Đạo Phật
Đã gửi: 02/10/08 04:30
GIẢNG NGHĨA VỀ GIỚI.
Muốn đạt đến đạo quả thanh tịnh đương nhiên phải áp dụng 3 môn học Vô lậu là Giới, Ðịnh và Tuệ. Trước hết hãy nói về Giới. Nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của Giới, Kinh Tương Ưng I, tr 13 có bài kệ:
"Người trú giới có trí
Tu tập tâm và Tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỳ kheo ấy thoát triền".
Trú giới nghĩa là đứng vững trên đất giới. Chỉ có người thực sự thành tựu trọn vẹn giới, mới được gọi là "Trú giới". Có trí là có tuệ do nghiệp sinh. Tu tập tâm và tuệ là tu tập cả định và tuệ. Tâm ở đây chỉ Ðịnh, còn tuệ là quán. Nhiệt tâm là có nghị lực, không thối chí. Thận trọng là có tuệ giác, luôn luôn phòng hộ các căn. Thoát triền: như người cầm con dao bén phát quang một bụi tre rậm rạp chằng chịt.
Ðể giúp cho mọi người thấy rõ nội dung của giới, chúng ta sẽ lần lượt bàn về các vấn đề sau:
1. Ðịnh nghĩa về giới.
2. Ðặc tính và nhiệm vụ của giới.
3. Lợi ích của giới.
4. Chủng loại của giới.
1. Ðịnh nghĩa: Giới có nghĩa là chế ngự theo 5 cách như sau: Chế ngự với sự chế ngự của giới bổn pàtimokkha; chế ngự bằng tỉnh giác; chế ngự bằng tri kiến; chế ngự bằng kham nhẫn; chế ngự bằng tinh tấn. Giới có nghĩa là kết hợp, vì nó kết hợp 3 nghiệp thân, khẩu, ý, hướng đến con đường thánh thiện. Giới có nghĩa là nền tảng, vì nó làm cơ sở cho các thiện pháp phát sinh. Giới còn có nghĩa là thanh lương, vì nó làm cho người giữ giới cảm thấy thân tâm mát mẻ.
2. Nhiệm vụ của giới: Nhằm ngăn chận và chấm dứt các tà hạnh, ngõ hầu thành tựu các chánh hạnh, Luật tạng nói: " Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không hối hận là để được hân hoan, hân hoan để được hỉ, hỉ để được khinh an, khinh an để được lạc, lạc để được định, định để được chánh kiến, chánh kiến để được vô dục, vô dục để được ly tham, ly tham để giải thoát, giải thoát để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để đi đến vô thủ trước Niết bàn. (Vin, V, 164)
3. Lợi ích của giới: Kinh Trường Bộ II tr.86, kể về 5 lợi ích của giới như sau: Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhờ tinh cần; được tiếng tốt đồn xa; không sợ hãi rụt rè khi đến trước các hội chúng đông đảo; khi chết tâm không rối loạn; sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi trời.
Tạng luật còn kể 10 lợi ích khác như sau: 1. Vì để thu nhiếp chúng Tăng.
2. Vì muốn cho chúng Tăng hoan hỉ.
3. Vì muốn cho chúng Tăng sống an lạc.
4. Vì để hàng phục những kẻ phá giới.
5. Vì để cho những người có tàm quí được an ổn.
6. Vì để cho những người không tin phải tin tưởng.
7. Vì để cho những người đã tin càng thêm tin.
8. Vì muốn đoạn trừ các pháp hữu lậu trong hiện tại.
9. Vì muốn đoạn trừ các pháp hữu lậu trong tương lai
10. Vì muốn cho nếp sống phạm hạnh được tồn tại lâu dài. (Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ nại da, Ð. 23 tr.629b)
4. Phân loại về giới:
a. Giới thuộc một loại: Giới mang đặc tính kết hợp.
b. Giới thuộc 2 loại: Chỉ trì và Tác trì. Không làm những gì do Phật cấm chỉ là Chỉ trì, phải làm những gì do Phật chế định là tác trì. Giới tạm thời và giới trọn đời. Giới tạm thời là được thọ với thời gian hạn định, giới trọn đời là thọ trì đến khi mạng chung. Giới thế gian và Giới Xuất thế gian. Giới thế gian là giới thuộc phạm vi hữu lậu. Giới xuất thế gian là giới thuộc lãnh vực vô lậu.
c. Giới thuộc 3 loại: Giới bậc hạ, bậc trung và bậc thượng. Giới thọ trì vì mưu cầu danh lợi là giới bậc hạ; vì ham quả báo công đức là giới bậc trung; Vì tôn trọng giới pháp là giới bậc thượng. Hoặc, giới có động lực tham ái, còn tái sinh là giới bậc hạ; giới thực hành vì mục đích giải thoát riêng mình là giới bậc trung; thực hành giới Ba la mật vì mục đích giải thoát cho chúng sanh là giới bậc thượng.
Giới Vị kỷ, vị tha và vị pháp. Giới thực hành vì bản thân là giới vị kỷ; giới thực hành vì quan tâm đến thế gian là giới vị tha; giới thực hành vì tôn trọng Pháp và Luật là vị pháp.
Giới thanh tịnh, bất tịnh và khả nghi. Giới được tuân thủ trọn vẹn, hoặc phạm tội đã sám hối, gọi là giới thanh tịnh; vi phạm mà chưa sám hối, gọi là giới không thanh tịnh; một người đang nghi ngờ không biết mình có phạm giới hay không phạm, gọi là giới khả nghi.
d. Giới thuộc 4 loại: Giới của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, giới của người chưa thọ cụ túc, và giới của người tại gia. Giới chỉ dành riêng cho Tỳ kheo, gọi là giới tỳ kheo, gồm có 250 giới (theo Bắc truyền), và 227 giới (theo Nam truyền); giới dành riêng cho Tỳ kheo ni, gọi là Giới Tỳ kheo ni, gồm có 348 giới (theo Bắc truyền). Mười giới của Sa di và Sa di ni là Giới của người chưa thọ cụ túc, giới của người tại gia gồm 5 giới, hoặc 8 giới, hoặc 58 giới của Bồ tát (theo Bắc truyền).
Giới tự nhiên, giới theo cổ tục, giới tất yếu, và giới do nhân đời trước. Người không cần gắng giữ giới mà không hề phạm giới, gọi là giới tự nhiên; mỗi bộ lạc, địa phương có luật lệ riêng, gọi là giới theo phong tục; Giới của mẹ Bồ tát khi Bồ tát nhập thai "không có tư tưởng dục nhiễm" gọi làà Giới tất yếu; Giới của người sinh ra đã thanh tịnh như trường hợp tôn giả Ca Diếp, gọi là Giới do nhân sinh đời trước.
đ. Giới thuộc 5 loại: Giới thanh tịnh hữu hạn, thanh tịnh vô hạn, thanh tịnh đã viên mãn, thanh tịnh không dính mắc và thanh tịnh đã tịnh chỉ. Giới của người chưa nhập Tăng chúng, gọi là Giới thanh tịnh hữu hạn; giới của những người đã nhập Tăng chúng, đã thọ cụ túc, gọi là giới thanh tịnh vô hạn; giới của phàm phu có đức hạnh, chuyên hành thiện, đang viên mãn bậc hữu học, gọi là giới thanh tịnh đã viên mãn. Giới của bậc hữu học không dính mắc tà kiến, gọi là giới không dính mắc; giới của bậc A La Hán, gọi là Giới đã tịnh chỉ, vì không còn cấu uế.
Ngoài ra, Patisambhidà còn phân loại giới thành ra 47 loại tất cả.
Nếu người giữ giới không thanh tịnh, phạm giới, thì có các trường hợp xảy ra: Giới bị rách nát, giới bị lủng, giới bị hoen ố, giới bị lốm đốm. Khi một người phạm giới do vì lợi dưỡng, tiếng khen, hay bị dục vọng sai khiến, thì gọi là giới bị rách nát, như tấm vải bị cắt ở ngoài biên, nhưng nếu vị ấy phạm giới trong lúc đang tu học tiến bộ, thì gọi là giới bị lủng, như tấm vải bị cắt ở giữa; khi một người phạm giới liên tiếp 2, 3 lần, thì gọi là giới bị hoen ố, như một con bò đen, bỗng có một mảng lông khác màu ở trên mình; khi vị ấy phạm giới thường xuyên thì gọi là giới bị lốm đốm, như một còn bò màu vàng, lại có nhiều đốm trắng khắp mình.
Một người thiếu giới hạnh thì không thể làm cho chư thiên hoan hỷ, mà còn trở thành kẻ ngoan cố đối với các bạn đồng phạm hạnh. Vị ấy đau khổ khi phạm giới, vì bị chỉ trích, và hối hận khi thấy những người giữ giới được tán dương. Người ấy vô giá trị, vì không đem lại quả báo tốt đẹp cho các thí chủ. Người ấy khó làm cho sạch, như thùng phân dơ lâu năm, như một khúc gỗ mục trên giàn hoả, vì không phải người xuất gia, cũng không phải cư sĩ. Mặc dù tự xưng là Tỳ kheo mà không phải Tỳ kheo, nên giống như con lừa đi theo bầy bò. Vị ấy luôn nóng nảy, như kẻ thù của mọi người. Sống chung với vị ấy khó khăn, như sống chung với một xác chết. Mặc dù vị ấy có thể là người đa văn, nhưng vị ấy không đáng được các bậc đồng phạm hạnh cung kính. Vị ấy không thể đạt được các quả thù thắng, như người mù không thể thấy sắc. Vị ấy bất cẩn đối với diệu pháp, như kẻ nghèo sống trong một đất nước phú cường. Mặc dù vị ấy tưởng mình hạnh phúc, nhưng kỳ thực rất đau khổ, vì phải gặt hái những ác quả do sự phạm giới đem lại. (Kinh Hoả tụ, A. IV, 128-34).
Trái lại, người giữ giới trọn vẹn là: Không vi phạm các học xứ, sám hối những giới đã phạm, không có các sự trói buộc của dục vọng, không khởi những ác pháp như phẫn nộ, hận thù, độc đoán, khinh thường, đố kỵ, bỏn xẻn, lừa dối, gian lận, cứng đầu, kiêu căng, ngã mạn, cao ngạo, khoe khoang, lơ đễnh, mà thường khởi những đức tính như ít muốn, biết đủ, viễn ly. (Trung bộ kinh, số 7 và số 24)
Cách sử dụng 4 sự cúng dường liên quan đến giới hạnh: dùng như kẻ trộm, dùng như kẻ mắc nợ, dùng như hưởng gia tài của tổ tiên, dùng như người chủ. Một người không giới đức sử dụng 4 vật dụng được cúng dường, ngay cả sự có mặt trong Tăng chúng, gọi là dùng như kẻ trộm, Một người có giới mà không chân chánh giác sát trong khi dùng 4 vật cúng dường, thì gọi là dùng như kẻ mắc nợ. Trái lại, sử dụng 4 vật cúng dường để đạt được bảy bậc Hữu học (4 đạo, 3 quả), thì gọi là dùng như hưởng gia tài của tổ tiên, vì họ là những người con của Như Lai, họ dùng những vật dụng như thừa hưởng gia tài của cha để lại. Một vị đã đoạn trừ hết phiền não, không còn bị các dục sai sử, là dùng các vật cúng dường như người chủ.
(THANH TỊNH ÐẠO LUẬN TOẢN YẾU)
Muốn đạt đến đạo quả thanh tịnh đương nhiên phải áp dụng 3 môn học Vô lậu là Giới, Ðịnh và Tuệ. Trước hết hãy nói về Giới. Nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của Giới, Kinh Tương Ưng I, tr 13 có bài kệ:
"Người trú giới có trí
Tu tập tâm và Tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỳ kheo ấy thoát triền".
Trú giới nghĩa là đứng vững trên đất giới. Chỉ có người thực sự thành tựu trọn vẹn giới, mới được gọi là "Trú giới". Có trí là có tuệ do nghiệp sinh. Tu tập tâm và tuệ là tu tập cả định và tuệ. Tâm ở đây chỉ Ðịnh, còn tuệ là quán. Nhiệt tâm là có nghị lực, không thối chí. Thận trọng là có tuệ giác, luôn luôn phòng hộ các căn. Thoát triền: như người cầm con dao bén phát quang một bụi tre rậm rạp chằng chịt.
Ðể giúp cho mọi người thấy rõ nội dung của giới, chúng ta sẽ lần lượt bàn về các vấn đề sau:
1. Ðịnh nghĩa về giới.
2. Ðặc tính và nhiệm vụ của giới.
3. Lợi ích của giới.
4. Chủng loại của giới.
1. Ðịnh nghĩa: Giới có nghĩa là chế ngự theo 5 cách như sau: Chế ngự với sự chế ngự của giới bổn pàtimokkha; chế ngự bằng tỉnh giác; chế ngự bằng tri kiến; chế ngự bằng kham nhẫn; chế ngự bằng tinh tấn. Giới có nghĩa là kết hợp, vì nó kết hợp 3 nghiệp thân, khẩu, ý, hướng đến con đường thánh thiện. Giới có nghĩa là nền tảng, vì nó làm cơ sở cho các thiện pháp phát sinh. Giới còn có nghĩa là thanh lương, vì nó làm cho người giữ giới cảm thấy thân tâm mát mẻ.
2. Nhiệm vụ của giới: Nhằm ngăn chận và chấm dứt các tà hạnh, ngõ hầu thành tựu các chánh hạnh, Luật tạng nói: " Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không hối hận là để được hân hoan, hân hoan để được hỉ, hỉ để được khinh an, khinh an để được lạc, lạc để được định, định để được chánh kiến, chánh kiến để được vô dục, vô dục để được ly tham, ly tham để giải thoát, giải thoát để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để đi đến vô thủ trước Niết bàn. (Vin, V, 164)
3. Lợi ích của giới: Kinh Trường Bộ II tr.86, kể về 5 lợi ích của giới như sau: Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhờ tinh cần; được tiếng tốt đồn xa; không sợ hãi rụt rè khi đến trước các hội chúng đông đảo; khi chết tâm không rối loạn; sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi trời.
Tạng luật còn kể 10 lợi ích khác như sau: 1. Vì để thu nhiếp chúng Tăng.
2. Vì muốn cho chúng Tăng hoan hỉ.
3. Vì muốn cho chúng Tăng sống an lạc.
4. Vì để hàng phục những kẻ phá giới.
5. Vì để cho những người có tàm quí được an ổn.
6. Vì để cho những người không tin phải tin tưởng.
7. Vì để cho những người đã tin càng thêm tin.
8. Vì muốn đoạn trừ các pháp hữu lậu trong hiện tại.
9. Vì muốn đoạn trừ các pháp hữu lậu trong tương lai
10. Vì muốn cho nếp sống phạm hạnh được tồn tại lâu dài. (Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ nại da, Ð. 23 tr.629b)
4. Phân loại về giới:
a. Giới thuộc một loại: Giới mang đặc tính kết hợp.
b. Giới thuộc 2 loại: Chỉ trì và Tác trì. Không làm những gì do Phật cấm chỉ là Chỉ trì, phải làm những gì do Phật chế định là tác trì. Giới tạm thời và giới trọn đời. Giới tạm thời là được thọ với thời gian hạn định, giới trọn đời là thọ trì đến khi mạng chung. Giới thế gian và Giới Xuất thế gian. Giới thế gian là giới thuộc phạm vi hữu lậu. Giới xuất thế gian là giới thuộc lãnh vực vô lậu.
c. Giới thuộc 3 loại: Giới bậc hạ, bậc trung và bậc thượng. Giới thọ trì vì mưu cầu danh lợi là giới bậc hạ; vì ham quả báo công đức là giới bậc trung; Vì tôn trọng giới pháp là giới bậc thượng. Hoặc, giới có động lực tham ái, còn tái sinh là giới bậc hạ; giới thực hành vì mục đích giải thoát riêng mình là giới bậc trung; thực hành giới Ba la mật vì mục đích giải thoát cho chúng sanh là giới bậc thượng.
Giới Vị kỷ, vị tha và vị pháp. Giới thực hành vì bản thân là giới vị kỷ; giới thực hành vì quan tâm đến thế gian là giới vị tha; giới thực hành vì tôn trọng Pháp và Luật là vị pháp.
Giới thanh tịnh, bất tịnh và khả nghi. Giới được tuân thủ trọn vẹn, hoặc phạm tội đã sám hối, gọi là giới thanh tịnh; vi phạm mà chưa sám hối, gọi là giới không thanh tịnh; một người đang nghi ngờ không biết mình có phạm giới hay không phạm, gọi là giới khả nghi.
d. Giới thuộc 4 loại: Giới của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, giới của người chưa thọ cụ túc, và giới của người tại gia. Giới chỉ dành riêng cho Tỳ kheo, gọi là giới tỳ kheo, gồm có 250 giới (theo Bắc truyền), và 227 giới (theo Nam truyền); giới dành riêng cho Tỳ kheo ni, gọi là Giới Tỳ kheo ni, gồm có 348 giới (theo Bắc truyền). Mười giới của Sa di và Sa di ni là Giới của người chưa thọ cụ túc, giới của người tại gia gồm 5 giới, hoặc 8 giới, hoặc 58 giới của Bồ tát (theo Bắc truyền).
Giới tự nhiên, giới theo cổ tục, giới tất yếu, và giới do nhân đời trước. Người không cần gắng giữ giới mà không hề phạm giới, gọi là giới tự nhiên; mỗi bộ lạc, địa phương có luật lệ riêng, gọi là giới theo phong tục; Giới của mẹ Bồ tát khi Bồ tát nhập thai "không có tư tưởng dục nhiễm" gọi làà Giới tất yếu; Giới của người sinh ra đã thanh tịnh như trường hợp tôn giả Ca Diếp, gọi là Giới do nhân sinh đời trước.
đ. Giới thuộc 5 loại: Giới thanh tịnh hữu hạn, thanh tịnh vô hạn, thanh tịnh đã viên mãn, thanh tịnh không dính mắc và thanh tịnh đã tịnh chỉ. Giới của người chưa nhập Tăng chúng, gọi là Giới thanh tịnh hữu hạn; giới của những người đã nhập Tăng chúng, đã thọ cụ túc, gọi là giới thanh tịnh vô hạn; giới của phàm phu có đức hạnh, chuyên hành thiện, đang viên mãn bậc hữu học, gọi là giới thanh tịnh đã viên mãn. Giới của bậc hữu học không dính mắc tà kiến, gọi là giới không dính mắc; giới của bậc A La Hán, gọi là Giới đã tịnh chỉ, vì không còn cấu uế.
Ngoài ra, Patisambhidà còn phân loại giới thành ra 47 loại tất cả.
Nếu người giữ giới không thanh tịnh, phạm giới, thì có các trường hợp xảy ra: Giới bị rách nát, giới bị lủng, giới bị hoen ố, giới bị lốm đốm. Khi một người phạm giới do vì lợi dưỡng, tiếng khen, hay bị dục vọng sai khiến, thì gọi là giới bị rách nát, như tấm vải bị cắt ở ngoài biên, nhưng nếu vị ấy phạm giới trong lúc đang tu học tiến bộ, thì gọi là giới bị lủng, như tấm vải bị cắt ở giữa; khi một người phạm giới liên tiếp 2, 3 lần, thì gọi là giới bị hoen ố, như một con bò đen, bỗng có một mảng lông khác màu ở trên mình; khi vị ấy phạm giới thường xuyên thì gọi là giới bị lốm đốm, như một còn bò màu vàng, lại có nhiều đốm trắng khắp mình.
Một người thiếu giới hạnh thì không thể làm cho chư thiên hoan hỷ, mà còn trở thành kẻ ngoan cố đối với các bạn đồng phạm hạnh. Vị ấy đau khổ khi phạm giới, vì bị chỉ trích, và hối hận khi thấy những người giữ giới được tán dương. Người ấy vô giá trị, vì không đem lại quả báo tốt đẹp cho các thí chủ. Người ấy khó làm cho sạch, như thùng phân dơ lâu năm, như một khúc gỗ mục trên giàn hoả, vì không phải người xuất gia, cũng không phải cư sĩ. Mặc dù tự xưng là Tỳ kheo mà không phải Tỳ kheo, nên giống như con lừa đi theo bầy bò. Vị ấy luôn nóng nảy, như kẻ thù của mọi người. Sống chung với vị ấy khó khăn, như sống chung với một xác chết. Mặc dù vị ấy có thể là người đa văn, nhưng vị ấy không đáng được các bậc đồng phạm hạnh cung kính. Vị ấy không thể đạt được các quả thù thắng, như người mù không thể thấy sắc. Vị ấy bất cẩn đối với diệu pháp, như kẻ nghèo sống trong một đất nước phú cường. Mặc dù vị ấy tưởng mình hạnh phúc, nhưng kỳ thực rất đau khổ, vì phải gặt hái những ác quả do sự phạm giới đem lại. (Kinh Hoả tụ, A. IV, 128-34).
Trái lại, người giữ giới trọn vẹn là: Không vi phạm các học xứ, sám hối những giới đã phạm, không có các sự trói buộc của dục vọng, không khởi những ác pháp như phẫn nộ, hận thù, độc đoán, khinh thường, đố kỵ, bỏn xẻn, lừa dối, gian lận, cứng đầu, kiêu căng, ngã mạn, cao ngạo, khoe khoang, lơ đễnh, mà thường khởi những đức tính như ít muốn, biết đủ, viễn ly. (Trung bộ kinh, số 7 và số 24)
Cách sử dụng 4 sự cúng dường liên quan đến giới hạnh: dùng như kẻ trộm, dùng như kẻ mắc nợ, dùng như hưởng gia tài của tổ tiên, dùng như người chủ. Một người không giới đức sử dụng 4 vật dụng được cúng dường, ngay cả sự có mặt trong Tăng chúng, gọi là dùng như kẻ trộm, Một người có giới mà không chân chánh giác sát trong khi dùng 4 vật cúng dường, thì gọi là dùng như kẻ mắc nợ. Trái lại, sử dụng 4 vật cúng dường để đạt được bảy bậc Hữu học (4 đạo, 3 quả), thì gọi là dùng như hưởng gia tài của tổ tiên, vì họ là những người con của Như Lai, họ dùng những vật dụng như thừa hưởng gia tài của cha để lại. Một vị đã đoạn trừ hết phiền não, không còn bị các dục sai sử, là dùng các vật cúng dường như người chủ.
(THANH TỊNH ÐẠO LUẬN TOẢN YẾU)