Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 4. NĂM LOẠI THIỀN


Bây giờ tôi sẽ nêu năm loại thiền khác nhau. Trừ phi biết cách phân biệt các loại ấy, quý vị có thể lầm những điểm quyết định ngộ có cần thiết cho thiền hay không hoặc thiền có nói đến sự vắng bặt tư tưởng phân biệt và những điều đại loại như thế không. Sự thật có nhiều kiểu thiền, có cái sâu, có cái nông, có cái đưa đến ngộ, có cái không.

Người ta nói rằng trong thời Phật có đến chín mươi hay chín mươi lăm trường phái triết học hay tôn giáo khác nhau. Mỗi trường phái có kiểu thiền riêng và mỗi kiểu hơi khác với kiểu kia.

Tất cả các tôn giáo lớn đều hàm chứa thiền ở một mức độ nào đó. vì tôi giáo cần cầu nguyện và cầu nguyện cần nhiếp tâm. Các giáo lý của Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử và Trang Tử, tất cả đều có yếu tố thiền riêng. Thực ra, thiền bao hàm nhiều hoạt động khác nhau của đời sống như Trà đạo, kịch Noh, Kiếm đạo, Nhu đạo... Ở Nhật bắt đầu thời Duy Tân Minh Trị, ngót một trăm năm qua và tiếp tục cho đến nay, đã phát sinh một số giáo lý và môn phái mang các yếu tố thiền. Trong đó, tôi có thể kể Hệ Thống Tĩnh Tọa của Okada, một phương pháp tu dưỡng thân tâm. Gần đây một Tempu Nakamura đã hăng hái bênh vực cho một hình thức Thiền đạo Yoga Ấn Độ. Tất cả những phương pháp nhập định khác nhau này, hầu như vô số đều xuất hiện dưới cái đầu đề thiền rộng rãi. Tốt hơn hết, hãy cố gắng xếp loại tất cả, tôi sẽ đề cập năm phân loại chính của thiền như đã được thiền sư Khuê Phong (Keiho) một trong những thiền sư xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa đưa ra mà cách xếp loại tôi cảm thấy vẫn còn giá trị và hữu ích. Chỉ có một số dị biệt nhỏ trong cách xếp chân, tay hoặc điều hòa hơi thở, nhưng có ba yếu tố cơ bản chung cho tất cả: một tư thế ngồi thẳng đứng, kiểm soát hơi thở cho đúng và nhiếp tâm. Tuy nhiên những người mới bắt đầu cần nhớ rằng trong bản chấtmục đích, các loại thiền này có những điểm khác nhau rõ rệt. Những điểm khác nhau này rất quan trọng đối với quý vị, khi từng quý vị đến nói nguyện vọng của mình với tôi, vì chúng sẽ giúp quý vị có thể xác định rõ ràng mục đích của mình và như vậy tiện cho tôi trong việc chỉ định riêng cho từng vị phương pháp tu nào thích hợp hơn.

Loại thứ nhất trong các loại ấy chúng tôi gọi là Thiền Phàm phu (Bompu) hay của người thường đối lại với bốn loại kia, có thể cho rằng mỗi loại là một loại thiền đặc biệt thích hợp với mục đính riêng của từng cá nhân khác nhau. Thiền Phàm phu hoàn toàn không chứa một nội dung triết lý, hay tôn giáo nào, dành cho tất cả mọi người. Ấy là thứ thiền thực hành thuần túy vì tin rằng nó có thể cải thiện sức khỏe tinh thần lẫn thể xác. Vì hầu như chắc chắn không có một kết quả xấu nào, nên bất cứ ai cũng có thể thực hiện được, dù người ấy có theo hay không theo tín ngưỡng nào. Thiền Phàm phu sẽ loại bỏ các bệnh về tâm sinh lý và cải thiện sức khỏe nói chung.

Qua thực hành Thiền Phàm phu, quý vị sẽ biết tập trung và kiểm soát tâm. Chưa bao giờ xảy ra chuyện đa số người ta cố thử kiểm soát tâm mình và không may phương pháp phương pháp huấn luyện cơ bản này bị bỏ rơi ngoài chương trình giáo dục hiện thời, nó không phải thành phần của cái gọi là thu nhập kiến thức. Song không có nó, khó mà giữ lại được những điều đã học, bởi vì chúng ta học không đúng cách, trong quá trình chúng ta đã lãng phí nhiều năng lực. Kết quả chúng ta sẽ què quặt thực sự trừ phi biết cách hạn chế tư tưởng và tập trung tâm lực. Hơn nữa bằng cách thực hành phương pháp luyện tâm rất tuyệt diệu này, quý vị sẽ thấy mình tiến bộ, có thể chống lại được những cám dỗ mà trước kia đã đánh ngã mình và có thể cắt đứt các sợi dây từ lâu ràng buộc mình. Sự phong phú về nhân cách, sự mạnh thêm về cá tính đương nhiên sẽ theo sau vì ba yếu tố cơ bản của tâm - tức lý trí, tình cảm và ý chí - phát triển một cách hài hòa. Việc ngồi tĩnh tọa thực hành trong đạo Khổng dường như nhấn mạnh chủ yếu các hiệu quả này của sự nhiếp tâm. Tuy nhiên, còn một điều nữa là Thiền Phàm phu, mặc dù có ích nhiều trong việc tu tập hơn là đọc vô số sách đạo đức và triết học, vẫn không thể nào giải quyết được vấn đề nền tảng của con người và mối tương quan của con người và vũ trụ. Tại sao? Vì nó không thể phá vỡ được cái mê hoặc cơ bản về chính mình của hạng người thường là mình rõ ràng khác với vũ trụ.

Loại thứ hai trong năm loại thiền gọi là Ngoại đạo (Gedo). Ngoại đạo nghĩa đen là "Con đường bên ngoài" và như thế, theo quan điểm của Phật giáo, nó ám chỉ các giáo lý khác với Phật giáo. Ở đây chúng ta có một loại thiền có quan hệ với tôn giáo và triết học, nhưng không phải là thiền Phật giáo. Yoga của Ấn Độ, phép tĩnh tọa của Khổng giáo, các phép chiêm bái thực hành trong đạo Kitô, tất cả đều thuộc phàm trù của thiền Ngoại đạo.

Một khía cạnh khác của Thiền Ngoại đạo là nó thường được thực hành để luyện các năng lực hoặc kỹ năng siêu nhiên khác nhau nào đó ở ngoài tầm mức người thường. Một thí dụ tốt thuộc loại này là Tempu Nakamura, người mà tôi đã nhắc trên kia. Người ta kể rằng ông ta có khả năng bảo người khác cử động bắp thịt hoặc nói thành lời mà không có mặt ông ta ở đó. Mục đích của phương pháp Emma là biểu diễn những kỹ xảo ngoạn mục, như đi chân trần trên những lưỡi kiếm bén hoặc nhìn những con chim sẻ khiến chúng trở nên tê liệt. Tất cả những trò biểu diễn kỳ diệu này là kết quả của sự tu luyện định lực (Joriki) là sức mạnh hay năng lực phát sinh cùng với sự thực hành nhiếp tâm kịch liệt, mà tôi sẽ nói chi tiết hơn sau. Ở đây tôi chỉ nhắc quý vị nhớ rằng một thứ thiền mà mục đích chỉ nhằm tu luyện định lực với các mục tiêu như thế, không phải là thiền của Phật giáo.

Một mục tiêu nữa mà Thiền Ngoại đạo nhằm thực hành là để được tái sinh nơi các cõi trời khác nhau. Một vài môn phái Ấn Độ giáo như chúng ta biết thực hành thiền để tái sinh nơi cõi trời. Đây không phải là đối tượng của thiền Phật giáo. Trong khi người Phật giáo thiền không tranh luận các khái niệm về các tầng trời khác nhau, về niềm tin rằng một người có thể được tái sinh ở các nơi ấy, qua sự thực hiện mười loại đạo hạnh mà chính người ấy không mong ước tái sinh nơi cõi trời. Các điều kiện ở đó rất thích thú và dễ chịu, vì thế người ấy rất dễ bị cám dỗ từ bỏ tọa thiền. Vả lại khi công đức ở cõi trời suy cạn, người ất rất có thể bị rơi xuống địa ngục. Vì thế, người Phật giáo thiền thích được sinh nơi cõi người hơn và thích thực hành tọa thiền với mục đích tối hậu là thành Phật.

Tôi sẽ dừng lại ở đây và bài nói kế sẽ kết thúc về năm loại thiền.

Đến đây tôi đã bàn với quý vị về hai loại thiền đầu tức là Phàm phu và Ngoại đạo. Trước khi tiếp tục ba loại thiền kế tiếp, tôi sẽ chỉ cho quý vị một phương pháp nhiếp tâm khác: theo dõi hơi thở bằng con mắt tâm. Trong thời gian ngừng đến các hơi thở, thay vào đó, quý vị hãy tập trung khẩn trương vào việc theo dõi các hơi thở ra và hít vào, cố gắng hình dung chúng một cách rõ ràng. Quý vị hãy thực hiện bài tập này cho đến khi quý vị lại đến trước tôi.

Loại Thiền thứ ba là Tiểu thừa (Shojo), nghĩa đen là cái xe nhỏ (Hinayana). Đây là cái xe đưa quý vị từ một tâm thái này (mê) đến một tâm thái khác (ngộ). Được gọi là cái xe nhỏ vì nó chỉ được dự trù chở một người thôi. Có lẽ quý vị có thể so sánh nó với chiếc xe đạp. Cái xe lớn hơn (Mahayana), mặt khác, giống như chiếc xe ca hay xe buýt, nó chở luôn cả những người khác. Vì vậy, Tiểu thừa là một loại thiền chỉ chú trọng sự an tâm của một mình mình thôi.

Ở đây chúng ta có một thứ thiền Phật giáo, nhưng không phải là loại thiền hợp với giáo lý tối thượng thừa của Phật. Nó là loại thiền thích hợp cho những ai không thể nắm được ý nghĩa sâu xa nhất, sự giác ngộ của Phật, nghĩa là một thể hiện như là một toàn thể không thể chia cắt được, mỗi người trong chúng ta đều bao trùm cả vũ trụ trong toàn thể tính của nó. Điều này đúng, nếu thấy rằng mình không thể đạt an tâm đích thực bằng cách chỉ tìm sự cứu độ riêng mình trong khi vẫn lạnh lùng với hạnh phúc của người khác.

Tuy nhiên có những người (một vài người trong số quý vị đang lắng nghe tôi đây có thể ở trong số đó) không thể tự khiến cho mình có thể tìm một cách đơn giản vào sự có thực của một thế giới như thế. Dẫu sao, họ cũng đã thường được dạy rằng thế giới tương đối của phân biệt và đối lập mà họ đang cố bám vào là hư vọng, là sản phẩm của những cái nhìn sai lầm nên họ không thể nào tin khác được. Đối với những người như thế, thế giới dường như chỉ có xấu và tội lỗi, xung đột và đau khổ, đầy giết chóc và bị giết chết và trong thất vọng họ muốn chạy trốn. Quả thật, chết còn đáng thích hơn sống. Cái tội không thể chịu đựng hơn hết trong tất cả mọi tội là gánh lấy sự sống trong bất cứ hình thức nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào, vì điều ấy buộc họ vào đau khổ bất tận, hóa thân như là dã thú hay quỷ dữ trong vô số kiếp tương lai vì luật nghiệp báo không thể dung thứ được. Như thế chết không phải là hết. Do đó những gì họ cần tìm chỉ là con đường tránh tái sinh, một phương pháp chết không bị tái sinh.

Thiền Tiểu thừa cung cấp câu trả lời cho nhu cầu này. Nói như thế vì mục đích của nó là chận đứng mọi tư tưởng để tâm trở nên trống rỗng hoàn toàn và đi vào trạng thái gọi là vô tâm (Mushinjo), một trạng thái trong đó mọi cơ năng cảm biết bị loại bỏ và khả năng ý thức bị đặt trong tình trạng do dự phân vân. Với thực hành, ai cũng có thể tu dưỡng được năng lực này. Trong trường hợp không có ý muốn chết, người ta có thể đi vào trạng thái giống như xuất thần trong một thời gian có hạn định - một vài giờ hoặc một vài ngày - hay có thể ở lại trong trạng thái ấy vô hạn định, trong ấy cái chết đương nhiên sẽ xảy ra một cách tự nhiên không đau đớn và - đây là điều quan trọng nhất - không tái sinh. Toàn bộ quá trình chết không tái sinh này được nói một cách chi tiết trong một tác phẩm triết học Phật giáo gọi là Câu Xá Luận (Kusharon).

Loại thứ tư gọi là Thiền Đại thừa (Daijo), là cái xe lớn (Mahayana) và đây là loại thiền Phật giáo đích thực vì mục đích chính của nó là Kiến tánh ngộ đạo (Kensho Godo) tức là nhìn thấy bản tánh của mình và nhận ra rằng Đạo ở trong cuộc sống hàng ngày của mình. Đối với những ai có thể hiểu được ý nghĩa sự chứng ngộ của Phật và khao khát xuyên phá cái nhìn hư vọng của mình về vũ trụ và kinh nghiệm Thực tại Tuyết đối không sai khác, Phật giáo đích thực là tôn giáo của giác ngộ. Đức Phật sau khi chứng ngộ, đã dùng khoảng năm mươi năm để dạy cho mọi người biết cách làm thế nào tự họ có thể chứng ngộ tự tánh của mình. Các phương pháp của ngài đã được truyền lại từ thầy sang trò, thẳng xuống đến chúng ta ngày nay. Vì thế, có thể nói rằng một thứ Thiền mà nó không biết đến hoặc chối bỏ hoặc coi nhự ngộ thì không phải là Thiền Đại thừa Phật giáo đích thực.

Trong thực hành thiền Đại thừa, mục đích của quý vị khởi đầu là ý thức về chơn tánh của mình, nhưng khi ngộ quý vị sẽ nhận ra rằng tọa thiền còn hơn là một phương tiện để ngộ - nó là hiện thực của chơn tánh mình. Trong loại thiền này, đối tượng là giác ngộ, người ta dễ nhận lầm tọa thiền chỉ là một phương tiện mà thôi. Tuy nhiên, một bậc thầy trí tuệ ngay từ lúc khởi đầu sẽ chỉ rõ rằng tọa thiền đích thực là sự thực hiện của Phật tánh vốn có và không phải chỉ là một kỹ thuật để giác ngộ. Nếu tọa thiền không khác gì hơn là một kỹ thuật như thế, người ta sẽ thấy rằng sau khi ngộ, tọa thiền sẽ không còn cần thiết nữa. Nhưng chính Đạo Nguyên đã chỉ rõ rằng ngược lại mới đúng, càng chứng ngộ sâu càng thấy cần thực hành.

Thiền Tối thượng thừa (Saijojo), loại cuối cùng của năm loại, là chiếc xe cao nhất, là đỉnh cao cùng tột của thiền Phật giáo. Thiền này đã được tất cả các Phật quá khứ - như Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà - thực hành và là sự biểu lộ của sự sống tuyệt đối, sự sống trong hình thức tinh khiết nhất. Nó là cách tọa thiền mà thiền sư Đạo Nguyên chủ yếu bênh vực và nó không dính dáng gì đến việc đấu tranh để ngộ hay bất cứ đối tượng nào khác. Chúng tôi gọi nó là Chỉ quan đả tọa (Shikan taza) và tôi sẽ nói chi tiết hơn về phương pháp này trong một bài sau.

Trong phương pháp thực hành cao nhất này, phương tiện và cứu cánh hợp thành một. Thiền Đại thừa và thiền Tối thượng thừa thực tế bổ sung cho nhau. Phái Lâm Tế đặt Đại thừa lên cao nhất và Tối thượng thừa ở dưới, trong khi phái Tào Động làm ngược lại. Trong Tối thượng thừa, khi được thực hành đúng quý vị ngồi trong niềm tin kiên định rằng tọa thiền chính là thể hiện chân tánh không ô nhiễm của mình, và đồng thời quý vị ngồi trong niềm tin trọn vẹn rằng cái ngày ấy sẽ đến, khi kêu lên: "Ô, nó đây rồi!" Quý vị sẽ nhận ra chân tánh này không nhầm lẫn. Vì thế, về mặt tự thức, quý vị không cần cố gắng để ngộ.

Ngày nay, nhiều người trong phái Tào Động chủ trương rằng tất cả chúng ta vốn là Phật, thì ngộ đâu có cần thiết. Một sai lầm quá đáng như thế khiến cho Chỉ quán đả tọa, đúng ra nó là hình thức ngồi cao nhất, trở thành không gì khác hơn một thứ thiền Phàm phu, loại đầu trong năm loại.

Đến đây, tôi đã tường thuật đầy đủ về năm loại thiền khác nhau, nhưng trừ phi khi nào tôi nói với quý vị về ba mục tiêu của tọa thiền thì việc giới thiệu của tôi về năm loại thiền nhất là hai loại cuối vẫn chưa hoàn toàn đầy đủ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 5. BA MỤC TIÊU CỦA TỌA THIỀN


Mục tiêu của tọa thiền có ba:

  • a. phát triển định lực (joriki).
    b. thấy tánh ngộ đạo (Kensho Godo: Kiến tính ngộ đạo).
    c. thể hiện Đạo vô thượng trong cuộc sống hằng ngày (Mujodo No Taigen: Vô thượng đạo chỉ thể hiện).
Ba mục tiêu này tạo thành tạo thành một thể không thể phân chia được, nhưng vì mục đích biện luận, tôi buộc phải phải nói đến chúng một cách riêng rẽ.

Định lực, mục tiêu đầu tiên trong ba mục tiêu, là năng lực hay sức mạnh phát sinh khi tâm được hợp nhất qua sự tập trung. Định lực này còn hơn cái khả năng tập trung theo nghĩa thông thường của từ. Nó là một động lực, một khi được vận động, có thể khiến chúng ta, ngay cả trong những tình huống đột ngột và bất ngờ nhất, hành động tức khắc, không ngần ngại hợp trí tuệ lại và trong một cách thức hoàn toàn thích ứng với mọi hoàn cảnh. Một người đã phát triển định lực không còn nô lệ vào các đam mê của mình, người ấy cũng không còn lệ thuộc vào lòng thương xót sự vật chúng quanh mình. Luôn luôn làm chủ cả chính mình lẫn các hoàn cảnh đời mình, người ấy hành động với sự tự do và bình tĩnh hoàn toàn. Nhờ định lực, người ta cũng có thể luyện được những năng lực siêu nhiên, như trạng thái trong đó tâm trở nên giống như nước hoàn toàn yên tĩnh.

Hai loại đầu trong năm loại Thiền tôi đã nói hoàn toàn tùy thuộc vào định lực cũng như trạng thái vô tâm thể hiện trong thiền Tiểu thừa - trạng thái trống rỗng trong đó sự vậ hành có ý thức của tâm bị chận đứng. Bây giờ, mặc dù sức mạnh của định lực có thể phát triển vô tận qua thực hành đều đặn, nó sẽ thụt lùi và bất thần biến mất nếu chúng ta chểnh mảng tọa thiền. Và trong khi có nhiều năng lực phi thường phát sinh từ định lực, song chỉ một mình định lực thì chúng ta không thể cắt đứt được gốc rễ cái nhìn hư vọng của mình về thế giới. Một mình sức mạnh của tập trung thì không đủ cho loại Thiền cao nhất, phải có giác ngộ hỗ trợ nữa mới được. Trong một tài liệu ít được biết đến do Tổ sư Thạch Đầu Hy Thiên (Sekito Kisen), người sáng lập một trong các phái Thiền vào giai đoạn sớm nhất, truyền xuống đến chúng ta ngày nay, có đoạn nói: "Trong phái chúng ta, sự nhận ra Phật Tánh chứ không phải chỉ lòng sùng mộ hay định lực là tối cao".

Mục tiêu thứ hai là kiến tánh ngộ đạo, thấy tự tánh chơn thật của mình và đồng thời thấy bản tánh tối hậu của vũ trụ và "tất cả vạn vật" trong ấy. Ấy là sự hốt nhiên nhận ra rằng: "Xưa nay ta vốn đầy đủ và toàn hảo. Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay!" Nếu là thấy tánh thật, thì thực chất sẽ luôn luôn y nhau đối với bất cứ ai kinh nghiệm nó, dẫu người ấy là Phật Thích Ca Mâu Ni hay Phật A Di Đà hay bất cứ người nào trong quí vị tụ hội nơi đây. Nhưng nói thế không có nghĩa là tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm kiến tánh ở cùng một mức độ, vì trong độ rõ, độ sâu, và đầy đủ của kinh nghiệm có những khác biệt lớn. Để minh họa quí vị có thể tưởng tượng một người mù ngay từ lúc mới sinh vừa bắt đầu thấy lại dần dần. Thoạt đầu, người ấy chỉ có thể thấy rất lờ mờ, u tối và chỉ thấy những vật ở gần mình. Rồi khi cái thấy khá hơn, người ấy có thể phân biệt các vật cách khoảng một thước, rồi những vật cách khoảng mười thước, cuối cùng người ấy có thể nhận ra bất cứ vật gì ở xa đến một ngàn thước. Ở mỗi giai đoạn này, thế giới hiện tượng người ấy nhìn thấy không khác nhau, nhưng những khác biệt trong độ rõ ràng và chính xác của cái thấy về thế giới đó rất to lớn như giữa tuyết và than. Các kinh nghiệm kiến tánh của chúng ta cũng khác biệt như thế về độ rõ và độ sâu.

Mục tiêu cuối cùng trong ba mục tiêu này là thể hiện đạo vô thượng trong toàn thể con người và trong những hoạt động hằng ngày của chúng ta. Ở điểm này, chúng ta không phân biệt cứu cánh và phương tiện. Tối thượng thừa tôi đã nói là loại thứ năm, là loại cao nhất trong năm loại Thiền, tương ứng với giai đoạn này. Khi quí vị ngồi một cách hăng say và không vị kỷ, hợp với sự chỉ đạo của bậc chân sư, nghĩa là hợp với tâm mình mặc dù có ý thức đầy đủ, hoàn toàn vô niệm như tờ giấy trắng tinh không một vết bẩn, bây giờ dù quí vị đã ngộ hay chưa, Phật tánh thanh tịnh vốn có của mình vẫn khai mở. Nhưng ở đây phải nhấn mạnh rằng chỉ với chân ngộ quý vị mới có thể trực nhận được chân thể tánh Phật của mình và Tối thượng thừa, loại Thiền thuần khiết nhất, không gì khác hơn là loại Thiền đã được chư Phật thực hành.

Thực hành Thiền Phật giáo phải bao gồm cả ba mục tiêu này, vì chúng tương quan với nhau. Chẳng hạn, giữa định lực và kiến tánh có một mối liên kết chặt chẽ. Kiến tánh là "huệ kết hợp tự nhiên với định", nó là năng lực phát sinh từ sự tập trung. Định lực còn kết hợp với kiến tánh theo một cách khác nữa. Nhiều người sẽ không bao giờ kiến tánh được trừ phi trước hết trước hết phải luyện được định lực đến một mức nào đó, nếu không, họ có thể tự thấy quá bất an, quá nóng nảy và không dễ kiên nhẫn tọa thiền. Hơn nữa, trừ phi được định lực tăng sức cho, một kinh nghiệm kiến tánh đơn độc sẽ không có hiệu quả đáng kể đối với cuộc sống quý vị và nó sẽ tàn lụi chỉ còn là một kỷ niệm. Vì dù qua kinh nghiệm kiến tánh, quý vị đã hiểu được cái nhất thể sâu kín của vũ trụ bằng con mắt tâm, không có định lực, quý vị cũng không thể tác động với toàn bộ sức mạnh con người mình trên những gì nội kiến vén mở.

Ngoài ra còn có mối tương quan giữa kiến tánh và mục tiêu thứ ba, thể hiện đạo vô thượng. Kiến tánh khi đã hiện thân trong toàn bộ hành động của quí vị là thể hiện đạo vô thượng. Với giác ngộ viên mãn (Anuttara Samyak Sambodhi), chúng ta hiểu rằng ý niệm của chúng ta về thế giới như là nhị nguyên và đối lập là sai lầm, và với nhận thức này, thế giới của cái một, của hài hòa và bình an chân thật đã vén mở.

Phái Lâm Tế có khuynh hướng cho rằng ngộ là mục tiêu tối hậu, và xem nhẹ định lực và sự thể hiện dạo vô thượng. Như thế, nhu cầu tiếp tục thực hành sau khi ngộ bị giảm thiểu và việc tham công án, vì nó không được tọa thiền hỗ trợ và hầu như không quan hệ gì với cuộc sống hằng ngày, chủ yếu trở thành một trò chơi của lý trí thay vì là một phương tiện để phát triển và tăng sức cho ngộ.

Mặt khác, trong khi thực hành được các chi nhánh chính của phái Tào Động ngày nay bênh vực, nó lại nhấn mạnh sự thể hiện đạo vô thượng, thực tế nó không có gì khác hơn là sự tích lũy định lực, như tôi đã nói, nó sẽ "rỉ lậu" hoặc thoái hóa và cuối cùng biến mất trừ phi tọa thiền đều đặn. Phái Tào Động ngày nay chủ trương rằng kiến tánh là không cần thiết và người ta không cần gì hơn là thực hiện các hoạt động hằng ngày với tâm Phật. Như thế chỉ là bề ngoài không có thực chất vì không kiến tánh, quý vị không bao giờ biết được tâm Phật này là cái gì.

Những sự mất quân bình như thế trong cả hai phái(*) trong những lúc gần đây không may đã làm tổn hại phẩm chất giáo lý Thiền. Đến đây kết thúc bài nói về ba mục tiêu của tọa thiền.

(*) Đoạn sau đây trích từ một bản thảo chưa xuất bản của Nyogen Senzaki, đã quá cố, miêu tả những dị biệt giữa Lâm Tế và Tào Động một cách thơ mộng và hấp dẫn: "Trong giới học Thiền có người nói rằng: Giáo lý Lâm Tế như sương cuối thu, làm người ta rùng mình, trong khi giáo lý Tào Động như gió xuân êm nhẹ ve vuốt bông hoa giúp nó chóng nở. Rồi có người khác nói: Giáo lý Lâm Tế giống như một dũng tướng điều động ba quân không trễ nãi, trong khi giáo lý Tào Động giống như một nông gia chăm sóc ruộng lúa, hết cây này đến cây khác một cách kiên nhẫn".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 6. ĐỘC THAM


Quý vị cứ tiếp tục thực hành bài tập tôi cho lần cuối, nghĩa là tập trung vào hơi hít vào và hơi thở ra, cố gắng thấy rõ từng hơi một.

Bài này bàn về độc tham (Dokusan: tham vấn từng cá nhân), nó là thời gian dành cho việc mang tất cả các vấn đề thuộc về thực hành ra trước vị lão sư một cách riêng tư. Truyền thống chỉ dạy riêng từng cá nhân bắt đầu với chính Phật Thích Ca Mâu Ni và đã được tiếp tục không gián đoạn cho đến ngày nay. Chúng ta biết thế vì một trong các đại sư phái Thiên Thai, đại sư Trí Giả, trong sự hệ thống hóa của ông về toàn bộ các kinh điển thành Tám Giáo và Năm Thời có ghi giáo lý bí mật mà nó tương ứng với độc tham.

Không có sự hướng dẫn cá nhân này, chúng ta không thể nói việc thực hành tọa thiền của mình là chân truyền. Không may, từ thời Minh Trị, gần một trăm năm qua, độc tham đã chết thực sự trong phái Tào Động và chỉ còn trong truyền thống Lâm Tế. Nếu chúng ta ví tọa thiền với một cuộc du hành thì một vài người khỏi hành nhanh rồi sau đó chậm lại, một vài người bắt đầu chậm rồi sau đó gia tăng tốc độ, một vài người thấy giai đoạn này gian nan hơn giai đoạn kia, và tất cả mang những gánh nặng hành lý khác nhau (tức các dự tưởng), chúng ta bắt đầu có thể hiểu được tại sao không thể bỏ được sự hướng dẫn cá nhân trong độc tham.

Người ta có thể hỏi tại sao phải giữ bí mật cuộc độc tham. Vì không có gì là phi luân, tại sao không thể công khai giữa công chúng? Trước hết, vì chúng ta là những người tầm thường với cái ta, trước mặt kẻ khác chúng ta thường có khuynh hướng tỏ ra mình tốt hơn mình thật sự. Chúng ta không thể trơ trụi linh hồn và trần truồng thể xác thực sự. Vả lại, chúng ta ngại nói toàn bộ sự thật, vì sợ bị cười. Hoặc giả, bị lão sư quở trách, dùng ngôn ngữ thô bạo, chúng ta sẽ quan tâm đến ảnh hưởng của điều này vì sự có mặt của những người khác hơn là chỉ lắng nghe lão sư với lòng mở rộng.

Còn một lý do nữa để giữ bí mật các cuộc độc tham. Sau kinh nghiệm kiến tánh đầu tiên, quý vị đi từ công án này tới công án khác và nếu có mặt người khác ở đó khi quí vị cần chứng công án, nghe các câu trả lời của lão sư, họ có thể nghĩ rằng: "A, câu trả lời là như thế" mà hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của công án. Hiển nhiên điều này làm tổn thương việc tu tập của họ, thay vì họ đi đến tự chứng ngộ và trình bày nó với lão sư, họ lại nhớ đến những câu trả lời của lão sư, câu này có thể chấp nhận được, câu kia thì không, song không phải thế, và như thế là tự làm hại mình, việc tham công án của họ sẽ thoái hóa và chỉ còn là một tác dụng của lý trí. Vì những lý do đó, quý vị phải giữ im lặng khi có ai hỏi gì về một công án mà người hỏi chưa vượt qua được. Cuộc nói chuyện vô trách nhiệm có thể đưa đến những hậu quả nguy hiểm khác. Tin đồn có thể lan truyền rằng có người bị đánh dã man trong lúc độc tham, chẳng hạn, đem lại cho Thiền tiếng xấu không xứng đáng. Vì thế, đừng bàn luận với bất cứ người nào về công án của mình, dù cho với những người bạn tốt nhất, hay với người thân trong gia đình.

Rõ ràng sự vi phạm bí mật bao quanh hệ thống công án xưa kia đã đưa đến sự suy đồi đều đặn trong giáo lý Lâm Tế. Những gì tôi sắp nói đến không áp dụng cho hàng cư sĩ, những người thường rất nghiêm túc trong tu tập. Nhưng ở tự viện, nơi có những tăng nhân phẫn uất với toàn bộ sự huấn luyện ở những nơi đó, ở địa vị đầu tiên chỉ phục vụ thời kỳ đòi hỏi để hưởng quyền tăng nhân nội trú của một ngôi chùa, vấn đề này trở nên rất nghiêm trọng. Ở các tự viện mà giới luật còn khiếm khuyết, một tăng nhân lớn tuổi hơn thường hỏi một tăng nhân nhỏ tuổi: "Chú đang tham công án gì thế?" Khi được nói cho biết, người lớn tuổi hơn sẽ hỏi: "Chú có hiểu nó không?" "Không". – "Được rồi, tôi sẽ bảo chú câu trả lời", người tăng nhân lớn tuổi hơn nói – "và đáp lại chú phải mua cho tôi một ít bánh ngọt nhé". Vị lão sư có thể nói câu trả lời ấy chân xác hay không, nhưng vì một lý do nào đó, ông vô tình có thể chấp nhận câu trả lời không phải của tăng nhân ấy. Sự tu tập này có thể không có gì nguy hiểm đặc biệt nếu một tăng nhân như thế chỉ ở vài ba năm trong tự viện trước khi trở thành tăng nhân nội trú trong chùa, khi không đòi hỏi tăng nhân ấy nhiệm vụ đánh giá sự giác ngộ của người khác. Nhưng điều có thể xảy ra là không có sự khai mở nào cả khi tăng nhân ấy hoàn tất sự tu tập tối thiểu để mình có thể ở lại tự viện có thể đến tám hoặc mười năm, thông qua toàn bộ hệ thống công án với những câu trả lời không phải của mình. Cuối cùng, theo thông lệ trong phái Lâm Tế, khi một người hoàn tất toàn bộ các công án sẽ được nhận danh hiệu là Sư. Như thế một người không có sự hiểu biết chân thực trở thành xứng đáng hướng dẫn người khác. Sự tu hành gian trá này đã ngấm ngầm phá hoại giáo lý Thiền. Các học giả Tào Động nghiên cứu Thiền một cách hàn lâm công kích hệ thống công án chỉ vì lý do này là đúng.

Điểm kế tiếp nói về hỏi những gì là thích đáng trong lúc độc tham. Tất cả các câu hỏi phải liên quan với các vấn đề phát sinh trực tiếp từ sự thực hành của quý vị. Điều này đương nhiên loại bỏ các vấn đề cá nhân riêng tư. Quý vị có thể thấy rằng sự riêng tư trong độc tham đem lại cơ hội tuyệt hảo để bàn đến các vấn đề cá nhân, nhưng phải nhớ rằng những người khác đang chờ và nếu quý vị đưa ra những vấn đề khác ngoài các vấn đề tu tập của mình là quý vị đang làm trở ngại đấy. Đúng ra, quý vị có thể hỏi về cái bao tử của mình, chẳng hạn, nếu nó cồn cào hoặc cái răng đau đến nỗi không thể ăn được, hoặc về các ma cảnh quý vị có thể đang trải qua. Tuy nhiên, quý vị không nên hỏi về giáo lý Phật giáo hay triết học tỷ giảo hoặc sự khác biệt giữa kinh này và kinh khác. Quý vị có thể hỏi bất cứ điều gì chừng nào nó còn phát xuất trực tiếp từ việc thực hành của quý vị.

Thủ tục đối với một học viên mới là biếu tiền mua nhang cho vị lão sư trước khi vào độc tham. Người ta có thể hỏi tại sao lại có nghi thức như thế? Độc tham, không thể nhấn mạnh quá đáng, không phải là chuyện tầm phào vô ích. Trong khi mọi người tự do thực hành tọa thiền và lắng nghe lão sư bình thuyết về nhiếp tâm, đặc trưng chủ yếu của độc tham là tạo nên một mối dây nghiệp duyên giữa thầy và trò, ý nghĩa của nó rất sâu xa trong Phật giáo. Vì thế, không thể coi nhẹ độc tham. Hơn nữa, vì những gì diễn ra giữa lão sư và môn sinh trong độc tham có liên hệ với các vấn đề về bản tánh sâu xa và tối thượng, ở đó người ta phải nói sự thật. Trong những cuộc hội họp công cộng thường người ta rất ngại nói những điều làm phật ý người khác, nhưng trong độc tham không thể như thế được, vì chân lý tuyệt đối luôn luôn phải chiếm ưu thế. Vì những lý do này, những nghi thức đã được thiết lập không thể xem nhẹ được.

Mặc lễ phục vào độc tham là đúng, nhưng ngày nay người ta không cố chấp việc ấy, quý vị có thể mặc bất cứ thứ gì thấy thích hợp là được. Khi được báo cho biết sắp độc tham, quý vị hãy sắp hàng phía sau cái chuông bên ngoài phòng tọa thiền. Khi đến lượt mình nghe tiếng chuông bên ngoài phòng tọa thiền, hãy gõ vào cái chuông trước mặt quý vị hai lần và đến phòng này. Quý vị không nên chạy thốc vào vì như thế sẽ gây bối rối và quý vị sẽ không ở trong một tâm thái có lợi cho độc tham. Quý vị cũng không nên đi thơ thẩn vào vì có những người khác đang chờ. Theo tục lệ, đầu tiên quý vị lạy ba lạy ở ngưỡng cửa, rồi lạy ba lạy trước lão sư, và rồi lạy ba lạy nữa ở lối ra khi quý vị bước ra, nhưng bây giờ người ta giản lược chỉ còn ba lạy tất cả, mỗi lạy ở mỗi nơi kể trên.

Khi lạy, trán của quí vị phải chạm nhẹ xuống thảm, hai bàn tay giơ ra phía trước đầu, lòng bàn tay ngửa lên. Rồi co hai cánh tay ở hai cùi chỏ, đưa hai bàn tay lên, lòng bàn tay ngửa quá đầu một tấc.

Dáng điệu thọ nhận đôi bàn chân, những phần thấp nhất của thân đức Phật này, tượng trưng cho sự khiêm tốn và sự tiếp nhận đầy lòng biết ơn đạo của Phật vào cuộc sống của mình. Trừ phi đã nhận chìm cái ta của mình, thì quý vị không thể làm được việc ấy. Hãy nhớ rằng vị lão sư không những chỉ là người thay mặt Phật mà thật sự ông đang đứng chỗ của Phật. Lạy như thế, thực ra là quý vị đang bày tỏ lòng kính trọng Pháp.

Kế tiếp, hãy đến trước tôi cách khoảng ba bốn tấc và nói cho tôi biết môn tu tập của mình. Chỉ nói một cách đơn giản: "Tôi đang đếm hơi thở", "Tôi đang tham công án KHÔNG" hoặc "Tôi đang thực hành chỉ quán đả tọa". Hãy hỏi những câu ngắn gọn và đúng trọng tâm. Nếu có gì cần nói, tôi sẽ nói sau khi quý vị nói xong. Nhưng đừng vào làm phí thì giờ hỏi những điều vớ vẩn, hãy nhớ có những người khác đang chờ gặp tôi. Khi tôi rung cái chuông này là để quý vị tỏ dấu cúi đầu chào từ giã. Sau đó, nếu quý vị nhớ đến điều gì, hãy để đến lần độc tham khác, vì người kế tiếp đã sẵn sang bước vào.

Đến đây kết thúc bài nói thứ năm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 7. CHỈ QUÁN ĐẢ TỌA


Cho đến bây giờ quý vị vẫn còn đang theo dõi hơi thở bằng con mắt tâm, đang cố gắng kinh nghiệm một cách sống động hơi hít vào chỉ là hơi hít vào và hơi thở ra chỉ là hơi thở ra. Từ giờ trở đi, tôi muốn quý vị thực hành chỉ quán đả tọa (Shikantaza). Tôi sẽ mô tả chi tiết ngay bây giờ. Không phải tôi cứ thích thay đổi nhanh chóng các bài tập đâu, tôi làm như thế để cống hiến quý vị mùi vị các phương pháp nhiếp tâm khác nhau. Sau khi các bài nói nhập môn này kết thúc, quý vị đến trước tôi từng người một, tôi sẽ chỉ định cho từng vị phương pháp tu tập thích hợp với bản chất của nguyện vọng mình, cũng như với mức độ quyết tâm của từng vị, nghĩa là đếm hoặc theo dõi hơi thở, chỉ quán đả tọa hoặc một công án.

Bài này sẽ bàn về chỉ quán đả tọa. "Chỉ quán" nghĩa là "chỉ" hay "duy" trong khi "đả" là "đánh" và "tọa" là "ngồi". Như thế, chỉ quán đả tọa là một phương pháp thực hành, trong đó tâm chỉ tập trung kịch liệt vào việc ngồi mà thôi. Trong loại tọa thiền này, tâm rất dễ bị xao lãng vì nó không được các trợ lực như đếm hơi thở hay công án trợ giúp. Vì thế, sự bình tĩnh đúng đắn của tâm trở nên quan trọng gấp đôi. Bây giờ, trong chỉ quán đả tọa tâm không được vội vã song đồng thời hãy cắm vững vàng hay đứng sừng sững như núi Phú sĩ. Nhưng nó cũng phải linh mẫn và vươn ra như dây cung trương lên. Như thế, chỉ quán đả tọa là một trạng thái của tâm thức tập trung cao độ, song không căng thẳng, cũng không vội vã và chắc chắn không bao giờ giải đãi. Ấy là tâm của một người đang đối mặt với cái chết. Chúng ta hãy tưởng tượng mình đang nhập cuộc song đấu kiếm thuật kiểu thường xảy ra ở Nhật bản ngày xưa. Khi đối mặt với đối thủ, quí vị không ngừng theo dõi, thủ thế, sẵn sàng. Nếu lơi lỏng sự cảnh giác, dù chỉ giây phút thôi, quí vị sẽ bị hạ ngay. Một đám đông tụ tập để xem cuộc đấu. Vì không mù, nên quý vị thấy họ qua khóe mắt của mình, và vì không điếc nên quý vị nghe họ nói. Nhưng quý vị không nên để tâm mình bị các ấn tượng cảm giác ấy quyến rũ dù chỉ trong phút chốc.

Trạng thái này không thể duy trì lâu được. Thực tế, quí vị không nên thực hành chỉ quán đả tọa hơn nửa giờ mỗi thời ngồi. Sau ba mươi phút, hãy đứng dậy đi vòng quanh theo lối kinh hành, rồi bắt đầu ngồi lại. Nếu thực hành đúng cách, chỉ trong nửa giờ thôi, quí vị sẽ toát mồ hôi, ngay cả trong mùa đông trong một căn phòng không nóng, vì sức nóng do sự tập trung cao độ sinh ra. Khi quý vị ngồi quá lâu, tâm sẽ mất dần sinh lực, thân sẽ mệt và các nỗ lực sẽ nhận được phần thưởng ít hơn là nếu quý vị hạn chế thời gian ngồi trong ba mươi phút.

Trái với tay kiếm bất tài, một bậc kiếm sư sử dụng thanh kiếm không chút gắng sức. Nhưng không phải luôn luôn như thế, vì có lúc ông ta phải nỗ lực đến độ chót vì kỹ thuật chưa toàn hảo để tự cứu sinh mạng mình. Chỉ quán đả tọa cũng giống như vậy. Lúc mới bắt đầu không tránh được căng thẳng nhưng với kinh nghiệm chín muồi, sự căng thẳng này trở nên lơi ra song vẫn ngồi với chú tâm đầy đủ. Giống như tay kiếm bậc thầy tuốt kiếm vung lên không chút gắng sức và tiến công một cách giản dị, chỉ quán đả tọa cũng thích hợp với cái ngồi không chút gắng sức, linh mẫn và chú tâm y như vậy. Nhưng đừng tưởng việc ngồi như thế có thể đạt được dễ dàng, dù chỉ trong một phút thôi mà không có sự luyện tập lâu và thành khẩn. Đến đây chấm dứt bài nói về chỉ quán đả tọa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 8. NGỤ NGÔN DIỄN NHÃ ĐẠT ĐA


Trong nửa cuối của bài này tôi sẽ nói về câu chuyện Diễn Nhã Đạt Đa, lấy từ kinh Lăng Nghiêm. Đây là câu chuyện ngụ ngôn hay phi thường. Tôi cam đoan rằng nếu quý vị suy nghĩ kỹ, nó sẽ soi sáng nhiều điểm còn u tối trong Phật giáo.

Người ta bảo rằng chuyện này xảy ra vào thời đức Phật. Chuyện có thật hay chỉ là truyền thuyết, tôi không thể nói được. Dẫu sao, Diễn Nhã Đạt Đa vẫn là một cô gái đẹp không thích gì hơn là ngắm mình trong gương mỗi sáng. Một hôm khi soi gương, nàng thấy mình không có đầu. Tại sao vào buổi sáng đặc biệt này nàng lại không có đầu, kinh không nói. Dù sao, nỗi kích động lớn đến nỗi nàng hóa điên, chạy quanh hỏi xem ai đã lấy mất đầu mình: "Ai lấy đầu tôi? Đầu tôi đâu rồi? Nếu không có đầu, tôi chết mất!" Rồi nàng khóc, mặc dù mọi người bảo nàng rằng: "Đừng có ngốc, đầu cô trên cổ cô đấy, chứ có mất bao giờ đâu!" Nhưng nàng không tin: "Không, không đúng! Không, không đúng, phải có người nào đó đã lấy mất đầu tôi!" Nàng kêu lên, tiếp tục tìm kiếm điên cuồng. Cuối cùng, các bạn nàng tin nàng điên, lôi nàng về nhà, buộc nàng vào gốc cột đề phòng nàng tự làm hại mình.

Có thể so sánh sự trói buộc này với việc tọa thiền. Với sự bất động của thân, tâm sẽ đạt một độ yên tĩnh nào đó. Và trong khi vẫn còn rối loạn, tâm của Diễn Nhã Đạt Đa cứ tin rằng mình không có đầu, thì lúc bấy giờ thân tránh được sự tiêu tán năng lượng.

Các bạn thân của nàng từ từ thuyết phục nàng rằng nàng luôn luôn có đầu, và dần dần nàng tin một nửa. Tiềm thức của nàng bắt đầu chấp nhận rằng có lẽ mình nghĩ lầm là mình bị mất đầu.

Có thể so sánh việc Diễn Nhã Đạt Đa chấp nhận lời tái khẳng định của các bạn nàng với việc nghe lão sư thuyết pháp. Lúc đầu, những lời thuyết pháp khó hiểu nhưng lắng nghe nhiều thì từng lời sẽ chìm vào tiềm thức, rồi quí vị sẽ đi đến chỗ bắt đầu nghĩ: "Điều này có thực đúng như vậy không?... Tôi ngờ... Vâng, nó phải thế".

Bỗng một người trong các bạn nàng cốc vào đầu nàng một cái thật mạnh, vì đau và kích động, nàng kêu: "Ui cha!" – "Đó, đầu mi đó!" bạn nàng bảo và tức khắc Diễn Nhã Đạt Đa thấy mình đã lầm khi nghĩ rằng mình bị mất đầu, mà thực tế thì lúc nào mình cũng có đầu.

Cũng thế, cái cốc trong tọa thiền cũng có giá trị tối đa như vậy. Đương nhiên là phải đúng lúc - nếu sớm quá sẽ không có hiệu quả - về mặt vật lý được cây kích trượng (Kyosaku) hoặc lời nói của một bậc thầy có kiến thức làm cho giật nảy mình có thể đưa đến chứng ngộ tự tánh. Không phải chỉ cây kích trượng có giá trị thúc đẩy quý vị tiến tới mà ngay khi quý vị đã đạt đến một giai đoạn quyết định trong tọa thiền thì một cái đánh thật mạnh cũng có thể đẩy tâm quý vị vào nhận thức Chân Tánh – nói cách khác, giác ngộ.

Khi sự kiện này xảy ra với Diễn Nhã Đạt Đa, nàng quá phấn khởi đến nỗi phải chạy nhanh kêu lên: “Ôi, tôi có đầu rồi! Cuối cùng tôi đã có đầu rồi, sung sướng quá!"

Đây là sự khoái lạc của kiến tánh. Nếu kinh nghiệm là chân thực, thì quý vị sẽ không ngủ được vài ba đêm vì vui. Song nó lại là một trạng thái nửa tỉnh nửa điên. Quá vui vì đã tìm lại được cái đầu mà mình đã có ngay từ đầu, ít nhất cũng có thể nói là kỳ quặc. Vui vì sự khám phá ra bản tánh của mình, cái mà quý vị không bao giờ không có, cũng kỳ quặc không kém. Trạng thái xuất thần tuy đủ chân thực, nhưng tâm thái quý vị không thể gọi là tự nhiên cho đến khi nào quý vị hoàn toàn loại bỏ được ý niệm: "Tôi đã trở nên giác ngộ". Hãy chú ý thật kỹ điểm này vì nó thường bị hiểu lầm.

Khi niềm vui lắng xuống, Diễn Nhã Đạt Đa thoát được trạng thái nửa điên. Đối với ngộ cũng thế. Khi trạng thái đê mê hoan hỉ dịu xuống, kéo theo các ý niệm về chứng ngộ, quý vị sẽ ổn định trong cuộc sống thật tự nhiên và không có gì kỳ quặc cả. Song cho đến khi nào đạt đến điểm này, quÝ vị không thể sống hài hòa với chung quanh hoặc tiếp tục tu dưỡng tinh thần thực sự được.

Bây giờ tôi sẽ đặt biệt nêu rõ hơn phần đầu của câu chuyện. Vì đa số người ta thờ ơ với giác ngộ, họ không biết sự khả hữu của một kinh nghiệm như thế. Họ giống như Diễn Nhã Đạt Đa khi nàng không biết mình có đầu như thế. Dĩ nhiên, cái "đầu" này tương ứng với Phật tánh, với sự toàn hảo bên trong của chúng ta. Dù rằng mình có Phật tánh, đối với đa số con người chưa bao giờ biết chuyện ấy cho đến khi họ chợt nghe nói: "Tất cả chúng xưa nay vốn có Phật tánh". Bỗng nhiên họ kêu lên: "Thế thì tôi cũng có tánh Phật ư, nhưng nó ở đâu vậy?" Cũng giống như Diễn Nhã Đạt Đa lúc đầu bị mất đầu và bắt đầu chạy trốn, họ bắt đầu tìm kiếm Chân Tánh của mình.

Họ bắt đầu bằng cách lắng nghe nhiều bài thuyết pháp, mà chúng có vẻ trái nghịch và rối mù. Họ nghe nói rằng bản tánh của họ không khác với bản tánh của Phật, hơn nữa bản thể của vũ trụ cùng hiện hữu với tánh Phật của họ, song vì tâm họ bị mê hoặc che mờ nên họ thấy mình chạm trán với một thế giới của những thực thể riêng rẽ. Một khi tạo được niềm tin vững chắc vào thực tính của tánh Phật, họ được thúc giục khám phá nó với toàn bộ sức lực của con người họ. Giống như Diễn Nhã Đạt Đa chưa bao giờ không có đầu, chúng ta cũng chưa bao giờ tách rời khỏi tánh Phật của mình dù chúng ta ngộ hay không. Nhưng chúng ta không biết điều ấy. Chúng ta giống như Diễn Nhã Đạt Đa khi nàng được các bạn bảo rằng: "Đừng phi lý, cô luôn luôn có đầu, nghĩ khác là lầm đấy!"

Có thể so sánh sự khám phá ra Chân Tánh của chúng ta với sự khám phá ra đầu của Diễn Nhã Đạt Đa. Nhưng chúng ta khám phá ra được cái gì? Chỉ là cái mà chúng ta không bao giờ không có nó. Song chúng ta rất hân hoan, y như Diễn Nhã Đạt Đa tìm ra được đầu. Khi trạng thái xuất thần lui đi, chúng ta nhận ra rằng mình không có được cái gì phi thường cả, chắc chắn không có gì đặc biệt hết. Bấy giờ chỉ có mọi vật hoàn toàn tự nhiên.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 9. NHÂN VÀ QUẢ LÀ MỘT


Quý vị không hy vọng gì hiểu được bản chất cao quí của Thiền mà không hiểu bài nói về nhân quả nhất như (Inga ichinyo) này, nghĩa là nhân và quả như là một. Câu nói này phát xuất từ bài "Bài Ca Tọa Thiền" (Zazen Wasan) của Thiền sư Bạch Ẩn (Hakuin). Hãy nhớ rằng bài nói này không giải thích về nhân và quả theo nghĩa rộng mà chỉ nói đến khía cạnh liên quan đế thực hành tọa thiền.

Nói một cách nghiêm túc, quý vị không nên nghĩ về thời gian tọa thiền. Nói chung, thực ra nếu quý vị tọa thiền một năm, sẽ có kết quả tương ứng với một năm nỗ lực, và nếu tọa thiền mười năm sẽ có kết quả tương ứng với mười năm nỗ lực. Song các kết quả của tọa thiền liên quan đến ngộ không thể đo lường được bằng thời gian thực hành. Thực tế, có một số người đạt ngộ sâu chỉ sau vài năm thực hành, trong khi có những người thực hành đến mười năm vẫn không có chứng ngộ gì cả.

Ngay từ khi khởi đầu thực hành, một người tiến lên những giai đoạn khác nhau rõ rệt có thể xem như những bậc thang nhân quả. Nhân quả có nghĩa là nguyên nhân và kết quả ám chỉ cả về mức độ lẫn sự khác biệt, trong khi nhất như có nghĩa là như nhau hay giống nhau, như là một. Như thế, trong khi có nhiều giai đoạn tương ứng với thời gian thực hành ở mỗi giai đoạn trong các giai đoạn khác nhau này, bản thể của tâm giống như bản thể của một vị Phật. Do đó, chúng ta nói nhân và quả như là một. Tuy nhiên cho đến khi ngộ, quí vị không mong gì có được sự hiểu biết sâu xa hơn về nhân quả.

Bây giờ chúng ta hãy liên hệ điều này với ngụ ngôn Diễn Nhã Đạt Đa hôm trước. Thời gian nàng không thấy đầu phản chiếu trong gương và chạy quanh tìm nó như điên – đây là bậc đầu tiên hay bậc thấp nhất. Khi các bạn nàng buộc nàng vào cột và quả quyết rằng nàng có đầu, khi nàng bắt đầu nghĩ: "Có thể như thế", khi họ cốc mạnh vào đầu nàng và nàng kêu: "Ui cha!" và nhận ra rốt cuộc nàng có đầu, khi nàng vui sướng vì thấy có nó, cuối cùng khi niềm vui hạ xuống và cảm thấy sự có đầu này tự nhiên đến nỗi không còn nghĩ đến nó nữa – tất cả những lúc ấy là những bậc hay mức tiến hóa khác nhau - ấy là khi quay lại nhìn. Ở mỗi một giai đoạn này, nàng chưa bao giờ không có đầu, dĩ nhiên nàng chỉ nhận ra điều này sau khi đã tìm thấy nó.

Cũng thế, sau khi ngộ chúng ta nhận ra rằng ngay từ đầu mình chưa bao giờ không có tánh Phật. Cũng như vậy, Diễn Nhã Đạt Đa cần đi qua tất cả các giai đoạn ấy để nhận ra sự thật rằng lúc nào nàng cũng có đầu. Chúng ta cũng phải vượt qua các giai đoạn tọa thiền kế tiếp nhau để trực nhận ra Chân Tánh của mình. Các bước kế tiếp nhau có quan hệ với nhau về mặt nguyên nhân, nhưng sự thật chúng ta vốn là Phật, trong câu chuyện ngụ ngôn, đó là việc Diễn Nhã Đạt Đa nhận ra rằng nàng vốn luôn luôn có đầu – đây là cái như nhau, là cái không khác.

Trong Chánh Pháp Nhãn Tạng, Thiền sư Đạo Nguyên cũng nói: "Sự tọa thiền dù là của người mới tu, cũng thể hiện toàn thể bản tánh của mình". Ở đây Đạo Nguyên muốn nói rằng tọa thiền chân chính là thể hiện Phật tâm, cái Tâm tất cả chúng ta đã được phú cho. Tọa thiền này là Tối thượng thừa, trong đó Đạo của Phật tràn ngập toàn bộ con người quý vị và nhập vào toàn thể cuộc sống của quý vị. Mặc dù ban đầu chúng ta chưa biết trọn vẹn điều ấy, nhưng khi sự tu tập tiến bộ, chúng ta sẽ dần dần đạt được hiểu biết và nội kiến, và cuối cùng với ngộ, tỉnh thức với thực tế rằng tọa thiền là thể hiện tánh Phật thanh tịnh vốn có của mình, dù chúng ta có ngộ hay không.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 10. BA YẾU TỐ TU THIỀN


Những gì tôi sắp nói đặc biệt áp dụng cho Thiền Đại thừa, nhất là trực chỉ đến ngộ, nhưng nó cũng bao hàm cả tối thượng thừa, dù ở mức độ ít hơn.

Yếu tố đầu tiên trong ba yếu tố tu Thiền là Đại Tín Căn (Daishinkan) tức lòng tin mãnh liệt. Nó còn hơn là một niềm tin. Chữ "căn" có nghĩa là "rễ" và "tín" là "tin". Do đó, đại tín căn ám chỉ một niềm tin cắm rễ vững chắc, sâu xa, không lay chuyển, giống như cái cây khổng lồ hay tảng đá kết sù. Hơn nữa, nó còn là một niềm tin không hoen ố như tin vào năng lực siêu nhiên hay mê tín. Phật gáo thường được miêu tả như là tôn giáo của trí tuệ. Nhưng nó là một tôn giáo và cái gì tạo nó thành tôn giáo thì đó là yếu tố niềm tin, thiếu niềm tin thì nó chỉ là một triết lý. Phật giáo bắt đầu với sự giác ngộ vô thượng của đức Phật mà ngài đã đạt được sau khi nỗ lực kịch liệt. Vì vậy, niềm tin tối thượng của chúng ta là ở nơi sự chứng ngộ của Phật, bản chất của sự giác ngộ ấy ngài đã tuyên bố là bản tánh của con người, của toàn bộ cuộc tồn sinh. Nó vốn toàn hảo, không tỳ vết, vô biên – nói tóm, là hoàn toàn. Không có niềm tin không lay chuyển vào điều ấy – trái tim của Phật giáo – thì không thể tiến xa trong tu tập được.

Phẩm chất cần thiết thứ hai là Đại Nghi Đoàn (Daigidan) tức một tình cảm nghi ngờ mãnh liệt. Nên nhớ, nó không phải là cái "nghi" đơn giản, mà là một "khối nghi" – và đương nhiên nó phát xuất từ lòng tin mãnh liệt. Nó là cái nghi tại sao chúng ta và thế giới có vẻ quá bất toàn, quá đầy xao động, xung đột, và đau khổ, khi thực tế lòng tin sâu xa bảo chúng ta rằng chính cái nghịch lại mới đúng. Nó là cái nghi không để chúng ta an ổn. Mặc dù chúng ta hoàn toàn biết rõ mình là triệu phú song lại thấy thiếu thốn một cách khốc liệt, không thể giải thích được vì không một xu dính túi. Vì thế, cái nghi mãnh liệt hiện hữu tương ứng với niềm tin mãnh liệt.

Tôi có thể minh họa tâm thái này bằng một thí dụ đơn giản. Hãy lấy ví dụ, một người đang ngồi hút thuốc và bỗng thấy rằng cái ống điếu trong tay mình một phút trước đây mà giờ đã biến mất. Người ấy bắt đầu tìm kiếm với sự chắc chắn có thể tìm được.

Chỉ một phút trước đây nó còn đó, không ai ở gần cả, nó không thể biến mất được. Càng không tìm được, người ấy càng săn đuổi với sức lực và quyết tâm nhiều chừng ấy.

Từ tình cảm nghi ngờ này, yếu tố thứ ba, Đại Phấn Chí (daifunshi) tức quyết tâm mãnh liệt, xuất hiện một các tự nhiên. Nó là quyết tâm tràn ngập cố đánh tan khối nghi này bằng toàn bộ sức mạnh ý chí và năng lực của mình. Tin bằng mọi lỗ chân lông trên con người mình vào chân lý của lời Phật dạy rằng chúng ta đều được phú cho cái tâm Phật tinh khiết, chúng ta quyết khám phá và kinh nghiệm thực thể của tâm này của mình.

Hôm kia có người hiểu lầm hoàn toàn tâm thái mà ba yếu tố này đòi hỏi, đã hỏi tôi: "Tin rằng chúng ta là Phật thì có gì khác hơn là chấp nhận sự kiện thế giới này là toàn hảo, liễu thì xanh và cẩm chướng thì đỏ?" Cái lầm ở đây tự nó hiển nhiên. Nếu chúng ta không hỏi tại sao có tham lam và xung đột, tại sao người thường lại hành động giống Phật, thì trong chúng ta không có quyết tâm nào xuất hiện để giải quyết sự mâu thuẫn hiển nhiên giữa những gì chúng ta tin như là vấn đề của lòng tin và những gì xuất hiện trước mắt thì đúng chỉ là sự thể trái ngược, và như thế việc tọa thiền của chúng ta bị tước mất nguồn năng lực tiên khởi.

Bây giờ tôi sẽ liên hệ ba yếu tố này với Thiền Đại thừa và Tối thượng thừa. Trong khi cả ba đều có mặt trong Thiền đại thừa, khối nghi này là động cơ chính đưa đến ngộ vì nó không cho phép chúng yên ổn. Như thế chúng ta kinh nghiệm ngộ và giải quyết khối nghi này nhanh hơn với Thiền Đại thừa.

Mặt khác, trong Thiền tối thượng thừa, yếu tố tin mạnh nhất. Không có khối nghi thuộc loại nền tảng như tôi đã nói tấn công chúng ta, và như thế chúng ta không bị thúc giục loại bỏ nó, vì chúng ta ngồi trong niềm tin không lay chuyển rằng chúng ta vốn là Phật. Không giống như Thiền đại thừa, Thiền Tối thượng thừa mà quý vị nhớ là kiểu tọa thiền thuần khiết nhất, không dính dáng gì đến nỗ lực đầy xao xuyến vì ngộ. Nó là kiểu tọa thiền trong đó sự chín muồi xảy ra một cách tự nhiên, lên đến cực điểm trong giác ngộ. Đồng thời, Tối thượng thừa là hình thức tọa thiền khó nhất, đòi hỏi sự ngồi cương quyết nhất và thành khẩn nhất.

Tuy nhiên, cả ba yếu tố đều cần thiết trong cả hai kiểu tọa thiền và các Sư ngày xưa nói rằng chừng nào cả ba đồng thời còn có mặt thì chừng ấy đạt giác ngộ viên mãn còn dễ hơn bước lầm chân.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 11. NGUYỆN VỌNG


Ngay cả khi tất cả chúng ta cùng tọa thiền, nguyện vọng từng cá nhân cũng không đồng nhất. Các nguyện vọng ấy tự quyết định thành bốn nhóm hay bốn hạng chính.

Hạng đầu tiên và cạn nhất không dính dáng gì đến niềm tin vào Phật giáo Thiền, cũng như ngay cả một hiểu biết bất chợt về nó. Một người chỉ chợt nghe nói về nó và nhất định rằng mình thích ngồi với một nhóm tọa thiền hay một khóa nhiếp tâm. Song, trong hàng triệu người mê mờ hoàn toàn không biết gì về Phật giáo, một cá nhân riêng rẽ sẽ được dẫn đến dòng giáo lý đã 2500 năm vẫn nguyên vẹn, theo quan điểm Phật giáo, thì không phải là chuyện ngẫu nhiên mà là một nghiệp duyên và do đó có ý nghĩa rộng lớn về mặt tinh thần.

Hạng nguyện vọng thứ hai là hạng không đi sâu quá ước vọng tọa thiền chỉ để cải thiện sức khỏe thể xác hoặc tinh thần, hoặc cả hai. Hạng này, quí vị nhớ lại, rơi vào loại đầu của năm loại Thiền, tức là Thiền Phàm phu.

Ở hạng thứ ba, chúng ta thấy những người không những không còn thỏa mãn với việc gia tăng an lạc thể xác và tinh thần mà còn muốn đặt chân lên con đường của Phật. Họ thấy vũ trụ quan Phật giáo cao diệu làm sao, nó nhìn cuộc tồn sinh không bị giới hạn trong một kiếp nhân sinh mà nhìn suốt cuộc sống hết kiếp này đến kiếp khác nối tiếp nhau không dứt, với cái vòng định mệnh mà con người chỉ kết liễu được khi thành Phật. Hơn nữa, họ đã thiết lập được niềm tin vào thực thể của kinh nghiệm ngộ và quyết tâm đạt ngộ vẫn chưa được đánh thức, nhưng khát vọng theo đuổi con đường của Phật thì đã rõ ràng và chân thật.

Hạng thứ tư bao gồm những người quyết tâm nhận ra Chân Ngã của mình. Họ biết kinh nghiệm này là một thực thể sống động, vì họ đã gặp những người đã có kinh nghiệm ấy, và họ tin quyết rằng họ cũng có thể đạt được. Khi họ đến trước thầy mình, họ đến với cõi lòng mở rộng và khiêm tốn, sẵn sàng theo bất cứ phương pháp nào thầy họ chỉ định, biết chắc làm như vậy họ có thể thực hiện được mục tiêu của mình trong thời gian ngắn nhất.

Bây giờ tôi tóm tắt nhanh bốn hạng nguyện vọng này: Những người không có niềm tin nơi Thiền, đến với Thiền qua nghiệp duyên may mắn; những người thực hành tọa thiền chỉ vì ước vọng trợ giúp sức khỏe thể xác hoặc tinh thần, hoặc cả hai; những người tu tập Thiền vì tin vào bản chất cao diệu của giáo lý Phật giáo; và những người có quyết tâm mãnh liệt để trở thành giác ngộ.

Từ giờ trở đi, quý vị sẽ đến trước tôi từng người một và tôi sẽ hỏi quý vị thấy nguyện vọng của mình thuộc nhóm nào, nghĩa là quý vị rơi vào hạng nào trong bốn hạng ấy. Hãy nói các cảm nghĩ của mình một cách chân thật. Đừng vì tự kiêu mà thêm thắt vào, cũng đừng vì khiêm tốn giả tạo mà cắt giảm bớt đi. Tùy theo những gì quý vị nói, tôi sẽ chỉ định cho quí vị phương pháp tọa thiền nào thích hợp nhất cho từng vị.

Không có phương pháp thực hành nào cố định áp dụng cho mọi người. Nói chung, một người tự đặt mình vào hạng thứ nhất sẽ được chỉ định cho phương pháp đếm hơi thở, một người thuộc hạng thứ hai sẽ theo dõi hơi thở, một người thuộc phạm trù thứ ba thì chỉ quán đả tọa, thuộc hạng thứ tư thì một công án, thường là công án "KHÔNG".

Có những học viên đến trước tôi từng cá nhân lần đầu tiên, họ đưa ra những câu trả lời hoàn toàn có tính cách tò mò. Vài người nói: "Tôi nghĩ tôi thuộc vào giữa hạng thứ nhất và hạng thứ nhì". Vài người khác bảo: "Tôi có cái dạ dày xấu kinh niên, thầy có vui lòng chỉ cho tôi loại tọa thiền nào giúp tôi trong tình trạng này không?" Hoặc đôi khi có người nói: "Tôi hơi điên điên, loại tọa thiền nào giúp được tình trạng này?"

Tùy theo loại người và sức mạnh của quyết tâm, tôi sẽ chỉ định cái mà tôi tin là phương pháp thực hành thích hợp với người ấy. Với một cá nhân lãnh đạm thì thường được thúc giục bằng kích trượng là thích đáng. Trong khi một người hơi nóng tính hoặc nhạy cảm có thể tọa thiền tốt hơn nếu không có kích trượng. Chỉ khi nào quí vị thành thực đánh giá đúng mức cảm nghĩ của mình thì tôi có thể chọn cho quí vị phương pháp thực hành hiệu quả nhất.

Hình ảnh


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

BÀI THUYẾT PHÁP VỀ CÔNG ÁN "KHÔNG"


Hôm nay tôi sẽ bàn về trường hợp đầu của Vô Môn Quan, nhan đề: "Con chó của Triệu Châu". Tôi sẽ đọc chính công án, rồi đến lời bình của Vô Môn.

Công án:

Một ông tăng hết sức trang nghiêm hỏi Triệu Châu: "Con chó có Phật tánh hay không?" Triệu Châu đáp: "KHÔNG".

  • LỜI BÌNH CỦA VÔ MÔN:
Trong thực hành Thiền, phải lọt qua cái ải(*) do các Tổ dựng lên. Để nhận ra điều kỳ diệu này gọi là ngộ, phải nhìn thấy cái nguồn sinh ra tư niệm của mình, theo đó mà diệt chúng. Nếu không thể vượt qua được ải ấy, tức là sự tận diệt sự xuất hiện các tư niệm, sẽ giống như bóng ma bóng quế bám trên đầu cây ngọn cỏ.

Thế thì cái ải do các Tổ dựng lên là gì? Ấy là "KHÔNG", một cái ải của lời dạy tối thượng. Rốt ráo, nó là cái ải không phải ải. Kẻ nào lọt qua được thì không những chỉ gặp Triệu Châu đối mặt mà còn tay trong tay cùng bước với chư Tổ. Quả thật, người ấy có thể đứng mày đối mày, nghe cùng lỗ tai, thấy cùng con mắt.

Kỳ diệu thay! Ai không muốn lọt qua ải ấy? Vì nó, phải tập trung ngày đêm, tự hỏi bằng từng cái trong 360 cái xương và 84 ngàn lỗ chân lông. Đừng biện giải "KHÔNG" là không có gì hết, cũng đừng suy nghĩ nó bằng các hạn từ hiện hữu hay không hiện hữu. Như nuốt hòn sắt nóng đỏ mà không thể khạc ra được dù đã cố hết sức. Khi đã tiêu giải tất cả mê hoặc và chín muồi trong thanh tịnh, sau nhiều năm để trong và ngoài như một, thì sẽ hoàn toàn đạt tâm thái ấy, song giống như người câm nằm mộng (không thể nói được mình mộng cái gì). Một khi hốt nhiên ngộ được, sẽ kinh thiên động địa. Tựa như đoạt được thanh long đao của Quan tướng quân, có thể gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ. Thoát vòng sanh tử, dạo chơi trong sáu nẻo luân hồi và bốn đường tái sinh trong niềm vui chánh định vô tư".

Thế thì tập trung vào KHÔNG như thế nào? Hãy vận dụng toàn tâm lực vào sùng mộ nó. Nếu cứ tiếp tục như thế không gián đoạn thì tâm giống như ánh chớp lóe lên trong bóng tối, bỗng nhiên trở nên sáng ngời. Kỳ diệu thực!

Kệ của Vô Môn:

  • Con chó, Phật tánh!
    Toàn thể, tuyệt lệnh
    Một niệm "có", "không"
    Thân mạng chẳng còn.
Nhân vật chính của công án này là Triệu Châu, một Thiền sư lừng danh Trung quốc. Tôi nghĩ tốt hơn nên gọi sư là Tổ Triệu Châu. Tôi nghĩ rằng bài nói pháp của tôi hôm nay sẽ dài, tôi sẽ bỏ qua không nói với quý vị các sự kiện về cuộc đời Triệu Châu. Nói như thế này cũng đủ, như tất cả quý vị đều biết, sư là ông Tổ vĩ đại của Thiền. Trong khi có nhiều công án tập trung quanh sư, chắc chắn đây là đây là công án được biết đến nhiều nhất. Sư Vô Môn hăng hái tham công án này đến sáu năm và cuối cùng đã chứng ngộ tự tánh. Hiển nhiên nó đã tạo ấn tượng sâu sắc nơi sư, vì sư đã đặt nó ở đầu tập sách bốn mươi tám công án của mình. Thực ra không có lý do đặc biệt nào tại sao phải đặt công án này ở vị trí đầu tiên – người ta có thể đặt bất cứ công án nào khác ở đầu cũng được – nhưng tình cảm của Vô Môn dành cho nó rất thân thiết đến nỗi sư đặt nó ngay ở đầu sách một cách tự nhiên.

Dòng đầu tiên viết: "Một ông tăng hết sức trang nghiêm hỏi Triệu Châu...". Nghĩa là câu hỏi của ông tăng không phải vu vơ, cũng không nhảm nhí mà có sự quan tâm sâu xa.

Phần kế: "Con chó có Phật tánh hay không? dựng câu hỏi: "Phật tánh là gì?" Một câu rất nổi tiếng trong kinh Niết Bàn nói rằng: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh". Thành ngữ "Tất cả chúng sinh" nghĩa là toàn bộ cuộc tồn sinh. Không phải chỉ có con người, mà loài vật ngay cả cây cỏ cũng là chúng sanh. Vì thế, con chó, con khỉ, con chuồn chuồn, con sâu đều có Phật tánh, theo kinh Niết Bàn. Tuy nhiên, theo văn mạch của công án này, quý vị có thể xem hạn từ ấy chỉ nói đến động vật.

Thế thì Phật tánh là gì? Một cách vắn tắt, bản tánh của vạn vật là như thế và nó có thể thành Phật. Bây giờ, một vài người trong quý vị nghĩ rằng có một cái gì đó gọi là Phật tánh ấy ẩn nấp bên trong chúng ta, có thể hỏi về chỗ của cái Phật tánh này. Quý vị có thể cân nhắc nó với lương tâm, cái mà mọi người, ngay cả kẻ ác, đều tự cho là mình có. Quý vị sẽ không bao giờ hiểu được thực thể của Phật tánh cho đến khi nào quý vị còn chấp chứa một cái nhìn bề ngoài như thế. Thiền sư Đạo Nguyên giải thích câu kinh Niết Bàn này có nghĩa là cái gì vốn có đối với tất cả chúng sinh là Phật tánh, và không có nghĩa rằng tất cả chúng sinh có một cái gì đó gọi là Phật tánh. Như thế, theo cách nhìn của Đạo Nguyên, chỉ có Phật tánh, không có gì khác.

Trong Phật giáo, "Phật tánh" là một từ thân mật và "Pháp tánh" là một từ không ngôi vị. Nhưng nếu chúng ta nói Phật tánh hay Pháp tánh, bản chất cũng như nhau. Một người trở thành giác ngộ đối với Pháp là một vị Phật, vì thế Phật xuất hiện từ Pháp. Kinh Kim Cương nói rằng tất cả chư Phật và sự giác ngộ của các Ngài đều xuất hiện từ Pháp. Do đó, Pháp là mẹ của Phật. Thực ra chẳng có mẹ cũng chẳng có con, như tôi đã nói, dù nói Phật hay nói Pháp thì cũng như nhau.

Pháp của Pháp tánh là gì? Pháp có nghĩa là hiện tượng. Những gì chúng ta gọi là hiện tượng – là những cái hiển nhiên đối với các giác quan – trong Phật giáo gọi là pháp (Dharmas). Chữ hiện tượng, vì nó chỉ lên hệ đến các khía cạnh có thể quan sát, không ám chỉ cái mà nó làm cho chúng hiển hiện, có một nội dung giới hạn. Các hiện tượng này gọi là Pháp, chỉ vì chúng xuất hiện không do ngẫu nhiên cũng không do ý muốn của một tác nhân đặc biệt giám thị vũ trụ. Tất cả mọi hiện tượng đều là kết quả sự vận hành của luật nhân quả. Chúng xuất hiện khi các nhân duyên tác động hội đủ.

Khi một trong các nhân hay duyên trở nên thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Khi sự kết hợp của các nhân và duyên hoàn toàn phân tán thì hình thể cũng biến mất theo. Toàn bộ cuộc tồn sinh là biểu hiện của luật nhân quả, tất cả mọi hiện tượng đều là Luật này, Pháp này. Bây giờ, vì có nhiều cách thức hiện hữu vì thế cũng có nhiều pháp tương ứng với các hiện hữu này. Bản thể của các pháp khác nhau này chúng ta gọi là Pháp tánh. Hoặc chúng ta nói Pháp tánh hoặc chúng ta dùng một hạn từ có tính cách ngôi vị hơn Phật tánh, các từ ngữ này cùng chỉ một thực tại duy nhất. Nói cách khác, tất cả mọi hiện tượng đều là hóa thân của Phật - hay Pháp tánh. Mọi sự vật theo bản tánh của chúng, tùy thuộc vào quá trình biến hóa vô tận – đây là Phật – hay Pháp tánh.

Bản thể của Phật – hay Pháp tánh này là gì? Trong Phật giáo gọi nó là KHÔNG (Shunyata). Bây giờ, KHÔNG không phải chỉ là cái trống rỗng, nó là cái gì sinh động, năng động, không có hình khối, không cố định, ở bên kia cá thể tính hay nhân cách tính – là cái bao bọc mọi hiện tượng. Ở đây, chúng ta có nguyên lý nền tảng hay giáo lý hay triết lý Phật giáo.

Đối với Phật Thích Ca Mâu Ni, đây không phải chỉ là lý thuyết mà còn là chân lý mà Ngài đã trực ngộ. Với sự chứng ngộ mà nó là suối nguồn của toàn bộ giáo lý Phật giáo, quÝ vị sẽ lĩnh hội thế giới KHÔNG này. Thế giới này – không cố định, không hình khối, siêu việt cá thể tính hay nhân cách tính - ở ngoài tầm mức của trí tưởng tượng. Do đó, bản thể chân thực của sự vật, tức Phật hay Pháp tánh, thì không thể suy nghĩ hay tìm hiểu được. Vì cái gì có thể tưởng tượng được đều mang hình thể hoặc màu sắc, bất cứ điều gì người ta tưởng tượng về Phật tánh đều không thực. Thực ra, cái gì người ta suy nghĩ, tưởng tượng chỉ là hình ảnh về Phật tánh, không phải chính Phật tánh. Nhưng trong khi Phật tánh ở bên kia mọi suy tưởng, bởi vì chúng ta vốn là Phật tánh, chúng ta có thể giác ngộ được nó. Tuy nhiên, chỉ qua chứng ngộ chúng ta mới có thể khẳng định được điều ấy trong Tâm. Vì thế, giác ngộ là tất cả.

Một khi nhận ra thế giới KHÔNG, quý vị sẽ sẵn sàng hiểu bản tánh của thế giới hiện tượng và thôi bám vào nó. Những gì chúng ta thấy là hư vọng, không có bản chất, giống như các trò hề của những hình nộm trong phim. Quý vị sợ chết ư? Không cần phải sợ. Hoặc quý vị bị giết hoặc chết một cách tự nhiên, cái chết không có thực chất nào khác hơn thực chất của các hình nộm ấy. Hoặc nói cách khác, nó không có gì thực hơn dùng dao chém không khí hoặc sự nổ vỡ của bong bóng, chúng sẽ tái hiện dù vẫn thường vỡ tan như vậy.

Một khi nhận rõ thế giới của Phật tánh, chúng cũng sẽ thản nhiên với cái chết, vì biết rằng mình sẽ tái sinh qua sự giao hợp của một người cha và một người mẹ nào đó. Chúng ta sẽ tái sinh khi các quan hệ của nghiệp bắt chúng ta phải tái sinh. Chúng ta sẽ chết khi các quan hệ của nghiệp đưa chúng ta đến cái chết. Chúng ta là hóa thân của các quan hệ của nghiệp và khi chúng biến đổi chúng ta cũng biến đổi theo. Cái chúng ta gọi là cuộc đời không gì khác hơn là một quá trình của những thay đổi như thế. Nếu chúng ta không thay đổi, chúng ta sẽ không sống. Chúng ta trưởng thành và già cỗi vì chúng ta sống. Bằng chứng chúng ta sống là sự kiện chúng ta chết. Chúng ta chết vì chúng ta sống. Sống có nghĩa là sinh và tử. Sáng tạo và hủy diệt có nghĩa là sống.

Khi thực hiểu nguyên lý nền tảng này, quý vị sẽ không lo âu về sự sống và cái chết của mình. Rồi quý vị sẽ có được tâm vững chắn và hạnh phúc trong cuộc đời. Dù cho trời đất có bị đảo ngược, quý vị cũng không sợ hãi. Và dù cho bom nguyên tử hay bom khinh khí nổ nữa, quý vị cũng sẽ không chao động vì sợ hãi. Bao lâu quý vị còn trở thành một với trái bom, thì có gì phải sợ? "Không thể được", quý vị sẽ nói. Nhưng dù muốn dù không, quý vị cũng bắt buộc phải trở thành một với nó, phải không? Vả lại, nếu quý vị bị bắt đem đi tế sinh, đương nhiên quý vị sẽ bị thiêu sống. Vì thế, hãy trở thành một với ngọn lửa khi không có cơ hội nào để thoát thân! Nếu quý vị rơi vào nghèo túng, hãy sống như thế không phàn nàn, bấy giờ sự nghèo túng sẽ không còn là gánh nặng nữa. Trái lại, nếu quý vị giàu có, hãy sống với sự giàu có của mình. Tóm lại, Phật tánh có tính chất thích ứng vô cùng.

Hãy trở lại với công án, chúng phải tiến gần đến câu hỏi: "Con chó có Phật tánh hay không?" với sự cảnh giác, vì chúng ta không biết ông tăng ấy ngu thật hay chỉ giả vờ để thử Triệu Châu. Nếu Triệu Châu trả lời, "CÓ" hoặc "KHÔNG CÓ" thì sư sẽ bị hạ ngay.

Quý vị có thể hiểu tại sao không? Bởi điều quan hệ không phải là vấn đề "có" hoặc "không có". Mọi sự vật đều là Phật tánh thì trả lời thế nào cũng sẽ phi lý. Nhưng đây là "Pháp chiến", Triệu Châu phải đỡ quả đấm. Sư đã đỡ bằng cách đáp sắc bén "KHÔNG". Cuộc đối thoại chấm dứt tại đây.

Trong các bản khác của công án này, ông tăng hỏi tiếp: "Tại sao con chó không có Phật tánh trong khi kinh Niết Bàn nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh?" Triệu Châu gạt phăng: "Nó có nghiệp riêng!" Những gì Triệu Châu muốn nói là Phật tánh của con chó thì không gì khác hơn là nghiệp của nó. Các hành động được thực hiện với tâm mê hoặc sẽ sản sinh ra kết quả đau đớn. Đây là nghiệp (Karma). Nói rõ hơn, con chó là con chó như là kết quả nghiệp quá khứ của nó qui định nó thành con chó. Đây là sự vận hành của Phật tánh. Vì thế, đừng bảo, dường như có một cái gì đó đặc biệt được gọi là Phật tánh. Đây là ẩn ý trong tiếng KHÔNG của Triệu Châu. Thế thì rõ ràng "KHÔNG" không dính dáng gì đến sự hiện hữu hay không hiện hữu của Phật tánh. Tiếng đáp "KHÔNG" phơi bày và đồng thời ném Phật tánh ra trước mặt chúng ta. Bây giờ, trong khi quý vị có thể không hiểu được trọn vẹn những gì tôi đang nói thì cũng không bước lạc đường nếu quý vị biện giải Phật tánh theo cách này.

Trí năng không thể hiểu được Phật tánh. Để trực tiếp lãnh hội nó, quý vị phải tìm tâm mình với lòng sùng mộ tột cùng, cho đến khi nào quý vị tin tuyệt đối vào sự hiện hữu của nó, vì rốt ráo, chính quý vị là Phật tánh này. Trước tôi đã nói rằng Phật tánh là Không – không ngôi vị, không hình khối, không cố định và có thể biến hóa vô cùng – tôi chỉ cống hiến một bức chân dung về nó mà thôi. Có thể nghĩ về Phật tánh theo các hạn từ đó, nhưng quý vị phải hiểu rằng bất cứ điều gì quý vị suy nghĩ, tưởng tượng nhất thiết đều không thực. Vì thế không có cách nào khác hơn là kinh nghiệm chân lý trong tâm mình. Đây là cách Vô Môn với lòng tốt vô lượng đã chỉ cho.

Bây giờ chúng ta hãy xét đến lời bình của Vô Môn. Ông bắt đầu bằng cách nói: "Tu Thiền...". Tọa thiền, độc tham, nghe thuyết pháp – tất cả những cái này gọi là thực hành Thiền. Chú tâm vào các chi tiết trong cuộc sống hàng ngày của mình cũng là tu Thiền. Khi cuộc sống của mình và Thiền là một là quý vị đang sống Thiền thực sự. Trừ phi nó hợp với các hoạt động thường ngày của mình thì Thiền chỉ là một món trang sức. Quý vị phải thận trọng, không nên khoa trương Thiền mà chỉ lặng lẽ hòa lẫn nó vào cuộc sống của mình. Một thí dụ cụ thể về sự chú ý, khi quý vị bỏ đôi guốc lại ở hàng ba hay đôi dép lại ở nhà tắm, quý vị phải cẩn thận xếp chúng lại đúng vị trí để người kế có thể dùng được ngay cả trong đêm tối. Sự chú ý như thế là một biểu hiện thực tế của Thiền. Nếu quí vị đặt guốc hay dép một cách lơ đãng là quý vị đang thiếu chú tâm. Khi đi quý vị phải bước cẩn thận để không bị trượt té hay vấp ngã. Chớ trở nên sơ hở.

Nhưng tôi lạc đề rồi. Hãy tiếp tục: "... phải lọt qua cái ải do các Tổ dựng lên". "KHÔNG" đúng là cái ải như thế. Ngay từ đầu tôi đã nêu rõ: chẳng có ải nào cả. Mọi sự vật đều là Phật tánh, không có cổng nào để vào hay ra cả? Nhưng để thức tỉnh chúng ta biết sự thật rằng mọi sự vật đều là Phật tánh, các Tổ miễn cưỡng dựng lên các ải và thúc giục chúng ta vượt qua. Các Tổ kết tội sự thực hành không đúng và phản đối những câu trả lời không đủ của chúng ta. Khi quí vị phát triển đều đặn trong chân thành, một ngày nào đó, quí vị sẽ hốt nhiên tự ngộ. Khi sự kiện này xảy ra, quý vị có thể vượt qua ải một cách dễ dàng. Vô Môn Quan là một tập sách chứa bốn mươi tám cái ải như thế.

Dòng kế tiếp bắt đầu: "Để nhận ra điều kỳ diệu này gọi là ngộ...". Hãy xét chữ "kỳ diệu", bởi vì ngộ không thể giải thích được, không thể suy nghĩ được, nên nó được miêu tả là "kỳ diệu...". "Nhưng phải cái nguồn phát sinh tư niệm của mình, theo đó mà diệt chúng!". Câu này có nghĩa là tiến gần Thiền bằng cái nhìn giả sử hay lý luận là vô ích. Quý vị không bao giờ đi đến ngộ được qua suy luận, nhận thức hay khái niệm hóa. Hãy thôi bám vào tất cả mọi hình thức tư niệm! Tôi nhấn mạnh điểm này, vì nó là tâm điểm của thực hành Thiền. Và đặc biệt đừng nhầm lẫn mà suy nghĩ rằng ngộ phải thế này hay thế kia. "Nếu không thể vượt qua ải ấy, không diệt được sự xuất hiện của các tư niệm, thì cũng giống như hồn ma bám nhờ trên đầu cây ngọn cỏ". Hồn ma bóng quế không xuất hiện công khai giữa ban ngày mà chỉ lén lút hiện ra theo bóng tối, người ta nói thế, bám vào đất hay dương liễu. Chúng tùy thuộc vào các vật phụ trợ này để hiện hữu. Trong ý nghĩa nào đó, con người cũng là những hồn ma bóng quế, vì đa số chúng ta không thể vận hành độc lập với tiền, thế đứng xã hội, danh vọng, bạn bè, uy quyền, hoặc những thứ khác mà chúng ta cảm thấy cần đồng hóa mình với một tổ chức hay một ý thức hệ. Nếu quý vị muốn làm một con người đáng quí thực sự và không phải là một bóng ma, quý vị phải có khả năng tự mình đứng thẳng, không tùy thuộc vào cái gì hết. Khi quý vị còn chấp chứa những tư tưởng triết học hoặc niềm tin tôn giáo, hoặc các quan niệm hay lý thuyết thuộc loại này hay loại khác, thì quý vị cũng vẫn là hồn ma bóng quế, dĩ nhiên, vì quý vị trở thành bị trói buộc vào chúng. Chỉ khi nào tâmquý vị trống rỗng những cái trừu tượng như thế, quý vị mới thực sự tự do và độc lập.

Hai câu kế tiếp viết: "Thế thì cái ải do các Tổ dựng lên là cái gì? Ấy là "KHÔNG", một cái ải của lời dạy tối thượng". Lời dạy tối thượng không phải là một hệ thống luân lý mà là cái gì nằm tại gốc rễ của mọi hệ thống như thế, nghĩa là Thiền. Chỉ cái gì có tánh thanh tịnh không bị pha trộn, hoàn toàn thoát khỏi những mê tín hay siêu nhiên mới có thể gọi là căn cội của mọi lời dạy, và vì thế nó là tối thượng. Trong Phật giáo, Thiền là giáo lý duy nhất không nhuốm màu các yếu tố siêu nhiên ở mức độ này hay mức độ khác – như vậy chỉ có Thiền được gọi là giáo lý tối thượng và "KHÔNG" là một cửa ải của giáo lý tối thượng này. Quý vị có thể hiểu "một cửa ải" có nghĩa là cửa ải duy nhất hay là một trong nhiều cửa ải. Rốt ráo, không có cửa ải nào cả.

"Kẻ nào đã lọt qua ải ấy không những chỉ thấy Triệu Châu mặt đối mặt...". Vì chúng ta đang sống trong một thời đại khác, dĩ nhiên chúng ta không thể thấy thực tế Triệu Châu bằng xương bằng thịt được. "Gặp Triệu Châu mặt đối mặt" nghĩa là hiểu Tâm mình. "... mà còn có thể tay trong tay cùng bước với tất cả chư Tổ". Chư Tổ bắt đầu với Ma Ha Ca Diếp, người thừa kế Phật, xuống đến Bồ Đề Đạt Ma, Tổ thứ hai mươi tám, và tiếp tục đến hiện tại. "... mày đối mày..." là một hình ảnh ngôn ngữ hàm ý rất thân mật. "... nghe cùng lỗ tai, thấy cùng con mắt", ám chỉ khả năng nhìn thấy sự vật theo cùng quan điểm như Phật và Bồ Đề Đạt Ma. Dĩ nhiên nó ám chỉ rằng chúng ta lĩnh hội rõ ràng thế giới giác ngộ.

"Kỳ diệu thay! Quả thật kỳ diệu!" Chỉ những ai nhận ra sự quí giá của Phật, Pháp, và chư Tổ là có thể thưởng thức một câu cảm thán như thế. Những ai không để ý gì đến Phật và Pháp cũng có thể cảm thấy cái gì đó rất lạ lùng, nhưng vô ích.

"Ai không muốn lọt qua ải này?" Câu này nhằm khuyến dụ quý vị tìm chân lý bên trong chính mình. "Vì nó, phải tập trung ngày đêm, tự hỏi về KHÔNG bằng từng cái trong 360 cái xương và 84 ngàn lỗ chân lông". Những hình ảnh này phản ảnh cách suy nghĩ của người xưa, họ tin rằng thân thể con người được cấu tạo theo kiểu này. Dù sao, những gì ý ở đây muốn nói đến là toàn bộ con người quý vị. Hãy để cho toàn bộ con người của quý vị trở thành một khối nghi và vấn. Hãy tập trung, hãy thâm nhập trọn vẹn vào KHÔNG. Thâm nhập vào KHÔNG có nghĩa là đạt sự hợp nhất tuyệt đối với nó. Làm sao có thể đạt được sự hợp nhất này? Bằng cách liên tục bám chặt KHÔNG suốt ngày đêm!

Đừng tách rời nó bất kỳ hoàn cảnh nào! Hãy liên tục chú tâm vào nó. "Đừng biện giải KHÔNG là không có gì hết, cũng đừng suy nghĩ về nó bằng các hạn từ hiện hữu hay không hiện hữu". Nói cách khác, quí vị không nên nghĩ về KHÔNG như là một vấn đề liên quan đến Phật tánh hiện hữu hay không hiện hữu. Thế thì quý vị phải làm gì? Hãy ngừng suy lý và hãy tập trung trọn vẹn vào KHÔNG - chỉ KHÔNG thôi.

Đừng vẩn vơ, hãy thực hành với từng chút sức. "Tựa như nuốt hòn sắt nóng đỏ...". Dĩ nhiên nói nuốt hòn sắt nóng đỏ, là nói quá, tuy nhiên chúng ta cũng thường vô ý nuốt phải cái bánh bột gạo nóng, nghẹn ở cổ, gây sự khó chịu đáng kể. Một khi nuốt KHÔNG, quý vị cũng cảm thấy khó chịu kịch liệt, và cố gắng khạc nó ra một cách tuyệt vọng. "... mà không thể khạc ra được dù đã cố hết sức", đoạn này miêu tả những người tham công án này. Bởi vì tự ngộ là một viễn ảnh rất hấp dẫn, họ không thể từ bỏ được, mà họ cũng chưa nắm được ý nghĩa của KHÔNG. Vì thế không còn cách nào khác cho họ, trừ cách tập trung vào KHÔNG cho đến khi họ "trở nên xanh mặt".

Cách ví von với hòn sắt nóng thực đáng thích thú. Quý vị phải nung tan các mê hoặc của mình với hòn sắt KHÔNG đỏ rực mắc ở cổ họng quí vị. Các quan niệm mà quý vị theo và kiến thức thế gian của mình đều là mê hoặc. Kể cả các tư tưởng triết học và luân lý, dù cho cao siêu đến đâu, cũng như các tín ngưỡng tôn giáo và các giáo điều, ấy là chưa kể các ý nghĩ ngây ngô, tầm thường. Tóm lại, mọi ý niệm suy tư đều bao gồm trong hạn từ "mê hoặc" và như thế chúng cũng là chướng ngại cho sự chứng ngộ bản tánh của mình. Vì thế hãy đốt tan chúng bằng hòn lửa KHÔNG.

Quý vị không nên thực hành một cách bất thường. Quý vị sẽ không bao giờ thành công nếu quý vị chỉ tọa thiền khi hứng và rồi bỏ dễ dàng. Quý vị phải thực hành một cách đều đặn trong một, hai, ba hay ngay cả đến năm năm mà không chểnh mảng và luôn cẩn trọng. Như thế quý vị sẽ dần dần thành đạt trong thanh tịnh. Thoạt đầu quý vị không thể toàn tâm gieo mình vào KHÔNG. Nó sẽ chạy trốn một cách nhanh chóng vì tâm quý vị sẽ bắt đầu lang thang đây đó. Quý vị sẽ phải tập trung một cách cực nhọc hơn, chỉ "KHÔNG! KHÔNG! KHÔNG!" Nó sẽ lại lẫn trốn quí vị. Mỗi lần quí vị cố gắng tập trung nhiều hơn là mỗi lần thất bại. Đây là cái kiểu thông thông thường trong các giai đoạn đầu của thực hành. Ngay cả khi KHÔNG không còn lẫn trốn nữa, sự tập trung của quý vị cũng trở nên bị phân chia vì có nhiều sự cưỡng bức tâm khác nhau . Những sự cưỡng bức này sẽ biến mất theo thời gian, song vì chưa hợp nhất với KHÔNG nên quý vị còn xa sự chín muồi. Hợp nhất tuyệt đối với KHÔNG, thấm nhập không suy nghĩ vào KHÔNG - đây là chín muồi. Khi đạt đến giai đoạn thanh tịnh, cả trong lẫn ngoài tự nhiên tan chảy hợp nhất. "Cả trong lẫn ngoài" có nhiều khía cạnh ý nghĩa. Có thể hiểu là chủ và khách hay tâm và thân. Khi quí vị thấm nhập trọn vẹn vào KHÔNG, ngoài và trong hòa tan thành một nhất thể duy nhất. Nhưng không thể nào nói về nó được, quí vị sẽ giống như "người câm nằm mộng". Người câm thì không thể nói gì về giấc mộng đêm qua của mình. Cũng giống như vậy, chính quý vị sẽ nếm mùi vị chánh định mà không thể nào nói cho người khác biết được.

Ở giai đoạn này, tự ngộ sẽ đột nhiên xảy ra nhanh như chớp. "Hốt nhiên đại ngộ" chỉ đòi hỏi một chớp nhoáng. Nó xảy ra giống như một vụ nổ. Khi nó xảy ra, quý vị sẽ kinh nghiệm rất nhiều! Sẽ "kinh hiên động địa". Mọi sự dường như thay đổi rất nhiều đến nỗi quý vị sẽ nghĩ là trời đất đảo lộn. Dĩ nhiên không có chuyện đảo lộn theo nghĩa đen. Với ngộ, quý vị sẽ thấy thế giới là Phật tánh, nhưng đây không có nghĩa là tất cả sẽ trở thành sáng chói như một vầng hào quang. Đúng hơn, mối sự vật sẽ y như nó đang là, mang một ý nghĩa hay giá trị hoàn toàn mới. Một cách kỳ diệu,mỗi sự vật thay đổi tận gốc mặc dù vẫn như chúng đang là.

Điều này thật đúng như Vô Môn miêu tả: "Tựa như đoạt được thanh long đao của Quan tướng quân". Quan tướng quân là một dũng tướng không thể đánh bại được với thanh long đao của ông. Vì thế Vô Môn bảo quý vị sẽ trở thành người dũng cảm nắm được thanh long đao của Quan tướng quân. Nói thế có nghĩa là đối với quý vị không gì không thể khắc phục được. Qua tự ngộ, người ta có được tự tin và phong thái hùng tráng trang nghiêm. Khi một người đến trước vị lão sư mà phong cách của người ấy hàm ý "Hãy thử đi bằng bất cứ cách nào tùy ý", như thế người ấy chắc chắn mình có thể "đánh" luôn cả thầy.

"... có thể gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ được...". Những người nhút nhát sẽ sững sốt khi nghe nói như thế và họ sẽ tuyên bố rằng Thiền là khí cụ của quỷ. Những người khác ít thận trọng hơn, song cũng không thể hiểu được tinh thần câu nói này, sẽ cảm thấy khó chịu. Chắc chắn Phật giáo khơi dậy trong chúng ta lòng kính trọng cực độ đối với tất cả chư Phật. Nhưng đồng thời nó cũng khuyên chúng ta phải tự giải thoát mình ra khỏi sự ràng buộc với họ. Khi chúng ta đã chứng ngộ được Tâm của Phật Thích Ca Mâu Ni và tu dưỡng các đạo hạnh vô song của Ngài, thì chúng ta đã nhận ra mục đích đích cao nhất của Phật giáo. Rồi chúng ta vĩnh biệt Ngài, chúng ta gánh vác việc truyền bá những lời dạy của Ngài. Tôi chưa bao giờ nghhe nói đến một thái độ như thế trong các tôn giáo dạy tín ngưỡng vào Thượng đế. Trong khi mục tiêu của người Phật tử là trở thành Phật, dù có thể là cùn nhụt, quí vị cũng có thể giết được Phật và chư Tổ. Những ai đã chứng ngộ đều có thể nói: "Nếu có Phật Thích Ca Mâu Ni và lão Bồ Đề Đạt Ma xuất hiện, tôi sẽ chém ngay, hỏi: Sao các ông lại đi ngã xiêu ngã tó như vậy? Các ông không còn cần thiết nữa!" Quyết tâm của quÝ vị sẽ là như thế.

"Thoát vòng sinh tử, có thể dạo chơi trong sáu nẻo luân hồi và bốn đường tái sinh trong ánh sáng chánh định vô tư". QuÝ vị sẽ đối mặt với cái chết và sự tái sinh mà không lo âu. Sáu nẻo là địa ngục (hung), quỉ đói (pretas), thú vật, quỉ hiếu chiến asuras), người và thần (devas). Bốn đường tái sinh là: sinh thai, sinh trứng, sinh nơi ẩm ướt, và sinh bằng cách biến hóa. Sinh ở cõi trời hay ở địa ngục vì không đòi hỏi tổ tiên có thân xác là sinh bằng hóa thân. Ai đã từng nghe nói về một vị thần phải chịu đau đớn khi sinh? Ở cõi trời hay địa ngục làm gì có cô mụ hay nữ hộ sinh?

Quý vị có thể được sinh ra ở bất cứ nơi nào và bằng bất cứ phương tiện nào, quý vị cũng có thể sống tự nhiên và vui vẻ, như trẻ thơ đang vui chơi. Đây là ý nghĩa của "niềm vui chánh định vô tư". Chánh định (samadhi) là sự thấm nhập hoàn toàn. Một khi đã ngộ, quý vị có thể xuống địa ngục sâu nhất hay lên cõi trời cao nhất với tự do và vui sướng.

"Thế thì tập trung vào KHÔNG như thế nào?" - Bằng tọa thiền. "Hãy tận tâm tận lực sùng mộ nó". Hãy kiên trì với tất cả sức lực của thể xác và tinh thần. "Nếu cứ tiếp tục như thế không gián đoạn..." Quý vị không nên bắt đầu rồi lại bỏ. Phải thực hiện đến cùng, giống như con gà mái ấp trứng cho đến khi nở con. Quý vị phải tập trung vào KHÔNG không lùi bước, quyết không bỏ dở cho đến khi kiến tánh. "... tâm giống như ánh chớp lóe lên trong bóng tối, bỗng nhiên trở nên sáng ngời. "Kỳ diệu thực!" Với ngộ, tâm thoát khỏi sự vô minh của nó trong quá khứ vô tận, sẽ sáng lên tức khắc. "Kỳ diệu thực!" thêm vào vì không có gì kỳ diệu hơn thế.

Dòng kệ đầu của Vô Môn viết: "Con chó, Phật tánh". Không cần chữ tánh, "Con chó Phật", chữ dư. "Con chó, Phật" cũng còn thừa. "Chó" đủ rồi. Hay chỉ "Phật" thôi. Khi nói chó là Phật là quí vị đã nói quá nhiều. "Chó!" Thế đủ rồi. Nó hoàn toàn là Phật.

"Toàn thể, tuyệt lệnh" ấy là mệnh lệnh chính truyền của Phật Thích Ca Mâu Ni - ấy là chánh pháp. Quý vị là Pháp này toàn hảo! Ấy là không miễn cưỡng - ấy là vén mở hoàn toàn.

"Một niệm có, không, Thân mạng chẳng còn", có nghĩa là gì? Một cách đơn giản, sự sống Phật quí giá của quý vị sẽ biến mất.

GHI CHÚ:

(*) Ở Trung Hoa ngày xưa, các cửa ải được dựng trên các con đường chính dẫn đến một thị trấn hay một thành phố, nơi ấy người ta phải qua sự kiểm soát trước khi được phép nhập vào thị trấn hay thành phố, có thể so sánh đại khái với các trạm quan thuế hay các trạm kiểm soát di trú ngày nay.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

BÀI THUYẾT PHÁP VỀ NHẤT TÂM CỦA BẠT TỤY(1)


Nếu muốn tự mình thoát khỏi những đau khổ trong sáu nẻo(2), phải biết con đường trực chỉ thành Phật. Con đường này không gì khác hơn là nhận ra Tâm mình. Bây giờ, Tâm này là cái gì? Nó là bản tánh chân thật của tất cả chúng sanh, nó hiện hữu trước khi cha mẹ ta sinh ra và vì thế trước khi ta sinh ra, và bây giờ nó đang hiện hữu, bất biến và thường hằng. Vì thế nó được gọi là Bộ mặt trước khi cha sinh mẹ đẻ. Tâm này vốn trong sạch. Khi ta sinh ra nó không phải mới tạo, và khi ta chết nó không biến mất. Nó không không biệt nam nữ, không nhuốm màu thiện ác. Không thể so sánh nó với bất cứ vật gì, vì thế nó được gọi là Phật tánh. Song vô số tư niệm phát xuất từ Tự tánh này giống như những làn sóng trên đại dương, hay các hình ảnh phản chiếu trong gương.

Nếu muốn nhận ra Tâm mình, trước hết phải nhìn vào cái nguồn phát tư niệm. Lúc ngủ cũng như lúc làm việc, lúc đứng cũng như lúc ngồi, hãy tự hỏi sâu xa, "Tâm mình là cái gì?" với khát vọng kịch liệt muốn giải quyết vấn đề. Đây gọi là "tu" hay "hành" hay "khát vọng chân lý" hay "khao khát giác ng". Những gì gọi là tọa thiền không gì khác hơn là nhìn vào tâm mình. Sùng mộ tìm kiếm tâm mình còn tốt hơn là hàng ngày đọc vô số kinh chú trong vô số năm. Những cố gắng có tính cách hình thức như thế có thể sản sinh ra một công đức nào đó, nhưng khi công đức này tiêu tán, lại phải trải qua những đau khổ của ba đường ác(3), bởi vì việc tìm kiếm tâm mình cuối cùng sẽ đưa đến giác ngộ, sự tu tập này là điều kiện tiên quyết để trở thành Phật. Dẫu có phạm mười điều xấu(4) hay măm tội chết(5), song nếu biết hồi tâm tự ngộ thì tức khắc là Phật. Nhưng đừng phạm các tội rồi mong được giác ngộ cứu vớt. Không Phật nào Tổ nào có thể cứu vớt được một người tự mê hoặc mình đi vào đường ác.

Hãy tưởng tượng một đứa bé nằm ngủ bên cạnh cha mẹ nó và mơ thấy mình bị đánh hay bị bịnh hoạn đau đớn. Cha mẹ không thể giúp gì được đứa con dù nó đau khổ đến đâu, vì không ai có thể đi vào tâm mơ của người khác. Nếu đứa con có thể tự thức giấc, nó có thể tự mình thoát khỏi đau khổ. Cũng vậy, một người nhận ra rằng Tâm mình là Phật, tức khắc tự thoát khỏi những đau khổ phát sinh từ sự biến dịch không ngừng trong sáu Nẻo. Nếu Phật có thể ngăn chận được thì ngài có để cho một chúng sinh nào rơi vào địa ngục không? Không Tự ngộ, người ta cũng không thể hiểu được những điều như thế này.

Loại chủ nào mà ngay bây giờ thấy màu sắc bằng mắt, nghe tiếng nói bằng tai, vẫy tay, múa chân? Chúng ta biết đây là những chức năng của tâm mình, nhưng không ai biết rõ chúng được thực hiện như thế nào. Có thể khẳng định rằng phía sau những hành động này không có một thực thể nào cả, song rõ ràng chúng được thực hiện một cách tức thời. Trái lại, có thể nói rằng đây là những động tác của một thực thể nào đó, song thực thể này không thể thấy được. Nếu người ta cho rằng vấn đề này không thể suy lường được, tất cả mọi cố gắng suy luận sẽ ngừng lại và người ta không biết sẽ phải làm gì. Trong tình trạng thuận lợi này, lòng khao khát ngày càng phát triển sâu hơn, sâu hơn không mệt mỏi, đến cực điểm. Khi sự hỏi thâm nhập sâu đến tận đáy, và cái đáy bị vỡ ra, không còn nghi ngờ nào, thì Tâm mình chính là Phật, là Không giới. Bấy giờ sẽ không còn lo âu về sinh tử, sẽ không còn chân lý nào để cầu tìm.

Trong mộng mình có thể bị lạc đường, mất lối trở về nhà. Hỏi ai chỉ cho lối về, hoặc cầu Thượng đế, cầu Phật phù hộ, nhưng vẫn không thể về nhà được. Song, một khi tự tỉnh khỏi mộng, sẽ thấy mình đang ở trên giường và sẽ nhận ra rằng con đường duy nhất có thể trở về nhà được là tự tỉnh. Đây gọi là "trở về nguồn" hay "tái sinh cõi trời". Nó là loại nội thức chỉ có thể đạt được qua tu luyện nào đó. Thực ra, tất cả những ai tọa thiền và nỗ lực thực hành, dù cư sĩ hay tăng nhân, đều có thể kinh nghiệm đến độ này. Song không thể nào đạt được dù chỉ là sự thức tỉnh như thế ngoại trừ bằng tọa thiền. Nhưng nếu cho rằng đây là chân ngộ mà không nghi ngờ gì về bản chất của thực tại ắt sẽ vấp phải sai lầm nghiêm trọng. Giống như kẻ tìm thấy đồng bèn bỏ ước mơ tìm thấy vàng.

Khi đã nhận ra như thế, hãy tự hỏi kịch liệt hơn nữa như vầy: "Thân này như bóng ma, như bọt nước; tâm này, nhìn vào tự thể, không hình dạng như hư không, song nơi nào đó bên trong lại nhận thức được âm thanh. Ai đang nghe?" Nếu cứ tự hỏi như thế với sự thấm nhập sâu xa, không lúc nào buông lơi nỗ lực kịch liệt của mình, thì tâm lý luận đương nhiên sẽ tự kiệt quệ và chỉ còn lại nghi vấn ở tần mức sâu nhất. Cuối cùng, sẽ mất ý thức về thân này. Những tư tưởng và khái niệm chấp trước lâu đời sẽ biến mất, sau khi sự tra vấn đã đến tuyệt đối, theo cách mọi giọt nước biến mất từ cái bình vỡ đáy, và giác ngộ viên mãn sẽ theo sau như hoa bỗng nở ra trên cây khô héo.

Nhận ra như thế là đạt chân giải thoát. Nhưng ngay cả lúc bấy giờ cũng phải vứt bỏ nhiều lần những gì đã nhận thức được, quay lưng lại với chủ thể nhận thức, tức là với căn để, và cương quyết tiếp tục, rồi tự tánh mình sẽ trở nên sáng hơn, trong suốt hơn, khi các vọng cảm biến mất, tựa như viên ngọc được sáng lại nhờ mài dũa nhiều lần, cho đến cuối cùng, nó sẽ tự chiếu sáng cả vũ trụ. Đừng nghi ngờ điều ấy! Nếu khát vọng quá yếu, không đưa được mình đến trạng thái ấy trong kiếp này, chắc chắn sẽ đạt tự ngộ đễ dàng trong kiếp tới, miễn là mình vẫn tra vấn như thế ngay cả trong lúc chết, như việc làm nửa chừng ngày hôm qua sẽ được hoàn thành dễ dàng vào hôm nay.

Trong lúc đang tọa thiền, đừng khinh khi cũng đừng ấp ủ các tư niệm xuất hiện, chỉ cần tìm tâm thôi vì nó chính là nguồn phát sinh các tư niệm này. Phải hiểu rằng bất cứ cái gì xuất hiện trong ý thức hay thấy dược bằng mắt đều chỉ là hư vọng, không có thực thể tồn tại. Vì thế, không nên luyến ái cũng không nên sợ hãi các hiện tượng như thế. Nếu giữ được tâm trống rỗng như hư không, không mang vết tích của những vấn đề bên ngoài, sẽ không có quỉ thần nào quấy rầy mình được, ngay cả lúc trên giường chết. Tuy nhiên, trong lúc tham thiền nhập định chớ có giữ những lời khuyên này trong tâm. Chỉ nên trở thành câu hỏi: "Tâm này là cái gì?" hoặc "Cái gì đang nghe âm thanh đây?" Khi nhận ra tâm này ắt sẽ biết rằng chính nó là nguồn của chư Phật và chúng sinh. Bồ tát Quan Âm được gọi như vậy vì ngài đã đạt được giác ngộ bằng cách nhận thức âm thanh của thế giới quanh người.

Lúc làm việc, lúc nghỉ ngơi đừng bao giờ ngừng cố gắng nhận thức ai đang nghe đây. Dù cho nghi vấn hầu như đã trở thành vô thức, cũng sẽ không tìm ra ai là người nghe, và tất cả mọi nỗ lực của mình sẽ trở thành con số không. Song âm thanh vẫn cứ được nghe, vì thế hãy tự hỏi đến tầng mức sâu hơn nữa, cuối cùng mọi vết tích của tự thức sẽ biến mất và sẽ cảm thấy mình như bầu trời không mây. Sẽ không tìm thấy trong mình cái "tôi" và sẽ không tìm ra ai nghe cả. Tâm này giống như hư không, song nó không có một điểm nhỏ nào có thể gọi là trống không cả. Trạng thái này thường bị lầm cho là tự ngộ. Nhưng hãy tiếp tục tự hỏi kịch liệt hơn nữa: "Bây giờ ai nghe đây?" Nếu chịu đi sâu, đi sâu vào câu hỏi này, quên hết mọi sự vật khác, ngay cả cảm giác trống không này cũng sẽ biến mất và sẽ không ý thức được vật gì cả - sự u tối sẽ hoàn toàn chiếm ưu thế. Cứ tiếp tục hỏi với tất cả sức lực của mình: "Cái gì đang nghe đây?" Chỉ khi nào sự hỏi đã kiệt quệ thì câu hỏi sẽ nổ ra, lúc ấy sẽ cảm thấy mình giống như từ cõi chết trở về. Đây là chân ngộ. Lúc bấy giờ sẽ gặp được chư Phật mười phương, chư Tổ quá khứ và hiện tại, mặt đối mặt. Hãy tự trắc nghiệm mình bằng công án này: "Một ông tăng hỏi Triệu Châu: Bồ Đề Đạt Ma đến Trung quốc có ý nghĩa gì? Triệu Châu đáp: Cây bách trước sân". Nếu công án này còn để lại chút nghi ngờ nào, thì hãy bắt đầu hỏi lại: "Cái gì đang nghe đây?"

Nếu kiếp này chưa ngộ thì kiếp nào mới ngộ? Một khi đã chết thì không thể tránh được đau khổ lâu dài trong Ba đường ác. Cái gì đang cản trở ngộ? Không cái gì cả trừ lòng mong ước nửa vời của mình đối với chân lý. Hãy suy nghĩ điều này và hết sức nỗ lực.

GHI CHÚ:

(1) Bạt Tụy Đức Chính (Bassui Tokusho).

(2) Sáu nẻo (luân hồi): Trời, thần (A tu la), người, địa ngục, ma đói (ngạ quỉ), và thú vật (súc sinh).

(3) Ba đường ác: Địa ngục, ma đói, và thú vật.

(4) Mười điều xấu: Sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, vọng ngữ, nói xấu, vu khống, tham lam, giận dữ, và tà kiến.

(5) Năm tội chết (ngũ nghịch): Giết cha, giết mẹ, giết A la hán, đả thương Phật, phá hoại sự hòa hợp của tăng già.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

KHÓA TU TỌA THIỀN NHIẾP TÂM


.... Trong tự viện, nhiếp tâm thực sự bắt đầu với những nghi thức nhất định vào buổi chiều trước khi cuộc tọa thiền chính thức bắt đầu. Trong thiền đường (Zendo) sáng lờ mờ là trung tâm điểm của những sinh hoạt trong một tuần lễ. Những vị tăng đầu chúng trang nghiêm tập hợp những người tham dự với mục đích xếp chỗ, chỉ dẫn những người mới đến cách vào ra thiền đường như thế nào để không gây ồn ào, cách dùng những dụng cụ và chén bát trong bữa ăn một cách im lặng, cách đi kinh hành (kinhin), cách ngồi lên và bước xuống toạ cụ một cách im lặng.

Khi chấm dứt các nghi thức này, mọi người tập trung ở chánh điện, sáng rực ánh đèn bởi những tiếng nặng nề của chiếc trống khổng lồ của tự viện. Mặc y phục ngồi đúng nghi thức, những người tham dự xếp thành hai hàng đối diện nhau qua chánh điện, quì gối theo tư thế cổ truyền Nhật bản, rồi cúi đầu chào nhau như là dấu hiệu tỏ lòng kính trọng nhau và đồng nhất với nguyện vọng của nhau. Một bầu không khí kích động bị dồn nén và sự lặng lẽ mong ngóng khi một vài phút sau, vị lão sư và các trợ thủ của ông trong lễ phục chỉnh tề bước vào. Khi họ đi qua giữa hai hàng người đến chỗ ngồi của họ ở đầu chánh điện, tất cả lại cúi đầu, lần này đầu chạm nệm, tỏ lòng kính trọng sâu xa đối với các bậc thầy của họ.

Sau khi chào mừng mọi người, vị lão nói đại ý như sau: Trong lúc nhiếp tâm quý vị không nên nói chuyện với nhau, vì như vậy sẽ làm phân tán sự tập trung và do đó làm chướng ngại sự thực hành của mình và người khác.

Mọi người trong quý vị phải nhất tâm hiến mình cho tọa thiền, loại trừ tất cả mọi thứ khác, kể cả việc quan tâm đến các vấn đề của người lân cận. Nếu vị nào có vấn đề thúc ép, hãy nói riêng với các vị tăng đầu chúng, ngoài tầm tai của những người khác.

Mắt quí vị luôn luôn để yên nhưng không tập trung vào một điểm nào ở phía trước mình trong lúc ngồi, đứng, đi hay làm việc, ở một khoảng cách độ một mét khi ngồi và hai mét trong các tư thế khác. Khi mắt quí vị phóng nhìn đây đó hoặc để cố định nơi vật này hay vật kia, sự tiếp xúc này tạo ra ấn tượng rồi đến phiên nó sẽ dấy lên tư niệm. Các tư niệm sẽ nhân lên và rồi giống như một đàn ruồi vo ve đây đó trong tâm làm cho sự tập trung trở nên khó khăn, nếu không nói là không thể được. Do đó, quí vị đừng hướng mắt vào bất cứ vật gì vì bất cứ lý do nào.

Trong lúc tọa thiền hãy bỏ những nghi thức xã giao mọi loại. Đừng chào nhau bằng những tiếng như chào ông, chào bà hay chúc ngủ ngon và cũng đừng ca ngợi hay chỉ trích nhau. Hơn nữa, quý vị không nên bước sang một bên để người khác tiến lên trước, quý vị cũng không nên đẩy người khác tới trước. Trong tất cả mọi hoạt động, quý vị không nên cử động hấp tấp hay lờ đờ mà phải tự nhiên như nước chảy.

Trong nhiếp tâm, không nên ăn nhiều hơn một nửa những gì quý vị ăn lúc bình thường, làm đúng theo lời khuyên này sự tọa thiền của quý vị sẽ có hiệu quả nhiều hơn. Song tọa thiền không phải là khổ tu, ép xác và kiêng ăn hoàn toàn là không thông minh vì tâm quý vị có thể dễ bị những cơn đau nhức vì đói làm phân tán, hay quý vị có thể thấy mình trở nên suy nhược đến độ không tọa thiền được. Nếu quý vị không thích ăn trong những lúc có bữa ăn nhất định vì đang nỗ lực kịch liệt, dĩ nhiên quý vị có thể từ chối không ăn.

Đừng ăn quá nhanh hay quá chậm để mọi người phải chờ mình. Một cách lý tưởng là tất cả nên kết thúc gần như cùng một lúc, như vậy sẽ không làm xáo trộn nhịp điệu đã được thiết lập của nhiếp tâm. Hãy cẩn thận đừng làm khua động chén bát khi lật chúng lên hoặc khi mang đi, và hãy nhai củ dưa cải một cách hết sức nhẹ nhàng không gây tiếng động, những âm thanh như thế thường làm phiền những người mới bắt đầu tu.

Vì lý do nào đó, nhiều người tưởng rằng đàn bà khó đạt Tự chứng ngộ hơn đàn ông. Trái lại, đàn bà thường đạt kiến tánh nhanh hơn đàn ông, bởi vì họ ít thích đùa với tư tưởng hơn đàn ông. Nhưng cả đàn ông lẫn đàn bà, nếu họ xóa tâm sạch hết tư niệm và trở nên vô ngã, thì đều có thể đạt kiến tánh chỉ trong một tuần lễ nhiếp tâm. Trong quá khứ, nhiều người đã làm được như thế và một số người đã có quyết tâm làm như vậy trong tuần nhiếp tâm này.

Cuối cùng, hãy nhớ rằng nhiếp tâm là một nỗ lực hợp tác trong đó có sự tương trợ và kích thích lẫn nhau, nếu tất cả cùng nhau tham gia mọi hoạt động nhiếp tâm và không theo sở thích riêng của mình. Đắm mình trong dục vọng nhờ vào nỗ lực chung là một biểu hiện của bản ngã và do đó trái với mục đích của chúng ta, cả cá nhân lẫn tập thể.

Rồi vị lão sư kết thúc bằng cách khuyên tất cả mọi người làm hết sức mình.

Bấy giờ trà và bánh ngọt được dọn ra, trước hết cho vị lão sư, kế đến cho các vị tăng đầu chúng và rồi đến những người hội họp. Vị lão sư nhắp trà trước tiên và tiếp theo là những người khác. Ông lại ăn bánh trước và sau đó mọi người cùng ăn.

Nghi thức này không phải là không có ý nghĩa. Nó tượng trưng cho tất cả mọi khối óc và trái tim trong việc làm chung này. Đồng thời nó còn là biểu hiện của lòng tin của môn sinh đối với thầy, họ đồng ý được ông dẫn dắt và lòng tin của họ đối với Pháp mà ông xiển dương. Xong nghi thức, vị lão sư và các trợ thủ bắt đầu, và một lần nữa tất cả cúi đầu chào nhau như trước.

Đúng chín giờ, chuông reo và mọi người rút lui vào giường. Sáu giờ đồng hồ nữa, cuộc đại thám hiểm bắt đầu.

Keng! Keng!... 3 giờ sáng... giờ nhiếp tâm bắt đầu...

Những người mới đến hơi sửng sốt, dụi đôi mắt ngái ngủ, mò mẫm cái nệm nhồi bông... những bàn tay đã quen với thời tiết nhanh nhẹn thu xếp vật dụng trên giường, đến nhà tắm đánh răng, dội nước lạnh lên mặt, mặc y phục, nhanh nhẹn lên đàn, điều chỉnh tọa cụ, bắt đầu tọa thiền..., không lãng phí thì giờ, nỗ lực... những người mới bắt đầu chậm chạp, vụng về leo lên đàn và tọa cụ... điều chỉnh, vặn vẹo, lại điều chỉnh...

Mấy phút, vị lão sư im lặng bước vào… đi phía sau và quan sát những cái lưng, với con mắt hiểu biết, chúng tiết lộ sự căng thẳng hay buông chùng của tâm một cách hùng hồn hơn là mặt...

Một cột xương sống chùng ắt sẽ bị đau với cây gậy ông cầm nơi tay đập một cách nhẹ nhàng. Một cái lưng khác thẳng hơn sẽ chỉ nhận được lời khuyên hay khuyến khích thì thầm... Khi vị lão sư đi qua, người ngồi chắp tay chào, điệu bộ phổ biến tỏ lòng khiêm tốn, kính trọng và biết ơn...

Vị lão sư có thể kể với những người ngồi nhìn vách bây giờ một câu chuyện dật sử về một Thiền đức ngày xưa, hoặc một Thiền đức đáng chú ý hiện đại để phấn khích… Sau cùng ông kết luận: "Ông ấy cũng chỉ là người, nếu ông ấy có thể đạt giác ngộ thì quÝ vị đây cũng có thể vậy"... Đôi hàm tỏ vẻ cương quyết, cuộc chiến đấu bắt đầu...

Keng! Keng! Kinh hành... Bốn mươi lăm phút trôi qua... Những người cũ đã quen, ném xéo chiếc gối đi, nhảy xuống đất êm nhẹ như mèo, đứng ngay vào hàng và chầm chậm đi quanh thiền đường, tay chắp ngang ngực, với bước đi chừng mực, tâm tập trung... Keng!... Kinh hành chấm dứt... Một vài người nhanh chóng lên đàn, những người khác tiến về phía nhà tắm... Keng! Keng! Keng!... thời ngồi kế tiếp bắt đầu... mùi thơm bát ngát của cây nhang mới(3) bay khắp thiền đường.

Khoảng 20 phút sau vị Godo(4), sứ giả chính của vị lão sư, từ trên đàn lướt nhẹ xuống, ông ta đi lấy kích trượng, tượng trưng cho lưỡi kiếm chém mê hoặc của Bồ tát Văn Thù, đặt trong chiếc rương đựng thánh tích giữa thiền đường, nắm chặt hai đầu kích trượng, cúi đầu thật thấp trước đức Văn Thù.

Lặng lẽ vị Godo bước những bước dài quanh thiền đường, đánh giá những tư thế mách lẻo... Không một tiếng động nào, trừ tiếng lầm thầm có thể nghe được của hơi thở hổn hển phì phò của những người mới bắt đầu, đang cố gắng một cách tuyệt vọng bằng thân thay vì bằng tâm để nhốt các ý nghĩ đang chạy tán loạn...

Cốp! Bịch! Tiếng kích trượng dặt mạnh xuống một góc đàn. Có tiếng lào xào giống như tiếng tiếng gió xào xạc qua đám cờ bắp qua những người mới đến giật mình, hơi sợ hãi... im lặng, một niềm im lặng điếc đặc...

Bộp! Bịch!... Tựa như tiếng đập lúa pgát ra từ những người ngồi có cái lưng không thẳng tỏ dấu hiệu tâm suy yếu, vị Godo gầm lên: "Chỉ còn mười lăm phút nữa là độc tham. Hãy dũng cảm tiến lên! Hãy tập trung! Đừng tách rời công án dù chỉ bằng đường tơ sợi tóc! Quí vị phải đem câu trả lời đến cho lão sư, đừng có đến mà không có gì cả!"

Những cái lưng hạ thấp thẳng lên… Những tiếng phì phò và gắng sức trở nên lớn hơn.

Keng! Keng!... Độc tham!

"Đi!" Vị Godo hét lên... Sự căng thẳng bị phá vỡ, tất cả, chỉ trừ một vài người hơi miễn cưỡng, hăng hái đua nhau xếp hàng.

"Các ông có cần chân lý không?" ông ta nói cộc lốc với mấy người trễ nãi, lôi một hai người xuống đàn và khuyến khích họ tiến vào hàng độc tham bằng kích trượng, lạnh lùng không cần biết đến việc gì khác.

Trong đa số các tuần nhiếp tâm ở tự viện hay chùa, kích trượng giữ vai trò quan trọng và thường có tính chất quyết định, nó đạt đến cực điểm của tấn kịch ngay trước lúc độc tham. Mục đích của kích trượng là khơi dậy mọi tàng tích năng lực còn mơ màng trong người ngồi, khiến cho họ phá vỡ cái vỏ sò bảo vệ sự tự lừa dối mình và đi đến chứng ngộ chân thực. Song không một yếu tố huấn luyện Thiền nào bị người châu Á cũng như người phương Tây chỉ trích ầm ỹ bằng, không ai hiểu ít hơn người khác về việc sử dụng loại gậy này. Nó bị kết án là một biểu hiện "bạo dâm của văn hóa Nhật bản", và là một "phản bội trắng trợn của Phật giáo". Thực ra không phải như thế. Cùng với Thiền, kích trượng là một sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc. Có lẽ nó là hậu duệ cứng cáp hơn của chiếc que nhỏ đã được sử dụng ngay cả trong thời đức Phật để đánh thức mấy ông tăng ngủ gật và được chế tạo để gây tiếng gió khi rung bên tai(4). Tại Trung Quốc, đến một điểm nào đó, các Thiền sư hiển nhiên cảm thấy cần phải kích thích môn sinh của họ bằng một cái gì đó khác hơn là những âm thanh êm ái hay những cái vỗ nhẹ bằng bàn tay hay một cú đấm đúng lúc. Để đáp ứng nhu cầu này tổ phụ của kích trượng đã ra đời.

Kích trượng được làm với những kích thước, hình dáng và sức nặng khác nhau. Có những cái làm bằng gỗ cứng dùng trong mùa đông khi tăng nhân và cư sĩ đều mặc áo dày. Có những cái làm bằng gỗ mềm dùng trong mùa hè khi họ mặc áo mỏng. Đầu kích trượng tiếp xúc với thân người dược làm dẹp giống như mái chèo với bề rộng khoảng một tấc, trong khi đầu cán được chuốc tròn để cầm cho chắc. Trong một vài tự viện và chùa, nó dài khoảng một thước hai, ở một số khác nó dài khoảng hơn bảy tấc.

Kích trượng có thể được dùng để kích động một người ngồi buồn ngủ, khuyến khích một người ngồi mệt mỏi, hoặc thúc giục một người ngồi cố gắng, nhưng nó không bao giờ được dùng để trừng phạt hay gây hiềm khích cá nhân. Điều này rõ ràng vì sự thật người được đánh chắp tay giơ lên tỏ lòng biết ơn vị Godo, và đáp lại ông ta chấp nhận điều ấy bằng một cái cúi đầu trong tinh thần tương kính và hiểu nhau. Trong tự viện, những cú kích trượng mạnh nhất hầu như chỉ dành cho những người hăng hái và dũng cảm, không lãng phí cho những kẻ lười biếng hoặc nhút nhát. Trong thiền đường, người ta hiểu rất kỹ câu ngạn ngữ: ngựa tồi dẫu đánh mấy cũng không thể chạy nhanh.

Trong các tự viện và chùa Tào Động, người ngồi quay mặt vào vách mà không quay mặt vào nhau như trong phái Lâm Tế. Như thế, vị Godo dùng kích trượng từ phía sau, tùy ý mình(5), và thỉnh thoảng không có sự báo trước(6) nào cả. Trong tay vị godo nhạy cảm và đã giác ngộ, có thể đánh hòn sắt nóng hay đánh cho hòn sắt nóng lên, cây kích trượng bất ngờ làm cho sự nỗ lực tập trung của một người lên đến độ kịch liệt nhất. Hơn nữa, giống như cái quất nhạy cảm dùng cho con ngựa đua, khiến nó tăng tốc độ mà không gây nguy hiểm, cây kích trượng được sử dụng một cách thông minh vào lưng của một người ngồi gắng sức có thể làm bật nổ năng lực siêu nhân đưa người ấy đến sự qui nhất năng động của tâm cần thiết cho kiến tánh mà không gây đau đớn. Ngay cả những lúc ít trọng yếu, đặc biệt vào giữa buổi chiều hay xẩm tối, khi thân bị rùn xuống kiệt sức làm chùng sự căng thẳng của tâm, mở đường cho những đoàn quân tư niệm xâm lăng, cú đánh đúng lúc qua vai sẽ làm gục tất cả, đồng thời giải tỏa các kho dự trữ năng lực bất ngờ.

Không thể nhấn mạnh quá mức rằng xử lý kích trượng không phải chỉ là vấn đề đánh người bằng gậy. Trong hành động này, bi-trí-dũng được kết hợp với nhau. Trong một tự viện hay chùa hàng đầu, vị Godo là một người không thay đổi, có tinh thần mạnh, song từ bi. Thực ra, nếu kích trượng là một động cơ thúc đẩy và không phải là chông gai, người ấy phải đồng nhất với nguyện vọng tinh thần sâu xa nhất của những người ngồi. Người ta nói rất hay rằng tình thương không có sức mạnh là yếu hèn, sức mạnh không có tình thương là dã man.

Song không thể phủ nhận rằng đối với những người phương Tây không thể tự thức tỉnh, quan niệm cho rằng đánh đập bằng gậy trong bất cứ trường hợp nào cũng là lăng nhục nhân cách cao quí của họ, kích trượng vẫn luôn luôn là sự đe dọa hơn là sự thúc giục đáng được hoan nghênh.

Tụng kinh sau độc tham, được tiếng "Cốc" kích thích của cái mõ báo trước. Nghe báo hiệu này, tất cả xếp hàng ngoài cửa dọc theo lối đi có lọng phướn mở rộng, được hơi thở mát lạnh của rạng đông chào đón, và từ đó tiến vào chánh điện, cư sĩ chiếm một bên và bên kia là tăng nhân. Độc tham và hai giờ tọa thiền đem lại cho tâm sự trong sáng và qui nhất, mọi tư thế và cử động của thân trong lúc lạy và tụng kinh mang một ý nghĩa và nội dung mới mẻ. Tiếng mộc ngư nhiệp nhàng, tiếng chuông đồng ngân nga sâu xa, ánh đèn cầy sáng chập chờn trên bàn Phật, và mùi hương nhang tươi mát, tất cả đều góp phần kích thích tâm hơn nữa.

Sau đọc kinh đến bữa ăn đầu tiên, lúc 5 giờ rưỡi, gồm có cháo, một đĩa rau ăn giặm và củ cải đỏ dầm nước muối. Khẩu phần đơn giản này là để nuôi cơ thể cho nó có thể theo đuổi Con Đường của Phật, không phải để thưởng thức. Nhưng người ta không ăn ngay. Đầu tiên, tiếng leng keng của cái chuông tay của vị tăng đầu chúng, lời kinh tụng trong giờ ăn bắt đầu với sự bày tỏ niềm tin nơi Tam Bảo như là một, tức Phật Tỳ Lô Xá Na (Birushana); luật nhân quả và chư Phật khắp thế giới. Rồi tạm thời ngừng tụng kinh trong khi mỗi người tự giở tấm khăn phủ quanh cái bát sơn mài bốn ô, và đũa đã được cấp cho trong tuần nhiếp tâm, và đặt những vật ấy ra trước mặt.

Leng keng! Tụng kinh lại bắt đầu với sự bày tỏ lòng tin nơi nhân cách và cuộc đời của Phật Thích Ca Mâu Ni, vào Pháp và nơi những tấm gương lớn của giáo lý Phật, tức các Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, và Quán Âm, thêm nữa là chư Tổ. Bấy giờ, cháo được múc ra từ cái tô tượng lớn bằng gỗ và rau được dọn lên.

Song trước khi đụng đũa vào bát cứ thứ gì, có một hiệp tụng kinh khác nữa để mọi người nhớ rằng thức ăn sắp được ăn đây đến từ sức lao động của nhiều người, và mỗi người chỉ được phép thọ nhận với lòng biết ơn, không phải vì tham lam, và không vì thích hay ghét.

Bây giờ còn một nghi thức nữa trước khi thực sự ăn. Mỗi người tự lấy trong bát cháo ra khoảng năm bảy hạt và bỏ vào trong một cái bình đặc biệt chuyền qua tất cả mọi người vì mục đích này. Lễ vật tượng trưng dành cho loài quỷ đói vô hình của thế giới khác mà lòng tham trừng phạt chúng sống kiếp khốn cùng. Cuối cùng, khi ăn phải ăn im lặng để sự tập trung vào công án hoặc đếm hơi thở hoặc chính việc ăn, có thể tiếp tục không gián đoạn.

Các tăng nhân phục vụ mang cái tô tượng cháo lớn đến tất cả ba lần. Người nào muốn ăn nữa nâng bát lên, chắp hai tay chờ đợi trong lúc được phục vụ, im lặng xoa hai bàn tay vào nhau ra dấu "đủ rồi'. Nếu không muốn được phục vụ nữa, mỗi người chỉ đơn giản cúi đầu chào từ thắt lưng trở lên, hai tay chắp ngang ngực khi người phục vụ đi qua. Không chú ý đến lời ra lệnh ăn sơ sài của vị lão sư, hiển nhiên có những ông tăng muốn làm đầy bụng hơn là làm rỗng tâm thì làm đến bát thứ ba.

Thức ăn khi đã đụng đũa đến thì phải ăn, không được phí bỏ, không được lãng phí một miếng nhỏ nào. Cuối bữa ăn, nước uống được chuyền vòng quanh và mỗi người dùng một miếng củ cải đỏ dầm nước muối để chùi sạch bát, và sau đó nếu khát thì uống nước nhưng đừng quên đổ một miếng thừa vào cái bình chứa chung dành cho quỷ đói. Bữa ăn chấm dứt bằng một bài kinh, thực chất là để bày tỏ lòng biết ơn sự nuôi dưỡng vừa thọ nhận và một lời nguyện dùng sức khỏe này phục vụ phúc lợi tinh thần của tất cả chúng sinh(7).

Không phải riêng thức ăn mà mọi thứ đều được sử dụng đúng chức năng của nó và không được lãng phí hay phá hoại một cách không cần thiết. Đây là một trong các điều lệ không được vi phạm của Thiền viện và phải được chú trọng trong lúc nhiếp tâm, không được vi phạm. Những lý do ấy có tính cách tinh thần hơn là kinh tế, phung phí là phá hoại. Đối xử sự vật với sự tôn trọng và biết ơn, hợp với bản tánh và mục đích của chúng, là khẳng định giá trị và sự sống của chúng, sự sống mà chúng ta cắm rễ trong đó. Lãng phí là thước đo sự cách ly của chúng ta với sự vật, với Phật tánh, với sự hợp nhất thiết yếu của những cái ấy với chúng ta. Hơn nữa, nó còn là hành động lạnh lùng đối với giá trị tuyệt đối của vật bị lãng phí, tuy khiêm tốn. Như thế, vô ý làm vỡ một tấm gương vào bất cứ lúc nào, để một ngọn đèn cháy khi không còn cần đến nữa, dùng nhiều nước hơn nhu cầu cho một việc làm riêng biệt, để mở một quyển sách sau khi đã đọc; tất cả những cái ấy đều là hành động sai sót theo nghĩa tôn giáo sâu xa nhất và do đó, làm hại sự tiến bộ tinh thần của chúng ta. Vì lý do này, chúng bị kết án tất cả.

Tiếp theo sau bữa ăn sáng ở đa số các tự viện và chùa là chương trình Samu (việc làm tay chân) trong thời gian nhiếp tâm, nó mang hình thức quét dọn, lau bụi, chùi rửa sàn nhà, nhà vệ sinh, cộng thêm quét dọn lối đi, cào và làm cỏ vườn(8). Kể từ thời Bách Trượng Hoài Hải đầu tiên định chế, hơn một nghìn năm qua lao động tay chân là một thành tố tu Thiền. Về Bách Trượng, người ta ghi lại rằng một hôm các tăng nhân cảm thấy sư đã quá già yếu, không thể làm việc được nữa, đem dấu hết các dụng cụ làm vườn của sư. Khi họ từ chối, làm ngơ lời khẩn cầu trả lại các dụng cụ cho sư, sư không chịu ăn nữa, và bảo: "Không làm, không ăn". Cùng một tinh thần ấy, được Lão sư Gempo Yamamoto thời nay, cựu trụ trì chùa Long Trạch (Ryutakuji), mất vào tháng 6 năm 1961 lúc 96 tuổi, thể hiện. Hầu như mù và không thể làm việc được cho tự viện, sư đã quyết định giờ chết cho mình, vì thế sư không chịu ăn nữa. Khi tăng chúng hỏi tại sao sư không ăn, sư đáp sư đã sống thừa vô dụng và chỉ làm phiền mọi người. Họ nói: 'Nếu hòa thượng chết bây giờ (tháng giêng) trời lạnh lắm, mọi người sẽ không thoải mái đi dự tang lễ và như vậy hòa thượng còn làm phiền nhiều hơn nữa. Vì thế xin hòa thượng làm ơn ăn lại cho". Do đó, sư bắt đầu ăn trở lại, nhưng đến khi trời ấm lại, sư lại ngừng ăn, và sau đó không lâu, sư lặng lẽ ngã xuống qua đời.

Làm như thế có ý nghĩa khi nói đến huấn luyện Thiền? Trước tiên, nó chỉ rõ rằng tọa thiền không chỉ là vấn đề đạt khả năng tập trung và qui tụ tâm trong lúc ngồi, mà theo nghĩa rộng nhất, tọa thiền còn bao hàm cả sự vận động và vận dụng tích cực định lực (sức mạnh do tọa thiền phát sinh) trong mọi hành động của chúng ta. Samu, như là một kiểu tọa thiền động, cũng cung cấp cơ hội để phát triển an tĩnh sâu xa đưa tâm đến qui nhất qua hoạt động cũng như làm tăng sức mạnh cho thân và do đó làm tăng năng lực cho tâm.

Mục đích ở đây, cũng như ở mọi kiểu tọa thiền khác, là tu dưỡng mà trước tiên là tâm niệm và đương nhiên là vô niệm. Đây chỉ là hai mức độ khác nhau của sự thấm nhập. Tâm niệm là trạng thái trong đó người ta hoàn toàn ý thức trong bất cứ tình thế nào và vì thế luôn luôn có thể đáp ứng tương xứng. Song người ta biết mình có trực thức. Mặt khác, vô niệm hay "vô tâm" như nó được gọi, là trạng thái thấm nhập trọn vẹn đến độ không còn vết tích nào của tự thức.

Bất cứ hành động nào phát xuất từ tâm thái này không thể sấn vào hay nhảy vọt được, không thể gắng sức hay buông lơi, không thể có những cử chỉ hư giả hay lãng phí bất cứ năng lực nào. Toàn bộ sự lao động đi vào với tâm thái như thế, tự nó có giá trị khác biệt với những gì có thể đưa đến. Đây là việc làm "không công đức" hay "không mục đích" của Thiền. Bằng cách thực hiện mỗi việc làm theo tinh thần này, chúng ta có thể lãnh hội sự thật rằng mỗi hành động là một biểu hiện của Phật tâm. Một khi trực nghiệm được điều này và không lầm lẫn, thì không có lao động nào có thể kém cao quí được. Trái lại, tất cả mọi việc làm dù thấp kém đến đâu cũng đều cao quí bởi vì nó được xem là biểu hiện của Phật tánh không tỳ vết. Đây là giác ngộ chân thực và giác ngộ trong Thiền không bao giờ chỉ riêng cho mình mà là cho tất cả.

Lý tưởng này được nhấn mạnh trong suốt tuần nhiếp tâm. Sự thực bốn lần trong một ngày, vào cuối bài đề xướng, cuối các thời tụng kinh sáng, chiều và sau việc làm cuối cùng trong ngày - Bốn Lời Nguyện được tụng ba lần hiệp một:

  • Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
    Đau khổ vô tận thệ nguyên đoạn.
    Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
    Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Samu chấm dứt, theo sau là bài thuyết pháp dài khoảng một giờ (thí dụ có thể tìm thấy ở Chương II), rồi khoảng 11 giờ là đến bữa ăn chính trong ngày, thường là cơm gạo trắng trộn với gạo lúa mạch, phụ thêm rau tươi và canh đậu hũ. Sau bữa ăn trưa, tất cả trừ những hăng hái nhất tiếp tục ngồi ở thiền đường, nghỉ ngơi độ một giờ như đã được chương trình nhiếp tâm dành cho, song không quên tự thâm
nhập công án hay các bài luyện tập khác.

Trừ bài thuyết pháp và Samu, buổi chiều và buổi tối là lặp lại thời gian biểu buổi sáng. Một vài tự viện và chùa cho tắm nước nóng vào buổi chiều hay buổi tối đối với những người mới bắt đầu vì chân đau và thân căng thẳng, sự xoa dịu này được đón mừng nồng nhiệt vô tả. Đến 4 giờ chiều được ăn một bữa nhẹ, chủ yếu là những món ăn còn thừa lại của buổi trưa. Không giống như hai bữa ăn trước được bắt đầu và chấm dứt bằng tụng kinh, "món thuốc"(9) này được ăn trong im lặng hoàn toàn.

Ở chùa Phát Tâm, được chú ý vì nhiếp tâm nghiêm túc, vào đêm thứ tư và mọi đêm sau đó vào lúc tám giờ, có một qui luật độc đáo để chiến đấu với những ảo ảnh cám dỗ của chiếc giường bắt đầu lôi kéo cái tâm đã mệt mỏi, do dự vào giờ này. Với tiếng keng của cái chuông lớn ở thiền đường, đột nhiên có sự bùng dậy của tiếng "Khô... ô...ông" của tất cả những người đang cố gắng thâm nhập công án này. Thoạt đầu yếu và bất định, tiếng hô tập thể này gom góp sự sâu xa, sức mạnh và sức xung kích dưới sự thúc giục mãnh liệt của cây kích trượng vung tự do của vị Godo, và những người phụ tá ông hét lên: "Hãy nói KHÔNG từ đan điền, không phải từ cổ họng!" Khi những tiếng la KHÔNG này từ từ lên đến cao độ của tiếng rống sâu thẳm, mà chúng đương nhiên như vậy, đột nhiên tắt hẳn vì tiếng chuông thiền đường Keng! Keng!... thường khoảng 30 phút sau. Bây giờ lại bắt đầu tọa thiền im lặng, nhưng bầu không khí trở nên như điên.

Tọa thiền chấm dứt vào 9 giờ thiếu 15 và tiếp theo là thời kinh cuối cùng trong ngày, một bài kinh ngắn và Bốn Lời Nguyện. Bây giờ được tụng vơi sự hăng hái và mạnh mẽ. Với tinh thần phấn chấn và năng lực bùng dậy, ngủ không còn là vấn đề và thực tế mọi người xếp hành ngoài thiền đường trong bầu không khí lạnh lẽo ban đêm với chiếc gối ngồi dưới cánh tay. Thay vì lê bước mỏi mệt đến giường ngủ như những đêm trước,(10) mọi người rảo bước nhẹ nhàng đến những địa điểm cô đơn, thường là nghĩa trang của tự viện, ở lại đó tiếp tục tọa thiền mãi trong đêm.

Đặc biệt, đêm cuối cùng với tiêng la hét dữ dội nhất, không một ai trừ những người bị bệnh rõ ràng hay những kẻ nhút nhát rõ rệt, dám rút lui vào giường lúc 9 giờ, khi thực tế cả thiền đường chia nhau chỗ trong nghĩa trang hay trên các ngọn đồi gần đó trong đêm, xé tan bầu không khí tĩnh mịch bằng tiếng la KHÔNG tuyệt vọng. Và trong tuần nhiếp tâm nghiêm túc nhất trong năm, tuần nhiếp tâm Lạp Bát (Rohatsu: mồng 8 tháng 12) tưởng nhớ sự giác ngộ của đức Phật, dạ tọa (Yaza: tọa thiền sau 9 giờ tối) là qui luật mỗi đêm.

Ngày cuối cùng của tuần nhiếp tâm, đặc biệt nếu có tọa thiền suốt đêm đi trước, có khuynh hướng trở thành bất ngờ tột độ. Do đó, vị lão sư khuyên mọi người rằng đây là ngày sanh tử nhất của tất cả, nếu bây giờ buông lơi khi tâm đạt đến đỉnh cao của sự tập trung thì quả thực là vứt bỏ sáu ngày nỗ lực kiên cường. Vào ngày thứ bảy này, kích trượng và người bạn đồng hành của nó, sự la hét được bỏ đi - khi vị Godo nói: "Tôi không còn làm việc được nữa, bây giờ là hoàn toàn tùy vào quý vị, và sau (hay bởi vì) sáu ngày ồn ào huyên náo có định kỳ, hôm nay tọa thiền im lặng song tích cực thường là phần thưởng đáng giá nhất".

Trước khi chính thức kết thúc tần nhiếp tâm, vị lão sư hướng về mọi người nói một cách hiệu lực:

- Sự nỗ lực chân thực trong nhiếp tâm không bao giờ là lãng phí dù cho nó không kết thúc trong ngộ. Có thể so sánh đạt kiến tánh với cú bắn thứ 100 trúng hồng tâm. Ai có thể bảo 99 lần bị trượt không liên quan với lần cuối cùng thành công ấy.

Vài người đã kiến tánh ngay trong lúc uống trà kết thúc tuần nhiếp tâm, một vài người khác đã kiến tánh ngay trên chuyến xe lửa trên đường về nhà, vì thế lúc nào cũng phải chú tâm. Hãy tập trung không ngớt vào công án của mình nếu vị nào đang tham công án hoặc hãy thực hiện mọi việc làm của mình một cách nhất tâm, nếu vị nào thực hành chỉ quán đả tọa. Đừng phung phí một cách vô ích định lực mà quý vị đã tích lũy được trong lúc nhiếp tâ, nói chuyện tầm phào, hãy giữ gìn và tăng cường nó trong tất cả công việc làm hàng ngày của mình.

Ở một vài tự viện và chùa vẫn giữ một nghi thức đặc biệt, trong sự hiện diện của tất cả những người tham dự, để những ai đã đạt kiến tánh bày tỏ lòng biết ơn đối với vị lão sư và các vị tăng đầu chúng. Tuần nhiếp tâm chính thức kết thúc với sự tụng Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Hannya Haramita Shingyo) và Bốn Lời Nguyện.

Sau đó, một lần nữa tất cả cùng nhau uống trà và ăn bánh ngọt, cảm ơn vị lão sư và các vị tăng đầu chúng cũng như những ai đã trợ giúp họ trong lúc nhiếp tâm.

Bất chấp sự sử dụng ngoạn mục cây kích trượng, sự chen lấn thô bạo trước lúc độc tham, tấn kịch thực sự của tuần nhiếp tâm không nằm trong các biểu dương này mà nằm trong tọa thiền: trong sự đơn độc tìm kiếm trong trong thế giới mênh mang ẩn kín của tâm mình, trong chuyến di trú cô đơn qua những hang động gió hú của hổ thẹn và sợ hãi, qua những các sa mạc của ảo ảnh xuất thần và bóng ma đau đớn, quanh vùng núi lửa ri rả bản ngã, qua những khu rừng già ngu si và hư ngụy trong cuộc đấu tranh dành sự hợp nhất và trống không của thân tâm và cuối cùng đưa đến sự khám phá sấm chớp rằng vũ trụ và mình không phải cách biệt xa xôi mà là một toàn thể thân mật, sống động.

Dù kiến tánh có theo sau hay không, người ta không thể tham dự nhiếp một cách nghiêm trang mà không trở về nhà với sự trác tuyệt trong lòng, mạnh mẽ trong tâm, và với thị kiến tươi tắn đến giật mình về một thế giới thân thuộc cũ.

Chủ đề chính của nhiếp tâm vẫn là tự nỗ lực, vì phân tích đến cùng, một người được giải thoát không phải bằng bạn bè, không phải bằng lão sư, cũng không phải bằng Phật, và chắc chắn không phải bằng bất cứ một hiện thể siêu nhiên nào, mà bằng chính sự nỗ lực không lay chuyển, không mệt mỏi của chính mình.

Đa số những người phương Tây có kinh nghiệm giác ngộ theo sau là người châu Mỹ, thì không phải là ngẫu nhiên. Trong sự nhấn mạnh của Thiền về tự tin, trong trực quan rõ ràng của nó về những nguy hiểm của chủ nghĩa lý trí, trong tiếng gọi có tính cách mệnh lệnh của nó đối với kinh nghiệm cá nhân và không phải suy lý triết học là phương tiện chứng minh chân lý tối hậu, trong mối quan tâm thực tiễn của nó đối với tâm và đau khổ, và các phương pháp thực hành để giải thoát thân tâm của họ, những người Châu Mỹ tìm thấy rất nhiều cái giống với tính khí bẩm sinh của họ và với thế giới quan (Weltanschauung) của họ.

Vào thời buổi mà "sự vật đang thắng yên cương cưỡi nhân loại" như trước kia chưa bao giờ có, khi mà những căng thẳng vì sợ hãi, lo âu và đố kỵ đang tàn phá tâm hồn con người hiện đại, thì sự kiện những người bình thường qua ngộ có thể khám phá ý nghĩa và niềm vui trong cuộc sống, cũng như ý nghĩa có một không hai và mối liên kết của mình với tất cả cuộc tồn sinh, chắc chắn nói lên niềm hy vọng cho con người ở khắp mọi nơi.

GHI CHÚ:

(2) Một thời ngồi khoảng 45 phút được tính bằng thời gian đốt cháy hết một cây nhang.

(3) Trong phái Tào Động, Godo chỉ vị tăng đầu chúng chịu trách nhiệm cai quản thiền đường, địa vị kế ngay sau vị Lão sư, tương đương với địa vị của Jikijitsu trong phái Lâm Tế.

(4) Mẫu tin này do Lão sư Bạch Vân cho tôi biết.

(5) Những người ngồi thường yêu cầu kích trượng đánh bằng cách chắp tay giơ lên khỏi đầu.

(6) Song nó thường được báo trước bằng cái vỗ nhẹ lên vai. Trong phái Lâm Tế thì đánh từ phía trước, như thế người ngồi luôn luôn biết trước khi mình được đánh.

(7) Đây là nghi thức Tào Động của chùa Phát Tâm, hơi khác với nghi thức Lâm Tế. Thỉnh thoảng các Thiền viện cũng phục vụ gạo trắng, không phải gạo nâu.

(8) Ở các tự viện có một số lượng lớn lao động tay chân quanh năm – chẳng hạn ở đó họ, trồng lúa cũng như rau riêng – Samu được tạm gát trong lúc nhiếp tâm để có thời gian nhiều hơn để ngồi.

(9) Dược thạch (Yakusaki): hòn đá thuốc, tăng nhân Phật giáo ở Trung Quốc ngày xưa chỉ ăn ngày hai bữa. Vào mùa đông, để giữ mình cho ấm và làm dịu bớt những cơn đau vì đói, họ đặt trên bụng một hòn đá ấm được xem như là món thuốc trị bá chứng cho tất cả những rối loạn của dạ dày. Do đó, những bữa ăn thứ ba, đến khi ăn, được cho là "món thuốc" (dược thực).

(10) Ở đa số tự viện, cư sĩ đến nhiếp tâm không ngủ chung với tăng nhân trong thiền đường, mà được xếp chỗ ngủ trong các phòng ở một căn nhà riêng.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 16/04/12 20:12 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Các bài thuyết giảng về Tọa thiền

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CÁC CUỘC ĐỘC THAM

  • 1. HỌC VIÊN A (đàn bà, 60 tuổi)


Học viên: Tôi cảm thấy tôi là tù nhân của cái ta của tôi và tôi muốn chạy trốn. Tôi có thể làm được việc ấy qua tọa thiền không?

Lão sư: Chúng ta hãy nói về tâm trước. Có thể ví tâm bà như một tấm gương(1), nó phản chiếu mọi vật xuất hiện trước nó. Từ lúc bà bắt đầu suy nghĩ, cảm biết và vận dụng ý chí, hình bóng ném lên tâm bà làm méo mó ảnh phản chiếu. Tình trạng ấy chúng tôi gọi là mê hoặc, là cái bệnh căn bản của con người. Hậu quả nghiêm trọng nhất là của căn bệnh này là nó tạo ra một cảm thức nhị nguyên, do đó bà qui định "tôi" và "không phải tôi". Sự thực, mọi sự vật là Một, và dĩ nhiên đây không phải là một của số đếm. Thấy nhầm mình đương đầu với một thế giới hiện tượng hiện hữu tách rời, đây chính là cái tạo nên sự đối kháng, lòng tham và đương nhiên không thể tránh được đau khổ. Mục đích của tọa thiền là quét sạch những cái tối tăm hay nhiễm ô ấy để chúng ta có thể kinh nghiệm một cách thân thiết mối liên kết của mình với toàn bộ cuộc sống. Bấy giờ tình thương và lòng từ ái tự nhiên và tức khắc tràn tới.

Học viên: Tôi đang ngồi chỉ quán đả tọa như thầy đã chỉ dạy. Tôi thấy đau ở chân, nhưng có thể chịu đựng được. Tôi không bị tư niệm quấy nhiễu và tập trung tương đối tốt. Nhưng tôi thực không biết ngồi như thế có mục đích gì.

Lão sư: Mục đích đầu tiên của việc ngồi là để hợp nhất tâm. Vì con người bình thường, tâm bị lôi kéo theo nhiều hướng, duy trì sự tập trung thực không thể được. Qua thực hành tọa thiền, tâm trở nên qui nhất và nhờ thế ta có thể kiểm soát được nó. Quá trình này có thể ví với việc sử dụng tia sáng mặt trời qua một kính lúp. Khi các tia sáng mặt trời qui tụ ở tiêu điểm, dĩ nhiên chúng trở nên mãnh liệt hơn. Tâm con người cũng vận hành một cách có hiệu quả khi nó được tập trung và hợp nhất. Dù bà có muốn thấy Tự tánh của mình hay không, bà cũng có thể biết rõ giá trị hiệu quả trạng thái sung mãn của sự hợp nhất tâm trọn vẹn.

Học viên: Vâng, dĩ nhiên. Lúc ấy tôi đang ngồi yên lặng thực hành tọa thiền và rồi tôi cảm thấy bị đau rất nhiều. Tôi không biết tôi nên cố gắng chịu đựng cái đau hay bỏ cuộc khi nó quá kịch liệt. Nói cách khác vấn đề đích thực của tôi như vầy: Tôi nên dùng ý chí chịu đựng hay chỉ ngồi một cách thụ động, không cưỡng bức mình?

Lão sư: Đây là vấn đề quan trọng. Đương nhiên là bà muốn đạt đến độ có thể ngồi một cách dễ chịu, không gắng sức cũng không đau đớn. Nhưng do thói quen sử dụng sai thân và tâm của chúng ta từ lâu, ngay từ đầu chúng ta phải vận dụng ý chí trước khi có thể ngồi với sự dễ dàng và quân bình. Và đương nhiên điều này gây ra đau đớn.

Khi trọng tâm của thân được đặt ngay ở vùng dưới rốn, thì toàn thân sẽ vận hành với độ ổn định nhiều hơn. Trọng tâm nơi người bình thường ở hai vai. Hơn nữa, thay vì ngồi hay đi với cái lưng thẳng đứng, đa số người ta trầm xuống, đặt sự căng thẳng vô chừng ở khắp các phần của thân.

Ngoài ra, chúng ta còn dùng nhầm tâm của mình nữa, chơi đùa hay chứa chấp tất cả mọi loại tư niệm vô ích. Đây là lý do tại sao chúng ta nỗ lực quyết tâm sử dụng thân tâm chúng ta một cách đúng đắn. Thoạt đầu, không thể tránh được đau đớn, nhưng nếu bà kiên trì, đau đớn sẽ dần dần nhường chỗ cho cảm giác thoải mái. Bà sẽ trở nên mạnh hơn về mặt thể xác và linh mẫn hơn về mặt tinh thần. Đây là kinh nghiệm của tất cả những người tọa thiền đều đặn và thành khẩn.

Lão sư: Bà có điều gì muốn hỏi?

Học viên: Vâng, tôi có một số câu hỏi. Câu hỏi đầu tiên là: Tại sao thầy bảo đặt nơi tôi ngồi bảng hiệu bảo không nên đánh tôi bằng kích trượng? Có phải thầy cảm thấy tôi vô hy vọng không?

Lão sư: Tôi cảm thấy rằng bà, giống như đa số người phương Tây, không thích bị đánh. Người trưởng tràng đã đánh mọi người rất mạnh và tôi nghĩ nếu bà bị đánh, có thể làm trở ngại việc tọa thiền của bà. Bà không để ý việc bà bị đánh chứ?

Học viên (mỉm cười): À, hầu hết tôi không để ý nếu không bị đánh quá mạnh.

Lão sư: Hôm qua người đàn bà trẻ ngồi đối diện với bà, mà tình cờ lại là người Nhật, bị đánh mạnh quá, dĩ nhiên là để thúc giục bà ấy. Đó là lần đầu tiên bà ấy bị đánh và bà ấy kinh ngạc, sững sờ đến nỗi sau buổi nhiếp tâm đã bỏ đi ngay. Cũng may hôm nay bà ấy trở lại và nói với tôi về việc đã xảy ra, vì thế tôi đã cho đặt bảng hiệu trên chỗ bà ấy ngồi bảo không đánh nữa.

Học viên: Dù sao tôi cũng vui vì biết rằng thầy không nghĩ tôi là trường hợp vô hy vọng.

Điểm kế tiếp của tôi là: Sáng nay cảm thấy mình đầy năng lực, tôi bắt đầu nghĩ: "Mình phải quét sạch những tư niệm vô ích để trí tuệ có thể hiện ra được". Rồi nhận ra đây là việc làm của cái ta, tôi lại trở nên thất vọng. Tôi cảm thấy mình giống như con lừa chỉ có thể khiến nó di động bằng cách treo tòn teng trước mắt nó một củ cà rốt.


Lão sư: Bà có muốn giác ngộ không?

Học viên: Tôi không biết giác ngộ là gì. Hôm qua tôi đã nói với thầy là tôi muốn triệt hạ cái ta để có thể trở thành một người khôn ngoan hơn. Thiết nghĩ tôi muốn gạt bỏ cái ta hơn là muốn đạt giác ngộ.

Lão sư: Cái ta tự nó vốn không có – nó là cái gì đó do chính mình tạo ra. Song cũng chính cái ta do mình tạo ra này đưa chúng ta đến tọa thiền, vì thế không nên khinh nó. Tọa thiền, như bà đã có thể nhận biết, làm cho cái ta hao mòn. Bà cũng có thể loại bỏ cái ta bằng cách tuân theo các nội qui nhiếp tâm thay vì theo các xu hướng riêng của mình. Ví dụ, nếu bà không muốn đứng dậy khi chuông rung để mọi người đứng lên đi kinh hành là bà đang nuôi dưỡng cái ta của mình và đang làm nó gia tăng. Ăn cũng vậy, bà đầu hàng cái ta mỗi lần quyết định đi ăn trước cộng đồng và chỉ đi ăn một mình. Bây giờ, vì cái ta cắm rễ tận tiềm thức, cách duy nhất để nhổ rễ nó là giác ngộ hoàn toàn.

Học viên: Tôi rất mệt mỏi và chân đau khủng khiếp. Tôi không thể tọa thiền tốt được nữa.

Lão sư: Tọa thiền đòi hỏi sức mạnh đáng kể. Nếu thân không khỏe mạnh, khó tọa thiền kịch liệt. Cho đến khi nào sức mạnh hồi phục bà mới ngồi thoải mái, không chút gắng sức. Khi nào bà cảm thấy khỏe lại, bà có thể dùng tận lực. Sau đó là vấn đề quyết tâm, đem ý chí ra chịu đựng. Năng lực và quyết tâm không lay chuyển, cả hai đều cần thiết.

Học viên: Tôi đã tự tham công án "Bộ mặt trước khi cha sinh mẹ đẻ là gì?" Tôi tin tôi đã có câu trả lời nhưng muốn thầy xác nhận cho. Ví dụ, tôi cứ mãi nghĩ tôi giống như cái mà trước khi tôi sinh ra và cha mẹ tôi cũng giống cái ấy. Thực ra, theo sự tưởng tượng, tôi đã vùi chôn nắm tro tàn của mình ở một chỗ đáng ưa thích nhất. Tôi đã tham công án này đúng không?

Lão sư: Không, không đúng. Những gì bà vừa nói chỉ là một bức tranh giả tưởng về công án này. Tham đúng nó bà có thể trả lời đúng những câu hỏi như: "Nếu thế giới này bị hủy diệt thì bộ mặt xưa nay ấy cũng bị hủy diệt theo phải không? Nếu thế, bằng cách nào?"

Học viên: Tôi không thể trả lời được những câu hỏi như thế.

Lão sư: Công án này không có gì khác hơn công án Mu (KHÔNG).

Trong nhất thời, một cách đơn giản bà hãy tiếp tục ngồi chỉ quán đả tọa cho đến khi nào bà đạt đến độ muốn kiến tánh một cách mãnh liệt. Bấy giờ, một công án như "Bộ mặt trước khi cha sinh mẹ đẻ là cái gì?" sẽ thích hợp hơn.

Học viên: Khi nói về ma cảnh, thầy có nói rằng ngay cả các nội kiến tâm lý học về chính mình cũng là ma cảnh. Điều này không những làm tôi bối rối mà còn làm tôi thất vọng nữa. Tôi đã có một số nội kiến trong khóa nhiếp tâm này và cảm thấy phấn khởi vô cùng. Nhưng bây giờ tôi bối rối và không biết nghĩ gì.

Lão sư: Khi sự thực hành của bà tiến bộ, nhiều ma cảnh sẽ xuất hiện. Tự chúng không có gì nguy hại mà có thể có ích ở một mức độ nào đó. Nhưng nếu bà trở nên bị chúng ràng buộc hay quyến rũ, chúng có thể làm trở ngại bà. Theo nghĩa sâu nhất, có thể nói rằng ngay cả Bồ tát Quan Âm cũng bị ràng buộc với lòng thương xót, chỉ thành Phật mới thoát khỏi mọi ràng buộc. Một người bị ý nghĩ giúp đỡ người khác ám ảnh sẽ bị trói buộc vào sự trợ giúp những người khác mà tốt hơn không nên có sự trợ giúp như thế. Hãy lấy ví dụ một người có ít tiền sống một cách đơn giản. Cho người ấy những tiện nghi không cần thiết đối với cách sống đơn giản sẽ hủy diệt mất cuộc sống ấy. Đấy không phải là lòng tốt chi cả. Một vị Phật thì từ bi nhưng Ngài không bị dục vọng cứu vớt ám ảnh.

Dĩ nhiên các nội kiến về mình có giá trị nhưng mục đích của bà là vượt qua chúng. Nếu bà dừng lại để mừng mình vì các nội kiến ấy, thì việc tiến tới để nhận ra Phật tánh sẽ chậm lại. Theo nghĩa rộng nhất, mọi cái ngắn ngủi của chân ngộ đều là ma cảnh. Đừng trở nên quan tâm ma cảnh hay vui mừng vì chúng. Đừng để lòng mình bị những gì là kinh nghiệm nhất thời xoay hướng. Chỉ cần tiếp tục thực hành thành khẩn.

Học viên: Khoảng một giờ qua, trong lúc tọa thiền, sự đau đớn ở chân tôi bỗng nhiên biến mất trước khi tôi biết được điều ấy, nước mắt bắt đầu trào ra và tôi cảm thấy chính mình tan ra bên trong. Đồng thời một cảm giác yêu thương to lớn bao trùm lấy tôi. Điều ấy có nghĩa gì?

Lão sư: Tọa thiền được thực hành với lòng sùng mộ và sức mạnh sẽ đánh tan cảm giác xa lạ của chúng ta đối với con người và sự vật. Sự suy nghĩ của con người thường có tính chất nhị nguyên, người ta suy nghĩ về mình và những gì đối nghịch với họ. Đây là những gì gây ra cảnh khốn đốn bởi vì nó khơi dậy sự đối kháng và bám giữ, và đến lượt, những cái này đưa đến đau khổ. Lúc ấy, lòng thương xót của bà tự nhiên trở nên sâu hơn, vì tình cảm và suy nghĩ của bà không tập trung vào một cái "tôi" không hiện hữu nữa. Đây là những gì đã xảy ra với bà. Dĩ nhiên nó làm thỏa mãn cao độ, nhưng bà phải đi nữa. Hãy tiếp tục toàn tâm tập trung.

Học viên: Tôi thực hành chỉ quán đả tọa.

Lão sư: Bà có điều gì muốn hỏi.

Học viên: Vâng, hôm qua khi tôi đang gắng sức ngồi, như thầy đã thúc giục, tôi cảm thấy rằng nỗ lực của tôi có tính cách máy móc, bởi vì tôi phải rán tiến tới, nghĩa là phải đạt trạng thái ấy. Song tôi đã ngồi như thầy đã bảo, và khi tôi bị đánh nhiều lần bằng kích trượng, người sử dụng kích trượng bảo rằng tôi ngồi như thế rất tốt. Song tôi cảm thấy rằng lúc đó tôi ngồi một cách máy móc. Sáng nay, thay vì tiến tới, tôi cảm thấy bỗng nhiên mình bị đẩy tới, dường như vậy. Sức khỏe của tôi tự nhiên xuất hiện và tôi cảm thấy rằng chất lượng của tôi lúc ấy khá hơn chất lượng cái ngồi lúc tôi phải rán tiến tới. Song, sáng nay khi bị người trưởng tràng đánh, tôi được bảo rằng: "Bà đang buông lơi nỗ lực. Hãy rán lên!" Tôi thật bối rối.

Lão sư: Trước hết, đừng giữ lại trong tâm bà những lời nói của người cố gắng khuyến khích bà. Hãy nghe những gì người ấy nói và rồi quên nó đi. Dĩ nhiên cái ngồi mà cường lực tự nhiên tràn ra, không phải "rán tiến tới" vẫn tốt hơn. Không may không phải lúc nào cũng có thể duy trì được một cường lực như thế. Đó là lý do tại sao phải tự cưỡng bách mình ngồi một cách kiên định khi sức mạnh không đến một cách tự phát. Hãy nhớ rằng, có sự quan hệ nhân quả giữa cái ngồi máy móc, như bà gọi nó, và cái ngồi tự nhiên, dễ dàng mà bà đã kinh nghiệm sau đó. Dù sao, người ngồi không phải lúc nào cũng là vị quan tòa tốt nhất về chất lượng cái ngồi của mình. Điều quan trọng là bà không buông lơi nỗ lực, không nhường bước cho trầm trệ và mệt mỏi.

Học viên: Tôi cảm thấy có một cái gì đó nằm nơi trán tôi giữa hai mắt. Nó mạnh đến nỗi sự chú ý của tôi tự động trở nên bám chặt vào đó. Nhưng thầy đã chỉ, tôi tập trung tâm vào cái hốc ở bụng dưới, tôi đưa tâm tôi trở lại chỗ đó. Tôi nên tiếp tục cách ấy không?

Lão sư: Nếu tâm bà tự nhiên và tự phát đi đến điểm giữa hai mắt, thì nên hướng sự tập trung của bà đến chỗ đó. Đó cũng là một cách tập trung khác.

Lão sư: Có gì đặc biệt xảy ra với bà không?

Học viên: Tôi có cảm giác phần sau đầu tôi bị hơi thở đẩy lên và hơi thở đi xuống đến vùng thắt lưng. Đây có phải là ma cảnh không? Nếu thế, tôi phải làm gì?

Lão sư: Phải, đây cũng là ma cảnh, những cái ấy không có nghĩa gì đặc biệt. Chúng không có lợi cũng không có hại. Đừng ôm giữ chúng, bà chỉ cần hăng hái tiếp tục thực hành. Chúng xuất hiện, như tôi đã nêu rõ, khi người ta đang tập trung kịch liệt.

Học viên: Nhưng tại sao chúng lại xuất hiện?

Lão sư: Vô số tư niệm, giống như những làn sóng trên biển, liên tục hiện lên bề mặt tâm chúng ta như là kết quả sự vận hành của sáu thức.(2) Bấy giờ, trong tiềm thức của chúng ta có thể thấy được các ấn tượng tồn lưu những kinh nghiệm của chúng ta của những kiếp sống khác nhau, trở lại với thời gian không thể nhớ được. Khi tọa thiền thâm nhập sâu đến độ mặt trên và các tầng lớp trung gian khác của thức đều tĩnh lặng, các yếu tố tồn lưu này nổi lên vùng ý thức. Những cái ấy gọi là ma cảnh.

Bây giờ, đừng luyến ái khi chúng dễ yêu, cũng đừng sợ hãi khi chúng kỳ quái. Nếu bà bám vào đó – ngưỡng mộ hay sợ hãi – chúng có thể trở thành chướng ngại.

Học viên: Chân tôi đau lắm. Tôi có thể làm gì?

Lão sư: Nếu đau quá, bà khó tập trung đấy. Khi sự tập trung trở nên mãnh liệt, thay vì cản trở, cái đau sẽ thúc giục bà tiến tới nếu bà can đảm lợi dụng nó.

Học viên: Tôi có một câu hỏi khác. Tôi có thể làm gì khi tôi buồn ngủ?

Lão sư: Cái ấy tùy thuộc vào bản chất sự buồn ngủ của bà. Nếu chỉ là mơ màng, bà có thể làm như vầy: đưa nhẹ thân mình từ bên này sang bên kia nhiều lần, hay dụi mắt cũng được. Nếu là buồn ngủ nặng hơn vì đêm trước không ngủ, bà có thể thử hụp mặt vào nước lạnh hay xoa nó thật mạnh. Để đánh thức tinh thần ủ rũ, cách sau đây rất hữu ích: Hãy nghĩ rằng cái chết có thể đến bất cứ lúc nào hoặc vì tai nạn bất ngờ hoặc vì chứng bệnh trầm trọng, và hãy cương quyết đạt giác ngộ không trì hoãn.

Học viên: Tôi e rằng tôi đã làm việc một cách tệ hại trong khóa nhiếp tâm đầu tiên này của tôi. Tôi đã không thể tập trung được gì. Tâm tôi đã bị phân tán và quấy rầy vì sự la hét của các vị trưởng tràng cầm kích trượng, vì tiếng xe đò, xe tải, vì tiếng trẻ nít khóc ở nhà kế bên, vì tiếng chó sủa. Dù sao, tôi cũng đã tưởng mình đến một nơi yên tĩnh giữa những vùng chung quanh mộc mạc, nhưng hóa ra hoàn khác hẳn. Và tôi cũng thất vọng, xấu hổ vì tôi đã không thể làm việc tốt hơn được.

Lão sư: Bà không cần phải cảm nghĩ như vậy. Khởi đầu mọi người đều thấy khó tập trung, vì tâm rất dễ bị phân tán. Dĩ nhiên, một cách lý tưởng, tốt nhất là đến một nơi yên tĩnh khi khởi sự tọa thiền. Đó là lý do tại sao nhiều Thiền tăng đã đi và vẫn đi ẩn cư trong vùng núi non cô tịch. Nhưng ở lâu trong bầu không khí như thế không phải là tốt. Khi năng lực tập trung của một người đã phát triển và lớn mạnh, y có thể tọa thiền trong bất cứ hoàn cảnh nào – càng ồn ào càng tốt, thực vậy. Với sự tu dưỡng năng lực tập trung mạnh mẽ, người ta có thể xuống vùng ồn ào nhất của khu phố Ginza(3) để tọa thiền.

Học viên: Tôi có một vấn đề dài dòng, muốn hỏi phải mất thì giờ. Tôi biết có nhiều người đang chờ gặp thầy nhưng vấn đề này đối với tôi rất quan trọng, tôi hy vọng thầy cho phép tôi hỏi.

Lão sư: Cứ hỏi đi.

Học viên: Vì buổi nhiếp tâm vừa rồi tôi đã bị một số ý nghĩ và cảm giác không thích thú – và chúng không phải là ma cảnh – về chính tôi, về những gì tôi có thể gọi là bản tánh không thực của mình tấn công trong lúc trầm mặc. Trong bài giảng sáng nay, thầy nói rằng khi tâm chúng ta trống rỗng không một tư niệm, chân trí tuệ sẽ nhập vào. Thầy cũng nói về việc chỉ thấy khi nhìn, chỉ nghe khi lắng nghe. Tôi không thể làm được việc ấy vì cái ta của tôi luôn luôn chen vào. Bây giờ tôi không biết kiến tánh là gì, nhưng nếu nó là nhìn thấy bản tánh chân thực của mình, thì đối với tôi dường như những gì tôi đang làm đều trái ngược, nghĩa là nhìn thấy bản tánh không thực của mình.

Lão sư: Trước khi tọa thiền chúng ta nghĩ mình là bậc thượng nhân, nhưng khi chúng ta thấy mình rõ hơn, chúng ta sẽ khiêm tốn hơn vì biết được những ý nghĩ và hành vi xấu xa của mình. Nhưng sự hiểu biết như thế chính là phản ảnh của chân tánh. Giả sử, nếu chúng ta đi trong bóng tối và đến bên một cây thông, chúng ta không thấy gì về nó. Bấy giờ một mảnh trăng xuất hiện và chúng ta quan sát thấy những lá thông trên mặt đất. Khi trăng trở nên lớn hơn, chúng ta thấy được thân cây, rồi khi trăng đầy đủ chúng ta thấy cả cây. Nhận thức của chúng ta trong tất cả quá trình ấy là phản ảnh của Chân ngã.

Học viên: Tôi có thể hỏi một câu nữa được không? Tôi đã gặp và nói chuyện với những người tôi nghĩ đã có loại kinh nghiệm ngộ nào đó. Song họ dường như bị cái mà tôi gọi là bản tánh không thực làm phiền. Sao lại có thể thế được?

Lão sư: Thực ra có những người có kinh nghiệm kiến tánh, song họ dường như, nói về mặt tâm lý, còn kém hơn những người không có khinh nghiệm ấy. Bà hỏi tại sao như vậy? Những người giác ngộ ấy nhận thức sự thực rằng toàn bộ cuộc sống, trong bản chất của nó, thì không thể phân chia được, nhưng vì họ chưa tự làm sạch hết các tình cảm và xu hướng mê hoặc mà gốc rễ của chúng cắm sâu trong vô thức, họ không thể hành động hòa hợp với cái thấy bên trong của họ. Tuy nhiên, nếu họ tiếp tục tọa thiền, dần dần cá tính của họ sẽ được cải thiện khi họ trở nên sạch hết các ô nhiễm này, và theo thời gian họ sẽ trở thành những cá nhân xuất sắc. Mặt khác, có những người không bao giờ có kinh nghiệm kiến tánh, dường như có một sự che dấu nhũn nhặn và không vị kỷ, nghĩa là tâm trạng đích thực của họ. Bề mặt, những người này có vẻ đạo đức và vững vàng, nhưng vì họ không bao giờ nhìn thấy chân lý và vì thế họ vẫn thấy vũ trụ và họ cách biệt, xa rời, dưới áp lực lớn, cá tính có vẻ tốt của họ, bước đi và cách đối xử của họ để lại nhiều ước muốn cho kẻ khác.

Học viên (khóc): Chỉ khoảng năm phút qua tôi đã có một kinh nghiệm đáng sợ. Bỗng dưng tôi cảm thấy cả vũ trụ tan biến vào dạ dày tôi và tôi bật khóc. Đến bây giờ tôi vẫn không thể ngừng khóc được.

Lão sư: Nhiều kinh nghiệm kỳ lạ sẽ xảy ra khi bà tọa thiền, một vài kinh nghiệm giống như của bà hiện tại, đáng sợ. Nhưng chúng không có ý nghĩa nào đặc biệt cả. Nếu bà thấy phấn khởi vì sự việc xảy ra thích thú và bà sợ hãi khi nó đáng sợ, những kinh nghiệm như thế có thể làm trở ngại bà. Nhưng nếu bà không bám vào đó, tự nhiên chúng qua đi.

Học viên: Hôm qua tôi đã kể lại cả vũ trụ đâm đầu vào dạ dày tôi và những cơn kích động kêu khóc hãi hùng của tôi. Sau khi nghĩ lại, tôi cảm thấy rằng nó như thế là vì tôi đã tự bức hách mình thế nào ấy. Tôi nghĩ nếu tôi không bức bách mình thì chuyện ấy sẽ không xảy ra.

Lão sư: Nếu bà muốn tọa thiền một cách dễ dàng, thoải mái cũng được thôi. Chúng ta có thể làm một cuộc so sánh như thế này. Ba người muốn lên một đỉnh núi, nơi ấy có quan cảnh rộng lớn phi thường. Người thứ nhất không muốn tận dụng sức mình, và muốn bước đi thong thả. Vì thế dĩ nhiên y phải mất một thời gian mới đến đỉnh núi. Người thứ hai vội vàng hơn, bước những bước dài, vừa leo vừa vung tay. Người thứ ba vừa phóng vừa nhảy, người ấy lên đến đỉnh một cách nhanh chóng và kêu lên: "Ôi, quang cảnh hùng tráng làm sao!"

Học viên: Cách nào tốt nhất?

Lão sư: Tất cả tùy thuộc vào tâm thái của bà. Nếu bà có nhiều thì giờ, cách thứ nhất sẽ làm bà hài lòng. Nhưng nếu bà hăng hái muốn lên nhanh tới đỉnh, tự nhiên một trong hai cách kia sẽ tốt hơn. Không cần nói ai cũng biết, đi nhanh tốn nhiều năng lực hơn. Hơn nữa, khi tận dụng sức lực với kịch liệt say mê bà có thể mong cho sự việc xảy ra – dù đáng thích hay đáng sợ - nói cách khác, ấy là những gì bà đã kinh nghiệm.

Học viên: Tôi cảm ơn thầy rất nhiều. Tôi cũng muốn nói rằng vì tôi sẽ trở về Hoa kỳ vào tuần tới, đây là buổi nhiếp tâm cuối cùng của tôi. Dù các buổi nhiếp tâm có đau đớn thế nào cũng đã vén mở cho tôi rất nhiều. Không có buổi nhiếp tâm cuối cùng này, đặc biệt tôi không hiểu mình như tôi đã hiểu và sẽ không biết làm sao tiến xa hơn. Tôi rất cảm ơn thầy về sự trợ giúp phi thường mà thầy đã cho tôi.

GHI CHÚ:

(1) Lão sư, giống như Lục Tổ Huệ Năng trong một bài kệ nổi tiếng, so sánh tâm không phải với hình thể tấm gương, vì tâm không hình thể, mà với sức phản chiếu của nó. Bài kệ của Tổ Huệ Năng đọc:

  • Bồ đề bổn vô thọ,
    Minh cảnh diệc phi đài.
    Bổn lai vô nhất vật,
    Hà xứ nhạ trần ai?

    Bồ đề vốn không phải cây,
    Gương sáng chẳng phải đài.
    Xưa nay không một vật,
    Chỗ nào bám bụi trần.
(2) Thức thứ sáu, theo Phật giáo, là khả năng phân biệt.

(3) Khu phố rộn rịp nhất của Tokyo, thủ đô Nhật bản.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.25 khách