CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Mời các bạn thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì Phật giáo Nam truyền.
Không biết
Bài viết: 429
Ngày: 23/11/10 22:04
Giới tính: Nam
Đến từ: Việt Nam
Được cảm ơn: 2 time

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi Không biết »

chanhhoitrong_123 đã viết:Chân thành cám ơn đạo hữu Không Biết đã giới thiệu một bộ phim rất hay thật nhiều cung bậc cảm xúc, nhiều bài học ý vị nhân văn đậm đà tính khoa học. Nhưng cho dù khoa học tiến bộ tới đâu đi nữa cũng không thể chiến thắng được Vô minh ái dục. Chỉ có thể thực hành chân chính lời dạy của Thế Tôn mới có thể thoát khỏi vô minh và ái dục để ca khúc khải hoàn sanh đã tận.... xin chân thành cám ơn đạo hữu rất nhiều tangbong tangbong ̉
Cảm ơn đạo hữu đã ghé thăm và nói lời khích lệ! nhưng tui nghĩ Vô minh ái dục là để giải thoát chứ không phải là chiến đấu với nó để mà chiến thắng :D chúc an vui trong chánh pháp ĐH nhé!

Thân ái!!


Không biết
Bài viết: 429
Ngày: 23/11/10 22:04
Giới tính: Nam
Đến từ: Việt Nam
Được cảm ơn: 2 time

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi Không biết »

Đăng Nhiên đã viết:............

Tìm hiểu về thế giới có gì là sai, khi nó phục vụ cho cuộc sống con người?. Con người sẽ văn minh hơn, và con người sẽ có nhiều cơ hội để kiểm chứng lời Phật dạy ngày càng đúng với thực tại cuộc sống. Xin đừng lợi dụng Bức Tượng Phật để chặn đứng con đường phát triển của nhân loại, vì hành động đó chẳng khác nào là hành động treo cổ những vị phát minh, nhà sáng chế, các nhà bác học có chánh tri kiến, có chánh tư duy. Xin đừng giống như những nhà truyền giáo của Đạo Thiên Chúa và thời đen tối của Châu âu. Xin đừng như những đứa con cố chấp, bảo thủ của Khổng Tử...Xin đừng làm vậy
SAI quá trời sai luôn đó đạo hữu :D

Nobel - một nhà nghiên cứu hóa học đã phát minh ra thuốc nổ không khói để khai thác các giếng dầu (phục vụ cho việc kinh doanh) nhưng về sau nó lại được sử dụng rất nhiều trong quân sự có làm cho con người văn minh hơn, an toàn hơn hạnh phúc hơn không ĐH? Một thế giới không có thuốc súng và một thế giới ngập tràn thuốc súng ĐH thích sống trong thế giới nào hơn?? :D

Anh em nhà Wright chế tạo thành công những chiếc máy bay đầu tiên mở ra ngành giao thông Hàng không, giúp con người di chuyển nhanh hơn xa hơn đồng thời cũng tạo ra những thảm họa máy bay kinh hoàng hơn <= động cơ của các nhà sáng chế là tốt những tiềm ẩn trong cái tốt mà họ mang tới cho thế giới cũng có những cái 'xấu' thảm họa :D
............

hihi, đó là vài ví dụ nhỏ cho việc tìm tòi/nghiên cứu thế giới cũng có nhiều cái 'SAI' kinh khủng lắm đó, tham đắm ba cái 'văn minh hơn' đó lắm khi cũng thảm họa đầy mình đó ĐH :D

đó là vài ví dụ dành cho người không có đạo có thể khảo nghiệm, còn đối với người học Phật thì ngu tui đã trích dẫn kinh điển rồi mà ĐH :D tui trích lại nhé:

"Tầm tư về thế giới, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được; nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ." (Tăng Chi 7 Pháp)

đối với người bình thường thì cái 'văn minh hơn' mà ĐH nói còn tồn đọng rất nhiều vấn đề cần giải quyết, đối với người học Phật cầu giải thoát thì mấy cái 'văn minh hơn' đó càng không nên dính vào (mai mốt khó tu Xả giác chi lắm đó ĐH :D)

nếu muốn tìm hiểu về triết học/về thế giới đạo hữu có thể tìm đọc thêm Upanisads (Áo Nghĩa Thư) của đạo Bà-la-môn (Ấn giáo), có nhiều cái còn đa dạng phong phú hơn cả trong kinh Phật, thậm chí thuyết Luân hồi Nghiệp báo còn được Ấn giáo nói tới trước khi Phật ra đời luôn đó ĐH :D nhưng mà xin nhắc lại lần nữa:

"Quả dị thục của nghiệp, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được; nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ."

Chánh pháp là phương tiện, Khoa học cũng là phương tiện., cho nên cần khéo léo sử dụng phương tiện cho đúng mục đích và nhu cầu của mình :D

p/s Đệ tử thời đức Phật hầu như 'không có nhu cầu' đối chiếu lời Phật với thực tế bên ngoài, ví như bài kinh Mặt trời ngu tui trích ở trên có ai thấy xuất hiện 7 mặt trời đâu; họ chỉ cần nắm 'cái cốt lõi' Phật muốn truyền dạy và thực hành cho đúng là sẽ được an lạc và giải thoát.

Thân ái!!


Ngã Không
Bài viết: 62
Ngày: 25/03/15 08:59
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Từ vô thuỷ

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi Ngã Không »

Chào quý hiền hữu, thật ra chẳng có gì mâu thuẫn giữa khoa học và phật pháp cả. Một vị chỉ cần chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn (Sotàpatti), thì tự khắc có được đạo đức lẫn trí tuệ thông thái, thấu hiểu mọi thứ. Còn những nhà bác học tuy có trí tuệ do phước, nhưng chưa đủ đạo đức thì những phát minh của mình có thể gây hại cho người khác

kính


Không biết
Bài viết: 429
Ngày: 23/11/10 22:04
Giới tính: Nam
Đến từ: Việt Nam
Được cảm ơn: 2 time

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi Không biết »

dưới đây là một bài viết khá hay về sự nghiên cứu của giới Khoa học về việc hay Không.. một sự 'sống trở lại' sau khi Chết?
Hoài nghi về cuộc sống của con người sau cái chết vẫn là câu hỏi thường trực bỏ ngỏ đối với toàn thể nhân loại...

Từ hàng nghìn năm nay, con người vẫn luôn tìm tòi và khám phá để trả lời câu hỏi kinh điển nhất của nhân loại: "Chuyện gì xảy ra sau khi ta chết đi?" hay "Cuộc sống sau cái chết sẽ như thế nào?".

Có vô số giả định được đưa ra: chúng ta sẽ lên thiên đường, xuống địa ngục hay tiếp tục sống trong một thế giới khác... Tuy nhiên, đâu mới là câu trả lời chính xác cho ẩn số này?

Nhiều người tự hỏi, mỗi con người sinh ra chỉ có duy nhất một cuộc sống hay đó là một vòng luân hồi: sinh ra - chết đi - tái sinh vào cuộc sống mới. Giả thuyết mỗi linh hồn có nhiều kiếp sống được tiến sĩ Ian Stevenson thuộc ĐH Virginia (Mỹ) nghiên cứu một cách khách quan từ năm 1958. Ông đã tìm hiểu rất nhiều trường hợp và chỉ ra rằng, con người có lẽ không chỉ có duy nhất một cuộc sống.

Bài viết dưới đây không nhằm khẳng định hay cố thuyết phục bạn rằng, thật sự có thêm một hay nhiều kiếp sống sau khi chết mà chỉ dừng lại ở việc nêu lên những nhân chứng được xác thực về việc đầu thai trên khắp thế giới. Qua đó, nó giúp bạn có cái nhìn rộng hơn về bí ẩn sự sống của con người sau cái chết.

TỪ NHỮNG ĐOẠN KÝ ỨC CỦA NHÂN CHỨNG...
Trường hợp đầu tiên là câu chuyện của Gamini Jayasuriya được sinh ra ở Sri Lanka vào năm 1962. Khi còn là một đứa trẻ, Gamini đã kể rằng cậu nhớ kiếp trước của mình.

Ở kiếp trước, cậu có một người mẹ khác to lớn hơn người mẹ hiện giờ. Cậu có chú voi đồ chơi hay mang theo khi đi tắm, cậu cũng đã từng bị ngã xuống chiếc giếng gần nhà. Cậu thường bị người em tên Nimal cắn và cậu còn đang để chiếc cặp sách trên chiếc ghế trong phòng.

Nếu sự việc chỉ dừng lại ở đây thì việc tìm ra kiếp trước của Gamini sẽ không thể thực hiện được. Thật may là trong một lần tình cờ đi qua khu vực Nittambuwa (Sri Lanka), Gamini nói rằng em nhận ra mình đã từng sống ở đó. Mọi người cùng nhau quay lại Nittambuwa để tìm hiểu. Họ xuống xe ở chỗ Gamini nói và đi về phía cuối con đường. Tuy nhiên, họ đã không bước vào căn nhà mà Gamini chỉ - nơi mẹ em sống ở đó bởi đó là một gia đình theo đạo Thiên Chúa.

Nghĩ lại, mọi người trong nhà đều cảm thấy có sự trùng hợp khi mỗi lần cầu nguyện, Gamini thường quỳ thẳng lưng (giống như khi cầu nguyện theo đạo Thiên Chúa) chứ không quỳ ngồi như người khác. Có một lần, em còn đòi mẹ treo cây Thánh giá em tìm được lên tường.

Tình cờ, họ gặp được người đi đường và nghe kể về gia đình nơi Gamini nói tới. Gia đình này theo đạo Thiên Chúa, có một cậu con trai tên Palitha nhưng đã qua đời 2 năm trước khi Gamini sinh ra (tức là năm 1960). Palitha có một người em tên là Nimal - người hay cắn cậu. Vài ngày trước khi qua đời, cậu được nghỉ lễ và đã để chiếc cặp lên ghế thay vì cất trong tủ như thường lệ...

Trường hợp thứ hai được đề cập đến là một cậu bé 6 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ - Kemal Atasoy. Vào năm 1997, tiến sĩ Jurgen Keil - nhà tâm lý học người Úc đã lắng nghe và ghi nhận những miêu tả một cách tự tin về cuộc sống trước kia của cậu bé Kemal.

Kemal kể rằng ở kiếp trước, cậu đã từng sống ở Istanbul (cách đó 800km), trong dòng họ Karakas và cậu là một tín đồ Cơ đốc giáo giàu có người Armenia. Nhà của Kemal sống cạnh bờ sông và gia đình cậu chỉ sống tại đây trong một thời gian nhất định trong năm. Cậu thường có thói quen mang theo túi da lớn bên người khi ra ngoài. Cậu có vợ người Hy Lạp và có con.

Tiến sĩ Keil đã bỏ công sức đi kiểm chứng lời nói của Kemal. Tuy rất vất vả nhưng cuối cùng, tiến sĩ cũng tìm gặp được một cụ già chắc chắn có gia đình người Armenia sống ở ngôi nhà đó nhưng thông tin về mọi người trong gia đình để tại nhà thờ đã bị thiêu trụi trong một vụ hỏa hoạn.

Tiến sĩ Keil tiếp tục tìm đến một nhà sử học uy tín trong vùng và được nghe kể câu chuyện gần như trùng khớp với những lời Kemal đã nói. Nhà sử học kể rằng, có một gia đình đạo Cơ-đốc giàu có sống trong căn nhà bên hồ. Ông ta là người Armenia duy nhất trong vùng và có họ Karakas. Vợ ông là người Hy Lạp và họ có ba người con.

Người đàn ông thường mang theo một túi da lớn và vì dòng họ Karakas chuyên kinh doanh đồ da ở một khu vực khác của Istanbul nên ông ta chỉ sống ở nhà vào những tháng mùa hè. Người đàn ông đó chết khoảng năm 1940-1941.

Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào một cậu bé lại có thể biết những thông tin về một người đàn ông sống cách đó 800km và không có bất cứ một liên hệ nhỏ nào tới gia đình cậu?

Và đặc biệt hơn, cậu không thể nghe kể về một người đã chết cách đó 50 năm mà tiến sĩ Keil phải rất vất vả mới tìm được một chút thông tin ít ỏi? Liệu Kemal có cách giải thích nào không hay đơn giản, Kemal khẳng định kiếp trước của mình - cậu chính là người đàn ông đó.

... ĐẾN NHỮNG VẾT BỚT TRÊN CƠ THỂ...
Nhiều người cho rằng, những dấu vết trên cơ thể như vết bớt có liên quan tới cuộc sống của một người trước đó, là dấu vết của sự luân hồi. Nhiều câu chuyện, trường hợp được kể dưới đây mang màu sắc về sự luân hồi, ở đó con người sau khi chết sẽ chuyển thành một cơ thể khác ở kiếp sống mới. Trong sự thay đổi đó có những dấu vết của cơ thể cũ còn lưu lại, tạo thành vết bớt.

Chanai Choomalaiwong được sinh ra ở miền Trung Thái Lan vào năm 1967 với hai vết bớt, một ở sau đầu và một ở phía trên mắt trái. Khi cậu bé được sinh ra, gia đình Chanai không cho rằng các vết bớt này có ý nghĩa đặc biệt gì, nhưng khi được ba tuổi, cậu bé bắt đầu kể chuyện về cuộc sống ở kiếp trước.

Cậu bé nói mình từng là một thầy giáo tên Bua Kai và bị bắn chết trên đường đến trường. Chanai nhớ được tên bố mẹ, vợ và hai con trong kiếp trước, cậu liên tục đòi người bà hiện tại của mình đưa tới nhà bố mẹ trước kia của mình ở Khao Pra.

Cuối cùng, chiều lòng Chanai, hai bà cháu đi đến một thị trấn gần Khao Pra. Chanai dẫn bà tới ngôi nhà mà em nói là nơi bố mẹ mình sống. Ngôi nhà thuộc về một cặp vợ chồng già sống cùng người con trai làm thầy giáo tên Bua Kai Lawnak nhưng đã mất 5 năm trước khi Chanai được sinh ra.

Chanai đã nói bố mẹ của Bua Kai chính là bố mẹ mình. Bị ấn tượng bởi vết bớt và lời kể của Chanai, cặp vợ chồng già đã mời cậu ở lại một thời gian. Trong khoảng thời gian này, Chanai đã chỉ ra đúng những đồ vật Bua Kai hay dùng và yêu cầu con gái của Bua Kai gọi mình là bố.

Tiến sĩ Ian Stevenson không tìm thấy một hồ sơ pháp y nào về các vết thương của Bua Kai nhưng theo lời kể của những người trong gia đình thì Bua Kai bị một viên đạn xuyên qua đầu từ phía sau. Do đó, vết thương ở sau đầu (khi đạn tiếp xúc) nhỏ hơn nhiều so với vết thương trên trán (khi đạn xuyên ra), điều này trùng khớp với hai vết bớt trên đầu Chanai (một vết nhỏ sau đầu và một vết to phía trên mắt trái).

Trường hợp này đã chỉ ra, không thể có sự "trùng hợp ngẫu nhiên" nào khi một cậu bé có những vết bớt trùng khớp hoàn toàn với vết thương của người quá cố. Bên cạnh đó, cậu còn nhớ rất rõ về các chi tiết của cuộc đời thầy giáo Bua Kai - người mà cậu chưa từng quen biết .

Trường hợp khác được nhắc tới tới tiếp theo là Necip Unlutaskiran từ Thổ Nhĩ Kỳ. Khi vừa chào đời, người ta thấy cậu bé có một số vết bớt trên đầu, mặt và trên người. Lúc đầu, bố mẹ cậu định đặt tên cho cậu là Malik nhưng trong giấc mơ vào thời điểm ba ngày trước khi cậu được sinh ra, mẹ cậu mơ thấy con mình nói nó tên là Necip.

Sau đó, bố mẹ cậu đổi tên cậu thành Necati vì 2 tên này tương tự nhau và trong gia đình đã có đứa bé tên Necip. Tuy nhiên, khi biết nói, cậu liên tục đòi được gọi là Necip và không chịu đáp lại khi bị gọi bằng tên khác.

Necip bắt đầu kể về cuộc sống kiếp trước từ khi lên 6. Cậu nói trước đây mình sống ở Mersin, đã có vợ, con, và đã bị đâm liên tiếp cho tới chết. Chỉ tới khi cậu được tới thăm ông bà ngoại - lúc 12 tuổi thì những lời kể của cậu bé mới được kiểm chứng.

Lúc trước, bà ngoại Necip sống ở Mersin và có người hàng xóm tên Necip Budak. Anh ta bị đâm đến chết một thời gian ngắn trước khi bé Necip ra đời. Khi ông ngoại đưa Necip tới Mersin, em đã nhận ra người nhà của Necip Budak và nói rằng, mình từng dùng dao cứa vào chân vợ mình trong một trận cãi vã.

Dĩ nhiên, trước đó Necip chưa hề nhìn thấy chân của người quả phụ. Sau đó, một người trong nhóm nghiên cứu đã kiểm chứng, xác nhận, chị có một vết sẹo trên đùi và thừa nhận vết sẹo này do chính chồng mình gây ra.

Tiến sĩ Stevenson đã lấy được một bản sao biên bản khám nghiệm tử thi của Necip Budak và ông phát hiện rằng, những vết bớt trên người Necip trùng khớp với vết thương được miêu tả trong biên bản. Điều này quả là một sự trùng hợp đến khó tin.

Ở Việt Nam, một số trường hợp về chuyện nhớ lại kiếp trước của mình do chết đuối, nhận ra con cháu đã chết được "đầu thai" qua vết bớt cũng được đề cập, nhưng chưa có kiểm chứng rõ ràng.

NHỮNG LỜI GIẢI THÍCH ĐẦU TIÊN…
Nói dốitưởng tượng
Giả thuyết này không đứng vững được lâu bởi lẽ, xét về khía cạnh động cơ, những nhân vật này hoàn toàn không có động cơ nào để "sáng tạo" ra một câu chuyện như vậy.

Bên cạnh đó, tiến sĩ Keil và cộng sự không có sự giao lưu, trao đổi thân mật trước đó, có chăng chỉ là những bức thư thông báo họ sẽ tới nhà và đặt ra rất nhiều câu hỏi. Có không ít người nghi ngại rằng, gia đình các nhân chứng sẽ dựa vào đó để trở nên nổi tiếng, tuy nhiên, họ không hề có lợi ích vật chất nào bởi những thông tin này sẽ được đề cập trong tập hồ sơ dài cùng hàng nghìn trường hợp khác.

Mặt khác, cũng có thể nhóm nghiên cứu "sáng tác" ra câu chuyện bởi chỉ có họ tiếp xúc và ghi nhận trực tiếp những thông tin nên họ hoàn toàn có thể nói dối mà không ai kiểm chứng được. Tuy nhiên, với hơn 2.500 hồ sơ nhân chứng lưu trữ ở ĐH Virginia được ghi chép cẩn thận thì đây quả là giả thuyết tồi.

Những thông tin được biết đến bằng cách thông thường
Một giả thuyết khác được đề cập đến đó là nhân chứng vô tình biết được thông tin về người được cho là tiền kiếp của mình. Và vô tình, những thông tin đó ăn sâu vào tiềm thức, biến thành một ký ức giả - thuật ngữ mà các nhà tâm thần thường dùng để chỉ ký ức không phải của bản thân nhưng bệnh nhân lại tưởng tượng đó là của chính mình.

Dù vậy, giả thuyết không lý giải được việc một đứa trẻ có thể biết được những thông tin cá nhân của một người nào đó ở rất xa và không có một mối liên hệ nào với gia đình đứa bé ấy. Rất có thể, người "tiền kiếp" đã qua đời rất lâu và cũng không hề nổi tiếng để thông tin cá nhân của họ có thể lọt ra ngoài.

"Trí nhớ gene"
Người ta cho rằng, những ký ức có thể được di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nhờ gene. Theo đó, từ khi con người mới sinh ra, trong bộ não đã tồn tại vùng lưu giữ ký ức của những việc từng xảy ra từ đời bố mẹ, ông bà, cụ kỵ...

"Trí nhớ gene" được lưu trong những phân tử protein của tế bào não. Khi có một năng lực nào đó làm khởi động các phân tử ấy thì ký ức về đời trước sẽ được phục hồi, con người bỗng nhiên nhớ lại những gì từng xảy ra với tổ tiên xa xôi, y như là đã xảy ra với chính mình. Tuy vậy, giả thuyết này vẫn vấp phải nhiều sự phản đối của các nhà nghiên cứu.

Liệu con người có nhiều kiếp sống?
Những niềm tin về sự đầu thai hay luân hồi được phổ biến rộng rãi trong các tôn giáo và đức tin. Một số người xem đó là một phần của tôn giáo, những người khác thấy đó chỉ là một câu trả lời cho các câu hỏi thường gặp về đạo đức và sinh tồn như là "Tại sao chúng ta lại ở đây"?...

Quan niệm về sự đầu thai, luân hồi cho rằng, một người đã ở sẽ trở lại thế gian này trong một thể xác khác. Điều này gợi đến một sự kết nối giữa những cuộc đời có vẻ không liên quan đến nhau, nhưng sâu sa trong đó là bằng chứng ẩn giấu về sự nối tiếp giữa cuộc đời.

Dù đưa ra rất nhiều bằng chứng chứng minh về hiện tượng đầu thai, luân hồi... nhưng Ian Stevenson nói rằng, lời giải thực sự về những trường hợp này vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.

link nguồn có hình ảnh minh họa: http://khoahoc.tv/vong-luan-hoi-tim-loi ... song-50144
vài nguồn khác có giá trị tham khảo:
http://khoahoc.tv/ly-giai-khoa-hoc-ve-s ... kiep-47288 <= có vài câu chuyện xảy ra ở Việt Nam

http://minhbao.net/khoa-hoc-ly-giai-lua ... eu-co-the/ <= có video clip khá sinh động nhưng mà bằng tiếng Anh :D

hihi, ngu tui hổng hiểu vì sao trên đời này có biết bao điều thắc mắc đáng để nghiên cứu và tìm hiểu mà sao người ta lại thích đặt vấn đề về câu hỏi 'trừu tượng' này nhỉ? tui nghĩ là câu hỏi này được đặt ra từ rất lâu rồi chứ hông phải là mới đây, có lẽ nó có gốc rễ xuất phát từ mong muốn được 'trường sinh bất tử' hoặc chí ít là không phải đối mặt với cái bi kịch 'chết là Hết - game over' trong tâm khảm mỗi con người :D

với những người sinh ra và lớn lên trong cái nôi của nền văn hóa Ấn độ thì họ không có mảy may nghi ngờ hay thắc mắc gì vế vấn đề này, thường thì họ chấp nhận nó như là một điều hiển nhiên vì họ đã được truyền dạy và trong Thánh điển của họ đã ghi lại như thế từ hàng ngàn năm trước.
Lý tưởng và triết lý của đạo Bà-la-môn (Ấn giáo) là sinh ra từ miệng Phạm thiên và sống sao để khi Chết đi trở về/trở thành Phạm thiên, những sự phát triển về sau đẻ ra thêm các khái niệm Tiểu ngã/Đại ngã.. và đó đều là mục tiêu tu tập để hành giả trở về/trở thành sau khi chết.

thậm chí là tư tưởng này còn có cả bên đạo Thiên Chúa giáo, chẳng phải họ vẫn thường ca ngợi Thiên Chúa đã hy sinh trên thập tự giá là để 'cứu chuộc' lỗi lầm cho con người đó sao? nghĩa là có tội thì phải đền tội, giống như con cái làm hỏng thì cha mẹ phải đền vậy <= Nhân Quả nghiệp báo rõ ràng quá đi chứ :D
và chẳng phải là họ vẫn thường khuyên bảo nhau là sống vâng theo lời Chúa, thuận theo ý Chúa thì khi chết đi sẽ được TRỞ VỀ với nước Chúa sao? <= lại là sự 'tái sanh' dù chỉ là 1 kiếp :D vẫn còn khá hơn so với chủ trương ĐOẠN DIỆT Luận của đạo sĩ Ajita Kesakambàli thời đức Phật:
"không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có loại hóa sanh, ở đời không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ đời này đời khác và truyền dạy lại. Con người này do bốn đại hợp thành, khi mệnh chung, địa đại trở về trả lại cho địa giới, thủy đại trở về trả lại cho thủy giới, hỏa đại trở về trả lại cho hỏa giới, phong đại trở về trả lại cho phong giới, các căn nhập vào hư không. Bốn người gánh quan tài với người nằm trong quan tài là năm, gánh người chết mang đi đến chỗ hỏa táng, thốt ra những lời tán tụng, các xương trắng như màu bồ câu và những vật cúng dường trở thành tro bụi, chỉ có người ngu mới tán dương sự bố thí, lời nói của chúng trống không, giả dối, khi chúng chấp thuyết có sự sống. Kẻ ngu cũng như người hiền, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạn diệt, tiêu thất, không còn tồn tại sau khi chết." :D (kinh Sa-môn Quả - 02 Trường Bộ)

ngu tui nghĩ không phải ngẫu nhiên mà ngày càng có nhiều học giả phương Tây tìm tòi, nghiên cứu và học hỏi các triết thuyết của các nước phương Đông mà Phật giáo là một trong số đó; mà phần nhiều là vì những lý thuyết xưa cũ nằm sâu trong ký ức của họ bị tiêm nhiễm từ Kinh thánh (như Chúa tạo ra thế giới, Mặt trời quay quanh Trái đất..) đã trở nên lỗi thời, không còn đúng với thực tế và không đáp ứng được "nhu cầu tâm linh" của họ. Điều này thì ĐH Đăng Nhiên đã nói rất đúng, học giả các nước phương Tây châu Mỹ tìm đến các nền triết học phương Đông là để học hỏi về tu tập triết lý nhưng có lẽ họ cũng ngạc nhiên (và phần nào thất vọng) vì nhiều Phật tử chúng ta ngày nay quá sa đà vào chuyện lễ bái,cúng kiến,nhang đèn...

môt lý thuyết ra đời và đứng vững phải dựa trên cơ sở thực nghiệm, thuyết Luân Hồi chuyển kiếp được đa số các tín đồ tôn giáo phương Đông chấp nhận mà không cần đòi hỏi thực nghiệm; các học giả phương Tây thì đã thấm nhuần các con số và khoa học thực nghiệm nên chuyện gì cũng phải "nói có sách mách có chứng" thì họ mới chấp chận :D với những dữ liệu và chứng cứ mà tiền sĩ Stevenson thu thập được hàng chục năm qua ngày càng là cơ sở cho lý thuyết đó đứng vững. Lý thuyết đó còn có thể giải quyết tốt các câu hỏi đại loại như:
tại sao các cặp sinh đôi-sinh ba trong cùng một gia đình, có cùng cơ số gen, được nuôi dạy và trưởng thành trong cùng môi trường như nhau nhưng mà khi lớn lên thì khả năng-tính cách của họ lại hoàn toàn khác nhau?
hay tại sao có những đứa nhỏ mới vài ba tuổi đầu đã có tài năng đặc biệt ở lĩnh vực nào đó như hội họa, âm nhạc, thuyết pháp.. mà chưa hề qua trường lớp đào tạo nào??...
<= phải chăng ngoài các yếu tố cơ bản cấu thành một con người như gen di truyền,môi trường xung quanh còn có yếu tố 'giấu mặt' khác tham gia vào quá trình đó được gọi là NGHIỆP theo ngôn ngữ Phật học. Rất tiếc là yếu tố này lại ít được Phật nhắc đến và ngài còn cảnh báo các đệ tử rằng:
"Quả dị thục của nghiệp, này các Tỷ-kheo, không thể nghĩ đến được; nếu nghĩ đến, thời người suy nghĩ có thể đi đến cuồng loạn và thống khổ"

cái 'không thể nghĩ đến được' mà Phật nhắc đến trong kinh tui nghĩ là tiến sĩ Stevenson có sống lại và nghiên cứu hàng trăm năm nữa cũng khó mà hiểu hết được, tại vì Luật tạng Pali đã ghi lại những trường hợp vượt ra ngoài trí tượng tượng 'siêu phàm' của những nhà làm phim Khoa học Viễn tưởng ngày nay :D
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna cư ngụ tại núi Gijjhakūṭa. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Mahāmoggallāna đã mặc y cầm y bát đi đến gặp đại đức Lakkhaṇa, sau khi đến đã nói với đại đức Lakkhaṇa điều này:

- Này đại đức Lakkhaṇa, chúng ta hãy đi vào thành Rājagaha để khất thực.

- Này đại đức, xin vâng. Đại đức Lakkhaṇa đã trả lời đại đức Mahāmoggallāna.

Sau đó, trong khi đi xuống từ núi Gijjhakūṭa ngang qua khu vực nọ, đại đức Mahāmoggallāna đã mỉm cười. Khi ấy, đại đức Lakkhaṇa đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này:

- Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?

- Này đại đức Lakkhaṇa, không phải lúc để giải thích câu hỏi này, hãy hỏi ta câu hỏi này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.

Sau đó, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna đã đi khất thực ở trong thành Rājagaha, sau bữa ăn khi đi khất thực trở về đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Lakkhaṇa đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này:

- Ở đây, đại đức Mahāmoggallāna, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa ngang qua khu vực nọ, đã mỉm cười. Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?

- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy bộ xương đang đi trong hư không và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào bộ xương ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra các phần ở khoảng giữa các xương sườn; và bộ xương ấy đã rên rỉ khổ sở. Này đại đức, ta đây đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này! Cũng có dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự hình thành bản ngã lại là như thế này!”

Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.

Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:

- Này các tỳ khưu, quả thật các thinh văn sống với mắt thấy như thật! Này các tỳ khưu, quả thật các thinh văn sống với trí biết như thật! Bởi vì là thinh văn thì sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các tỳ khưu, trước đây ta đã thấy chúng sanh ấy, tuy nhiên ta đã không nói ra. Và nếu ta nói ra điều ấy thì những kẻ khác có thể không tin ta, những ai không tin ta thì việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh khổ đau lâu dài. Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ giết trâu bò ở ngay trong thành Rājagaha này. Kẻ ấy, do quả của nghiệp ấy, sau khi đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã đạt đến sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna là vô tội.

..............

- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người đàn ông không có lớp da (bao bọc) đang đi trong hư không và có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, bóc ra, rứt ra; và người ấy đã rên rỉ khổ sở. ...(như trên)...

..............

- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người có lông là các mũi tên đang đi trong hư không và những mũi tên ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; và người ấy đã rên rỉ khổ sở.

..............
- Này đại đức, ở đây trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đã nhìn thấy người bị chìm đến tận đầu ở trong hố phân, ăn phân bằng hai bàn tay ....

- Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ bà-la-môn quỷ quyệt ở ngay trong thành Rājagaha này. Trong thời giáo pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa, kẻ ấy đã thỉnh mời hội chúng tỳ khưu bữa ăn. Sau khi cho người đổ đầy máng phân và thông báo thời giờ, kẻ ấy đã nói điều này: “Này các ngài, hãy ăn ở đây theo ý thích rồi hãy mang đi.” Kẻ ấy, do quả của nghiệp ấy, sau khi đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã đạt đến sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna là vô tội.

( http://budsas.org/uni/u-luat-ptg/tk1-04.htm )
để ý sẽ thấy rằng ngài Moggallāna (Mục-kiền-liên) đã 'không trả lời ngay' khi tôn giả Lakkhaṇa hỏi ngài về mấy chuyện đó, mà phải đợi đến khi có sự chứng giám của Phật ngài Moggallāna mới nói ra hết những điều mình thấy và đã được Thế Tôn ấn chứng đó là sự thật. Đây chỉ là ví dụ minh họa cho điều Luật về "Tội khoe pháp thượng nhân sai sự thật" khi nào thì áp dụng khi nào thì không.

lưu ý là đức Phật không có chủ ý nói về mấy chuyện đó và ngài Moggallāna cũng rất là 'né tránh' nhưng khi được hói thì cũng phải trả lời đúng sự thật. :D

Thân ái!


MySweetLord
Bài viết: 224
Ngày: 27/09/10 20:44
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Cõi Ta Bà

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi MySweetLord »

Không biết đã viết:dưới đây là một bài viết khá hay về sự nghiên cứu của giới Khoa học về việc hay Không.. một sự 'sống trở lại' sau khi Chết?

Kính chư đạo hữu và đạo hữu Không Biết,


Chỉ là vấn đề Tái sinh luân hồi thôi mà...

Mục tiêu của người tu Phật lại không có gì tốt hơn là Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi

Việc nghiên cứu về vấn đề Tái sinh luân hồi của giới khoa học, sẽ gặp phải trở ngại khá lớn.

.. Là không phải ai khi vừa chấm dứt sự sống trước đó, đều có cơ hội tái sinh ngay vào kiếp người.


Kính, kinhle


Dị Nhân
Bài viết: 15
Ngày: 30/09/14 22:55
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi Dị Nhân »

LỜI PHẬT DẠY VÀ KHOA HỌC

Sau đây là một số lời Phật dạy đối chiếu với sự tìm hiểu của các nhà Khoa học:

I )- Vi sinh vật, âm thanh

1)- Vi sinh vật:

Khi Phật trông thấy các Tỳ-kheo dùng gáo múc nước sạch trong chum (lu, vại, khạp đựng nước) để uống, Ngài dạy: “Các ông phải niệm chú trước khi uống nước ấy, vì trong nước đó có nhiều sinh vật rất nhỏ bé”. Rồi Ngài dạy các Tỳ-kheo đọc câu chú: “Án chạ tất ba ra ma ni tóa ha, Án chạ tất ba ra ma ni tóa ha, Án chạ tất ba ra ma ni tóa ha”.(Có sách lại ghi là “Án địa lị nhật lị sa ha”) Ngài dạy: “Mỗi lần uống nước đều nên đọc câu chú ấy ba lần để chúng-sanh nhỏ bé ấy được siêu thoát”.

Ngày ấy, cách nay trên 2500 năm, không ai thấy hoặc biết được trong nước có sinh vật nhỏ bé. Cho tới khi khoa học phát minh ra kính hiển vi cách nay hơn ba trăm năm. Họ lấy một giọt nước trong vắt ra soi bằng kính hiển vi, người ta thấy rằng trong nước ấy có sinh vật bé nhỏ mà mắt thường không thấy được, và mới tin rằng trong nước có sinh vật nhỏ bé.

Theo quyển Đạo Phật và Khoa Học, trang 126 ghi: “Vào thế kỷ thứ 17, nhà sinh vật học Aton Van Leeuwenhock (1632-1723) đã khám phá nhiều loại Vi sinh vật (Micro-organism) trong nước, trên không, dưới đất, trong cơ thể v.v… như sinh vật đơn bào (Protozoans), vi trùng (microbes), thực vật không chân không lá, tảo trong nước (algae, fungus), vi khuẩn (bacteria), sinh vật bé nhỏ hơn vi khuẩn (virus), ...”.

2)- Âm thanh.

Có một lần Phật bảo các Tỳ-kheo: “Âm thanh của ta, các ông, và của mọi người không mất, nó sẽ còn mãi mãi”.

Ngày nay chúng ta đã giữ được âm thanh, có đài phát thanh, truyền hình, vô tuyến điện thoại, băng, đĩa, CD... Ngoài ra, các nhà khoa học còn cho biết họ đã nhận được nhiều tín hiệu từ rất xa ngoài hành tinh của chúng ta, mặc dù chưa tín hiệu nào được xác nhận chính thức...

II )- Hiện bóng, ngửi mùi

1)- Hiện bóng:

Quyển Đạo Phật và Khoa Học, tác giả Minh-Giác đã khéo nhìn thấy chỗ Kinh nói, trang 149 viết:

- Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trang 24-27 kể rằng khi đức Phật cho bà Vi-Đề-Hy, chánh hậu của vua Tần-Bà Sa-La coi cảnh cõi nước chư Phật hiện bóng rõ nơi tòa quang minh, rất rõ ràng và nghiêm đẹp... Như vậy chữ hiện bóng tức là hình ảnh hiện lên, và tòa quang minh tức là màn ảnh; Đức Phật bảo bà chọn nơi ưa thích, thì rõ ràng là một màn ảnh của băng video ( hay DVD) v.v...

- Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cật thị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấy cho đại chúng xem. Ngài Duy-Ma-Cật liền lấy tay phải trấn cõi nước Diệu-Hỉ để vào cõi Ta-Bà, cõi Ta-Bà không thấy chật hẹp, vẫn y nguyên như trước. Qúy vị thấy thần thông của chư Phật và đại Bồ-Tát Duy-Ma-Cật rõ ràng là những máy truyền hình. Thí dụ ta mở máy truyền hình để xem trận đấu quốc tế có hàng nghìn người coi trận đấu trên một sân banh rộng lớn, sân banh rộng lớn và hàng nghìn người coi đâu có chèn ép gì mình, dẫu cho cả nước Mỹ hay cả thế giới chiếu lên màn ảnh đó, những quang cảnh to lớn đem bỏ vào phòng mình đâu có chật?

2)- Ngửi mùi:

- Đức Phật dạy:

Kinh Pháp-Hoa Phật dạy: “Người thụ trì Kinh này trọn được tám trăm công đức sẽ ngửi được trăm nghìn thứ mùi trong Tam Thiên Đại Thiện thế giới”.

- Về Khoa học:

Quyển Đạo Phật và Khoa Học, trang 72 ghi: “Ngày nay các nhà khoa học đã chế được máy ngửi mười nghìn thứ mùi khác nhau”.

III )- Lân hư trần, Cấu tạo Vạn Vật.

1)- Lân hư trần

- Đức Phật dạy:

“Nếu lấy một vật chia chẻ mãi tới còn bằng đầu sợi tóc, gọi là mao trần. Lấy hạt bụi bằng mao trần này chia chẻ còn bằng hạt bụi bay trong hư không, gọi là khích du trần. Hạt bụi bay lại chia chẻ nữa thành vi trần nhỏ, rồi hạt vi trần nhỏ này lại chia ra nữa cho tới khi không còn chia được nữa, gọi là cực vi trần, lân hư trần” (Kinh Lăng-Nghiêm của Hòa-Thượng Thích-Duy-Lực dịch, trang 103).

Ngài dạy tiếp: “Không bao giờ tìm cầu được thực tại cuối cùng của vật, vì những vật mà ta thấy chỉ là tổng tướng ảnh tượng được kết hợp bởi vô vàn vô số những cực vi, nó xuất hiện trong biên giới giữa vật và tâm, nó hiện diện khắp nơi; hư không, không phải là không có gì, mà trong đó có đủ loại quang minh cùng các loại chúng-sanh cư ngụ” (Đạo Phật và Khoa Học, trang 14, 20, 21).

- Về Khoa học:

Các nhà khoa học (Đạo Phật và Khoa Học, trang 13) đã tìm ra từ phân tử tới nguyên tử mà Neil Bohr (1885-1950), Vật lý gia Đan-Mạch là một trong những khuôn mặt sáng giá trong việc đề xướng thuyết nguyên-tử. Nguyên tử trong đó có Dương điện tử (Proton), Trung hoà tử (Neutron), và Âm điện tử (Electron) chạy chung quanh.

Nhưng nhà khoa học Muray Gellman cho rằng Dương điện tử và Âm điện tử còn có hạt vi phân gọi là Quark hay là cực vi, hạt ảo.

Nhà khoa học Pam Dirac thì nói: “Chân không sinh diệt”, còn nhà khoa học Eddington cho rằng “Vũ trụ là một tâm tưởng lớn”.

Nhà bác học vật lý nổi tiếng Albert Einstein (1879-1955) người gốc Đức nói: “Vũ trụ phân tích đến cùng chẳng còn gì là vật chất mà chỉ còn lại là những rung động hay những làn sóng mà thôi”.

LỜI BÀN

Xem như vậy, lời Phật dạy về vi sinh vật, âm thanh, hiện bóng, ngửi mùi từ hơn hai mươi lăm thế kỷ đã được chứng minh; còn Phật nói cực vi trần, lân-hư-trần, quang minh v.v..., mà các nhà khoa học khám phá ra Nguyên-tử, Cực vi, Hạt ảo, làn sóng v.v... đâu có khác gì nhau.

2)-Cấu tạo Vạn Vật:

- Đức Phật dạy:

Cấu tạo của con người và vạn vật đều do Tam Tế Tướng của A Lại Đa Thức mà thành. (A Lại Đa Thức là thức thứ tám của chúng ta, nó chứa đựng mọi kimh mghiệm của đời sống chúng ta, và nguồn gốc tất cả hiện tượng tinh thần.)

Tam tế tướng của A Lại Đa Thức gồm có Nghiệp tướng, Cảnh giới tướng và Chuyển tướng; tuy ba nhưng chỉ là một, một mà là ba, vật chất và tinh thần đều là một thể.

- Về Khoa học:

Các nhà Khoa học cho biết trong vũ trụ chỉ có ba thứ, đó là Năng lượng (Energy), Vật chất (Matter) và Tin tức (Information, News); do ba thứ này mà sinh vũ trụ, con người và vạn vật

LỜI BÀN:

Ở đây, chúng ta thấy có sự ăn khớp giữa lời Phật dạy và Khoa học, đó là:

- Phật nói Nghiệp tướng, nhà Khoa học gọi là Năng lượng,

- Phật nói Cảnh giới tướng, nhà Khoa học gọi là Vật chất,

- Phật nói Chuyển tướng, nhà Khoa học gọi là Tin tức.

Như vậy, chúng ta không còn nghi ngờ những lời Đức Phật đã nói, vì đã được các nhà Khoa học có cùng quan điểm như thế; tuy nhiên điều mà Đức Phật nhấn mạnh, đó là “Vật chất và tinh thần đều là một thể”, nghĩa là trong vật chất có năng lượng, trong năng lượng có vật chất và có cả tin tức nữa, tức là một mà là ba, ba mà là một, điều này nhà Khoa học vẫn chưa tìm ra.

IV - Thế giới: Qủa đất

- Lời Phật dạy:

Rất nhiều lần Phật nói đến thế giới này có 6 phương gồm Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, và Dưới; hoặc Phật nói 10 phương gồm Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông-Bắc, Tây-Bắc, Đông-Nam, Tây-Nam, Trên, và Dưới.

Trong bộ Trường-A-Hàm, quyển 2, trang 503, đức Phật nói:

- Lúc mặt trời giữa trưa ở châu Diêm-Phù-Đề, thì ở châu Phất-Vu-Đãi mặt trời lặn.

- Khi ở châu Câu-Da-Ni mặt trời mọc, thì ở châu Uất-Đan-Việt là nửa đêm.

- Khi ở châu Câu-Da-Ni mặt trời ở giữa trưa, thì ở châu Diêm-Phù-Đề mặt trời lặn.

- Khi ở châu Uất-Đan-Việt mặt trời mọc, thì ở châu Phất-Vu-Đãi là nửa đêm.

- Khi ở châu Uất-Đan-Việt mặt trời giữa trưa, thì ở châu Câu-Da-Ni mặt trời lặn.

- Khi ở châu Phất-Vu-Đãi mặt trời mọc thì ở châu Diêm-Phù-Đề là nửa đêm.

- Khi ở châu Phất-Vu-Đãi mặt trời ở giữa trưa, thì ở châu Uất-Đan-Việt mặt trời lặn.

- Khi ở châu Diêm-Phù-Đề mặt trời mọc, thì ở châu Câu-Da-Ni là nửa đêm.

Nếu giỏi toán hình học không gian, có thể nhìn vòng tròn theo kim đồng hồ: Diêm-Phù-Đề, Ca-Da-Ni, Uất-Đan-Việt, Phất-Vu-Đãi, và hình dung trái đất quay quanh mặt trời, sẽ thấy Phật đã chỉ trái đất tròn.

- Về khoa học:

Quyển Đo Lường Vũ Trụ (Measuring the universe), trang 26 cho biết thời Trung cổ về trước ở Âu-Châu, người ta cho rằng trái đất là trung tâm vũ trụ và không di chuyển. Vấn đề này có liên quan đến khoa học, và đã có nhiều sách trình bày sự việc; số là một số nhà khoa học cho rằng không phải như thế nên đã viết sách nói lên quan điểm của mình như Nicholas Copernicus (Phần-Lan), Giordano Bruno (Ý) và Galileo Galilei.

1)- Quyển Cấu Tạo Vũ Trụ (The Structure of The Universe) của Paul Halpern, trang 19 viết:

Nhà khoa học Phần-Lan, Nicholas Copernicus (1473-1543): “Năm 1543 Copernicus phổ biến công việc quan trọng nhất. Ông chỉ ra rằng trái Đất và năm hành tinh khác theo những đường quay quanh mặt Trời, sau chót ông viết rằng chỉ có mặt Trăng là quay quanh trái đất mà thôi; hệ thống (hành tinh) của Copernicus bị coi như phỉ báng bất kính đối với Giáo hội, việc này đã che bóng tối lớn trên khoa học một thời gian khá dài”. (Nicholas released in 1543 his most important work, he printed out that Earth and five then-known planets follow simple circular path around the Sun... Finally, he wrote that the Moon alone orbits the Earth. The Copernican system was considered blasphemous by the Church, which cast its long shadow over science for quite sometime)



2)- Quyển Những Nguồn Gốc (The Origins) của Neil de Grass Tyson và Donald Goldsmith, trang 205 viết về nhà khoa học Giordano Bruno: “. . . Nếu mặt trời có các hành tinh phụ thuộc, giống như vậy có thể các ngôi sao với các hành tinh của nó cũng có đời sống sinh vật đủ loại. Diễn tả quan điểm này dẫn tới xúc phạm quyền năng của Giáo-Hoàng đưa Giordano Bruno đến cái chết tại nơi bị xử tử (bị trói vào cột rồi đốt) năm 1600” (... If the Sun has a planetary family, so too might other stars, with their planetary equally capable of give life to creature of all possible form. Expressing this view in a manner that affronted papal authority brought Giordano Bruno to his death at the stake in 1600).

Còn quyển Cấu Tạo Vũ Trụ (The Structure of The Universe), trang 21 viết:

Nhà Triết học người Ý, Giordano Bruno đã xuất bản năm 1584 quyển sách “Vô số Vũ Trụ và Vô số Thế giới”, ủng hộ quan điểm của Copernicus về Vũ trụ, Ông còn đi xa hơn nữa, cho rằng không những hệ thống các hành tinh quay quanh mặt trời, mà còn có các hành tinh quay quanh mỗi ngôi sao trong các ngôi sao nữa. Ngoài ra ông còn viết rằng các ngôi sao và các hành tinh của chúng thì nhiều vô kể, không thể tính được... Giáo hội ghét ý tưởng của ông hơn là ý tưởng của ông Copernicus, vì sự tin tưởng của ông, năm 1600 ông bị đốt tại nơi xử tử ở La-Mã. (Italien Philosopher Giordana Bruno published in 1584 the book of Infinity, The Universe and The World advocating a Copernican one step further, arguing that not only is there phanetery system around the Sun but that there is one around each of the stars. Moreover, he wrote that the number of stars and planets in the uviverse is infinite...The Church was even more hostile to Bruno idea than it was to those of Copernicus. In 1600 for his heritical belief, Bruno was burned at the stake in Rome)

3)- Cùng quyển Cấu Tạo Vũ Trụ, trang 22, viết:

Nhà khoa học Galileo Galilei (1564-1642) nhà Thiên văn học kiêm Vật lý học. Năm 1610 ông xuất bản cuốn “Thông điệp về Sao” (The Starry Messenger), trong đó ông viết về sự di chuyển của các hành tinh, khám phá núi trên mặt trăng, khám phá nhiều trăm sao, các điểm (Sunpot) trong mặt trời, trạng thái của hành tinh Venus v.v...

Năm 1632, ông xuất bản sách, trang 23 ghi: “Luận thuyết về thiên văn của Galileo đối thoại Trên Hai Hệ Thống Thế Giới Lớn để thay đổi quan điểm về vũ trụ của mọi người, loại trừ ý tưởng sai lầm về trái đất là trung tâm vũ trụ. Nhưng quyền lực Giáo hội ở Ý Đại-Lợi cho đó là một tài liệu theo dị giáo, nên đã khinh miệt viết gửi cho ông năm 1616 một lệnh đặc biệt cấm ông không được bàn luận đến ý tưởng của Copernicus”. (Galileo s treatise on astronmy dialogue on the Two Great World System was to change forever the way humankind view the cosmos, banishing the false idea that the Earth is the center of the universe. But the Church authority in Italy it was a heretical document, writen in contempt of an order they had given to Galileo in 1616, specially forbiding him to discuss Copernican notions)

“Vì không tuân lệnh sắc chỉ ấy, ông bị đưa ra tòa án dị giáo xét tội năm 1633. Sau cùng, Galileo bị buộc phải công nhận rằng sách của ông đã bị một số đọc giả hiểu lầm là giống như tư tưởng của Copernicus. Ông đã xin lỗi cho những lỗi lầm sơ xuất và đề nghị sửa lại những sai lầm trong sách của ông!... Ông bị bắt giữ tại nhà và chẳng còn viết gì về Vũ trụ nữa, năm 1992, sau 350 năm sau khi ông chết, ông được miễn tội bởi Giáo-hoàng John Paul 2”. (For his disobedience of this edict he was brought before the Inquision in 1633. Finally, Galileo was press to admit that his book could be contrued by some readers as Copernican. He apologized for this oversight and offered to amend the book... Galileo spent his last years under house arrest, and never wrote again on cosmology. In 1992, 350 years after his death, he was exonerated by Pope John Paul 2).

Tất cả: những sự kiện trên đây là những sự đáng tiếc đã qua rồi, chỉ còn là những kỷ niệm; ngày nay, mọi người ca tụng các nhà khoa học đã, đang, và sẽ mang lại sự tiến bộ cho nhân loại.

Quyển Đo Lường Vũ Trụ (Measuring the universe), trang 20, các nhà khoa học cho biết:

- Chu vi trái đất là 24,608 miles (39,690 cây số).

- Đường kính quả đất là 7,850 miles (12,631km).

Quyển Thiên Văn Học và Không Gian (Astronomy & Space), trang 14 cho biết như sau:

- Đường kính mặt Trời: 1,400,000 Km = 875,000 miles.

- Trái Đất cách mặt trời: 150 triệu km = 93 triệu miles.

- Mặt Trăng xa trái Đất: 384,400 km = 240,250 miles.

- Các Hành tinh đều quay quanh mặt trời ...

LỜI BÀN:

Con người hiểu biết nông cạn, khi người có quyền hành thường hay áp chế áp đảo người khác, cho rằng tất cả điều gì mình nói ra đều đúng, nên mới có cảnh hà hiếp bắt phải tuân theo những điều phi lý, bắt phải tin theo những điều không thể chứng minh được.

Ngày nay nhân loại đã tiến bộ rất nhiều, khoa học đã mang lại ánh sáng văn minh đáng kể. Sự tự do dân chủ của con người được nêu cao và tôn trọng. Những Chân lý mà Đức Phật nói đã được Khoa học chứng minh, đúng lý những lời nói của Đức Phật phải được Nhân loại tôn vinh tôn trọng mới phải lẽ, nhưng không hoàn toàn đúng như thế, tại sao? Vì sự si mê tăm tối của con người không dễ gì thức tỉnh được, vì quyền lợi riêng tư, vì sống trong ích kỷ, vì ngạo mạn cố chấp ý kiến của mình. Đức Phật nói: “Thương thay cho những kẻ si mê, vì si mê nên họ đã hành động điên đảo”.

V )- Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới:

Một cõi Phật: Giải Ngân Hà (The Galaxy).

- Đức Phật dạy:

“Thế giới Ta-Bà nằm trong Tam Thiên đại Thiên thế giới, các thế giới như thế xoay vần thành hoại, quốc độ mà chúng-sanh ở thì gọi là một cõi Phật”.

Trong Kinh Lăng-Nghiêm, đức Phật dạy: “Vạn vật, vũ trụ được cấu tạo bởi sáu thứ đại là Đất, Nước, Gió, Lửa, Thức đại, và Không đại”.

Kinh Lăng-Nghiêm, Địa-Tạng, và Hoa-Nghiêm, Phật đều dạy: “Quang minh trong hư không xoay vần bởi Phong luân, Thủy luân, Kim luân theo hình chôn ốc và khi quay chậm lại thành sơn hà đại địa và chúng-sanh”.

Quán Thế-Âm Bồ-Tát cũng nói trong Kinh Lăng-Nghiêm, trang 389: “Trong Tam Thiên đại Thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng”.

Bộ Trường-A-Hàm, quyển 2, trang 265, và quyển Đường Về Bến Giác của Hòa-Thượng Thích-Thanh-Cát, trang 75 ghi rõ như sau:

- Một Tiểu Thiên thế giới = 1,000 thế giới.

- Một Trung Thiên thế giới = 1,000 Tiểu Thiên thế giới = 1,000 x 1,000 = 1,000,000 thế giới.

- Một Đại Thiên thế giới = 1,000 Trung Thiên thế giới = 1,000,000 x 1,000 = 1,000,000,000. (một tỉ)

- Tam Thiên Đại Thiên thế giới = 3 x 1000 x Đại Thiên thế giới = 3,000 x 1,000,000,000 = 3,000,000,000,000 (Ba nghìn tỉ), các thế giới như thế, xoay vần thành hoại, quốc độ mà chúng-sanh ở thì gọi là một cõi Phật, như vậy riêng giải ngân hà của chúng ta đây đã có ba nghìn tỉ mặt trời.

LỜI BÀN:

Trong Trường A-Hàm vừa nêu trên nói rằng: “Đại Thiên thế giới cũng là Tam Thiên Đại Thiên thế giới”, người viết cảm thấy không ổn, nếu là Đại Thiên thì nói là Đại Thiên, đủ rồi, còn cần gì phải nói là Tam Thiên Đại Thiên nữa, thành ra chữ Tam Thiên phải hiểu là ba nghìn mới phải lẽ, tức là nói ba nghìn Đại Thiên thế giới, do đó người viết đã ghi Tam Thiên Đại Thiên thế giới = 3 x 1,000 x một Đại Thiên thế giới như trên đã ghi, và đây là một cõi Phật.

Trong quyển Đạo Phật và Khoa Học cũng cùng quan điểm khi viết nơi trang 133: “Một Thái dương hệ là Tiểu thế giới, một nghìn Tiểu thế giới là một Tiểu Thiên thế giới, một nghìn Tiểu Thiên thế giới là môt Trung Thiên thế giới. Một nghìn Trung Thiên thế giới là một Đại Thiên thế giới, một nghìn Trung Thiên thế giới trải qua ba lần nhân với một nghìn, nên gọi là Tam Thiên Đại Thiên thế giới”.

- Khoa học: Khoa học nói gì về giải ngân hà?

Một số nhà khoa học cho rằng vũ trụ (một giải ngân hà), được thành lập bởi thuyết “Vũ Trụ Bùng Nổ” (The Big Bang of The Universe); theo thuyết này vũ trụ bùng nổ chỉ trong một phần rất nhỏ của một giây đồng hồ, mọi vật thể, năng lượng, ánh sáng trong vũ trụ được cô đọng trong một chấm nhỏ hơn một hạt Vi phân Tiềm Nguyên tử. Rồi mỗi Phân tử trong cái Vũ trụ li ti đó bỗng bắn tung toé khỏi những Phân tử khác với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sang; vũ trụ bành trướng rất nhanh vì ở vào thời điểm 1/100,000 của một giây đồng hồ, vũ trụ đã lớn bằng cả Thái dương hệ của chúng ta, bề ngang bằng 3.7 tỉ dặm.

Thời gian ngắn ngủi lúc đầu, không những chỉ có nguyên tử, mà còn có những hạt Vi Phân Tiềm Nguyên tử đụng độ nhau dữ dội như Âm điện tử, Dương điện tử, Quang tử trong nồi súp vũ trụ đặc quánh hơn nước đến bốn tỉ lần.

Khi những phân tử này văng khỏi những phân tử khác với một tốc độ nhanh kinh khủng, rià ngoài của vũ trụ chạy xa khỏi rià đối diện nhanh hơn tốc độ ánh sáng (vì hai bên đều bắn ra xa cùng lúc)”.

Quyển Những Nguồn Gốc (The Origins), trang 25, 33 cho biết: “Sự thành lập Vũ trụ cách nay 14 tỷ năm. Lúc đầu tất cả không gian, vật thể, năng lượng của cái gọi là Vũ trụ chỉ bằng đầu mũi kim. Khi đó ở nhiệt độ nóng là 10 lũy thừa 50 (10 lũy thừa 9 là một tỷ độ rồi), và chỉ trong thời gian 10 lũy thừa -45 của một giây đồng hồ (10 lũy thừa -3= 1/1000) vật thể, năng lượng, không gian, thời gian tác động và tương tác với nhau; những đặc tính tác động qua lại này trong biến cố Vũ trụ của chúng ta xẩy ra tất cả những hiện tượng phản ứng hóa học và sinh vật học. Từ đấy tất cả những nguyên tắc căn bản hiểu biết của chúng ta về trái đất khởi sự”. (Some 14 billion years ago, at the beginning of time, all space, all the matter and all the energy of the known universe fit with in pinhead. When at 50 degree power of 10 in -45 second power of 10, matter, energy, space, time behave and interact with one another. The interplay of these characters in our cosmic drama underlies all biological and chemical phenomena. Hence everything fundamental an familiar to us earthlings begins with).

Quyển Cấu Tạo của Vũ trụ, trang 120-121, tính toán và tóm tắt thời gian cấu tạo Vũ trụ bằng thuyết “Bùng Nổ” (Big Bang) như sau:

1)- Bùng Nổ: Vũ trụ bắt đầu từ 9 đến 20 tỉ năm.

2)- 1/100000 giây sau khi Bùng Nổ: Dương điện tử, Trung hòa tử xuất hiện.

3)- 1 phút sau Bùng Nổ: Nguyên tử xuất hiện.

4)- 1 năm sau: Âm điện tử hợp với nguyên tử tạo thành nguyên tố.

5)- 50 triệu năm sau : Các ngôi sao thành hình.

6)- 4-5 tỉ năm cách nay: Các hành tinh thành hình.

7)- 1 tỉ năm cách nay: các loài giun đất xuất hiện. 8)- 248 triệu năm cách nay: Khủng-Long xuất hiện.

9)- 35 triệu năm cách nay: Loài người xuất hiện.

Trước kia Albert Einstein và gần đây Fritjof Capra, trong cuốn The Tao of Physics, trang 182 nói rằng Vũ trụ không phẳng mà cong. Lúc đầu những

Thiên thể gần nhau, rồi chạy xa dần đi. Ví dụ chúng ta chấm (vẽ) những ngôi sao trên mặt một qủa bong bóng nhỏ, nếu bơm bong bóng đó lớn dần lên, ta thấy những ngôi sao trên bong bóng cũng xa nhau dần dần; điều này đúng, vì các Thiên hà kể cả giải ngân hà trong đó có mặt Trời đang chạy xa dần đi.

Aristotle (384-322 trước D lịch), (Đạo Phật và Khoa Học, trang 214) nhà khoa học kiêm triết học nổi tiếng người Hy-Lạp (sau Phật 240 năm) nói: “Tất cả vạn vật đều được cấu tạo bởi Đất, Nước, Gió, Lửa; những chất này hoạt động nhờ hai lực:

- Hấp lực khiến đất và nước chìm xuống.

- Tính nhẹ phiêu bồng khiến gió lửa lên cao>.

Trong quyển Đạo của Khoa Vật Lý (The Tao of Phisics) của Fritjiof Capra, trang181 viết: “Những đám mây khinh khí xoay tròn cô đọng thành những ngôi sao, trong khi những đám mây khác phóng ra những vật thể quay tròn hình chôn ốc và cô đọng lại thành những hành tinh chạy chung quanh các ngôi sao”.

Trong quyển Đo Lường Vũ Trụ (Measuring the Universe), trang 3 ghi: “Giải ngân-hà mà mặt trời (chúng ta) có ở trong đó bao phủ một vùng rộng 3 triệu năm ánh sáng” (Tốc độ ánh sáng trong 1 giây đồng hồ = 300,000 km hay cây số).

Quyển Cấu Tạo Vũ Trụ, trang 66 ghi: “Chúng ta sống ở vòng ngoài của một cánh xoắn chôn ốc của giải Ngân hà” (We live in outer reach of one of spiral arms of the Milky Way)

Thiên văn gia Frank Drake cầm đầu chương trình tìm kiếm nền văn minh ngoài địa cầu (Đạo-Phật và Khoa Học, trang 195, 196), phỏng chừng có khoảng 10,000 nền văn minh ở giải ngân hà của chúng ta; Ông ước tính giải ngân hà của chúng ta có khoảng 400 tỉ ngôi sao, trong đó có khoảng 40 tỉ sao giống mặt trời của chúng ta, nhưng chỉ có khoảng 10 tỉ ngôi sao có hành tinh giống như trái đất chạy chung quanh. Ông lại nói có khoảng 20 tỉ ngôi sao chạy chung quanh hành tinh. (?)

Trong Bộ Sách Giải Thích Vũ Trụ (The Ilustrated Encyclopedia of The Universe) của Ian Ridpath xuất bản năm 2001 ghi: “Tốc độ của hệ thống mặt trời chạy 230 cây số một giây chung quanh trung tâm giải ngân hà và giải ngân hà của chúng ta chạy 600 cây số một giây trong không gian”.

Quyển Những Nguồn Gốc, trang 111, Thiên văn gia dùng viễn vọng kính Herschel Scope quan sát thấy vô số sao trong giải ngân hà không thể đếm tính được. Trang 121 ghi: “Thái dương hệ của chúng ta chạy 240 triệu năm một vòng trong qũy đạo của giải ngân hà. Ngày nay đã quay được 20 vòng kể từ khi thành lập, và có lẽ còn 20 vòng nữa thì tới thời kỳ sụp đổ”.

Quyển Cấu Tạo của Vũ trụ, trang 84, Thiên văn gia Allan Sandage của đài thiên văn Carnagie Observatories ở thị xã Pasadera, tiểu bang California nói: “Vũ trụ của chúng ta (Milky Way) có cách nay vào khoảng từ 9 tới 12 tỷ năm”.

VI )- Vũ trụ vô biên,

Thế giới nhiều hơn cát sông Hằng.

- Đức Phật dạy:

Trong Kinh Lăng-Nghiêm:

“Thế giới nhiều như bụi, đều nương sinh trong hư không, những phong luân khi xoay tròn tạo nên sơn hà đại địa”.

Phật cũng thường nói: “Cõi Phật nhiều hơn cát sông Hằng, trong 10 phương thế giới nhiều như bụi không sao tính đếm được”.

Trong quyển Nhị Khóa Hiệp Giải, trang 215, có vẽ và phân biệt:

1- Hoa-Tạng Thế Giới: 20 cõi Phật xếp chồng lên nhau trong một phương là một Hoa-Tạng hay Thế Giới Chủng (chủng: chứa nhiều thế giới trong một liên hoa), tức gồm 20 giải ngân hà chồng lên nhau.

2- Nhụy Hương-Tràng: 10 Hoa-Tạng quây chung quanh một Hoa-Tạng được gọi là Nhụy-Hương-Tràng, tức là 220 giải ngân hà.

3- Đại Liên-Hoa: Gồm Nhụy Hương-Tràng ở giữa (đây là nhụy hoa và cuống hoa) biển Đại Hương-Thủy, trong biển Đại Hương Thủy có những Biệt Hương Thủy Hải (Hải: số nhiều vô biên không thể xét lường) nhiều bằng số vi trần trong số 10 lần bất khả thuyết Phật sát (Phật quốc), mỗi Biệt Hương Thủy Hải đều có Hoa-Tạng.

4- Hoa-Tạng Huyền-Môn, Tỳ-Lô Tánh Hải: Ngoài Đại Liên Hoa (Hoa Sen lớn) vô cùng tận ra, còn có những Đại Liên Hoa khác nữa vì hư không vô cùng tận. (Huyền-Môn: Chỉ có Chư Phật xét hiểu tường tận, Tỳ-Lô Tánh-Hải: Tâm vô biên trong cái hư không vô biên).

Quyển Nhị Khóa Hiệp Giải, trang 191 ghi: Kinh Hoa-Nghiêm ghi lời Phật giảng về thế giới Liên Hoa Tạng có cái biển lớn nước thơm tên là “Phổ Quang Ma-Ni Vương Trang Nghiêm Hương Hải Thủy”, giữa biển này mọc lên một Hoa sen rất lớn tên là “Chủng Quang Minh Nhụy Hương Tràng”. Trong hoa Nhị Hương Tràng có một tổng hải tên là “Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải”, giữa biển đây có những hoa bằng số mười lần “Bất khả thuyết Phật sát vi trần”, trong mỗi một hoa có một “Hương Thủy Hải”, Trong mỗi một biển ấy lại có một hoa sen lớn, trên mỗi một hoa sen lớn có hai mươi lớp thế giới theo thứ lớp chất chồng nhau, lớp dưới bẹp (nhỏ), lên trên nới lần rộng ra.

Cũng quyển Nhị Khóa Hiệp Giải, trang 219 ghi:

“Chỉ nói Hoa-Tạng thì đâu chẳng phải là Tỳ-Lô Tánh-Hải, vì tánh Hải vô biên, nó hàm ở trong hư không vô biên, bởi hư không vô cùng tận, thì ngoài hoa sen lớn ra, hẳn còn có vô cùng tận những Đại Liên hoa nữa để làm trang nghiêm, đủ rõ rồi”.

Trong Kinh Hoa-Nghiêm của Hòa-Thượng Thích-Duy-Lực dịch, trang 110 ghi:

Bụi trần đầy thế giới hoa tạng,

Trong mỗi hạt bụi hiện pháp giới.

Trong Kinh Hoa-Nghiêm của Hòa-Thượng Thích-Trí-Tịnh dịch, trang 401, Bồ-Tát Phổ-Hiền đã diễn tả thế giới có hình dạng khác nhau, Ngài nói: “Tất cả thế giới chủng hình dạng đều khác nhau, hoặc hình núi Tu-Di, hình sông, hình nước xoáy, hình chôn ốc; hoặc hình trục xe, hình bàn thờ, hình rừng cây, hình nhà lầu; hoặc hình lập phương, hình hoa sen, hình thân chúng-sanh, hình đám mây; hoặc hình Phật ngồi, hình tròn sáng, hình tam giác (hình nón), hình bán nguyệt, hình tròn, v.v..”.

Kinh Hoa-Nghiêm, trang 377, Ngài Phổ-Hiền Bồ-Tát nói: “Đại Liên Hoa lúc nở ra, lúc héo đi”.

- Về Khoa Học:

Trong quyển Nhừng Nguồn gốc (Origins) của Neil De Grass Tyson và Donald Gold Smith, trang 103, trong đó đề cập tới nguồn gốc vũ trụ, các giải ngân hà, các ngôi sao, các hành tinh, và đời sống, đã gọi vũ trụ là đại vũ trụ (Metaverse), thậm chí họ còn gọi là vô số vũ trụ (Multiverse), vì có qúa nhiều thiên hà, có hằng tỉ, tỉ giải ngân hà. Các nhà khoa học nói: “Chúng tôi gọi vũ trụ phụ thuộc vào cái liên vũ trụ rộng lớn mà nó bao gồm một sự vô cùng tận vô số vũ trụ (We call universe belong to as much larger multiverse which contain an infinite number of universes), và chẳng vũ trụ nào liên quan tới vũ trụ nào”.

Thiên văn gia Edwin Huble sau khi dùng viễn vọng kính của ông quan sát (Đạo Phật và Khoa Học, trang 195), ông nói: “Có hàng tỉ giải ngân hà và hàng tỉ tỉ tinh tú ngoài giải ngân hà của chúng ta”.

Trong quyển Đo Lường Vũ Trụ (Measure The Universe), trang 3, nhà khoa học Kitty Ferguson nói: “Vũ trụ mà con người có thể nhìn được bằng viễn vọng kính rộng từ 8 tới 15 tỉ năm ánh sáng”.

Quyển Cấu Tạo Vũ trụ, trang 66 viết: “Trước đây các Thiên văn gia nói có khoảng 10 tỉ giải Ngân hà, nhưng nay (1997) có ít nhất là 50 tỉ giải Ngân hà!”

Quyển Đạo Phật và Khoa Học, trang 146 ghi:

Tiến-sĩ E William, giám đốc viễn vọng kính ở Baltimore tuyên bố: “Chỉ nhìn một vùng nhỏ hẹp trong bầu trời khoảng 1/25 của một độ, hay chiếm bằng một hạt cát trên cánh tay, thế mà các Thiên văn gia báo cáo đã phát hiện ở nơi đó có từ 1500 tới 2000 Thiên hà”.

Các khoa học gia nhìn thấy các giải ngân hà nở ra, vì các tinh tú càng ngày càng xa nhau ra với tốc độ rất lớn; do đó, họ đã đưa ra thuyết Bùng Nổ (Big Bang). Vũ trụ nổ tung cực lớn khiến các tinh tú bắn ra nên ngày càng xa nhau hơn.

Nhưng sau một thời gian: (Đạo Phật và Khoa Học, trang 190), các nhà khoa học khác lại tìm thấy có giải ngân hà khác hình như co lại, vì các ngôi sao lại ngày càng gần nhau hơn.

Quyển Cấu Tạo của Vũ Trụ, trang 68 ghi: “Những giải Ngân hà khác nhau hình dáng, to nhỏ kết lại với nhau bởi trọng trường gồm nhiều tá (Dozen) các giải Ngân hà thành Chùm Ngân hà (Galatic Cluster), chùm này di chuyển trong không gian không rời nhau”. Trang 118, nói: “Chúng ta giống như con kiến trên qủa bong bóng đang bơm, thấy các chấm trên bong bóng đang xa nhau ra, mà chẳng thấy ngoài và trong bong bóng có gì, cũng chẳng thấy bià Vũ trụ; rồi nếu nói có sự bành trướng hay co lại thì phải có trung tâm chứ? Nổ Bùng (Big Bang) làm tung bay đi các ngả, nhưng chỗ xẩy ra Nổ Bùng ở đâu? Eddington phân tích con kiến trên bong bóng trả lời câu hỏi đó”.

Quyển Đo Lường Vũ Trụ, trang 198

Bill Summer (Đạo Phật và Khoa Học, trang 247) cho rằng các nhà vũ trụ học đều sai hết, vì vũ trụ sẽ co rút lớn trong 4 tỉ năm nữa, điều này đi ngược với Thiên văn vũ trụ học đã đưa ra từ 70 năm nay.

Mới đây, hai nhà Thiên văn học Magaret Geller và John Huchra thuộc trung tâm Thiên văn vật lý Harvard (Harvard Smithsonian Center for Astrophisics) (Đạo Phật và Khoa Học, trang 196) đã khám phá ra một dây ngân hà lớn nhất chưa từng thấy trước đây, giải ngân hà này được gọi là “Bức Trường thành vĩ đại của các giải ngân hà” (The great wall of galaxies). Gồm rất nhiều giải ngân hà đan thành một bức tường dài 500 triệu năm ánh sáng.

Trong quyển Đo Lường Vũ Trụ, trang 250 còn ghi: “Bức Trường thành có bề dầy 10 triệu năm ánh sáng, và chiều dài tới một tỉ năm ánh sáng”.

Do đó các Thiên văn gia cho rằng cấu trúc của vũ trụ như lý thuyết khoa học đã nói trước đây không còn phù hợp nữa về sự Bùng Nổ (Big Bang) để hình thành vũ trụ (Đạo Phật và Khoa Học, trang 197), vì các giải ngân hà qúa xa nhau nên không một lực nào có thể tạo nên vũ trụ được. Lý thuyết đó là vũ trụ bắt đầu bùng nổ cách nay 15 tỉ năm và bành trướng nhanh chóng thành một hợp chất đồng đều giữa thể chất và năng lượng, tất cả thu hút bởi sức hút và trở thành Thiên hà.

Rồi các Nhà Thiên văn lại loan báo là đã khám phá ra một nhóm các sao lớn chưa từng thấy (Đạo Phật và Khoa Học, trang 198), họ gọi là “Địa lục Thiên hà” (Continents of Galaxies). Nhóm sao này cách trái đất khoảng 150 triệu năm ánh sáng, nhóm sao này có sức hút vô cùng lớn khiến nó lôi kéo hàng triệu các giải ngân hà khác; việc này khiến các nhà khoa học cho rằng vũ trụ còn rất nhiều điều chưa biết và vũ trụ qúa phức tạp.

Trưởng toán Alexender nghiên cứu không gian, thuộc viện Carnegie ở Hoa-Thịnh-Đốn (Washington) Hoa-Kỳ đã khám phá ra Địa lục Thiên hà này, tuyên bố: “Nó lớn qúa và che lấp bầu trời làm chẳng ai để ý đến nó”, còn Thiên văn gia Dresser tin rằng có nhiều Địa lục thiên hà như thế nữa.

Các nhà Thiên văn còn tìm ra một nơi mà họ bảo là “Bảo sinh viện tinh tú” (Galactic Nursery) (Đạo Phật và Khoa Học, trang 203), Thiên văn gia Jeffer Haster thuộc đại học Arizona nói: “Những ngôi sao mới đang thành hình ngay trước mắt (qua viễn vọng kính Hubble) chúng ta”.

Trong quyển Đo Lường Vũ trụ, trang 258, còn ghi thêm: “Đây là đĩa khí và bụi dầy chừng 500 năm ánh sáng. Nó là chỗ sinh ra các ngôi sao” (This is the disk of gas and dust, only 500 light of years thick. It is the birthplace of new stars).

Trong quyển Đo Lường Vũ trụ, trang 248, Thiên văn gia Freidman nói: “Vũ trụ, nhìn mọi phía đều có vô số các giải ngân hà giống nhau”.

Cũng trong quyển Đo Lường Vũ trụ, trang 300, nhà khoa học người Đức Heinrich W Olber (1758-1840), lại phát biểu như sau: “Nếu không gian không có tận cùng của nó tức là vô cùng tận, và nó chứa vô số kể ngôi sao, thì ban đêm bầu trời sẽ sáng như mặt trời vậy”. Ông ta chưa tin là không gian vô biên (đây là thiểu số).

Trong quyển Những Nguồn Gốc, trang 125, 127, Trung Tâm Viễn Vọng Kính Hubble chụp vô cùng sâu vào không gian (Hubble Space Scope Ultra Deep Field) năm 2004, có chụp một số hình, một hình chụp giải ngân hà trông giống hệt cái trứng chiên lòng đỏ còn nguyên mà chiên hai mặt, khi ta nhìn theo chiều nghiêng trông giống như đĩa bay, nhưng mỏng, chỉ có chỗ giữa lồi về hai phiá như trứng chiên lòng đỏ không bể vậy. Một tấm hình khác, trong đó mỗi chấm sáng là một giải ngân hà, có vô số kể chấm sáng. Các bức hình chụp từ trái đất cách từ 3 tỉ đến 10 tỉ năm ánh sáng xa.

LỜI BÀN:

Những điều trình bày trên của các nhà Khoa học chứng tỏ những lời Đức Phật nói từ hơn 2500 năm nay là chính xác, các nhà Khoa học đã chứng minh bằng mắt thấy trong viễn vọng kính tân tiến nhất của ngày nay rằng Vũ trụ vô biên vì không thấy biên giới của Vũ trụ, thế giới vô lượng vì có quá nhiều thế giới đếm không xuể được.

VII )- Thời gian và không gian

1)- Thời gian không gian dung thông:

- Đức Phật dạy:

Kinh Hoa-Nghiêm, Phật dạy:

“Thời gian dung thông không gian, không gian dung thông thời gian”.

- Về Khoa Học:

Quyển Đạo Phật và Khoa Học, trang 62 ghi:

- Khoa học gia Matt Visser thuộc đại học Washington đã nói về thuyết tương đối của Bác học Albert Einstein: “Einstein đã biến đổi vật lý học bằng cách chứng tỏ rằng không gian và thời gian thực ra chỉ là hai vẻ khác nhau của cùng một môi trường, có thể giãn ra, uốn cong, và vặn vẹo hình thái bởi trọng trường”.

Nhà Bác học Albert Einstein (1879-1955), Quyển Cấu Tạo Vũ trụ, trang 50 viết: “Thuyết của Einstein khẳng định rằng khối lượng làm cong không gian -thời gian” (Einstein s theory states that mass curves space-time). Bộ sách Giải Thích về Vũ Trụ ghi, một điểm trong thuyết tương đối (Theory of Relativity) của ông như sau: “Khi tốc độ bằng ánh sáng, thời gian ngừng, khoảng cách không còn, và trọng lượng của vật bay phải lên tới vô cực” (vô cùng lớn) (At the speed of light, time stops, you have zero length, and your mass is infinite).

Nhà Bác học Einstein kế luận: “Không thể nào đạt được tới tốc độ nhanh như ánh sáng” (Einstein concluded that you cannot reach the speed of light).

Lý thuyết này chỉ áp dụng cho người thế tục, chứ không áp dụng cho bậc Thánh của Phật giáo, vì sắc thân của các Ngài là quang minh, sắc tức là không.

2)- Thời gian mau chậm khác nhau:

- Phật dạy:

Nhị Khóa Hiệp Giải, trang 205, 206 ghi:

Tuổi thọ và chiều cao của chư Thiên càng lên

cao càng sống lâu và càng cao hơn, như sau:

Tuổi Chiều cao Cách xa

Cõi Vô Sắc: (Kiếp) (Do tuần) (Do tuần)

Trời Phi Phi Tưởng 80,000 Vô hình 22, 549 tỉ

Trời Vô sở hữu sứ 60,000 vô hình 11,274 tỉ

Trời Vô biên thức 40,000 vô hình 5,637 tỉ

Trời Không vô biên 20,000 vô hình 2,819 tỉ

Cõi sắc giới: (Kiếp) (Do tuần) (Do tuần)

Trời Sắc cứu cánh 16,000 16,000 1,409 tỉ

Trời Thiện hiện 8,000 8,000 705 tỉ

Trời Thiện kiến 4,000 4,000 352 tỉ

Trời Vô nhiệt 2,000 2,000 176 tỉ

Trời Vô phiền 1,000 1,000 88 tỉ

Trời Vô tưởng 500 500 44 tỉ

Trời Quảng qủa 500 500 22 tỉ

Trời Phúc sinh 250 250 11 tỉ

Trời Vô vân 125 125 5.5 tỉ

Trời Biến Tịnh 64 64 2.752 tỉ

Trời Vô lượng tịnh 32 32 1.376 tỉ

Trời Thiểu tịnh 16 16 688 triệu

Trời Quang âm 8 8 344 triệu

Trời Vô lượng quang 4 4 172 triệu

Trời Thiểu quang 2 2 86 triệu

Trời Đại Phạm 1.5 1.5 43 triệu

Trời Phạm phụ 1 1 21.5 triệu

Trời Phạm chúng 0.5 0.5 10,8 triệu

Cõi dục giới: Tuổi Chiều cao Cách xa

(Tuổi trời) (Dặm) (Do tuần)

Ma La Thiên 32,000 3 dặm 5.4 triệu

Tha Hóa lạc 16,000 2.5 2.7 triệu

Hóa lạc Thiên 8,000 2 1.3 triệu

Đâu Suất Thiên 4,000 1.5 677 nghìn

Dạ Ma Thiên 2,000 1 336 nghìn

Đạo-Lợi Thiên 1,000 0.5 168 nghìn

Ghi chú: Một ngày cõi Trời Dục giới = 1 năm cõi Trần. Trời Đạo-Lợi sống 1000 năm x 365 = 365,000 năm.

LỜI BÀN

Quyển Nhị Khóa Hiệp Giải, trang 206, ghi tuổi thọ cõi Trời Sắc-giới và Vô Sắc giới tính bằng Đại Kiếp. Trong khi bộ Trường A-Hàm, quyển 2, trang 400 lại tính bằng Kiếp, có một sự khác biệt qúa xa, người viết sau khi cõi kỹ, thấy để Kiếp thì đúng hơn, vì có sự liên tục tuổi tăng từ cõi Dục-giới tiếp lên cõi Sắc-giới chứ không tăng nhảy vọt , nên sách này đã ghi theo Đại Tạng Kinh.

Xem bảng liệt kê trên đây, chúng ta thấy các tầng trời càng cao xa, Chư Thiên càng cao lớn hơn, và càng sống lâu hơn, theo một tỷ lệ là khoảng cách xa gấp đôi thì chiều cao thân hình cũng gấp đôi, và sống lâu cũng gấp đôi. Một điểm nữa: chúng ta cần biết là càng xa mặt đất lên cao, không khí càng loãng dần, hấp lực cũng giảm đi cho tới chỗ qúa xa thì không còn không khí, không còn hấp lực nữa.

Quyển Đạo Phật và Khoa Học, trang 48, kể truyện một Tiên nữ lạc xuống Trần gặp một chàng trai, rồi hai người thương nhau lấy nhau làm vợ chồng. Hai người sống chung với nhau mười mấy năm hạnh phúc, sinh được hai con. Sau Tiên nữ nhớ cảnh Tiên, lén bay về Trời, Vua Đế-Thích thấy hỏi: “Nàng đi đâu cả buổi khiến ta không thấy?”.

Kinh Hoa-Nghiêm nói rằng: “Một kiếp ở cõi Ta-Bà này chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi Cực-Lạc”.

- Về Khoa học:

Bộ sách Giải Thích về Vũ Trụ viết nhà Bác học Albert Einstein nói về sự thay đổi đối với sức hấp lực (Gravitation shift) như sau :

1)- Thời gian nơi có hấp lực (trọng trường hay trọng lực) chậm hơn thời gian nơi không gian không có hấp lực (The time at a point gravitation field run slower than time in free space).

2)- Đường thẳng trong không gian là Không-Thời (không gian-thời gian) bốn chiều (Straight line in space is 4-dimensional Space-Time).



3)- Hấp lực được hình dung là một sự uốn cong của Không-Thời (Gravity should be a curvature of Space-Time).

4)- Các hành tinh giữ đường quay quanh mặt trời không phải do hấp lực, mà bởi không gian cong giữ các hành tinh chuyển động trong đường quay (The planets keep the orbit to the sun not by gravity but by curvature of space constrains them to move in closed paths).

5)- Thời gian cần cho ánh sáng truyền đi giữa hai điểm nơi có hấp lực thì nhiều thời gian hơn cho ánh sáng truyền đi cùng một khoảng cách ở nơi không gian không có hấp lực (The Time taken for light to travel between two points in the gravitional field is greater than for an identical distance in free space).

Quyển Đạo Phật và Khoa Học, trang 54 viết:

Ví dụ một quan sát viên mang theo một cái đồng hồ lên phi thuyền sau khi từ biệt một quan sát viên đứng tại chỗ ở dưới đất vào một thời gian nào đó. Rồi người đáp phi thuyền trở lại mặt đất và gặp lại người quan sát viên ở dưới đất, vì tác dụng của thời gian co giãn, khoảng thời gian của người đáp phi thuyền trôi nhanh hơn thời gian của người dưới đất; nếu người đáp phi thuyền bay trong hai năm thì khi phi thuyền đáp xuống đất đã trải qua hai mươi năm rồi.

Trang 55 viết: Người ta thí nghiệm làm cho một hạt nguyên tử dao động ở tầng thấp nhất, người ta thấy rằng hạt nguyên tử ở tầng thấp nhất giao động chậm hơn là hạt nguyên tử được đặt trên tầng thứ tư của tòa nhà bốn tầng; như vậy khoa học đã chứng minh thời gian nơi không trung trôi nhanh hơn thời gian ở dưới đất, tóm lại một ngày ở cõi trời Đạo-Lợi bằng một năm của chúng ta đã được khoa hoc chứng minh.

LỜI BÀN:

Ở đây, chúng ta thấy lời Phật dạy với sự tìm hiểu, chứng minh, của khoa học, cùng một nhịp đàn êm tai. Các nhà khoa học đáng được ca ngợi, vì nhờ họ mà các lời Phật dạy được giải thích, làm sáng tỏ hơn lên, nhất là đối với những người ít tìm hiểu. Việc làm của các nhà khoa học rất cần thiết cho đời sống con người, cần thiết cho đời sống tiến bộ, văn minh; nhưng cũng còn vô số điều Phật dạy mà khoa học chưa giải thích được.

VIII )- Những phát biểu nổi tiếng.

Sau đây là những phát biểu của một số nhân vật nổi tiếng trên thế giới:

1) Albert Einstein

Trong quyển “Phật Giáo dưới mắt các nhà trí thức” (Buddhism in the Eyes of Intellectuals) của Tiến-sĩ Sri Dhammanand, trang 54 ghi: Albert Einstein viết: “Tôn-giáo tương lai sẽ là tôn-giáo vũ-trụ, Tôn-giáo này siêu việt trên một đấng Thiêng liêng nào đó và tránh hết mọi giáo điều và thần học, bao trùm cả thiên nhiên lẫn tinh thần tôn-giáo. Tôn-giáo này phải căn cứ vào ý niệm đang phát sinh từ những thực nghiệm của mọi vật, thiên nhiên và tinh thần như một sự thuần nhất đầy đủ ý nghĩa. Đạo Phật đáp ứng được điều đó” (Albert Einstein write: The religion of the future will be a cosmic religion. It should trensend a personal God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religiuos sense arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unit. Buddhism answers this description).

Trang 115 ghi tiếp: Albert Einstein viết tiếp: “Nếu có một tôn-giáo nào đáp ứng những nhu cầu của khoa học hiện đại, thì tôn-giáo đó phải là Phật-giáo”. (If there is any religion cope with modern scientific needs it would be Buddhism).

Trong quyển “Nền Tảng của Đạo Phật” (Fundamentals of Buddhism), của Tiến-sĩ Peter D Santina ghi: “Nhà Bác-học Albert Einstein trong bài tự thuật rằng ông là người không tôn-giáo, nhưng nếu ông là người có tôn-giáo thì ông phải là một Phật tử”. (Albert Einstein remarked that he was not a religious man, but if he were one, he would be a Buddhist).

Cũng trong quyển Đạo Phật Dưới Mắt Các Nhà Trí Thức, có các sự phát biểu như sau:

2)- Bertrand Russell (trang 80) nói: “Trong những tôn-giáo vĩ đại của lịch sử, tôi thích Phật-giáo, nhất là những dạng thức thuở ban đầu, vì tôn-giáo này có ít yếu tố ngược đãi nhất” (Of the great religion of history, I prefer Buddhism, especially in its nearest forms, because it has the smallest element of persecution).

3)- H.G. Well (trang 98) nói: “Phật giáo đã mang lại sự tiến bộ cho thế giới văn minh và văn hóa chính đáng nhiều hơn là bất cứ ảnh hưởng nào khác trong lịch sử của nhân loại”. (Buddhism has done more for the advance of world civilization and true culture than any other influence in the chronicles of mankind).

4)- Ngài Edwin Arnol (trang 115) nói: “Tôi đã thường nói, và tôi sẽ nói mãi nói mãi rằng giữa Phật-giáo và khoa học hiện đại có quan hệ tinh thần khắn khít” (Sir Edwin Arnol said: I often said, and I shall say again and again, that between Buddhism and modern science there exists a close intellectual bond).

5)- Egerton C. Baptist (trang 117) nói: “Khoa học không thể đưa ra một sự đoan chắc. Nhưng Phật-giáo có thể đáp ứng sự thách đố của Nguyên tử, nên kiến thức siêu phàm của Phật-giáo bắt đầu ở chỗ kết thúc của khoa học” (Science can give no assurance herein. But Budhism can meet the Atomic Challenge, because the supramundente knowledge of Budhism begins where science leaves off).

Và còn rất nhiều sự phát biểu khác mà người viết không thể viết dài them được nữa, rất tiếc!.,.


Không biết
Bài viết: 429
Ngày: 23/11/10 22:04
Giới tính: Nam
Đến từ: Việt Nam
Được cảm ơn: 2 time

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi Không biết »

trời ơi! dài thòn lòn thấy ghê quá :D cảm ơn ĐH Dị Nhân đã ghé thăm và đóng góp nhưng hông biết ĐH có đọc và hiểu hết những gì mình vừa đăng không nhỉ? :D

Đôi lời góp ý:

Thứ 1, NỘI QUY Diễn Đàn đã quy định:
3.3 Không gởi đăng các bài viết/sách có bản quyền. Nếu là tác giả xin hãy đính kèm văn bản hợp pháp, đồng ý cho phép trang http://daitangkinhvietnam.org sử dụng để đăng trên trang nhà.
nếu trích dẫn bài viết của người khác xin ghi rõ nguồn.
Nhắc nhở 2 lần, lần 3 khóa nick.
.............
c) Không copy bài viết: đó là tình trạng copy các bài viết của cá nhân khác rồi đăng khắp nơi trong diễn đàn. Nội quy này khuyến khích mỗi người tự viết bài, nêu lên quan điểm ý kiến của cá nhân mình, tất nhiên được quyền trích dẫn các nguồn dữ liệu minh chứng cho lý luận của mình. Nếu thành viên copy đã có sẵn trên mạng và dán vào nơi đây thì nhắc nhở 1 lần, lần 2 sẽ bị khóa nick.

http://www.diendan.daitangkinhvietnam.o ... =53&t=5669
đạo hữu vội gì mà không trích link nguồn + tên tác giả vậy :D
nên hạn chế copy + paste nhiều quá vì lạm dụng hành động đó sẽ biến mình thành cái máy copy chứ không phải thành một người có trí tuệ :D

Thứ 2, bài trích ở trên của ĐH có thế khiến người khác đánh đồng Khoa học với Phật pháp không? nếu những dẫn chứng Khoa học ở trên có kẻ hở và tầm bậy thì phải chăng Phật pháp cũng tầm bậy?? :D

Thứ 3, bài viết đó có cái hay là cung cấp nhiều thông tin Khoa học thú vị nhưng cũng có cái nhược là nhiều chỗ tầm bậy; vì tránh làm loãng Topic nên ngu tui hổng tiện đem ra mổ xẻ và phân tích :D

Thứ 4, đây là chuyên mục "Thiền và giáo lý Phật giáo Nam truyền" thành ra ĐH muốn tham gia thì ít nhất cũng phải có "một ít" vốn kiến thức NT và khi thảo luận thì phải trích kinh NT mới là hợp lẽ, nhập gia tùy tục mà phải hông ĐH :D

p/s đừng bao giờ dùng Khoa Học để "nâng bi" cho Phật pháp vì làm như vậy là các ĐH đang dìm hàng Phật pháp chứ không phải là nâng bi như quý vị nghĩ đâu :D

Thân ái!


Ngã Không
Bài viết: 62
Ngày: 25/03/15 08:59
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Từ vô thuỷ

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi Ngã Không »

Kính chào chư vị đạo hữu,

- Chấp vào Khoa Học hay Tôn giáo cũng giống với việc chấp có hoặc chấp không. Dù chấp có, hay chấp không thì cũng sai lạc với giáo lý Phật.

-Phật không dạy đệ tử phải từ bỏ việc sáng chế, nếu việc sáng chế đó mang lại lợi lạc cho chúng sinh, nhất là bản thân con người

-Chúng ta có thể vào Internet, diễn đàn Phật pháp để trao đổi kinh nghiệm học phật cũng là nhờ vào Khoa học, không thể nói các nhà phát minh ra máy vi tính là ác nhân được, vì làm như vậy chẳng khác nào là ăn cháo rồi đá bát, không biết ơn còn tìm cách phỉ báng

-Việc sử dụng khoa học vào mục đích gì thì tùy thuộc vào chúng ta. Nếu chúng ta là phật tử, học giáo lý phật thì khoa học sẽ làm lợi cho đời. Ngược lại, chúng ta không đủ đạo đức thì khoa học sẽ làm hại đời. Vấn đề là Đạo Đức, chứ không phải Khoa học.

- Giải thoát là mục đích cuối cùng của đệ tử phật. Nhưng trước khi Giải thoát thì con người cần có trí tuệ và đạo đức, không có hai thứ này thì không thể thành tựu được

kính


Không biết
Bài viết: 429
Ngày: 23/11/10 22:04
Giới tính: Nam
Đến từ: Việt Nam
Được cảm ơn: 2 time

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi Không biết »

hihi, bửa nay có thời gian rãnh nên vào trả bớt món nợ cũ :D
Không biết đã viết:
Nói Thẳng 24 đã viết:Thế giới này tất cả đều Vô Ngã, không có tự tính, như huyễn, như mộng, Vô Thường, Duyên Hợp.
với câu nói này ngu tôi có thể hiểu "Thế giới này tất cả đều Vô thường, đều Vô ngã" có được không? tôi trích kinh Nam Truyền nói ngược quan điểm này liệu có được không??
(ngu tui muốn ĐH suy tư và tự phản biện trước khi ngu tui làm điều này :D )
Nói Thẳng 24 đã viết:
Không biết đã viết:với câu nói này ngu tôi có thể hiểu "Thế giới này tất cả đều Vô thường, đều Vô ngã" có được không? tôi trích kinh Nam Truyền nói ngược quan điểm này liệu có được không??
Bạn Không biết thân mến, từ "Thế giới" trong câu trên là viết tắt của "Thế giới hiện tượng", nói theo thuật ngữ Phật học là "Các pháp hữu vi". tangbong
chỗ này ĐH Nói Thẳng hơi ẩu và vội vàng, ngu tui đã mất công tô đỏ in đậm và đặt câu hỏi ngay chỗ đó tức là có dụng ý. ĐH lại 'cắt xen' đi và copy lại câu hỏi vô tình bỏ qua mất dụng ý của người hỏi, cũng là bỏ qua mất cơ hội để tư duy và xem xét lại tri kiến của mình xem có 'tầm bậy' chỗ nào không :D

câu trả lời trên của ĐH rơi vào cái lỗi mà ngta hay gọi là đánh đồng khái niệm, dựa vào câu trả lời đó thì ngu tui cũng biết được là ĐH chưa nắm được thế nào là Pháp hữu vi và rất thiếu suy xét trong các vấn đề Khoa học lẫn cả Chánh pháp (thứ lỗi vì sự thật thường hay mất lòng ĐH nhé :D )

Định nghĩa pháp Hữu vi:
47.- Hữu Vi
- Có ba tướng hữu vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp hữu vi. Thế nào là ba?

Sanh được trình bày rõ, diệt được trình bày rõ, sự biến dị khi đang trú được trình bày rõ. Có ba tướng hữu vi này, này các Tỷ-kheo, cho các pháp hữu vi.

(phẩm Nhỏ, chương III - TĂNG CHI BỘ)
rồi đó ĐH, Đh thử áp dụng lời Phật dạy trong kinh với các đối tượng như Chân không, Vật chất tối, Năng lượng tối... của ngành thiên văn học xem mấy thứ đó sanh ra sao,diệt chỗ nào? sự biến dị khi đang trú ra làm sao?? :D
nếu Đh không thể 'trình bày rõ' thì cái "thế giới hiện tượng" mà ĐH nói không phải là pháp Hữu vi theo đúng định nghĩa của Phật dạy trong kinh ĐH nhé!

pháp Hữu vi là thuật ngữ Phật học chỉ cho cơ cấu 5 uẩn của Thân-Tâm con người, đem khái niệm đó áp dụng cho trời,mây,sông,núi... là bắt đầu tầm bậy chứ đừng nói gì đến những chuyện xa hơn :D

trong nghiên cứu Khoa học (nhất là Vật lý) người ta thường dùng các khái niệm tương đối để mô phỏng các sự vật hiện tượng (trong Toán học thì có khái niệm lim).
Thí dụ: bạn lái xe từ nhà đi tới chỗ làm với khoảng cách 30km (bỏ qua những chỗ lồi lõm, ổ gà ổ vịt..) thì phải nói là bạn đi trên con đường thẳng chứ không thể nói là đi trên đường cong mặc dù bề mặt Trái đất là "cong" chứ không hề phẳng như trong sự tích Bánh chưng Bánh giầy :))
(vì 'độ cong' của quãng đường đó là quá nhỏ, không đáng kể nên có thể xem như là không có)

hay như khi nhìn thấy cái bóng đèn huỳnh quang (đã nêu ở trước) đang chiếu trong phòng thì phải nói là cái bóng đèn đang sáng chứ không thể nói là bóng đèn đang chớp-tắt (vì nó quá nhanh) nói như vậy là 'sai' với cảm nhận của người quan sát. Rồi cái bóng đèn đang chiếu vào một hồ cá giúp bạn nhìn thấy một con cá đang bơi, hiện tượng đó phải nói là tôi nhìn thấy con cá đang bơi chứ không thể nói là tôi nhìn thấy con cá đang chớp-tắt bơi <= nói như vậy thì thật là khó đỡ :))
.........
hay như trong Toán học nếu đặt ra câu hỏi "Một chia Không bằng mấy? / 1 : 0 = ?" thì gặp một học sinh phổ thông dễ khéo sẽ bị chửi là "ngu,mất căn bản trầm trọng.." nhưng trong môn Toán cao cấp thì người ta chấp nhận rằng "1 : 0 = +∞" <= điều này có được từ việc tìm kết quả của phân thức (1/x) khi x tiến ra vô cực (tức là khi x vô cùng lớn) hình thành nên khái niệm lim, nói cách khác:
lim(1/x) = 0 hay 1/∞ = 0 hay 1/0=∞
x -> ∞
..............

đến đây ngu tui có 1 câu đố vui: 2 đường thẳng song song thì gặp nhau ở điểm nào?? :D

..............

rồi, bây giờ thì áp dụng mấy cái 'tương đối tính' này vào khái niệm VÔ Thường mà chúng ta đang thảo luận:

- nếu bạn quan sát một đóa hoa phù dung thì sẽ thấy: nở vào buổi sáng, trải qua 3 màu trắng-hồng-đỏ rồi tàn vào buổi tối <= thì có thể kết luận "Phù dung là một đóa hoa Vô thường" :D (cụ thể là vô thường trong nửa ngày)

- nếu bạn quan sát mặt Trăng trên bầu trời vào mỗi đêm thì sẽ thấy nó trải qua 8 trạng thái như sau:
Trăng mới-Lưỡi liềm đầu tháng-Bán nguyệt đầu tháng-Khuyết đầu tháng-TRĂNG TRÒN-Khuyết cuối tháng-Bán nguyệt cuối tháng-lưỡi liềm cuối tháng-Trăng tối (tham khảo thêm wiki: https://vi.wikipedia.org/wiki/Pha_M%E1% ... Tr%C4%83ng)
và chu kỳ này lặp lại 12 lần một năm dương lịch <= có thể kết luận "Mặt trăng là một hiện hữu vô thường" (lưu ý là ngu tui dùng chữ hiện hữu chứ không có dùng chữ vật thể vì dùng chữ 'vật thể' thì câu nói của tui có thể sai :D )

- nếu bạn quan sát sự thay đổi khí hậu mùa màng trong một năm thì sẽ thấy Mùa Xuân - mùa đem tới sự tươi mới cho cây cỏ và đem tới nhiều ước mong cho lòng người sẽ bắt đầu từ tháng 01 (sau Noel) và kết thúc vào tháng 04 <= có thể kết luận "Mùa Xuân là hiện hữu Vô thường"

nói tới đây làm tui nhớ đến lời thơ rất hay của nhà thơ Xuân Diệu:
"Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Trăng còn non, nghĩa là trăng sẽ già"
<= ngu tui 'cải biên' câu này một chút cho nó hợp với ngữ cảnh đang thảo luận :D

- nếu bạn quan sát một con người sinh ra và trải qua các giai đoạn: Thiếu niên-Thanh niên-Trung niên-Lão niên rồi 'die', chu kỳ này tầm khoảng 80 năm. Kết luận: "Sinh mạng con người là Vô thường" <= Ok :D
................
nói chung, bạn quan sát hiện hữu nào thấy nó sanh-biến dị-diệt thì có thể kết luận nó là Vô thường một cách tương ưng với định nghĩa của Phật trong kinh (dù chưa chắc là Phật muốn nói tới chúng)

còn hiện nay, các nhà Khoa học bằng phương pháp địa chất và đo đạc phóng xạ đã xác định được tuổi của Mặt trăng vào khoảng ~ 4.530.000.000 năm. Nếu lấy tuổi thọ trung bình của con người thời nay so với Mặt trăng thì sẽ được tỉ lệ:
80/4530000000 = 0,000000018 (tức là chưa được 2 phần Trăm Triệu)
mà Mặt trăng còn "sống thọ" bao lâu thì có giời mới biết :D nếu xem tuổi của Mặt Trăng (so với tuổi người) là +∞ thì khi thế vào cái hàm lim ở trên có thể nói là thọ mạng của con người so với mặt Trăng là con số 0 tròn trĩnh, không đáng kể tới. Một người tái sinh vài Triệu kiếp vẫn còn thấy mặt Trăng sờ sờ ra đó mà vẫn cứ nói rằng: Mặt Trăng là Vô thường <= ĐH Nói Thẳng nghĩ sao về đầu óc của một người như thế? đối với Mặt Trăng còn như vậy thì đối với cái "Thế giới hiện tượng" mà ĐH từng nhắc tới thì sao nhỉ?? :D

rõ ràng câu nói ấy là 'sai' so với khế ước của Khoa học và so với Chánh pháp Phật thì là lời "hý luận vọng ngôn":
-- Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi:
"Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: "Thế giới là thường trú, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng"?, Tôn giả Gotama đã trả lời: "Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: "Thế giới là thường trú, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng". Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi:
"Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: "Thế giới là vô thường, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng"? Tôn giả Gotama đã trả lời: "Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: "Thế giới là vô thường, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng". Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi:
"Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: "Thế giới là hữu biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng"? Tôn giả Gotama đã trả lời: "Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: "Thế giới là hữu biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng". Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi:
"Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: "Thế giới là vô biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng"?, Tôn giả Gotama đã trả lời: "Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: "Thế giới là vô biên, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng"... Sao vậy, thưa Tôn giả Gotama? Khi được hỏi:
"Phải chăng Tôn giả Gotama có tri kiến như sau: "Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng"?, Tôn giả Gotama đã trả lời: "Này Vaccha, Ta không có tri kiến như sau: "Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ như vậy là chơn, ngoài ra là hư vọng" Tôn giả Gotama thấy có sự nguy hại gì mà Ngài không chấp nhận hoàn toàn những tri kiến này như vậy?

-- Này Vaccha, nghĩ rằng: "Thế giới là thường trú", như vậy là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, với tàn hại, với não hại, với nhiệt não, không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

-- Này Vaccha, nghĩ rằng: "Thế giới là vô thường", như vậy là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, với tàn hại, với não hại, với nhiệt não, không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

............

Này Vaccha, Ta thấy có sự nguy hại này mà Ta không chấp nhận hoàn toàn những tri kiến như vậy.

(kinh Dạy Vacchagotta về Lửa - 72 TRUNG BỘ KINH)
thấy hem ĐH :D quan điểm "Thế giới là vô thường" là tà kiến, đi đôi với Khổ đó nha ĐH! :D
đó là lý do vì sao ngu tui không ngại đặt ra vấn đề này để "vặn vẹo" ĐH, thậm chí là không ngại làm mích lòng ĐH vì sự 'nói thẳng' của mình. Nhưng mà vì Chánh pháp, vì ánh đèn le lói Diễn đàn đã sắp tắt nên ngu tui phải nói những gì cần phải nói, phải làm những gì cân phải làm.

p/s còn nợ ĐH cái ý cuối, khi nào có time rãnh thì ngu lại mò vào chém tiếp :D

Thân ái!


MySweetLord
Bài viết: 224
Ngày: 27/09/10 20:44
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Cõi Ta Bà

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi MySweetLord »

Không biết đã viết:
thấy hem ĐH :D quan điểm "Thế giới là vô thường" là tà kiến, đi đôi với Khổ đó nha ĐH! :D
đó là lý do vì sao ngu tui không ngại đặt ra vấn đề này để "vặn vẹo" ĐH, thậm chí là không ngại làm mích lòng ĐH vì sự 'nói thẳng' của mình. Nhưng mà vì Chánh pháp, vì ánh đèn le lói Diễn đàn đã sắp tắt nên ngu tui phải nói những gì cần phải nói, phải làm những gì cân phải làm.

p/s còn nợ ĐH cái ý cuối, khi nào có time rãnh thì ngu lại mò vào chém tiếp :D

Thân ái!

Kính đạo hữu Không Biết;


Trí tuệ của Đạo hữu thật đáng trân trọng.

Sẽ thật đáng tiếc nếu diễn đàn thiếu vắng Thiện Tri Thức như đạo hữu.


Kính, kinhle


Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Theo đoạn kinh đã trích ở trên thì ý mà Như Lai muốn tuyên thuyết là :
Như Lai không nói "Thế giới là thường trú", cũng không nói "Thế giới là vô thường".

Không nên trích một đoạn ngắn để đưa ra kết luận.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Không biết
Bài viết: 429
Ngày: 23/11/10 22:04
Giới tính: Nam
Đến từ: Việt Nam
Được cảm ơn: 2 time

Re: CHÁNH PHÁP và KHOA HỌC

Bài viết chưa xem gửi bởi Không biết »

binh đã viết:Theo đoạn kinh đã trích ở trên thì ý mà Như Lai muốn tuyên thuyết là :
Như Lai không nói "Thế giới là thường trú", cũng không nói "Thế giới là vô thường".

Không nên trích một đoạn ngắn để đưa ra kết luận.
hihi, bởi vậy mới nói đó Đh :D nhiều người đọc kinh phật ba chớp ba nhoáng, đọc câu trước bỏ câu sau và nghe những lời truyền bá lung tung rồi kết luận một chiều một cách thiếu suy xét, nên ngu tui mới phải vào cải chính quan niệm đó đây nè. Cảm ơn Đh binh đã ghé chơi và cho ý kiến nhé :D

MySweetLord đã viết:
Không biết đã viết: thấy hem ĐH :D quan điểm "Thế giới là vô thường" là tà kiến, đi đôi với Khổ đó nha ĐH! :D
đó là lý do vì sao ngu tui không ngại đặt ra vấn đề này để "vặn vẹo" ĐH, thậm chí là không ngại làm mích lòng ĐH vì sự 'nói thẳng' của mình. Nhưng mà vì Chánh pháp, vì ánh đèn le lói Diễn đàn đã sắp tắt nên ngu tui phải nói những gì cần phải nói, phải làm những gì cân phải làm.

p/s còn nợ ĐH cái ý cuối, khi nào có time rãnh thì ngu lại mò vào chém tiếp :D

Thân ái!
Kính đạo hữu Không Biết;

Trí tuệ của Đạo hữu thật đáng trân trọng.

Sẽ thật đáng tiếc nếu diễn đàn thiếu vắng Thiện Tri Thức như đạo hữu.

Kính, kinhle
hihi, Trí tuệ cái gì đâu đạo hữu ơi! ngu tui chỉ là kẻ hậu học, cảm thấy mình còn ngu như heo ấy :D chẳng qua là ĐH Nói Thẳng nhắc tới mấy vấn đề ngu tui từng rất thích, sẵn tiện mình ôn lại những vấn đề thuộc phạm trù Khoa học lẫn Chánh pháp, xem như là có cái để chia sẻ với đồng đạo. Cảm ơn ĐH MySweetLord nhiều nhé!

Thân ái!!


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.22 khách