Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
alphatran
Bài viết: 1385
Ngày: 04/05/11 20:42
Giới tính: Nam
Đến từ: Hữu Lậu Tịnh Tu Am

Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi alphatran »

PHẨM THỨ BA: NGHI VẤN



DỊCH



Một hôm Vi Thứ sử vì Tổ thiết đại hội trai, trai xong, Thứ sử thỉnh Tổ đăng tòa, quan liêu sĩ thứ đều thành kính lễ bái, hỏi rằng: “Đệ tử nghe Hòa thượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn, nay có một ít nghi, cúi mong Ngài đại từ đại bi đặc biệt vì giải nói.”

Tổ bảo: “Có nghi liền hỏi, tôi sẽ vì các ông mà nói.”

Thứ sử thưa: “Hòa thượng nói pháp, đâu không phải là tông chỉ của Tổ Đạt-ma ư?”

Tổ bảo: “Đúng vậy!”

Thứ sử thưa: “Đệ tử nghe Tổ Đạt-ma khi mới đến vua Lương Võ Đế, Võ Đế hỏi: Trẫm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai có những công đức gì? Tổ Đạt-ma bảo: Thật không có công đức. Đệ tử chưa thấu được lẽ này, cúi mong Hòa thượng vì nói.”

Tổ bảo: “Thật không có công đức, chớ nghi lời của bậc tiên Thánh. Võ Đế tâm tà, không biết chánh pháp, cất chùa độ Tăng, bố thí, thiết trai đó gọi là cầu phước, chớ không thể đem phước đổi làm công đức. Công đức là ở trong pháp thân, không phải do tu phước mà được.” Tổ lại nói: “Thấy tánh là công, bình đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức; tự tánh dựng lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức; không lìa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức, tâm tức không có khinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là không công, tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, vì ngô ngã tự đại thường khinh tất cả. Này Thiện tri thức, mỗi niệm không có gián đoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Này Thiện tri thức, công đức phải là nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau. Võ Đế không biết chân lý, không phải Tổ Sư ta có lỗi.”

Thứ sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh Tây phương, thỉnh Hòa thượng nói, được sanh nơi cõi kia chăng? Nguyện vì phá cái nghi này.”

Tổ bảo: “Sử quân khéo lắng nghe, Huệ Năng sẽ vì nói. Thế Tôn ở trong thành Xá-vệ nói Tây phương dẫn hóa, văn kinh rõ ràng cách đây không xa. Nếu luận về tướng mà nói, số dặm có mười muôn tám ngàn, tức là trong thân có mười ác và tám tà, liền là nói xa, nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì những người thượng trí. Người có hai hạng nhưng pháp không có hai thứ, mê ngộ có khác, thấy có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh về cõi kia, người ngộ tự tịnh tâm mình, sở dĩ Phật nói: Tùy tâm tịnh liền được cõi Phật tịnh. Sử quân, người phương Đông chỉ tâm mình tịnh liền không có tội, tuy người phương Tây tâm không tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh về phương Tây, còn người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh cõi nào? Phàm ngu không rõ tự tánh, không biết trong thân Tịnh độ, nguyện đông, nguyện tây, người ngộ ở chỗ nào cũng vậy, cho nên Phật nói: Tùy chỗ mình ở hằng được an lạc. Sử quân, tâm địa chỉ không có bất thiện thì Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng chẳng thiện, niệm Phật vãng sanh khó đến. Nay khuyên Thiện tri thức trước nên dẹp trừ thập ác tức là đi được mười muôn, sau trừ tám cái tà bèn qua được tám ngàn, mỗi niệm thấy tánh thường hành bình trực, đến như trong khảy móng tay, liền thấy đức Phật A-di-đà. Sử quân, chỉ hành mười điều thiện đâu cần lại nguyện vãng sanh, không đoạn tâm thập ác thì Phật nào đón tiếp. Nếu ngộ được đốn pháp vô sanh, thấy Tây phương chỉ trong khoảng sát-na. Còn chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh thì con đường xa làm sao đến được! Huệ Năng vì mọi người dời cõi Tây phương trong khoảng sát-na ở trước mắt khiến cho quí vị được thấy, quí vị có muốn thấy hay chăng?”

Chúng đều đảnh lễ thưa rằng: “Nếu ở cõi này mà thấy được thì đâu cần phải nguyện vãng sanh, nguyện Hòa thượng từ bi liền hiện Tây phương khiến cho tất cả được thấy.”

Tổ bảo: “Này Đại chúng! Người đời tự sắc thân là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh còn thì vua còn, tánh đi mất thì vua mất; tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật nhằm trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, bình trực tức là Phật Di-đà. Nhân ngã ấy là Tu-di, tà tâm là biển độïc, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỉ thần, trần lao là rùa trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Này Thiện tri thức, thường làm mười điều lành thì thiên đường liền đến, trừ nhân ngã thì núi Tu-di ngã, dẹp được tham dục thì biển nước độïc khô, phiền não không thì sóng mòi mất, độc hại trừ thì rồng cá đều dứt. Ở trên tâm địa mình là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh hay phá sáu cõi trời dục, tự tánh trong chiếu ba độïc tức liền trừ địa ngục v.v... các tội một lúc đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tột, chẳng khác với cõi Tây phương, không chịu tu như thế này làm sao đến được cõi kia?”

Đại chúng nghe nói rồi đều rõ ràng thấy được tự tánh, thảy đều lễ bái, đều tán thán: “Lành thay!” Thưa rằng: “Khắp nguyện pháp giới chúng sanh nghe một thời liền ngộ hiểu.”

Tổ bảo: “Này Thiện tri thức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần ở chùa, người tại gia mà hay hành như người ở phương Đông mà tâm được thiện, còn người ở chùa mà không tu cũng như người ở phương Tây mà tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh tức là tự tánh Tây phương.”

Thứ sử Vi Cừ lại hỏi: “Người tại gia làm sao tu hành? Cúi xin Ngài vì chỉ dạy.”

Tổ bảo: “Tôi vì Đại chúng làm một bài tụng Vô Tướng, chỉ y đây mà tu, thường cùng tôi đồng ở không khác, nếu không tu như thế này dù có cạo tóc xuất gia đối với đạo cũng không có ích gì. Tụng rằng:

Tâm bình không nhọc giữ giới,

Hạnh thẳng không cần tu thiền,

Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ,

Nghĩa thì trên dưới thương nhau.

Nhường thì trên dưới hòa mục,

Nhẫn thì các ác không ồn,

Nếu hay dùi cây ra lửa,

Trong bùn quyết mọc sen hồng.

Đắng miệng tức là thuốc hay,

Nghịch tai là lời ngay thẳng,

Sửa lỗi ắt sanh trí tuệ,

Giữ quấy trong tâm không hiền.

Mỗi ngày thường làm lợi ích,

Thành đạïo không do thí tiền,

Bồ-đề chỉ hướng tâm tìm,

Đâu nhọc hướng ngoại cầu huyền.

Nghe nói y đây tu hành,

Cực lạc chỉ ngay trước mắt.”

(Tâm bình hà lao trì giới,

Hạnh trực hà dụng tu thiền,

Ân tắc thân dưỡng phụ mẫu,

Nghiã tắc thượng hạ tương lân.

Nhượng tắc tôn ti hoà mục,

Nhẫn tắc chúng ác vô huyên,

Nhược năng toản mộc xuất hoả,

Ứ nê định sanh hồng liên.

Khổ khẩu đích thị lương dược,

Nghịch nhĩ tức thị trung ngôn,

Cải quá tức sanh trí tuệ,

Hộ đoản tâm nội phi hiền.

Nhật dụng thường hành nhiêu ích,

Thành đạo phi do thí tiền,

Bồ đề chỉ hướng tâm mích,

Hà lao hướng ngoại cầu huyền.

Thính thuyết y thử tu hành,

Tây phương chỉ tại mục tiền.)

Tổ lại bảo: “Này Thiện tri thức, thảy phải y kệ đây mà tu hành, nhận lấy tự tánh, thẳng đó thành đạo. Pháp không đợi nhau, mọi người hãy giải tán, tôi trở về Tào Khê, chúng nếu có nghi, lại đến hỏi nhau.”

Khi ấy Thứ sử quan liêu ở trong hội, kẻ thiện nam tín nữ mỗi người đều được khai ngộ, tin thọ vâng làm.



Link gốc: http://www.chuahaiduc.org/Kinh%20Tieng% ... _dan_1.htm
Sửa lần cuối bởi alphatran vào ngày 03/05/12 05:10 với 1 lần sửa.


Pháp môn vô lượng thệ nguyện học - Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn - Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành - Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Hình đại diện của người dùng
alphatran
Bài viết: 1385
Ngày: 04/05/11 20:42
Giới tính: Nam
Đến từ: Hữu Lậu Tịnh Tu Am

Re: Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi alphatran »

Chỗ câu hỏi tô màu đỏ, kính nhờ đạo hữu Thánh Tri giảng thêm về câu trả lời của Lục Tổ

Cảm ơn đạo hữu.


Pháp môn vô lượng thệ nguyện học - Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn - Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành - Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Hình đại diện của người dùng
dct87
Bài viết: 702
Ngày: 16/03/08 01:42
Giới tính: Nam

Re: Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi dct87 »

1 Nhân duyên của Tổ lúc truyền pháp
2 Đối tượng của Tổ lúc truyền pháp
3 Pháp của Tổ lúc truyền pháp
4 Lời cảnh tỉnh của Tổ đối với kẻ tu Thiền

Ngay câu nói đó chính là xiển dương Tịnh Độ mà người kém trí không nhìn thấy

Thánh Tri trả lời không được thì sẽ bị chê là dở
Thánnh Tri trả lời được sẽ bị nói là "nói suông".

Ô i, ai còn nhớ 36 phép đối củâ Tổ?.

Nam Mô A Di Đà Phâ.t


Hình ảnh
Hình đại diện của người dùng
alphatran
Bài viết: 1385
Ngày: 04/05/11 20:42
Giới tính: Nam
Đến từ: Hữu Lậu Tịnh Tu Am

Re: Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi alphatran »

dct87 đã viết:1 Nhân duyên của Tổ lúc truyền pháp
2 Đối tượng của Tổ lúc truyền pháp
3 Pháp của Tổ lúc truyền pháp
4 Lời cảnh tỉnh của Tổ đối với kẻ tu Thiền

Ngay câu nói đó chính là xiển dương Tịnh Độ mà người kém trí không nhìn thấy

Thánh Tri trả lời không được thì sẽ bị chê là dở
Thánnh Tri trả lời được sẽ bị nói là "nói suông".

Ô i, ai còn nhớ 36 phép đối củâ Tổ?.

Nam Mô A Di Đà Phâ.t
Này hiền hữu,

Alpha thấy ở diễn đàn này Thánh Tri là vị có am hiểu về thiền nhiều nhất, vững vàng nhất nên thật lòng muốn hỏi đó thôi. Cũng chính vì kém trí chẳng thấy vậy thôi.

Xin hãy hoan hỉ,


Pháp môn vô lượng thệ nguyện học - Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn - Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành - Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
BATKHONG1985
Bài viết: 1620
Ngày: 03/07/11 06:10
Giới tính: Nam
Đến từ: CHỖ TẤT CẢ MỌI NGƯỜI ĐẾN

Re: Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi BATKHONG1985 »

Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh về phương Tây, còn người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh cõi nào? Phàm ngu không rõ tự tánh, không biết trong thân Tịnh độ, nguyện đông, nguyện tây, người ngộ ở chỗ nào cũng vậy,
Đây chỉ là tình huống giả định mà Lục Tổ đặt ra khi giảng pháp (có dấu ?).

Người ở Ta Bà này, giữ lấy tâm tạo tội thì niệm Phật khan cả cổ cũng chẳng thể nào vãng sanh, tức đã là dân chúng Tây Phương thì không có tâm tà ác tạo tội. Muốn vãng sanh thì tự mình nghiệm biết tâm tạo tội là mầm móng tạo ra khổ đau; từ đó buông xả tâm tạo tội mà niệm Phật mới mong vãng sanh.

Phải biết Cực Lạc là thế giới dành cho những người tu tập mà thôi, Kinh Văn đều nói rõ mỗi hoạt động của dân chúng Cực Lạc đều là tu trì. Tu trì cho đến khi nào mình liễu ngộ tự tâm, tự biết cách thanh tịnh tâm không bị nhiễu loạn bởi các tướng trạng nữa thì tuỳ nguyện, muốn đến đâu thì đến, muốn đi đâu thì đi, vì đã ngộ tự tâm bình đẳng các tướng, nơi nào cũng không khác.

Thế Giới Cực Lạc chỉ là phương tiện thù thắng giúp hành giả tăng tiến không ngừng đến liễu ngộ tự tánh mình hay tự tánh Di Đà.

Nếu chư vị đã chọn con đường tu tập trong Ta Bà thì phải kiên trì nó, không ngại gian nan thử thách.

Nếu cảm thấy sức mình không kham nổi thì hãy kiên trì tu tập hạnh - nguyện vãng sanh Thế Giới Cực Lạc.


Tái sanh là do VÔ MINH=không rõ bản chất của sắc, thọ, tưởng, hành, thức
Sang - hèn, đẹp - xấu, khổ - vui, ... là do THÂN, KHẨU, Ý đã tạo
Khéo tạo hưởng niềm vui, có ác sẽ nhận ác, tất thảy do nơi mình
Người trí cầu triệt Vô Minh, thanh tịnh THÂN, KHẨU, Ý, được an lành giải thoát
Vọng ngã
Bài viết: 148
Ngày: 22/09/11 07:40
Giới tính: Nam
Đến từ: HCM

Re: Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Vọng ngã »

Xin trích lại vài câu củâ Lục Tổ:
Thế Tôn ở trong thành Xá-vệ nói Tây phương dẫn hóa, văn kinh rõ ràng cách đây không xa.
số dặm có mười muôn tám ngàn, tức là trong thân có mười ác và tám tà, liền là nói xa
Người có hai hạng nhưng pháp không có hai thứ
Tùy tâm tịnh liền được cõi Phật tịnh.
tâm địa chỉ không có bất thiện thì Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng chẳng thiện, niệm Phật vãng sanh khó đến.
Nếu ngộ được đốn pháp vô sanh, thấy Tây phương chỉ trong khoảng sát-na. Còn chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh thì con đường xa làm sao đến được!
Phật nhằm trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu.
Tự tánh mê tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, bình trực tức là Phật Di-đà. Nhân ngã ấy là Tu-di, tà tâm là biển độïc, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỉ thần, trần lao là rùa trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh.
Chỉ tâm thanh tịnh tức là tự tánh Tây phương.


Namo tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa
BATKHONG1985
Bài viết: 1620
Ngày: 03/07/11 06:10
Giới tính: Nam
Đến từ: CHỖ TẤT CẢ MỌI NGƯỜI ĐẾN

Re: Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi BATKHONG1985 »

Bởi vậy,

Hành giả thấy mình kham nổi theo cách thức nào thì nên kiên trì theo đó. Nếu mà lưng chừng, tư tưởng không ổn định thì uổng công tu hành, công phu được chút ít lại bị gián đoạn không đến nơi được.


Tái sanh là do VÔ MINH=không rõ bản chất của sắc, thọ, tưởng, hành, thức
Sang - hèn, đẹp - xấu, khổ - vui, ... là do THÂN, KHẨU, Ý đã tạo
Khéo tạo hưởng niềm vui, có ác sẽ nhận ác, tất thảy do nơi mình
Người trí cầu triệt Vô Minh, thanh tịnh THÂN, KHẨU, Ý, được an lành giải thoát
Hình đại diện của người dùng
Thánh_Tri
Điều Hành Viên
Bài viết: 3851
Ngày: 21/12/07 21:02

Re: Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thánh_Tri »

Thứ sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh Tây phương, thỉnh Hòa thượng nói, được sanh nơi cõi kia chăng? Nguyện vì phá cái nghi này.”
Thứ nhứt phải hiểu mỗi pháp môn đều có tôn chỉ riêng. Tịnh Độ thì có tôn chỉ riêng của Tịnh Độ. Thiền có Tôn chỉ riêng của Thiền. Không thể gán ép qua lại được. Tôi đã nói câu nầy nhiều lần rồi.

Ông tu Tịnh Độ thì chỉ cần theo Tôn Chỉ Tịnh Độ.
Ông tu Thiền thì chỉ cần theo Tôn Chỉ Thiền.

Không nên so sánh qua lại. Ông chỉ cần chọn pháp môn nào thích hợp với ông nhứt mà chuyên tu thôi.

Tổ Huệ Năng là người theo Thiền Tông, dĩ nhiên phải đối đáp theo Thiền Tông để giúp cho hành giả tham thiền tin nơi tự tâm mà tu hành, phá mọi tình chấp của đương cơ, giúp cho không bị lọt qua cơ cảnh khác là lẽ tất yếu.

Tổ Huệ Năng là người Minh Tâm Kiến Tánh. Dĩ nhiên am hiểu tường tận và nói rõ ràng hơn tôi, kẻ chưa Minh Tâm Kiến Tánh. Xong ông hỏi thì tạm đáp vài lời.

Tôi sẽ đối đáp Theo cái tôn chỉ của người tham Thiền, do vậy sẽ rất khó nghe đối với người tu Tịnh Độ, bởi hai tôn chỉ khác nhau hoàn toàn:

Tự Tánh tức là A Di Đà Phật
Duy Tâm tức là Tịnh Độ

Muốn vãng sanh Tịnh Độ phải Tịnh Tâm Mình. Bởi Kinh Duy Ma nói: "Tuỳ kỳ tâm tịnh tức Phật Độ Tịnh".

Tâm còn khởi nhiều vọng niệm thì làm sao được Tịnh Độ? gọi là Tịnh Độ được?

Hễ sanh một niệm vọng cầu Đông Tây thì trần lao liền khởi, rơi vào thế giới Tương Đối, mãi giam cầm trong Đối Đãi.

Tâm Tánh là bản thể Tuyệt Đối, vốn không có Đông Tây, các pháp đều Bất Nhị.

Do vậy bản thể Tuyệt Đối thì một bề Thanh Tịnh, đấy tức là Tịnh Độ. Bởi Tâm đã Tịnh thì nơi nơi chốn chốn đều Tịnh. Người Minh Tâm Kiến Tánh rồi thì dù ở cõi Uế Độ Ta Bà, có các cảnh tướng sấu ác bất tịnh, xong dù cảnh có ra sau đi nữa, tâm người đã Minh Tâm Kiến Tánh thì không còn chạy theo sắc thanh hương vị xúc pháp trần, nên không có chấp dính, không khởi phân biệt, không bị phiền não. Tức đối với họ cảnh vẫn tịnh, bởi tâm họ đã tịnh.

Như trong Pháp Bảo Đàn Kinh, hai vị sư đối đáp lẫn nhau, một vị cho rằng gió động, một vị cho rằng lá cờ động. Tổ Huệ Năng đến bảo: "gió không động, cờ không động, chỉ tại tâm các ông động."

Trong Kinh Niết Bàn, có vị đệ tử hỏi Phật: "Như Lai nói bậc thánh không còn phân biệt chấp trước thì tại sao họ lại dùng danh từ thế gian mà phân biệt được đây là cái bàn, kia là cái ghế y như người thế tục?"

Đức Thế Tôn đáp: "Ông đừng lầm cho bậc thánh có phân biệt chấp trước, họ chỉ tạm dùng từ ngữ thế gian mà không có chấp trước như người thế gian nên gọi họ là Thế Lưu Bố Tưởng. Còn người thế gian hễ nói ra lời gì thì chấp lời đó, nên gọi là Trước Tưởng." - Toát Yếu một đoạn Kinh Niết Bàn, muốn rõ từng chữ phải xem Kinh, tôi không nhớ!

Do vậy đối với bậc thánh, đã minh tâm kiến tánh thì không còn chấp dính, bởi họ đã thoát được thế giới Tương Đối vào tâm tánh Tuyệt Đối.

Trong tâm tánh tuyệt đối thì vừa Tịch vừa Chiếu. Tịch thì gọi là Duy Tâm Tịnh Độ. Chiếu thì gọi là Tự Tánh Di Đà. Thường Tịch Quang Tịnh Độ tức là Tự Tâm Bổn Tánh. Do vậy nói chư Phật đều ở trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Bởi chư phật ai ai cũng Minh Tâm Kiến Tánh, mà Tánh thì thường Tịch và thường Quang, hay Tịch và Chiếu.

Về được với Tự Tánh thì gọi là vãng sanh Tịnh Độ, minh tâm kiến tánh thì gọi là thấy Phật A Di Đà, vì Tự Tánh là Phật. Tự tánh ấy, Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Mười Phương Phật đều không khác. Cho nên gọi Tự Tánh ấy là Phật gì cũng được.

Do vậy Tổ nói: Tự tánh mê tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, bình trực tức là Phật Di-đà.


"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Hình đại diện của người dùng
alphatran
Bài viết: 1385
Ngày: 04/05/11 20:42
Giới tính: Nam
Đến từ: Hữu Lậu Tịnh Tu Am

Re: Đau đầu: Phẩm Nghi vấn - Pháp bảo đàn Kinh

Bài viết chưa xem gửi bởi alphatran »

Thánh_Tri đã viết:
Thứ sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh Tây phương, thỉnh Hòa thượng nói, được sanh nơi cõi kia chăng? Nguyện vì phá cái nghi này.”
Thứ nhứt phải hiểu mỗi pháp môn đều có tôn chỉ riêng. Tịnh Độ thì có tôn chỉ riêng của Tịnh Độ. Thiền có Tôn chỉ riêng của Thiền. Không thể gán ép qua lại được. Tôi đã nói câu nầy nhiều lần rồi.

Ông tu Tịnh Độ thì chỉ cần theo Tôn Chỉ Tịnh Độ.
Ông tu Thiền thì chỉ cần theo Tôn Chỉ Thiền.

Không nên so sánh qua lại. Ông chỉ cần chọn pháp môn nào thích hợp với ông nhứt mà chuyên tu thôi.

Tổ Huệ Năng là người theo Thiền Tông, dĩ nhiên phải đối đáp theo Thiền Tông để giúp cho hành giả tham thiền tin nơi tự tâm mà tu hành, phá mọi tình chấp của đương cơ, giúp cho không bị lọt qua cơ cảnh khác là lẽ tất yếu.

Tổ Huệ Năng là người Minh Tâm Kiến Tánh. Dĩ nhiên am hiểu tường tận và nói rõ ràng hơn tôi, kẻ chưa Minh Tâm Kiến Tánh. Xong ông hỏi thì tạm đáp vài lời.

Tôi sẽ đối đáp Theo cái tôn chỉ của người tham Thiền, do vậy sẽ rất khó nghe đối với người tu Tịnh Độ, bởi hai tôn chỉ khác nhau hoàn toàn:

Tự Tánh tức là A Di Đà Phật
Duy Tâm tức là Tịnh Độ

Muốn vãng sanh Tịnh Độ phải Tịnh Tâm Mình. Bởi Kinh Duy Ma nói: "Tuỳ kỳ tâm tịnh tức Phật Độ Tịnh".

Tâm còn khởi nhiều vọng niệm thì làm sao được Tịnh Độ? gọi là Tịnh Độ được?

Hễ sanh một niệm vọng cầu Đông Tây thì trần lao liền khởi, rơi vào thế giới Tương Đối, mãi giam cầm trong Đối Đãi.

Tâm Tánh là bản thể Tuyệt Đối, vốn không có Đông Tây, các pháp đều Bất Nhị.

Do vậy bản thể Tuyệt Đối thì một bề Thanh Tịnh, đấy tức là Tịnh Độ. Bởi Tâm đã Tịnh thì nơi nơi chốn chốn đều Tịnh. Người Minh Tâm Kiến Tánh rồi thì dù ở cõi Uế Độ Ta Bà, có các cảnh tướng sấu ác bất tịnh, xong dù cảnh có ra sau đi nữa, tâm người đã Minh Tâm Kiến Tánh thì không còn chạy theo sắc thanh hương vị xúc pháp trần, nên không có chấp dính, không khởi phân biệt, không bị phiền não. Tức đối với họ cảnh vẫn tịnh, bởi tâm họ đã tịnh.

Như trong Pháp Bảo Đàn Kinh, hai vị sư đối đáp lẫn nhau, một vị cho rằng gió động, một vị cho rằng lá cờ động. Tổ Huệ Năng đến bảo: "gió không động, cờ không động, chỉ tại tâm các ông động."

Trong Kinh Niết Bàn, có vị đệ tử hỏi Phật: "Như Lai nói bậc thánh không còn phân biệt chấp trước thì tại sao họ lại dùng danh từ thế gian mà phân biệt được đây là cái bàn, kia là cái ghế y như người thế tục?"

Đức Thế Tôn đáp: "Ông đừng lầm cho bậc thánh có phân biệt chấp trước, họ chỉ tạm dùng từ ngữ thế gian mà không có chấp trước như người thế gian nên gọi họ là Thế Lưu Bố Tưởng. Còn người thế gian hễ nói ra lời gì thì chấp lời đó, nên gọi là Trước Tưởng." - Toát Yếu một đoạn Kinh Niết Bàn, muốn rõ từng chữ phải xem Kinh, tôi không nhớ!

Do vậy đối với bậc thánh, đã minh tâm kiến tánh thì không còn chấp dính, bởi họ đã thoát được thế giới Tương Đối vào tâm tánh Tuyệt Đối.

Trong tâm tánh tuyệt đối thì vừa Tịch vừa Chiếu. Tịch thì gọi là Duy Tâm Tịnh Độ. Chiếu thì gọi là Tự Tánh Di Đà. Thường Tịch Quang Tịnh Độ tức là Tự Tâm Bổn Tánh. Do vậy nói chư Phật đều ở trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Bởi chư phật ai ai cũng Minh Tâm Kiến Tánh, mà Tánh thì thường Tịch và thường Quang, hay Tịch và Chiếu.

Về được với Tự Tánh thì gọi là vãng sanh Tịnh Độ, minh tâm kiến tánh thì gọi là thấy Phật A Di Đà, vì Tự Tánh là Phật. Tự tánh ấy, Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Mười Phương Phật đều không khác. Cho nên gọi Tự Tánh ấy là Phật gì cũng được.

Do vậy Tổ nói: Tự tánh mê tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, bình trực tức là Phật Di-đà.
Kính hiền hữu Thánh Tri,

Alpha biết hiền hữu vốn hiểu nhiều về Thiền nên dặm hỏi. Tính bàn sâu hơn nhưng xét thấy nhân duyên không đủ, thôi thì mình tạm thảo luận bấy nhiêu.

Cảm ơn hiền hữu, chúc hiền hữu luôn được an lạc!

Nam mô A Di Đà Phật!


Pháp môn vô lượng thệ nguyện học - Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn - Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành - Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.31 khách