- THIỀN GIÁO SONG HÀNH
(Sách: Tự Gia Bảo, Thiền Thất Chơn Không, Montréal, Canada, trang 243 - 247)
Buổi nói chuyện hôm nay, tôi không nói cái phát minh mới, chỉ trình bày đường lối chủ trương của Tu Viện để các thiền sinh nắm vững mà tu học cho đúng, không còn nghi ngờ, và nếu có trình bày cho người học hiểu thì trình bày được chính xác và rõ ràng.
Muốn rõ đường tu hành của Tu viện Chơn Không, trước hết phải nhìn lui về lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Phật giáo Trung hoa từ đời Tấn tới đời Đường chia ra mười tôn phái. Về sau, từ đời Nguyên, đời Minh, đời Thanh còn lại có bốn tông là: Thiền, Giáo, Tịnh và Mật.
Giáo trùm cả Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Tam luận Tông, Pháp Tướng Tông... Nói chung, các tông có chủ trương học kinh, học luật, học luận đều thuộc về Giáo. Còn Thiền tông, Tịnh Độ tông, Mật tông hoằng hóa, nhưng có hai tông nổi bậc là Giáo và Thiền. Giáo chỉ cho những vị tu sĩ chuyên học và trì tụng kinh điển, chùa nào học và trì tụng kinh điển thì được coi như tu theo Giáo. Còn Thiền thời bấy giờ là nhắm thẳng Thiền thoại đầu, do chư Tổ dòng Lâm Tế từ đời Tống xiển dương. Hai bên Thiền và Giáo có chủ trương khác nhau nên công kích lẫn nhau. Thiền thì công kích Giáo là kiến giải suông, chỉ học hiểu mà không thực hành. Giáo thì công kích Thiền là thiền ngu dốt, không thông giáo lý, vì Thiền chuyên tu thoại đầu chủ trương độn công phu. Nghĩa là thiền sinh chỉ tin vào vị thầy hướng dẫn, vị hướng dẫn cho một câu thoại đầu, thiền sinh phải dồn hết tâm lực khán câu thoại đầu đó cho tới ngày ngộ, chứ không học kinh điển, ngoại trừ những buổi khai thị của vị thầy đó thì có tham học. Do đó, hai tông có cớ để công kích nhau. Còn Tịnh Độ Tông và Mật Tông thì có chủ trương đường lối riêng, nên ở đây không bàn tới.
Xét ra, Thiền và Giáo bên nào cũng có cái ưu, nhưng cũng không tránh khỏi cái khuyết. Giáo, ưu ở học kinh điển, nhưng khuyết ở chỗ học hiểu mà không hành, chỉ đem kinh điển ra giảng nói, tụng đọc thôi. Kinh luật Phật dạy để cho người thực hành, chớ không phải dạy để giảng thuyết suông hay tụng đọc mà không thấy chân lý. Thiền khán thoại đầu, được cái ưu là dồn hết tâm lực trong câu thoại đầu, không bị chi phối bởi những kiến giải. Nhưng vì không có học kinh điển, nên chỉ tu đến khi nào ngộ thì lúc đó đành chịu độn công phu! Thiền được coi là một tông phái không trọng giáo. Bởi vì không trọng giáo nên lâm vào cái lỗi lớn là tu mà không thông giáo lý Phật, và sau lại vấp thêm cái lỗi thứ hai nữa là vì không trọng giáo chỉ chuyên khán thoại đầu để chờ ngộ đạo. Song mỗi pháp hội năm bảy trăm thiền sinh, mà người ngộ đạo chỉ có một hai thôi, những người không ngộ đạo thì sao? Đó chính là cái nhân làm cho Thiền thoại đầu biến các chùa Thiền tông thành Tịnh Độ sau này. Tại sao vậy? Vì khi khán thoại đầu mà không ngộ thì tốt hơn là trở lại niệm Phật, vì niệm Phật nhẹ nhàng ít nhọc hơn khán thoại đầu (ví dụ khán câu "Niệm Phật là ai?", thiền sinh dồn hết tâm lực vào câu hỏi mà không trả lời được, để chờ ngộ...). Người khán thoại đầu chỉ tin vào lời của vị thầy chỉ dạy, hướng theo đó mà tu cho tới khi ngộ đạo, chứ không trông cậy vào kinh Phật. Về sau, có nhiều người cho rằng tin Phật, nhứt là Phật A Di Đà, trong 48 lời nguyện có lời nguyện là "Ai niệm danh hiệu ngài, sẽ được ngài đón về Cực Lạc".. Tin và tu như vậy dễ hơn. Do đó, người tu Thiền dần dần chuyển sang Tịnh Độ. Chính ở Việt Nam, các chùa Thiền tông sau này biến thành chùa Tịnh Độ cũng vì lý do đó, không phải ai khán thoại đầu cũng đều ngộ, nếu không ngộ thì cả đời tu không sáng sủa. Hai tông Thiền, Tịnh đều có cái ưu và cái khuyết. Tịnh Độ ưu là tin vào đức Phật A Di Đà, khuyết là cõi Cực Lạc thì quá xa. Còn Thiền thoại đầu khuyết là không tin Phật, chỉ tin vào vị thiền sư hướng dẫn, ưu là ngộ ngay nơi chính mình. Đó là ưu khuyết của hai tông Thiền, Tịnh. Về sau Tịnh Độ có phần hưng thịnh, vì thiền thoại đầu thiền sinh tu lâu ngày thấy nhọc nhằn mà không ngộ đạo, lần lần chuyển sang Tịnh Độ niệm Phật nhẹ nhàng dễ hơn. Đó là lý do mà người sau phải suy nghĩ.
Giáo thì nặng về kinh, chỉ học, trì tụng, thuyết giảng suông mà không ứng dụng tu hành. Thiền thì chỉ khán thoại đầu mà không chịu học kinh, vì học kinh điển sợ trở thành kiến giải. Cả hai đều có tính cách thái quá, cho nên Tu viện Chơn Không chủ trương Thiền Giáo song hành. Về Giáo, thiền sinh phải học kinh, luận sử. Về Thiền thì phải thực nghiệm tu tập. Các thiền sư nói Giáo là lời Phật nói hay là miệng của chư Phật không hai. Vì tâm và miệng của Phật không hai nên Thiền và Giáo không hai. Vì vậy Tu viện Chơn Không chúng tôi chủ trương Thiền Giáo song hành. Từ lâu, tôi thường nói với tất cả thiền sinh rằng: Đối với Tam Bảo, tôi có niềm tin rất sâu, cho nên lúc nào cũng cố gắng làm cho ngọn đèn Phật pháp sáng tỏ, không muốn nó bị lu mờ. Nếu chúng ta chuyên tu thiền thoại đầu thì quên học kinh luận, mà quên học kinh luận thì vô tình phế Pháp bảo. Mười người tu thoại đầu, chắc gì mười người ngộ, hay năm người ngộ, hay một người ngộ thôi? Nếu không ngộ thì ngọn đèn Phật pháp dần đàn tắt mất, đó là điều mà tu sĩ chúng ta phải thận trọng.
Ở Việt Nam, trong thời chúng tôi tu học thì Phật giáo chia tổng quát là ba nhóm (chia thành nhóm chứ không chia thành phái). Nhóm thứ nhất lấy kinh điển Phật làm nghề sanh nhai, đi tụng tán để có tiền sinh sống, được gọi là thầy cúng, thầy đám. Nhóm này cũng khá đông. Nhóm thứ hai là những người tốt, nhưng vì ít học ham tu nên nặng về tín ngưỡng, tu một cách mù quáng, tu mà không hiểu giáo lý, cho nên chỉ biết cúng rằm, cúng vía, tụng kinh tính bộ, lạy tam thiên Phật, lạy Pháp Hoa từng chữ. Tu nhiều là cúng nhiều, lạy nhiều, tụng nhiều. Đó là chủ trương của nhóm thứ hai, gồm có một số chùa ở thôn quê, và ở thành thị cũng có. Nhóm thứ ba là những người học có bằng cấp, hiểu giáo lý Phật như triết học. Đó là trường hợp của chúng tôi học ở Phật Học Viện, học rất nhiều môn, học có chương trình, có thi cử đàng hoàng! Bởi lo thi cử nên ai nấy cắm đầu học, học để thi lấy bằng. Rốt cuộc trong khi học giáo lý của Phật, cũng không có thì giờ để tu. Việc tu thì gượng gạo, một ngày 24 giờ chỉ để một hai thời công phu cho qua ngày thôi, chứ không có sự chuyên tu. Đến khi mãn khó học, ra trường phải đi giảng dạy, mà giảng dạy thì phải tổ chức. Vừa lo giảng dạy, vừa lo tổ chức cho giáo hội nên cũng không có thời giờ tu. Vậy nhóm thứ ba này được ưu điểm là có học nhưng lại thiếu tu.
Hồi Phật Học Nam Việt cất chùa Xá Lợi, có xin Sư cụ Pháp chủ Khánh Anh hai câu đối để ghi trong giảng đường. Sư cụ cho hai câu "Học mà không tu là đãy sách, tu mà không học là tu mù". Hai câu đối đó đến nay vãn còn ghi ở giảng đường chùa Xá Lợi. Sư cụ nhắm hai nhóm người: Nhóm nặng tín ngưỡng ham tu mà không học, lấy cúng tụng lễ lạy làm trên, tu một cách mù quáng, và nhóm nữa là ở Phật học lo viện, học cốt ghi nhớ cho nhiều để ra giảng dạy, lo làm việc không tu được gì hết, giống như cái đãy đựng sách. Đó là tệ trạng Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ, chính tôi là người trong cuộc. Suy nghiệm thấy cái lỗi thiếu sót của mình, nên tôi nhập thất chuyên tu và chủ trương lập tu viện. Tôi lập tu viện mà không cất chùa, vì sợ cất chùa, Phật tử tưởng như các chùa khác sẽ mới đi cúng tụng. Và cũng để tránh hai cái lỗi: Học trở thành cái đãy sách, tu mà không biết Phật Tổ dạy cái gì cứ tu mù. Nên tôi dung hội cả học lẫn tu để hướng dẫn cho thiền sinh trong tu viện. Vì học mà biết ứng dụng sở học để tu thì không phải là cái đãy đựng sách, vì tu mà có học hiểu thông suốt giáo lý nên không phải là tu mù. Như vậy chủ trương mà Tu viện Chơn Không đang thực hiện là "Thiền Giáo song hành".