HAI PHÁP CHƯỚNG NGẠI
Đã gửi: 20/12/08 20:28
Thời thuyết trình hôm nay tôi sẽ đề cập đến pháp chướng ngại lạc.
Pháp ấy là thế nào?
Thưa quí vị, pháp chướng ngại lạc nghĩa là pháp che lấp mất sự an lạc hạnh phúc của chúng sanh; mặc dù trong thâm tâm chúng sanh vẫn hằng mong muốn được an vui, không oan trái; không chinh phạt; không kình chống cũng không hãm hại; dù như thế, mà bên trong chúng sanh đã có những pháp đê tiện này, rồi thì vẫn không thoát khỏi bốn điều tác hại: oan trái, chinh phạt, kình chống và hãm hại lẫn nhau. Do đó gọi là pháp chướng ngại lạc.
Thưa quí vị, nguyên khi Đức Thế Tôn trú tại hang động Indasālā trên núi Vediya gần thành Rājagaha, xứ Magadha. Bấy giờ Đức Trời Đế Thích cùng một số đông thiên chúng có cả nhạc công càn thát bà Pañcasikha , hội nhau đến yết kiến Đức Phật tại hang động Indasālā.
Khi ấy, Đức Trời Đế Thích có lời bạch hỏi rằng: Bạch Thế Tôn, do nhân gì mà chư thiên, nhân loại, atula, Long vương, Càn thát bà cùng những loài khác đều muốn rằng không bị oan trái, không bị chinh phạt, không bị kình chống, không bị hãm hại, thế mà chúng vẫn sống thù hận có oan trái, có chinh phạt, có kình chống, có bị hãm hại?
Đức Thế Tôn trả lời rằng:
“Này thiên chủ, do triền phược tật đố và lận sắc mà hàng chư thiên, nhân loại, Atula, Long vương, Càn thát bà, cùng những loài khác đều muốn rằng không bị oan trái, không bị chinh phạt, không bị kình chống, không bị hãm hại. Thế nhưng chúng vẫn sống thù hận có oan trái, có chinh phạt, có kình chống, có hãm hại!”
Thưa quí vị, đó là hai pháp chướng ngại lạc làm cho chúng sanh sống mất sự an vui, có sự thù hằn lẫn nhau, tức là tật đố và lận sắc; Đức Phật đã dạy như vậy.
Giờ đây chúng ta hãy tìm hiểu sâu vào hơn vấn đề này, trước nhất là pháp tật đố
Tật đố là như thế nào? Tại sao tật đố là pháp chướng ngại lạc? Tật đố mang lại quả báo chi hành pháp gì để diệt trừ tật đố?
Đó là các vấn đề phải bàn, về pháp chướng ngại lạc thứ nhất
Thưa quí vị, tật đố dịch từ phạn ngữ Issā hay cũng gọi là ganh tỵ, nghĩa là sự ghen ghét, đố kỵ với sự thành tựu hạnh phúc của người khác
Khi thấy người được ưa chuộng, lợi lộc, được tôn trọng, được kính mến… thì không vừa lòng, cố tránh mặt với sự thạnh vượng của kẻ khác. Đó là đặc tính của phép tật đố
Với người đã sanh tâm tật đố ganh tỵ, thì chẳng bao giờ được hân hoan, vui vẻ; tâm của người ấy luôn luôn xốn xang khó chịu, dù kẻ ấy đang hưởng sự sung túc cũng không được yên vui, chính vì vậy pháp này được xếp đồng loại với tâm sân, bởi có trạng thái uất ức khó chịu, như vị giáo chủ Nigaṇtha Nātaputta. Ngày xưa, có gia chủ Upāl là tính đồ của họ, một ngày kia gia chủ Upāl đến luận đàm cùng Đức Phật, được Thế Tôn hướng dẫn quay về chánh pháp và trở thành bậc thánh cư sĩ, từ đó hết lòng phụng sự Tam Bảo.
Đến một lúc nọ giáo chủ Nigaṇtha Nātaputta nghe được những lời ca tụng của gia chủ Upāl tán dương Đức Phật thì uất ức hộc máu nóng ra ngay tại chỗ ngồi. Bởi thế nên gọi tật đố là một pháp chướng ngại lạc.
Thưa quý vị, trong kinh Cūlakammavibhanga có đề cập khi thanh niên
Subhatodeyya bạch hỏi về sự chênh lệch giữa tầng lớp người trong xã hội, được Đức Phật ghi nhận rằng:
“Này thanh niên, ở đời này có những người tánh ganh tỵ đối với người khác được lợi lộc, được danh dự, được kính và yêu mến, thì sanh lòng ganh ghét đố kỵ. Người đó bởi cách hành động không lành ấy, sau khi thác phải đoạ sanh vào cõi khổ, nếu tái sanh lại làm người, thì phải chịu cô thế, quyền chức nhỏ “
Trong thế gian này, có những kẻ bất lực thế cô, đó cũng do nghiệp đê tiện tật đố của họ đã gây ra. Đối với người sanh tâm tật đố với kẻ khác chẳng những phải chịu hậu quả cay đắng như vậy không đâu, mà chính cái tư cách hèn hạ này còn khiến chúng sanh gieo nhiều mầm ác pháp để rồi phải thụ hưởng thêm những quả chua cay tương ứng với hành động đã làm. Kẻ ganh tỵ luôn tìm cách làm cho giảm giá trị của người cao quý, và như vậy, nếu lúc ấy gặp người phản ứng ngược lại, thì cả hai người ganh và kẻ bị ganh mới sanh ra oan trái oán thù và làm hại lẫn nhau, nhược bằng người bị ganh không có thái độ phản kháng lại mà còn khoan miễn, tha thứ. Như thế kẻ ganh phải lãnh chịu hậu quả thảm khốc một mình.
Nói đến đây tôi còn nhớ có chuyện vị tỳ khưu trụ trì tiền kiếp của ngoại đạo Jambuka, vào thời Đức Thế Tôn Kassapa; một lần nọ có vị thánh tăng Alahán vào ngụ nhờ trong chùa của thầy tỳ khưu nọ.
Thiện tính thấy vị khách Tăng khả kính cốt cách siêu phàm thanh tịnh thì phát tâm trong sạch cúng dường vật thực y mặc và mời thợ cạo đến cạo tóc cho vị ấy. Vị tỳ khưu trụ trì thấy vậy bực dọc khó chịu vì ganh tỵ, bèn tìm lời thóa mạ cho tổn danh dự đi: Ông thật không xứng đáng với sự hộ độ cúng dường, hãy ăn phẩn còn hơn dùng vật thực, hãy loã thể còn hơn mặc y phục, hãy cạo đầu bằng bẹ thốt lốt chớ có cạo bằng dao bén… Sỉ vả như vậy rồi, vị sư trụ trì ấy, sáng hôm sau còn dùng lời bêu xấu ngài nơi nhà thiện tín nữa.
Nói về vị thánh Tăng khách, nghĩ thương hại cho kẻ phàm phạm thượng phải bị hậu quả khổ đau, không muốn để cho họ gây thêm ác nghiệp nữa, nên
Ngài đã bỏ đi lúc rạng sáng.
Vị tỳ khưu do nghiệp xấu xa đê tiện đã gây, nên dù tu trì giới luật chân chánh trong kiếp đó, cũng không chuyển nghiệp được, sau khi thác phải đoạ sanh vào địa ngục rất lâu. Đến kiếp có Đức Phật Thích Ca, Thầy được sanh trở lại làm người có tên là Jambuka, con của gia đình một bá hộ trong thành, thế mà từ nhỏ đến lớn không bao giờ chịu ăn cơm bánh, mà chỉ lén ăn phẩn để sống, không bao giờ mặc y phục, chỉ loã thể mà thôi. Đến khi xuất gia theo ngoại đạo loã thể không cạo đầu bằng dao cạo, mà chỉ toàn chuốt bẹ thốt lốt để cạo tóc, đầu bị trầy trụa, máu chảy dầm rất đau đớn. Mãi sau, Đức Phật đến hoá độ đắc quả Alahán rồi mới khỏi nghiệp khổ ấy.
Thưa quí vị, xuyên qua mẫu chuyện này, chúng ta thấy đó là hậu quả không tốt đẹp của sự tật đố, người Phật tử cần phải từ bỏ, lánh xa tư cách xấu hèn ấy. Có như vậy, đời sống chúng ta mới được hoà đồng an vui.
Phải diệt trừ tật đố bằng pháp hành chi đây?
Thưa quí vị là phải biết tri nhân, tri quả. Nghĩa là phải suy nghĩ về tội khổ sanh ra cái hậu quả thảm khốc như thế nào? Rồi phải chán nản ghê sợ tư cách ganh tỵ. Lại nữa, phải suy xét rằng: chúng sanh ấy cũng như mình, sở dĩ họ được thành tựu hạnh phúc như vậy, chẳng phải nhờ một sự ngẫu nhiên, mà chính là do nơi sự trao dồi đức tánh trong nhiều đời nhiều kiếp; chúng ta muốn được hưởng thành quả hạnh phúc như vậy, tất nhiên phải cố gắng đào tạo nhân lực, phải sửa đổi tánh nết cho ra con người mẫu mực, phải an cư tự túc, phải xử sự vuông tròn theo nhân đạo.
Thử hỏi, ta không tạo nhân lành chỉ lo ganh ghét đố kỵ với kẻ khác, như vậy có đem đổi lại hạnh phúc ấy cho ta chăng? Mà trái lại còn gây thêm phần khốc hại nữa là khác !
Đó là lời chúng tôi đã trình bày chi pháp chướng ngại lạc thứ nhất. Tiếp đến là chúng tôi bàn đến chi pháp chướng ngại lạc thứ hai, tức lận sắc.
Thế nào là lận sắc?
Thưa quí vị, lận sắc dịch từ phạn ngữ Macchariya nghĩa là bỏn xẻn, keo kiết, bòn rít tức là tư cách không xả bỏ, chia sớt đến người khác, đặc tánh của pháp lận sắc là ôm giấu lợi tức của mình, không muốn người khác dính dấp đến sự thạnh lợi của ta.
Sự bỏn xẻn hay lận sắc có 5 cách:
1. Bỏn xẻn chỗ ở nghĩa là không muốn cho ai tá túc, lưu trú trong chỗ ngụ của mình, nếu có ai đến xin ở thì viện đủ cớ chối từ.
2. Bỏn xẻn dòng giống, nghĩa là phân chia giai cấp, không muốn người giai cấp thấp trà trộn pha lẫn với giai cấp sang trọng của mình
3. Bỏn xẻn sắc tốt, ở đây chú giải ghi nhận rằng tiếng gọi sắc tốt hay vaṇṇa là ám chỉ danh dự, ngợi khen, đây ý nói rằng không muốn cho ai ca tụng, tán dương tài đức của kẻ khác
4. Bỏn xẻn lợi lộc, nghĩa là không muốn dứt bỏ chia sớt tài sản vật chất của mình cho ai hết
5. Bỏn xẻn pháp, nghĩa là giấu sự hiểu biết của mình, không muốn dạy cho ai biết, sợ e người bằng mình hoặc giỏi hơn mình
Đó là những tư cách bỏn xẻn
Thưa quí vị, ở đời chúng sanh vì nguyên nhân bỏn xẻn, người có không chịu chia sớt cho người không có, thành thử sanh ra sự tranh giành cướp giựt lẫn nhau, mà chúng sanh sống trong sự tranh giành, cướp bóc thì đời sống đâu được an vui hạnh phúc. Như vậy, phải chăng tư cách bỏn xẻn là pháp chướng ngại sự an lạc? Trong kinh Dighanikāya có dạy rằng: Vì không bố thí nên nghèo đói hưng thạnh; vì nghèo đói hưng thạnh nên trộm cướp hưng thạnh; vì trộm cướp hưng thạnh nên đao kiếm, hình phạt hưng thạnh; rồi thì ác nghiệp sanh lên. Do vậy tuổi thọ dung sắc bị giảm thiểu
Thế nên pháp lận sắc được xem là pháp chướng ngại lạc, vì làm cho đời sống chúng sanh không được an vui, gây nhiều oan trái, thù hận, tranh chấp
Thưa quí vị, phép lận sắc hay sự bỏn xẻn gây nên nhiều kết quả không tốt đẹp về sau, thường thì bỏn xẻn dẫn chúng sanh vào 4 đường ác nhất là ngạ quỷ đói hay súc sanh, lại nữa nếu sanh làm người thì không có nhiều tài sản, bởi nhân bỏn xẻn không bố thí giúp đỡ ai hết. Đó là nói đến hậu quả tư cách bỏn xẻn lợi lạc của mình.
Còn như sự bỏn xẻn chỗ ở sẽ là nhân tạo về sau đơn côi, không ai hoan hỷ cho trú ngụ; lại nữa, bỏn xẻn dòng giống về sau ắt bị mất mát tổn thương, tạo ra bất hoà khí. Còn về bỏn xẻn sắc tốt, tức bỏn xẻn sự ngợi khen ca tụng, chính mình sẽ không được người xưng tụng hoặc đã có thì bị xem rẻ về sau. Như tích có vị tỳ khưu nghe thiện tín ca tụng Ngài Sāriputta thuyết pháp hay, thì thân tâm không muốn nên bảo rằng Đại Đức Sārriputta thuyết như vậy cũng chưa hay lắm, đâu bằng ta thuyết. Về sau thiện tín hợp lại thỉnh cầu thầy tỳ khưu ấy thuyết pháp. Thấy thuyết không được bèn tìm cách lẩn tránh, thiện tín chạy theo, hấp tấp lại bị rơi vào hầm phẩn, dính đầy mình.
Lại nữa, như bỏn xẻn pháp, không muốn nói cho ai cùng biết pháp hay, sợ họ bằng hoặc hơn mình, đó là nhân tạo hậu quả về sau không đặng nhiều trí nhớ, trí tuệ, hơn nữa sự hiểu biết học hỏi của mình sẽ trở thành vô dụng. Tôi còn nhớ chuyện vị tỳ khưu tên Cūlapaṇțhaka, người không có mảy may trí nhớ, trí tuệ chi cả. Ngài học câu kệ bốn hàng mà trong bốn tháng trường vẫn không thuộc nổi một câu. Chuyện ấy Đức Phật ghi nhận rằng, trong một đời sống trước, vị ấy là người thông suốt giáo pháp, hiểu biết nghĩa lý, nhưng khi các vị khác hỏi về điều này điều kia, vị ấy không muốn giảng giải cho biết, bèn kiếm cớ chỉ qua hỏi Đại Đức khác; do nghiệp xấu như vậy nên đời này phải bị tối mê dốt nát.
Thưa quí vị, thuở xưa có ông bá hộ, người ta gọi là Macchariyaseṭṭh rất bỏn xẻn, keo kiệt, dù có tài sản đầy nhà nhưng không hề bố thí chia sớt cho ai cả, đến khi thác rồi bị sanh làm chó trong nhà để giữ của chôn giấu.
Lại cũng có ông bá hộ khác do nhân bỏn xẻn, chết sanh làm người ăn mày khổ sở bần túng, khi xin đến trước nhà cũ của mình, người nhà bèn bắt trói lại bỏ ngoài đống rác..v..v Đó là những hậu quả do bỏn xẻn.
Trở lại vấn đế, chính pháp bỏn xẻn tạo cho chúng sanh có một cuộc sống bị dính mắc, do đó lệ thuộc mà không thể giải thoát được trong cuộc sống hằng ngày. Cũng vậy, bỏn xẻn tạo ra không khí bóp nghẹt khó thở, ai cũng ôm ấp bảo thủ của mình, nên sinh ra phiền phức, khó chịu, chính vì vậy Đức Phật dạy phải xả tài bố thí.
Vậy muốn diệt trừ pháp lận sắc phải hành như thế nào?
Thưa quí vị, phải suy xét cho thống rõ tội lỗi và tai hại phát sanh do sự bỏn xẻn, với các quả lành thành tựu do sự xả kỷ và cũng phải quán xét rằng: Thế gian là vô sở hữu, ra đi phải bỏ tất cả, chấp giữ cho lắm rồi ra đi (chết) cũng bỏ lại tất cả, chỉ mang theo cái hành trang, tức nghiệp thiện hay ác của mình tạo thôi. Có thiện ngôn rằng: Những gì tôi tiêu dùng thì nó đã mất, cái chi tôi tồn trữ thì phải để lại cho kẻ khác dùng, duy chỉ có những gì tôi đã cho, là còn thuộc về của tôi thôi. Vậy cần nên quán xét như thế.
Và cũng nên nhớ rằng cả hai pháp tật đố và lận sắc do hai nhân thương và ghét khiến cho phát sanh. Như vậy nghĩa là sao?
Tức là khi một kẻ nào thân thích, triều mến một người bạn… lúc ấy thấy ai giao hữu với bạn mình thì sanh lòng đố kỵ, ganh gỗ, hoặc như người bạn mình thương ấy, lại giao thiệp với kẻ khác thì sanh lòng đố kỵ khó chịu. Ấy là vì nhân thương mà sanh ra tật đố.
Lại nữa, thưa quí vị, có kẻ vì ưa chuộng của cải nên không muốn chia sớt cho ai, hoặc vì quá yêu chuộng tư hữu của mình nên không muốn cho ai cùng hưởng thụ chung… Ấy vì nhân thương mà sanh ra sự bỏn xẻn.
Lại nữa, như có người vì lẻ riêng gì, ghét một kẻ nào đó, nay kẻ ấy được tôn trọng, được lợi lộc, được ưa chuộng, thì sanh lòng ganh ghét đố kỵ. Đó là vì ghét mà sanh tật đố.
Và như có kẻ thù ghét ai rồi, thì cho dù những vậy tầm thường không đáng, họ cũng không giúp cho. Ấy là nhân ghét mà sanh ra bỏn xẻn.
Thưa quí vị, nên nói thêm rằng sự thương và ghét phát sanh do vọng tưởng, ước muốn, vì muốn như vậy, mà được như vậy thì ưa chuộng. Bằng như muốn như vậy mà chẳng được như vậy thì sanh ra ghét bỏ.
Đức Phật quả là nhà tâm lý học, Ngài đã thấu rõ nhân và quả, nguồn cội của các pháp; Ngài dạy rằng từ sự mong muốn sanh ra thương ghét, từ sự thương ghét sanh ra tật đố và lận sắc, do chúng sanh có tật đố và bỏn xẻn nên cho dù có mong mỏi sống không bị oan trái, không bị chinh phạt, không bị kình chống, không bị hãm hại, thế nhưng vẫn phải sống thù hận oan trái, có chinh phạt, có kình chống và có bị hãm hại. Ước mong rằng người Phật tử khi đã thâm hiểu điều tác hại, như vậy chúng ta nên cố tu tập dứt bỏ dần, để rồi một ngày kia, chúng ta sống an vui trong sự hoà hợp và hoà hợp để an vui.
Theo: Tỳ Khưu Giác Giới (soạn vào PL 2523- DL: 1979)
Pháp ấy là thế nào?
Thưa quí vị, pháp chướng ngại lạc nghĩa là pháp che lấp mất sự an lạc hạnh phúc của chúng sanh; mặc dù trong thâm tâm chúng sanh vẫn hằng mong muốn được an vui, không oan trái; không chinh phạt; không kình chống cũng không hãm hại; dù như thế, mà bên trong chúng sanh đã có những pháp đê tiện này, rồi thì vẫn không thoát khỏi bốn điều tác hại: oan trái, chinh phạt, kình chống và hãm hại lẫn nhau. Do đó gọi là pháp chướng ngại lạc.
Thưa quí vị, nguyên khi Đức Thế Tôn trú tại hang động Indasālā trên núi Vediya gần thành Rājagaha, xứ Magadha. Bấy giờ Đức Trời Đế Thích cùng một số đông thiên chúng có cả nhạc công càn thát bà Pañcasikha , hội nhau đến yết kiến Đức Phật tại hang động Indasālā.
Khi ấy, Đức Trời Đế Thích có lời bạch hỏi rằng: Bạch Thế Tôn, do nhân gì mà chư thiên, nhân loại, atula, Long vương, Càn thát bà cùng những loài khác đều muốn rằng không bị oan trái, không bị chinh phạt, không bị kình chống, không bị hãm hại, thế mà chúng vẫn sống thù hận có oan trái, có chinh phạt, có kình chống, có bị hãm hại?
Đức Thế Tôn trả lời rằng:
“Này thiên chủ, do triền phược tật đố và lận sắc mà hàng chư thiên, nhân loại, Atula, Long vương, Càn thát bà, cùng những loài khác đều muốn rằng không bị oan trái, không bị chinh phạt, không bị kình chống, không bị hãm hại. Thế nhưng chúng vẫn sống thù hận có oan trái, có chinh phạt, có kình chống, có hãm hại!”
Thưa quí vị, đó là hai pháp chướng ngại lạc làm cho chúng sanh sống mất sự an vui, có sự thù hằn lẫn nhau, tức là tật đố và lận sắc; Đức Phật đã dạy như vậy.
Giờ đây chúng ta hãy tìm hiểu sâu vào hơn vấn đề này, trước nhất là pháp tật đố
Tật đố là như thế nào? Tại sao tật đố là pháp chướng ngại lạc? Tật đố mang lại quả báo chi hành pháp gì để diệt trừ tật đố?
Đó là các vấn đề phải bàn, về pháp chướng ngại lạc thứ nhất
Thưa quí vị, tật đố dịch từ phạn ngữ Issā hay cũng gọi là ganh tỵ, nghĩa là sự ghen ghét, đố kỵ với sự thành tựu hạnh phúc của người khác
Khi thấy người được ưa chuộng, lợi lộc, được tôn trọng, được kính mến… thì không vừa lòng, cố tránh mặt với sự thạnh vượng của kẻ khác. Đó là đặc tính của phép tật đố
Với người đã sanh tâm tật đố ganh tỵ, thì chẳng bao giờ được hân hoan, vui vẻ; tâm của người ấy luôn luôn xốn xang khó chịu, dù kẻ ấy đang hưởng sự sung túc cũng không được yên vui, chính vì vậy pháp này được xếp đồng loại với tâm sân, bởi có trạng thái uất ức khó chịu, như vị giáo chủ Nigaṇtha Nātaputta. Ngày xưa, có gia chủ Upāl là tính đồ của họ, một ngày kia gia chủ Upāl đến luận đàm cùng Đức Phật, được Thế Tôn hướng dẫn quay về chánh pháp và trở thành bậc thánh cư sĩ, từ đó hết lòng phụng sự Tam Bảo.
Đến một lúc nọ giáo chủ Nigaṇtha Nātaputta nghe được những lời ca tụng của gia chủ Upāl tán dương Đức Phật thì uất ức hộc máu nóng ra ngay tại chỗ ngồi. Bởi thế nên gọi tật đố là một pháp chướng ngại lạc.
Thưa quý vị, trong kinh Cūlakammavibhanga có đề cập khi thanh niên
Subhatodeyya bạch hỏi về sự chênh lệch giữa tầng lớp người trong xã hội, được Đức Phật ghi nhận rằng:
“Này thanh niên, ở đời này có những người tánh ganh tỵ đối với người khác được lợi lộc, được danh dự, được kính và yêu mến, thì sanh lòng ganh ghét đố kỵ. Người đó bởi cách hành động không lành ấy, sau khi thác phải đoạ sanh vào cõi khổ, nếu tái sanh lại làm người, thì phải chịu cô thế, quyền chức nhỏ “
Trong thế gian này, có những kẻ bất lực thế cô, đó cũng do nghiệp đê tiện tật đố của họ đã gây ra. Đối với người sanh tâm tật đố với kẻ khác chẳng những phải chịu hậu quả cay đắng như vậy không đâu, mà chính cái tư cách hèn hạ này còn khiến chúng sanh gieo nhiều mầm ác pháp để rồi phải thụ hưởng thêm những quả chua cay tương ứng với hành động đã làm. Kẻ ganh tỵ luôn tìm cách làm cho giảm giá trị của người cao quý, và như vậy, nếu lúc ấy gặp người phản ứng ngược lại, thì cả hai người ganh và kẻ bị ganh mới sanh ra oan trái oán thù và làm hại lẫn nhau, nhược bằng người bị ganh không có thái độ phản kháng lại mà còn khoan miễn, tha thứ. Như thế kẻ ganh phải lãnh chịu hậu quả thảm khốc một mình.
Nói đến đây tôi còn nhớ có chuyện vị tỳ khưu trụ trì tiền kiếp của ngoại đạo Jambuka, vào thời Đức Thế Tôn Kassapa; một lần nọ có vị thánh tăng Alahán vào ngụ nhờ trong chùa của thầy tỳ khưu nọ.
Thiện tính thấy vị khách Tăng khả kính cốt cách siêu phàm thanh tịnh thì phát tâm trong sạch cúng dường vật thực y mặc và mời thợ cạo đến cạo tóc cho vị ấy. Vị tỳ khưu trụ trì thấy vậy bực dọc khó chịu vì ganh tỵ, bèn tìm lời thóa mạ cho tổn danh dự đi: Ông thật không xứng đáng với sự hộ độ cúng dường, hãy ăn phẩn còn hơn dùng vật thực, hãy loã thể còn hơn mặc y phục, hãy cạo đầu bằng bẹ thốt lốt chớ có cạo bằng dao bén… Sỉ vả như vậy rồi, vị sư trụ trì ấy, sáng hôm sau còn dùng lời bêu xấu ngài nơi nhà thiện tín nữa.
Nói về vị thánh Tăng khách, nghĩ thương hại cho kẻ phàm phạm thượng phải bị hậu quả khổ đau, không muốn để cho họ gây thêm ác nghiệp nữa, nên
Ngài đã bỏ đi lúc rạng sáng.
Vị tỳ khưu do nghiệp xấu xa đê tiện đã gây, nên dù tu trì giới luật chân chánh trong kiếp đó, cũng không chuyển nghiệp được, sau khi thác phải đoạ sanh vào địa ngục rất lâu. Đến kiếp có Đức Phật Thích Ca, Thầy được sanh trở lại làm người có tên là Jambuka, con của gia đình một bá hộ trong thành, thế mà từ nhỏ đến lớn không bao giờ chịu ăn cơm bánh, mà chỉ lén ăn phẩn để sống, không bao giờ mặc y phục, chỉ loã thể mà thôi. Đến khi xuất gia theo ngoại đạo loã thể không cạo đầu bằng dao cạo, mà chỉ toàn chuốt bẹ thốt lốt để cạo tóc, đầu bị trầy trụa, máu chảy dầm rất đau đớn. Mãi sau, Đức Phật đến hoá độ đắc quả Alahán rồi mới khỏi nghiệp khổ ấy.
Thưa quí vị, xuyên qua mẫu chuyện này, chúng ta thấy đó là hậu quả không tốt đẹp của sự tật đố, người Phật tử cần phải từ bỏ, lánh xa tư cách xấu hèn ấy. Có như vậy, đời sống chúng ta mới được hoà đồng an vui.
Phải diệt trừ tật đố bằng pháp hành chi đây?
Thưa quí vị là phải biết tri nhân, tri quả. Nghĩa là phải suy nghĩ về tội khổ sanh ra cái hậu quả thảm khốc như thế nào? Rồi phải chán nản ghê sợ tư cách ganh tỵ. Lại nữa, phải suy xét rằng: chúng sanh ấy cũng như mình, sở dĩ họ được thành tựu hạnh phúc như vậy, chẳng phải nhờ một sự ngẫu nhiên, mà chính là do nơi sự trao dồi đức tánh trong nhiều đời nhiều kiếp; chúng ta muốn được hưởng thành quả hạnh phúc như vậy, tất nhiên phải cố gắng đào tạo nhân lực, phải sửa đổi tánh nết cho ra con người mẫu mực, phải an cư tự túc, phải xử sự vuông tròn theo nhân đạo.
Thử hỏi, ta không tạo nhân lành chỉ lo ganh ghét đố kỵ với kẻ khác, như vậy có đem đổi lại hạnh phúc ấy cho ta chăng? Mà trái lại còn gây thêm phần khốc hại nữa là khác !
Đó là lời chúng tôi đã trình bày chi pháp chướng ngại lạc thứ nhất. Tiếp đến là chúng tôi bàn đến chi pháp chướng ngại lạc thứ hai, tức lận sắc.
Thế nào là lận sắc?
Thưa quí vị, lận sắc dịch từ phạn ngữ Macchariya nghĩa là bỏn xẻn, keo kiết, bòn rít tức là tư cách không xả bỏ, chia sớt đến người khác, đặc tánh của pháp lận sắc là ôm giấu lợi tức của mình, không muốn người khác dính dấp đến sự thạnh lợi của ta.
Sự bỏn xẻn hay lận sắc có 5 cách:
1. Bỏn xẻn chỗ ở nghĩa là không muốn cho ai tá túc, lưu trú trong chỗ ngụ của mình, nếu có ai đến xin ở thì viện đủ cớ chối từ.
2. Bỏn xẻn dòng giống, nghĩa là phân chia giai cấp, không muốn người giai cấp thấp trà trộn pha lẫn với giai cấp sang trọng của mình
3. Bỏn xẻn sắc tốt, ở đây chú giải ghi nhận rằng tiếng gọi sắc tốt hay vaṇṇa là ám chỉ danh dự, ngợi khen, đây ý nói rằng không muốn cho ai ca tụng, tán dương tài đức của kẻ khác
4. Bỏn xẻn lợi lộc, nghĩa là không muốn dứt bỏ chia sớt tài sản vật chất của mình cho ai hết
5. Bỏn xẻn pháp, nghĩa là giấu sự hiểu biết của mình, không muốn dạy cho ai biết, sợ e người bằng mình hoặc giỏi hơn mình
Đó là những tư cách bỏn xẻn
Thưa quí vị, ở đời chúng sanh vì nguyên nhân bỏn xẻn, người có không chịu chia sớt cho người không có, thành thử sanh ra sự tranh giành cướp giựt lẫn nhau, mà chúng sanh sống trong sự tranh giành, cướp bóc thì đời sống đâu được an vui hạnh phúc. Như vậy, phải chăng tư cách bỏn xẻn là pháp chướng ngại sự an lạc? Trong kinh Dighanikāya có dạy rằng: Vì không bố thí nên nghèo đói hưng thạnh; vì nghèo đói hưng thạnh nên trộm cướp hưng thạnh; vì trộm cướp hưng thạnh nên đao kiếm, hình phạt hưng thạnh; rồi thì ác nghiệp sanh lên. Do vậy tuổi thọ dung sắc bị giảm thiểu
Thế nên pháp lận sắc được xem là pháp chướng ngại lạc, vì làm cho đời sống chúng sanh không được an vui, gây nhiều oan trái, thù hận, tranh chấp
Thưa quí vị, phép lận sắc hay sự bỏn xẻn gây nên nhiều kết quả không tốt đẹp về sau, thường thì bỏn xẻn dẫn chúng sanh vào 4 đường ác nhất là ngạ quỷ đói hay súc sanh, lại nữa nếu sanh làm người thì không có nhiều tài sản, bởi nhân bỏn xẻn không bố thí giúp đỡ ai hết. Đó là nói đến hậu quả tư cách bỏn xẻn lợi lạc của mình.
Còn như sự bỏn xẻn chỗ ở sẽ là nhân tạo về sau đơn côi, không ai hoan hỷ cho trú ngụ; lại nữa, bỏn xẻn dòng giống về sau ắt bị mất mát tổn thương, tạo ra bất hoà khí. Còn về bỏn xẻn sắc tốt, tức bỏn xẻn sự ngợi khen ca tụng, chính mình sẽ không được người xưng tụng hoặc đã có thì bị xem rẻ về sau. Như tích có vị tỳ khưu nghe thiện tín ca tụng Ngài Sāriputta thuyết pháp hay, thì thân tâm không muốn nên bảo rằng Đại Đức Sārriputta thuyết như vậy cũng chưa hay lắm, đâu bằng ta thuyết. Về sau thiện tín hợp lại thỉnh cầu thầy tỳ khưu ấy thuyết pháp. Thấy thuyết không được bèn tìm cách lẩn tránh, thiện tín chạy theo, hấp tấp lại bị rơi vào hầm phẩn, dính đầy mình.
Lại nữa, như bỏn xẻn pháp, không muốn nói cho ai cùng biết pháp hay, sợ họ bằng hoặc hơn mình, đó là nhân tạo hậu quả về sau không đặng nhiều trí nhớ, trí tuệ, hơn nữa sự hiểu biết học hỏi của mình sẽ trở thành vô dụng. Tôi còn nhớ chuyện vị tỳ khưu tên Cūlapaṇțhaka, người không có mảy may trí nhớ, trí tuệ chi cả. Ngài học câu kệ bốn hàng mà trong bốn tháng trường vẫn không thuộc nổi một câu. Chuyện ấy Đức Phật ghi nhận rằng, trong một đời sống trước, vị ấy là người thông suốt giáo pháp, hiểu biết nghĩa lý, nhưng khi các vị khác hỏi về điều này điều kia, vị ấy không muốn giảng giải cho biết, bèn kiếm cớ chỉ qua hỏi Đại Đức khác; do nghiệp xấu như vậy nên đời này phải bị tối mê dốt nát.
Thưa quí vị, thuở xưa có ông bá hộ, người ta gọi là Macchariyaseṭṭh rất bỏn xẻn, keo kiệt, dù có tài sản đầy nhà nhưng không hề bố thí chia sớt cho ai cả, đến khi thác rồi bị sanh làm chó trong nhà để giữ của chôn giấu.
Lại cũng có ông bá hộ khác do nhân bỏn xẻn, chết sanh làm người ăn mày khổ sở bần túng, khi xin đến trước nhà cũ của mình, người nhà bèn bắt trói lại bỏ ngoài đống rác..v..v Đó là những hậu quả do bỏn xẻn.
Trở lại vấn đế, chính pháp bỏn xẻn tạo cho chúng sanh có một cuộc sống bị dính mắc, do đó lệ thuộc mà không thể giải thoát được trong cuộc sống hằng ngày. Cũng vậy, bỏn xẻn tạo ra không khí bóp nghẹt khó thở, ai cũng ôm ấp bảo thủ của mình, nên sinh ra phiền phức, khó chịu, chính vì vậy Đức Phật dạy phải xả tài bố thí.
Vậy muốn diệt trừ pháp lận sắc phải hành như thế nào?
Thưa quí vị, phải suy xét cho thống rõ tội lỗi và tai hại phát sanh do sự bỏn xẻn, với các quả lành thành tựu do sự xả kỷ và cũng phải quán xét rằng: Thế gian là vô sở hữu, ra đi phải bỏ tất cả, chấp giữ cho lắm rồi ra đi (chết) cũng bỏ lại tất cả, chỉ mang theo cái hành trang, tức nghiệp thiện hay ác của mình tạo thôi. Có thiện ngôn rằng: Những gì tôi tiêu dùng thì nó đã mất, cái chi tôi tồn trữ thì phải để lại cho kẻ khác dùng, duy chỉ có những gì tôi đã cho, là còn thuộc về của tôi thôi. Vậy cần nên quán xét như thế.
Và cũng nên nhớ rằng cả hai pháp tật đố và lận sắc do hai nhân thương và ghét khiến cho phát sanh. Như vậy nghĩa là sao?
Tức là khi một kẻ nào thân thích, triều mến một người bạn… lúc ấy thấy ai giao hữu với bạn mình thì sanh lòng đố kỵ, ganh gỗ, hoặc như người bạn mình thương ấy, lại giao thiệp với kẻ khác thì sanh lòng đố kỵ khó chịu. Ấy là vì nhân thương mà sanh ra tật đố.
Lại nữa, thưa quí vị, có kẻ vì ưa chuộng của cải nên không muốn chia sớt cho ai, hoặc vì quá yêu chuộng tư hữu của mình nên không muốn cho ai cùng hưởng thụ chung… Ấy vì nhân thương mà sanh ra sự bỏn xẻn.
Lại nữa, như có người vì lẻ riêng gì, ghét một kẻ nào đó, nay kẻ ấy được tôn trọng, được lợi lộc, được ưa chuộng, thì sanh lòng ganh ghét đố kỵ. Đó là vì ghét mà sanh tật đố.
Và như có kẻ thù ghét ai rồi, thì cho dù những vậy tầm thường không đáng, họ cũng không giúp cho. Ấy là nhân ghét mà sanh ra bỏn xẻn.
Thưa quí vị, nên nói thêm rằng sự thương và ghét phát sanh do vọng tưởng, ước muốn, vì muốn như vậy, mà được như vậy thì ưa chuộng. Bằng như muốn như vậy mà chẳng được như vậy thì sanh ra ghét bỏ.
Đức Phật quả là nhà tâm lý học, Ngài đã thấu rõ nhân và quả, nguồn cội của các pháp; Ngài dạy rằng từ sự mong muốn sanh ra thương ghét, từ sự thương ghét sanh ra tật đố và lận sắc, do chúng sanh có tật đố và bỏn xẻn nên cho dù có mong mỏi sống không bị oan trái, không bị chinh phạt, không bị kình chống, không bị hãm hại, thế nhưng vẫn phải sống thù hận oan trái, có chinh phạt, có kình chống và có bị hãm hại. Ước mong rằng người Phật tử khi đã thâm hiểu điều tác hại, như vậy chúng ta nên cố tu tập dứt bỏ dần, để rồi một ngày kia, chúng ta sống an vui trong sự hoà hợp và hoà hợp để an vui.
Theo: Tỳ Khưu Giác Giới (soạn vào PL 2523- DL: 1979)