau hết. Cái "bản chất" này có thể ví với nước. Một trong những đặc tính nổi bật của nước là tánh thích nghi, ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Chúng ta cũng có cái tánh thích nghi như thế, nhưng vì sống ràng buộc và xiềng xích trong sự ngu muội không biết bản tánh chân thực của mình, nên chúng ta đã đánh mất sự tự do này. Theo thí dụ này, có thể nói rằng tâm của một đức Phật giống như nước yên lặng, sâu và trong sáng như pha lê, trên đó mặt trăng chân lý phản chiếu đầy đủ và toàn hảo. Mặt khác, tâm con người giống như nước đục luôn luôn bị các cơn lốc vọng niệm khuấy động và không còn có thể phản chiếu mặt trăng chân lý được nữa. Mặc dù mặt trăng vẫn chiếu sáng trên sông, nhưng nước đã bị vẩn đục nên không thể thấy ánh sáng phản chiếu. Vì thế chúng ta đưa đời sống của mình đến chỗ thất bại và vô nghĩa.

Làm sao chúng ta có thể đem mặt trăng chân lý soi sáng đầy đủ cuộc sống và nhân cách của mình? Trước hết chúng ta cần phải làm cho nước ấy trong sạch, làm lặng những con sóng đang dâng lên bằng cách làm cho những cơn gió tư tưởng biện biệt ngừng lại. Nói cách khác, chúng ta phải làm cho tâm mình trống không, những gì kinh Hoa Nghiêm gọi là "niệm tưởng của con người". Đa số người ta đánh giá cao tư tưởng trừu tượng, nhưng Phật giáo đã chứng minh rõ ràng là tư tưởng biện biệt này nằm nơi gốc rễ mê hoặc. Có lần tôi đã nghe người nào đó nói: "Tư tưởng là tâm bệnh của con người". Theo quan điểm Phật giáo, điều này hoàn toàn đúng. Hẳn nhiên tư tưởng trừu tượng có ích khi được vận dụng một cách khôn ngoan - nói thế có nghĩa là, khi người ta hiểu đúng bản chất và giới hạn của nó - nhưng bao lâu con người còn nô lệ vào lý trí, bị nó xiềng xích và kiểm soát thì chừng ấy cũng có thể gọi là bệnh được.

Tất cả mọi tư tưởng, dù cao cả hay thấp hèn đều bất định và vô thường, chúng đều có khởi đầu và kết thúc, dù cho chúng chỉ thoáng hiện và điều này cũng đúng với tư tưởng của một thời đại, hay một cá nhân. Trong Phật giáo, tư tưởng được nói đến như là "dòng sinh tử". Điều quan trọng là tiếp tục biện biệt vai trò của tư tưởng nhất thời với các khái niệm cố định. Những ý niệm ngẫu nhiên thì tương đối không độc hại, nhưng các ý thức hệ, các tín ngưỡng, các quan niệm và quan điểm, không kể kiến thức thực tế, tích lũy ngay từ lúc nới sanh (chúng bám chặt vào chúng ta) đều là những cái bóng làm u tối ánh sáng chân lý.

Bao lâu những cơn gió tư niệm còn tiếptục khuấy động nước Tự tánh, chừng ấy chúng ta vẫn chưa phân biệt được cái thật với cái không thật. Do đó bắt buộc chúng ta phải làm cho những cơn gió ấy yên lặng. Một khi gió lặng thì sóng im, bùn lắng và chúng ta thấy ngay rằng mặt trăng chân lý chưa từng không chiếu sáng. Giây phút nhận ra như thế gọi là kiến tánh, tức là ngộ, là hiểu rõ bản thể chân thật của Tự tánh. Không giống như các khái niệm luân lý và triết học, vì chúng có thể thay đổi, nội kiến chân thật không thể biến mất được. Bấy giờ, lần đầu tiên, chúng ta có thể sống với sự bình an và cao quý bên trong, thoát khỏi sự bối rối, bất an và hòa hợp với hoàn cảnh chung quanh.

Về mấy vấn đề này tôi nói một cách vắn tắt, nhưng tôi hy vọng rằng tôi thành công trong việc truyền đạt đến quý vị tâm quan trọng của tọa thiền.

Bây giờ chúng ta hãy nói về thực hành.

Bước đầu tiên là chọn một căn phòng yên tĩnh để ngồi. Hãy trải một tấm đệm hay một tấm nệm mềm vừa phải, vuông vức khoảng một thước, trên nệm đặt một cái đệm nhỏ tròn, đường kính khoảng ba tấc để ngồi hoặc dùng một tấm nệm vuông gấp đôi lại. Tốt hơn là không nên mặc quần dài hay mang vớ, những thứ này có thể cản trở cách xếp đặt đôi chân và đôi bàn chân. Vì một số lý do, tốt nhất là ngồi theo tư thế kiết già; ngồi tư thế kiết già, quý vị đặt bàn chân phải lên đùi trái và bàn chân trái lên đùi phải. Điểm chính của phương pháp này là thiết lập một chơn đế rộng, vững chắc với đôi chân bị khóa lại và hai đầu gối chạm xuống nệm, quý vị sẽ đạt được an ổn tuyệt đối. Với thân bất động như thế, tư tưởng sẽ không bị các cử động của thân kích động và tâm dễ trở nên yên tĩnh hơn.

Hình ảnh

Hình ảnh

Nếu thấy khó ngồi theo tư thế kiết già vì đau đớn, hãy ngồi theo tư thế bán già, từ thế này chỉ cần đặt bàn chân trái lên đùi phải thôi. Đối với vị nào không quen ngồi xếp chân, ngay cả tư thế này cũng không duy trì được dễ dàng. Có lẽ quý vị thấy khó giữ yên hai đầu gối trên nệm và thỉnh thoảng sẽ phải đẩy một trong hai đầu gối xuống cho đến khi chúng nằm yên ở đó. Trong cả hai tư thế kiết già và bán già, bàn chân đặt bên trên có thể đổi ngược khi hai chân cảm thấy mỏi.

Đối với những ai thấy thực không thể thích nghi được với hai tư thế này, có thể ngồi theo tư thế cổ truyền của Nhật Bản là ngồi trên hai gót và hai bắp chân. Tư thế này có thể duy trì trong một thời gian lâu hơn nếu có tấm đệm mông đặt giữa hai gót và hai mông. Lợi thế của tư thế này là cái lưng có thể giữ thẳng đứng dễ dàng. Tuy nhiên, nếu tất cả các tư thế ấy đều tỏ ra đau nhiều, quý vị có thể dùng một cái ghế.

Bước kế tiếp là giữ yên bàn tay phải trong lòng, lòng bàn tay để ngửa lên và đặt bàn tay trái, lòng bàn tay cũng để ngửa lên trên lòng bàn tay phải. Đầu hai ngón tay cái chạm nhẹ vào nhau để tạo thành một vòng tròn dẹp với hai lòng bàn tay và hai ngón tai cái. Bây giờ, phía thân bên phải là cực dương, phía thân bên trái là cực âm. Dó đó, trong lúc thực hành chúng ta ép bên dương bằng cách đặt bàn tay trái và bàn chân trái lên bàn tay phải và bàn chân phải, như thế là trợ giúp đạt độ ổn định cao nhất. Tuy nhiên, nếu nhìn một tượng Phật, quý vị sẽ thấy vị trí của các bộ phận này trái ngược lại. Ý nghĩa của sự trái ngược này là một đức Phật, khác với tất cả chúng ta, đang tích cực dấn thân vào việc cứu độ.

Sau khi xếp chân xong, hãy nghiêng mình tới trước để đẩy hai mông ra, rồi chầm chậm đưa thân mình trở về tư thế thẳng đứng. Cái đầu phải thẳng, nếu nhìn từ bên hông, tai phải ở trên một đường thẳng với vai và chót mũi phải thẳng đường với rốn. Thân mình từ eo trở lên dường như không có trọng lượng, không có sức ép hay sự căng thẳng. Hãy giữ cho mắt mở và miệng ngậm, chót lưỡi chạm nhẹ phía sau hàm răng trên. Nếu nhắm mắt, quý vị sẽ rơi vào trạng thái hôn trầm và mơ mộng. Tia nhìn phải hạ thấp mà không tập trung vào bất cứ vật gì một cách đặc biệt. Kinh nghiệm cho thấy rằng tâm yên tĩnh nhất với sự mệt nhọc hay căng thẳng ít nhất, khi mắt ở tư thế hạ thấp này.

Cột xương sống lúc nào cũng phải thẳng. Đây là lời khuyên quan trọng. Khi thân trầm trệ không những chỉ vì sức ép đặt trên các cơ quan bên trong, can thiệp vào chức năng tự do của chúng, mà còn vì các đốt xương sống do sự tác động lên thần kinh có thể gây ra những căng thẳng loại này hay loại khác. Vì thân và tâm là một, nên bất cứ sự suy yếu nào của các cơ năng sinh lý đều khiến cho tâm vướng kẹt và như thế làm giảm thiểu tính sáng láng và sự quy nhất của nó. Theo quan điểm sinh lý thuần túy, sự thẳng đứng như cột cờ hoặc một tư thế nặng nề đều không đáng ưa thích, vì một cái phát xuất từ kiêu hãnh vô ý thức, và một cái từ tự ty, hèn hạ và cả hai đều đặt nền móng nơi cái ta, nên chúng đều là chướng ngại cho sự giác ngộ.

Hãy chú ý giữ đầu cho thẳng, nếu nó có khuynh hướng nghiêng tới, nghiêng lui hoặc nghiêng qua một bên, nếu cứ giữ nó như vậy trong khoảng thời gian lâu đáng kể thì kết qua có thể bị vẹo cổ.

Khi đã lập được một tư thế đúng, hãy hít một hơi thật sâu, giữ lại một chút, rồi thở ra chầm chậm và lặng lẽ. Hãy lập lại như thế vài ba lần, luôn luôn thở bằng mũi. Sau đó hãy thở tự nhiên. Khi đã quen thì một hơi hít sâu lúc đầu cũng đủ. Bây giờ, hãy nghiêng thân mình, trước tiên sáng bên phải, nghiêng hết sức thì thôi, rồi nghiêng sáng trái, khoảng bảy tám lần, bắt đầu bằng những vòng cung lớn, rồi những vòng cung nhỏ hơn cho đến khi thân mình trở về yên nghỉ ở chính giữa một cách tự nhiên.

Bây giờ quý vị đã sẵn sàng để nhiếp tâm. Có nhiều phương pháp nhiếp tâm tốt do những người đi trước trong Thiền truyền lại. Phương pháp dễ nhất cho những người mới bắt đầu là đếm hơi hít vào và hơi thở ra. Giá trị của bài thực tập đặc biệt này nằm ở chỗ tất cả mọi sự suy lý bị loại bỏ và tâm phân biệt được nghỉ yên. Như thế những cơn sóng tư tưởng phân biệt lắng xuống và tâm dần dần trở nên quy nhất. Khởi đầu đếm cả hơi hít và và hơi thở ra. Khi hít vào, quý vị tập trung vào "MỘT" và khi thở ra hãy tập trung vài "HAI" như thế cho đến mười, lại tiếp tục như trước, chỉ đơn giản thế thôi.

Như tôi đã nói, các ý niệm thoáng qua thay đổi bất thường một cách tự nhiên trong tâm thì tự chúng không phải là chướng ngại. Không may, điều này thường không được nhận ra. Ngay cả những người Nhật đã học và thực hành Thiền đến năm năm hoặc sâu hơn, cũng có nhiều người hiểu lầm tu Thiền là chận đứng ý thức. Thực ra cũng có một kiểu tọa thiền nhằm mục đích chỉ làm như vậy, nhưng nó không phải là tọa thiền truyền thống của Phật giáo Thiền. Quý vị phải hiểu rõ rằng dù có chăm chú đến hơi thở đến đâu, quý vị cũng vẫn nhận thức được những gì xảy ra trong tầm mắt mình, vì mắt mở, quý vị sẽ nghe những âm thanh thường ngày, vì tai mình không bị bịt lại. Vả lại đầu óc quý vị không buồn ngủ nên nhiều ý niệm sẽ lướt đi qua lại, lui tới trong tâm. Bây giờ chúng sẽ không cản trở hay giảm thiểu hiệu quả của tọa thiền, trừ phi quý vị cho chúng là tốt rồi bám vào đó hoặc nhất định cho chúng là xấu rồi cố ngăn chận hay loại bỏ, không nên xem bất cứ một nhận thức hay cảm xúc nào là chướng ngại cho tọa thiền, cũng không nên theo đuổi chúng. Tôi nhấn mạnh điểm này: "theo đuổi" ở đây có nghĩa là bằng hành động nhìn, tia nhìn của quý vị vẩn vơ nơi các vật, bằng chiều hướng nghe, sự chú ý nơi âm thanh và bằng tiến trình suy tư, tâm quý vị sẽ bám vào các ý niệm. Nếu quý vị tự do cho phép mình xao lãng trong những cách thức như thế thì sự tập trung vào sự đếm hơi thở sẽ bị trở ngại. Tóm lại, hãy để các ý niệm bất chợt xuất hiện và biến mất như vậy, đừng ve vản chúng và cũng đừng cố trục xuất chúng, mà chỉ tập trung toàn bộ năng lực vào việc đến hơi thở ra và vào mà thôi.

Khi kết thúc một thời ngồi, không nên đứng dậy ngay, mà phải bắt đầu đưa mình qua lại, trước tiên bằng những cái đưa qua đưa lại nhỏ, rồi lớn hơn, khoảng năm sáu lần. Quý vị quan sát sẽ thấy rằng những cử động trong bài tập này trái ngược với những cử động quý vị đã làm lúc mới bắt đầu tọa thiền. Hãy đứng dậy chậm chậm và im lặng bước đi vòng quanh với những người khác, đi như thế gọi là Kinh Hành (Kinhin), một hình thức tọa thiền đi.

Kinh hành, thực hiện bằng cách đặt nắm tay phải với ngón cái bên trong lên ngực và lòng bàn tay trái phủ bên ngoài nắm tay phải, trong khi hai cùi chỏ giữ theo góc thẳng, giữ cho hai cánh tay trước thành đường thẳng và thân thẳng đứng với đôi mắt giữ yên tại một điểm cách trước hai bàn chân khoảng hai thước. Đồng thời tiếp tục đếm hơi thở ra vào khi quý vị bước đi chầm chậm quanh phòng. Bắt đầu bước chân trái trước và bước đi như thể bàn chân lún sâu xuống sàn nhà, gót chân xuống trước rồi các ngón chân xuống sau. Bước trầm tĩnh và đều đặn với sự ổn định và trang nghiêm, không nên bước đi một cách lơ đãng và tâm phải khẩn trương như khi tập trung đếm hơi thở. Nên thực hiện kiểu đi này ít nhất năm phút sau mỗi lần ngồi hai mươi hoặc ba mươi phút.

Quý vị nên biết rằng đi như thế là tọa thiền di động. Lâm tế và Tào Động thực hiện kinh hành hơi khác nhau. Trong phương pháp Lâm Tế, bước đi nhanh và mạnh, trong khi theo truyền thống Tào Động thì bước đi chậm và nhàn nhã, thực tế trong mỗi hơi thở quý vị chỉ bước tới khoảng một tấc rưỡi. Thầy tôi, lão sư Đại Vân bênh vực cách đi dung hòa giữa hai lối đi kể trên và đó là cách đi chúng ta thực hành ở đây. Hơn nữa phái Lâm Tế úp bàn tay trái lên nắm tay phải, trong khi theo truyền thống Tào Động thì bàn tay phải úp lên nắm tay trái. Lão sư Đại Vân cảm thấy phương pháp của Lâm Tế úp bàn tay trái lên thích đáng hơn và vì thế ông đưa nó vào lối dạy của ông. Bây giờ, dù cho việc đi này làm hai chân bớt tê cứng, luyện tập như thế chỉ được coi là kết quả phụ không phải là mục đích chính của kinh hành. Do đó, vị nào đếm hơi thở nên tiếp tục đếm và vị nào đang tham công án nên tiếp tục tham trong khi kinh hành.

Bài thứ nhất đến đây là hết. Quý vị tiếp tục đếm hơi thở như tôi đã chỉ cho đến khi quý vị lại đến trước tôi.

GHI CHÚ:

(1) Đại Vân là pháp danh của lão sư Harada. Tên đầy đủ của ông là Daiun Harada Roshi. Ông còn có tên khác là Sogaku. Xem thêm phần tiểu sử ở chương "Các bức thư ngộ đạo của Yaeko".
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 28/03/12 07:12 với 2 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Đồng Nát
Bài viết: 2529
Ngày: 29/06/11 10:05
Giới tính: Nam
Đến từ: TP.Ho Chi Minh

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi Đồng Nát »

Người sơ cơ chưa nắm vững các Định luật, nếu tự hành thiền mà chưa am hiểu pháp ấn thì không nên bắt chước bắt Ấn Thiền Định như hình bên trên khi ngồi thiền, tốt hơn hết 2 bàn tay lật ngửa đặt 2 bên đùi.


Hình đại diện của người dùng
Thánh_Tri
Điều Hành Viên
Bài viết: 3851
Ngày: 21/12/07 21:02

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi Thánh_Tri »

Đồng Nát đã viết:Người sơ cơ chưa nắm vững các Định luật, nếu tự hành thiền mà chưa am hiểu pháp ấn thì không nên bắt chước bắt Ấn Thiền Định như hình bên trên khi ngồi thiền, tốt hơn hết 2 bàn tay lật ngửa đặt 2 bên đùi.
Xưa tới giờ toạ thiền thì để lòng bàn tay phải lên bàn tay trái, và hai ngón cái đụng nhau vậy thôi chứ có gì đâu. Làm như vậy mới dễ nhiếp tâm. Còn đưa tay lên đầu gói khó nhiếp tâm.

Vả lại, Tham Thiền Thoại Đầu thì không cần phải ngồi. Đi Đứng Nằm Ngồi đều được. Mà ngồi kiểu nào cũng được, ngồi tọa thiền như trên, ngồi trên ghế để chân xuống không cần xếp lại cũng được, bởi tham thiền là ở tâm, chẳng phải ở ngồi.


"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đồng Nát đã viết:Người sơ cơ chưa nắm vững các Định luật, nếu tự hành thiền mà chưa am hiểu pháp ấn thì không nên bắt chước bắt Ấn Thiền Định như hình bên trên khi ngồi thiền, tốt hơn hết 2 bàn tay lật ngửa đặt 2 bên đùi.
Đây cũng là một loại phiền não hàng ngày của bác Đồng Nát nữa rồi!? :D

Bác cứ đợi đấy, cháu sẽ đăng từ từ những bài thuyết giảng kế tiếp về Tọa thiền, nói rất rõ phải ngồi kiết già như thế. Vì lợi ích cho thân và tâm sau này, và đó là điều căn bản cho những người mới học tọa thiền.

Cháu ngồi kiết già theo thế ngồi của Phật Thích Ca, nghĩa là bàn chân trái gác lên đùi phải, bàn chân phải gác lên trên đùi trái, hai bàn tay xếp lại lật ngửa ra, bàn tay phải trên bàn tay trái, hai ngón cái đụng nhau xếp xuôi theo chiều của các ngón tay chứ không làm thành hình tròn nhỏ như trong hình. Mới đầu ngồi đau ở chỗ hai ống chân xếp chồng nhau, chỉ ngồi được năm phút là đau thấu xương, chịu không nổi và nhất là phải làm thế nào cho hai cái đầu gối đụng xuống sàn. Nhưng do quyết tâm hành thiền cho được nên cố chịu đựng và rồi sau đó mọi việc đều ổn định. Bây giờ ngồi như thế quen như ăn cơm mỗi ngày vậy, vững chãi và an lạc vô cùng....

Bác nói ngồi để hai bàn tay ở hai bên đùi, đó là lối ngồi của thiền ngoại đạo như thiền Yoga chẳng hạn chứ không phải là thiền Phật giáo do Phật Thích Ca chỉ dạy, trong các bài sau này có phân tách rõ năm loại thiền...


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Đồng Nát
Bài viết: 2529
Ngày: 29/06/11 10:05
Giới tính: Nam
Đến từ: TP.Ho Chi Minh

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi Đồng Nát »

ở đây nói là giai đoạn đầu khi mới thực hành thiền tốt hơn hết là không có bắt ấn gì cả. Yoga hay thiền ngoại đạo cũng có Ấn pháp đó chứ không phải là không, ai đủ bản lĩnh thì có thực hành thiền khí cong hay yoga trước rồi quay về tập Thiền Chỉ (Samatha) hay Thiền Tuệ (Vipassana), chỉ sợ là không làm nổi thôi... Cũng đừng quên là tư thế căn bản để tọa thiền là Kiết già , bán kiết già, ngọa thiền (nằm thiền) thì cũng từ các loại thiền ngoại đạo mà có...chỉ khác là tinh thần Vô ngã và tự ngã, thế thôi.

Đối với Đồng Nát thì Ấn Pháp thì tự nhiên mà có, không do gặp thầy mà tuyền dạy, rồi từ những ấn đó Đồng Nát mới bắt đầu truy tìm trong Kinh sách so sánh xem "cái tự có" đó có đúng với chánh pháp không? Khoảng trên dưới 10 kiết ấn pháp mà tay đồng Nát tự chuyển...chứ không do dụng ý thức mà làm theo trong sách vở.

Về lời khuyên không nên tự bắt ấn là cẩn trọng vẫn tốt hơn, tùy duyên căn cơ mỗi người vậy...còn đó là ý kiến của Đồng Nát và cũng có tham khảo từ một cuốn sách hướng dẫn thiền của một vị Tăng thì thấy điểm này hoàn toàn hợp lý...vì trước kia Đồng Nát cũng không hề chủ động bắt ấn gì cả. Giai đoạn đầu thì 2 bàn tay có thể chồng lên nhau nhưng 2 ngón cái chưa được chạm nhau...

Thiện hữu lại chấp vào câu noi "phiền não mỗi ngày" của Đồng Nát rồi...đó là "phá" cái câu nói "thượng thủ" bởi thiện thủ nói ra đó thôi...kakaka..xin lỗi là chen ngang vào bài của thiện hữu mà lạm bàn.
Tùy duyên... Chúc thành tựu tangbong


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đồng Nát đã viết:
Đối với Đồng Nát thì Ấn Pháp thì tự nhiên mà có, không do gặp thầy mà truyền dạy, rồi từ những ấn đó Đồng Nát mới bắt đầu truy tìm trong Kinh sách so sánh xem "cái tự có" đó có đúng với chánh pháp không? Khoảng trên dưới 10 kiết ấn pháp mà tay Đồng Nát tự chuyển...chứ không do dụng ý thức mà làm theo trong sách vở.
Cái gì thành có được hôm nay là do quá trình tu tập mà thành tựu, chú không phải tự nhiên mà "tự chuyển". Hồi Phật Thích Ca 7 tuổi tuổi ngồi thiền dưới gốc cây trong dịp lễ Hạ điền với hai bàn tay xếp chống lên nhau và đâu có nói là ấn này, ấn nọ? Tất cả đều do ngoại đạo mà ra và người sau này bắt chước cho có hình thức.

Trong bài nói xếp tay như vậy với hai ngón cái chạm nhẹ nhau là dễ nhiếp tâm vì thân (tay) không bị động. Những ấn chú "tự chuyển" của bác, theo thiền sư Philip Kapleau nói là "ma cảnh" (chờ xem bài viết nói về việc này)

Bác cứ thảo luận thoải mái, học hỏi kinh nghiệm mà. tangbong

Tặng bác bài thơ nói về ngồi thiền theo tư thế kiết già của người xưa cháu đọc được:

Cho hay pháp Phật thiệt oai linh
Bày để người tu buộc, sửa mình
Tam muội cột tay kềm tánh vững
Kiết già trói cẳng thủ trung bình.
tangbong


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đồng Nát đã viết:
Thiện hữu lại chấp vào câu noi "phiền não mỗi ngày" của Đồng Nát rồi...đó là "phá" cái câu nói "thượng thủ" bởi thiện thủ nói ra đó thôi...kakaka..xin lỗi là chen ngang vào bài của thiện hữu mà lạm bàn.
Tùy duyên... Chúc thành tựu tangbong
Phiền não dứt rồi sanh bệnh khác
Chân như ai thoát khỏi bao giờ
Cứ tùy duyên là không trở ngại
Niết bàn thôi hết chuyện lơ mơ
(Thơ của người xưa)

tangbong tangbong :D


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Đồng Nát
Bài viết: 2529
Ngày: 29/06/11 10:05
Giới tính: Nam
Đến từ: TP.Ho Chi Minh

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi Đồng Nát »

Cái gì cũng bị quy chụp là Ma cảnh hết...cái gì gọi là bắt chước bắt ấn cho có hình thức?
tùy duyên vậy thiện hữu...Đồng Nát chưa có bị tẩu hỏa bao giờ, còn biết nói chuyện trên diễn đàn này rất tỉnh táo.

Chúc an lạc. tangbong


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đồng Nát đã viết:Cái gì cũng bị quy chụp là Ma cảnh hết...cái gì gọi là bắt chước bắt ấn cho có hình thức?
tùy duyên vậy thiện hữu...Đồng Nát chưa có bị tẩu hỏa bao giờ, còn biết nói chuyện trên diễn đàn này rất tỉnh táo.

Chúc an lạc. tangbong
"Ai đang nói cái gì đấy!" :D

"Ma cảnh" là do thiền sư Philip Kapleau dựa theo Kinh Lăng Nghiêm nói có khoảng 50 loại ấm ma, chứ đâu phải "quy chụp" đâu bác! :D
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 28/03/12 18:01 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Đồng Nát
Bài viết: 2529
Ngày: 29/06/11 10:05
Giới tính: Nam
Đến từ: TP.Ho Chi Minh

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi Đồng Nát »

battinh đã viết:
Đồng Nát đã viết:Cái gì cũng bị quy chụp là Ma cảnh hết...cái gì gọi là bắt chước bắt ấn cho có hình thức?
tùy duyên vậy thiện hữu...Đồng Nát chưa có bị tẩu hỏa bao giờ, còn biết nói chuyện trên diễn đàn này rất tỉnh táo.

Chúc an lạc. tangbong
"Ai đang nói cái gì đấy!" :D

"Ma cảnh" là do thiền sư Philip Kapleau dựa theo Kinh Lăng Nghiêm nói có khoảng 50 ngủ ấm ma, chứ đâu phải "quy chụp" đâu bác! :D
Ở đây không nói rằng kinh Lăng Nghiêm nói sai, hay thiền sư nói không đúng mà là nói thiện hữu cứ y theo sách mà kết luận cho mọi trường hợp thì cũng chưa chắc phải...
Thôi thiện hữu cứ lo phổ biến kinh sách tiếp đi, những điều Đồng Nát nói ra không giúp dược gì cho thiện hữu đâu, chỉ gây phiền não thôi.
Chúc an lạc. tangbong


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 2. NHỮNG LỜI KHUYÊN CẦN THIẾT TRONG TỌA THIỀN


Đây là bài nói thứ nhì. Bây giờ tôi muốn quý vị thay đổi bài tập thở một chút. Hồi sáng tôi đã bảo quý vị đếm "MỘT" khi hít vào và "HAI" khi thở ra. Từ đây về sau tôi muốn quý vị chỉ đếm "MỘT" lúc thở ra như thế một hơi đầy đủ (hít vào và thở ra) sẽ là "MỘT". Đừng đếm hơi hít vào, chỉ đếm "MỘT", "HAI", và "BA" và cứ như thế lúc thở ra.

Nên tọa thiền đối mặt với một bức tường, một tấm màn hay một cái gì khác đại loại như thế. Đừng ngồi quá xa cũng đừng dí mũi vào tường. Khoảng cách lý tưởng là từ bảy đến chin tấc. Vả lại cũng đừng ngồi chỗ nào mà quý vị có thể nhìn quanh quẩn vì nó dễ làm ta xao lãng, hoặc nơi nào có thể nhìn ra một phong cảnh đẹp hấp dẫn, vì nó sẽ quyến rũ quý vị bỏ tọa thiền để ngắm nhìn. Trong quan hệ này, điều quan trọng là phải nhớ rằng dù cho mở mắt quý vị cũng đừng thực sự cố nhìn. Vì tất cả các lý di ấy, khôn nhất là quay mặt vào tường. Tuy nhiên, nếu quý vị bất chợt phải tọa thiền theo nghi thức trong một ngôi chùa Lâm Tế, quý vị sẽ không có sự chọn lựa nào cả mà chỉ ngồi quay mặt vào nhau vì đây là thói quen đã thành nếp trong phái này.

Bắt đầu, nếu có thể, hãy chọn một căn phòng vừa yên tĩnh vừa sạch sẽ và ngăn nắp, một căn phòng mà người ta có thể xem là tôn nghiêm. Quý vị có thể hỏi: có thể tọa thiền trên một cái giường có chiều dài bằng căn phòng, sạch và không ồn áo có tiện không? Đối với những người có sức khỏe bình thường thì câu trả lời là "không", có một số lý do tại sao khó giữ tâm ở trạng thái khẩn trương đặc biệt trên một cái giường. Một người bị bệnh nằm liệt trên giường dĩ nhiên không có sự chọn lựa nào cả.

Có lẽ quý vị sẽ thấy rằng những âm thanh tự nhiên như tiếng côn trùng kêu, tiếng chim hót hay tiếng nước chảy không quấy rầy mình, cũng như tiếng gõ nhịp của cái đồng hồ hay tiếng bình bịch của chiếc xe gắn máy. Song những tiếng động thình lình như tiếng máy bay phản lực gầm, làm chói tai. Nhưng quý vị có thể lợi dụng các âm thanh nhịp nhàng được. Thực tế, một môn sinh của tôi đã đạt giác ngộ bằng cách lợi dụng tiếng đập lúa đều đặn trong lúc tọa thiền. Những âm thanh đáng đề phòng nhất là tiếng người nói hoặc nghe trực tiếp hoặc nghe qua đài phát thanh hay vô tuyến truyền hình. Vì thế, khi bắt đầu tọa thiền quý vị nên tìm một căn phòng cách xa những âm thanh như thế. Tuy nhiên, khi đã ngồi chín muồi thì không có một thứ tiếng ồn nào có thể quấy rầy quý vị được.

Ngoài việc giữ phòng sạch sẽ và ngăn nắp, quý vị nên trang trí thêm hoa và thắp hương, vì những thứ này, bằng cách truyền một cảm giác về sự thanh tịnh và thánh thiện, khiến cho quý vị dễ kết hợp mình với tọa thiền và như thế tâm dễ bình tĩnh và hợp nhất tâm nhanh hơn. Hãy mặc đơn giản, sự phục sức thích nghi cho quý vị một cảm giác trang nghiêm và thanh tịnh.

Tốt hơn, không nên mặc quần áo ngủ vào buổi chiều, trừ phi trời nóng và một câu hỏi có thể được đặt ra: hoặc tọa thiền trong bộ quần áo ngủ hoặc chẳng mặc gì cả có được không? Dầu sau cũng phải mặc quần áo ngủ. Nhưng quý vị phải tự mình giữ sạch sẽ và ngăn nắp.

Phòng không nên sáng quá hoặc tối quá. Nếu phòng sáng quá, quý vị có thể căng một tấm màn thẫm, hoặc là ban đêm, quý vị có thể dùng một bóng đèn nhỏ. Ảnh hưởng của một căn phòng tối cũng y như quý vị nhắm mắt vậy; nó làm mọi vật trầm trệ. Điều kiện tốt nhất là ánh sáng hoàng hôn. Hãy nhớ tọa thiền Phật giáo không nhằm mục đích làm tâm không hoạt động mà nhằm làm tâm yên tĩnh và hợp nhất trong hoạt động.

Một căn phòng lý tưởng là không nóng quá vào mùa hè và không lạnh quá vào mùa đông. Hành hạ thân xác không phải là mục đích của tọa thiền, vì thế không cần thiết phải chiến đấu với các cực nóng hay cực lạnh. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy rằng, người ta có thể tọa thiền khá hơn khi cảm thấy hơi mát, một căn phòng quá nóng dễ khiến người ta buồn ngủ. Song khi nhiệt tâm tọa thiền trở nên sâu hơn, tự nhiên quý vị sẽ không quan tâm đến lạnh hay nóng nữa. Nhưng phải biết giữ gìn sức khỏe cho mình là khôn.

Kế tiếp chúng ta hãy bàn đến thời gian tốt nhất để tọa thiền. Đối với người hăng say và quyết chí thì bất cứ lúc nào trong ngày và mọi mùa trong năm đều tốt như nhau. Nhưng đối với những người bận việc hay vì nghề nghiệp, thì sáng hay chiều cũng đều là thời gian tốt nhất, hay cả hai thì còn tốt hơn nữa. Cố gắng ngồi buổi sáng, tốt hơn là trước bữa điểm tâm, và ngay trước khi đi ngủ vào buổi tối. Nhưng nếu chỉ có thể ngồi một lần thôi - ít nhất một lần trong ngày, quý vị nên xét xem công đức tương đối của sáng và chiều. Mỗi buổi đều có cái lợi và cái bất lợi của nó. Nếu quý vị thấy buổi sáng và buổi chiều cũng tốt như nhau và hỏi tôi nên chọn buổi nào (vì chỉ có thể ngồi mỗi ngày một lần), tôi sẽ nói buổi sáng, vì buổi chiều quý vị có thể bị làm gián đoạn. Như thế, buổi sáng - dù ở thành phố - vẫn yên tĩnh hơn buổi chiều rất nhiều, vì đường phố ít xe cộ hơn. Hơn nữa, vì buổi sáng quý vị đã được nghỉ ngơi và bụng hơi đói, đây là điều kiện tốt cho tọa thiền; trong khi buổi chiều, quý vị đã mệt lại vừa ăn cơm chiều, quý vị có thể bị trầm trệ hơn. Vì khó mà tọa thiền với cái bao tử đầy, tốt hơn không nên ngồi ngay sau bữa ăn khi quý vị là người mới bắt đầu. Tuy nhiên, tọa thiền trước bữa ăn vẫn lợi hơn. Khi nhiệt tâm phát triển thì ngồi trước, sau hay ngay trong lúc ăn cũng chẳng thành vấn đề.

Mỗi lần tọa thiền nên ngồi bao lâu? Không có luật chung nào hết vì nó thay đổi tùy theo mức độ nhiệt tâm cũng như trưởng thành của sự tu tập. Đối với những người mới học, thời gian càng ngắn càng tốt. Nếu quý vị ngồi một cách sùng mộ năm phút mỗi ngày trong một hay hai tháng, rồi hãy tăng thời gian ngồi đến mười phút hoặc lâu hơn tùy theo mức phát triển nhiệt tâm của mình. Khi có thể ngồi với tâm khẩn trương, giả sử trong ba mươi phút mà không thấy đau đớn hay khó chịu, quý vị sẽ có cảm giác an lạc do tọa thiền đem lại và sẽ muốn thực hành điều đặn. Vì các lý do ấy, tôi khuyên những người mới bắt đầu ngồi hãy ngồi những thời gian ngắn hơn. Mặt khác, nếu quý vị tự cưỡng bách mình ngồi những thời gian dài ngay từ lúc mới bắt đầu, thì sự đau đớn ở hai chân rất có thể không chịu đựng nổi trước khi đạt được tâm yên tĩnh. Như thế quý vị sẽ chóng chán tọa thiền, cảm thấy nó lãng phí thì giờ hoặc quý vị cứ nhìn đồng hồ luôn. Cuối cùng, quý vị sẽ không thích tọa thiền nữa và bỏ ngồi luôn, đây là điều thường xảy ra. Bây giờ dù cho quý vị ngồi chỉ khoảng hai mươi phút mỗi ngày, thì cũng có thể bù lại sự ngắn ngủi ấy bằng cách tập trung kịch liệt vào việc đếm mỗi hơi thở, như thế sẽ gia tăng được hiệu quả. Quý vị không nên đếm một cách lơ đãng hoặc máy móc tựa hồ như làm một bổn phận.

Dù cho khả năng quý vị có thể ngồi một giờ hoặc lâu hơn thế với cảm giác cực kỳ yên tĩnh, hãy giới hạn thời gian mỗi lần ngồi chừng ba mươi hay bốn mươi phút là khôn. Thông thường không nên tọa thiền lâu hơn khoảng thời gian ấy cho mỗi lần ngồi, vì tâm không thể duy trì lâu năng lực và sự khẩn trương và do đó giá trị của sự ngồi sút giảm. Dù có nhận ra hay không, sự giảm sút dần dần trạng thái tập trung kịch liệt của tâm vẫn xảy ra. Vì lý do này, tốt hơn nên thay đổi một thời gian ngồi ba mươi hay bốn mươi phút với một vòng tọa thiền đi. Theo kiểu này, người ta có thể tọa thiền trọn ngày hoặc cả tuần lễ với kết quả tốt. Tuy nhiên càng tiếp tục tọa thiền, thời gian để tọa thiền càng tăng. Thực tế người ta có thể lợi dụng thêm vào nếp sinh hoạt này bằng những thời kỳ lao động tay chân. Không cần nói, quý vị cũng biết phải giữ tâm mình ở trạng thái ý thức rõ ràng trong lúc lao động tay chân như thế và không để tâm lơi lỏng hay trầm trệ.

Xin nói một chút về thức ăn. Tốt hơn, không nên ăn nhiều hơn tám mươi phần trăm khả năng của quý vị. Tục ngữ Nhật có câu: "Tám phần bao tử no nuôi sống con người, hai phần kia no nuôi thầy thuốc". Cuốn "Tọa Thiền Dụng Tâm Ký" (Zazen Yojinki) biên soạn khoảng 650 năm qua, cũng khuyên chúng ta nên ăn khoảng hai phần ba khả năng mình. Tác phẩm ấy còn bảo chúng ta nên chọn các thứ rau bổ dưỡng (dĩ nhiên ăn thịt không thuộc truyền thống Phật giáo và vào thời viết cuốn "Dụng Tâm Ký", điều ấy bị cấm) như khoai tây, mì, mận chua, nấm và ngó sen. Sách ấy cũng khuyên dùng nhiều thứ rong biển có độ dinh dưỡng cao và lưu lại cho cơ thể chất kiềm. Bây giờ chúng tôi không có thẩm quyền nói về các sinh tố khoáng chất và calories, nhưng thực tế đa số người ngày nay ăn các món ăn hàng ngày tạo ra quá nhiều chất acid trong máu và thủ phạm chính trong vụ này là thịt. Hãy ăn nhiều rau thuộc các loại kể trên vì chúng có chất kiềm. Ngày xưa có cách ăn kiêm âm-dương (yin-yang). Dương là chất kiềm và âm là chất acid và các sách xưa bảo rằng các món trong bữa ăn hàng ngày không nên dương qua hay âm quá. Thực ra đây là điều tôi vừa mới nói.

Có ý kiến cho rằng khi ngồi nên có một cuốn tập và cây bút chì trước mặt để ghi chép, bởi vì các nội kiến thay đổi sẽ lóe lên trong tâm và quý vị sẽ nghĩ: "Ta phải ghi lại cái này kẻo quên mất". Những quan hệ trước kia không hiểu được, giờ đây bỗng nhiên được soi sáng và những vấn đề khó khăn sẽ được giải quyết cái rụp. Nếu không ghi ngay, chúng sẽ làm phiền quý vị và như thế nó làm trở ngại sự tập trung của quý vị.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 3. NHỮNG THỊ KIẾN VÀ CẢM GIÁC HƯ VỌNG


Đây là bài nói thứ ba. Trước khi bắt đầu tôi sẽ chỉ cho quý vị một phương pháp tập trung mới. Thay vì đếm hơi thở ra như trước tới giờ, quý vị hãy đến "MỘT" trên hơi hít vào thứ nhất và "HAI" trên hơi hít vào kế tiếp và cứ như thế cho đến mười. Cách này hơi khó đếm hơn hơi thở ra, vì tất cả hoạt động tinh thần và thể xác đều được thực hiện vào lúc thở ra. Chẳng hạn, ngay trước khi vồ mồi các con thú đều thở ra một cái. Nguyên tắc này cũng được biết nhiều trong Kiếm đạo (Kendo) và Nhu đạo (Judo), ở đó người ta dạy rằng hãy quan sát thật kỹ hơi thở của đối thủ trước khi tấn công. Vì bài tập này khó, quý vị phải thực tập như một phương tiện nhiếp tâm nữa của mình. Cho đến khi quý vị đến trước tôi trở lại, hãy tập trung đếm hơi hít vào không phải đếm lớn mà chỉ trong tâm mà thôi.

Ma cảnh (Makyo) là những hiện tượng - ảo kiến, ảo tưởng, tưởng tượng, mật khải, cảm giác hư huyễn - mà các người tọa thiền hay trải qua ở một giai đoạn đặc biệt trong khi ngồi. Ma là "độc hiểm", cảnh là "thế giới khách quan". Do đó, ma cảnh là những hiện tượng quấy rầy "tác hại" đối với một người trong lúc tọa thiền. Chúng chỉ trở thành chướng ngại nghiêm trọng đối với sự tu tập khi người ta không biết rõ thực chất của chúng và bị chúng quyến rũ.

Từ "ma cảnh" được dùng theo cả hai nghĩa chung và riêng. Nói rộng, toàn bộ cuộc sống của một người thường không gì khác hơn là một ma cảnh. Ngay các Bồ tát như Văn Thù và Quan Âm, dù đã phát triển cao độ, song vẫn còn dấu vết của ma cảnh, nhưng nếu các vị ấy thành Phật vô thượng thì hoàn toàn thoát khỏi ma cảnh. Vì thế quý vị biết, ngay cả sau khi ngộ cũng vẫn còn ma cảnh, nhưng chúng ta không đi vào khía cạnh đó trong các bài nói này.

Theo nghĩa riêng, số ma cảnh có thể xuất hiện thực là vô hạn, thay đổi tùy theo nhân cách, tính khí của người ngồi. Trong kinh Lăng Nghiêm Ryogon) Phật cho biết năm mươi hai loại khác nhau, nhưng dĩ nhiên ngài chỉ đề cập đến những ma cảnh thông thường nhất. Nếu quý vị tham dự một khóa nhiếp tâm kép dài từ năm đến bảy ngày và thực hành cần mẫn liên tục, vào ngày thứ ba là quý vị có thế sẽ kinh nghiệm ma cảnh ở nhiều mức độ khác nhau. Ngoài các ma cảnh liên quan đến thị giác, có nhiều ma cảnh liên quan đến cảm giác như: sờ, mó, ngửi, nghe hoặc đôi lúc chúng làm cho thân thể bỗng nhiên di động qua lại, lui tới, nghiêng qua một bên hoặc dường như bị chìm xuống hay nhô lên. Cũng thường hay có trường hợp bỗng nhiên bật ra lời nói không kiểm soát được hoặc hiếm hơn, có người tưởng tượng mình đang ngửi một mùi thơm đặc biệt. Cũng có khi hoàn toàn vô thức, người ta viết ra những điều mà về sau đúng sự thật như tiên tri.

Thường nhất là ảo ảnh thị giác. Trong khi quý vị đang tọa thiền với đôi mắt mở thì bỗng nhiên các làn gợn của chiếc đệm lót trước mắt nhô lên thụt xuống như những gợn sóng hoặc bất ngờ mọi vật trước mắt bỗng hóa trắng hay đen hết. Một cái mắt gỗ trên cánh cửa bỗng nhiên hóa thành con dã thú, con quỷ hay một thiên thần. Một môn đệ của tôi thường hay thấy cảnh mặt nạ - mặt nạ quỷ hay mặt nạ hề. Tôi hỏi anh ta đã từng có kinh nghiệm nào về mặt nạ không và hóa ra lúc còn bé anh ta đã xem mặt nạ trong một buổi lễ ở Kyushu. Tôi biết có một người khác cực kỳ phiền muộn trong lúc thực hành vì các ảo ảnh Phật và các đệ tử của ngài vừa đi vòng quanh ngài vừa đọc kinh, và người ấy chỉ có thể đánh tan được ảo ảnh này bằng cách nhảy ùm vào một thùng nước lạnh như nước đá trong vài ba phút.

Những ma cảnh liên quan đến thính giác. Một người có thể nghe tiếng đàn dương cầm hoặc tiếng ồn ào như tiếng nổ thật lớn (mà không ai khác nghe thấy) và đã nhảy dựng lên thật sự. Một môn đệ của tôi luôn luôn nghe tiếng sáo trúc vi vu trong lúc tọa thiền. Nhiều năm trước anh ta đã học chơi sáo, nhưng đã bỏ lâu rồi, song khi anh ta ngồi thiền, tiếng sáo vẫn đến.

Trong "Tọa Thiền Dụng Tâm Ký", chúng ta thấy có nói đến ma cảnh trong những lời sau: "Thân có thể cảm thấy nóng hoặc lạnh, hoặc như gương, hoặc cứng, hoặc nặng, hoặc nhẹ. Sở dĩ như thế là vì hơi thở không được điều hòa (với tâm) và cần phải được điều hòa thật kỹ". Rồi tiếp: "Người ta có thể trải qua các cảm giác chìm hay nổi, hoặc có thể cảm giác thấy mơ hồ hay linh mẫn sắc bén. Người môn đệ có thể phát triển khả năng nhìn thấy xuyên qua các vật rắn tựa như chúng trong suốt, hoặc người ấy có thể thấy thân thể mình như một chất trong suốt. Người ấy có thể thấy Phật và các Bồ tát. Các nội kiến trong suốt có thể đến với người ấy, hoặc những đoạn kinh khó hiểu bỗng nhiên trở nên rõ ràng sáng sủa. Tất cả những thị kiến và cảm giác bất thường này chỉ là dấu hiệu của sự bất toàn phát xuất từ sự điều chỉnh sai lệch của tâm với hơi thở".

Các tôn giáo và môn phái khác đều để lại cả kho tàng vĩ đại những kinh nghiệm liên quan với các thị kiến về Thượng đế hay tiếng nói từ trên trời, thực hiện các phép lạ và nhận các thông điệp thần linh, hoặc trở thành thanh tịnh qua nhiều nghi thức khác. Chẳng hạn trong phái Nhật Liên (Nichiren), người tín đồ hô to và nhiều lần tên kinh Liên Hoa kết hợp với các hành động mạnh mẽ của thân và cảm thấy rằng mình nhờ đó tẩy sạch những ô nhiễm. Ở một bình diện khác, những cách làm như thế đem lại cảm giác sung mãn, song theo quan điểm của Thiền tất cả đều là trạng thái bệnh hoạn hoàn toàn không có ý nghĩa tôn giáo đích thực và vì thế chỉ là những ma cảnh.

Thế thì thực chất của những hiện tượng quấy phá mà chúng ta gọi là ma cảnh ấy là gì? Chúng là những trạng thái tinh thần nhất thời xuất hiện trong lúc tọa thiền, khi khả năng tập trung của chúng ta phát triển đến mức độ nào đó và sự thực hành đang bắt đầu chín muồi. Khi các cơn sóng vọng niệm đầy vơi trên bề mặt lớp thức thứ sáu đã phần nào lắng xuống, các yếu tố tồn lưu của các kinh nghiệm quá khứ "chứa" trong các lớp thứ bảy và thứ tám nổi lên một cách rời rạc, truyền cái cảm giác về một thực thể vĩ đại hay rộng lớn hơn. Tùy lúc, ma cảnh là một hỗn hợp của cái thực và cái không thực, không phải giống các giấc mộng thông thường chỉ vì các giấc mộng không xuất hiện trong giấc ngủ say và chỉ xuất hiện trong lúc nửa thức nửa ngủ, vì thế ma cảnh không đến với những người tập trung cao độ hay nhập đại định. Đừng bao giờ để bị chúng quyến rũ mà nghĩ rằng chúng là thật hoặc có ý nghĩa nào đó. Thấy một cảnh đẹp về một vị Bồ tát, không có nghĩa là mình sắp thành Bồ tát, điều này cũng tựa như nằm mộng thấy mình trở thành triệu phú, không có nghĩa là khi tỉnh mộng mình sẽ giàu có. Do đó, không có lý do để phấn khởi vì các ma cảnh như thế. Cũng vậy, dù cho quỷ dữ xuất hiện cũng không có lý do gì để sợ. Trước hết, đừng để mình bị cám dỗ bởi những cảnh thấy Phật hay Thần ban phúc, hoặc truyền cho thông điệp mật khải linh thiêng, hoặc bởi các ma cảnh có liên quan đến các tiên tri hóa thành sự thật. Theo đuổi một cách ngu ngốc những cái không đem lại kết quả gì chỉ là phung phí năng lực của mình.

Nhưng những ma cảnh như thế chắc chắn là dấu hiệu báo cho biết quý vị đang ở tại một điểm sinh tử trong việc ngồi của mình và nếu dốc hết sức lực bình sinh vào thì chắc chắn sẽ chứng kiến tánh.

Truyền thống nói rằng ngay cả Phật Thích Ca Mâu Ni cũng trải qua vô số ma cảnh mà ngài gọi là "ma chướng". Bất cứ lúc nào ma cảnh xuất hiện, quý vị chỉ cần làm ngơ không thèm biết đến chúng và cứ tiếp tục ngồi với tất cả năng lực của mình.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.26 khách