Re: Hư không, không dấu chân,
Đã gửi: 20/07/08 18:42
Kinh Tiểu Không (tiếp theo)
Bản Việt ngữ: http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-ki ... ung121.htm
Bản Anh ngữ: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka ... .than.html
Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya
121. Kinh Tiểu không (The Lesser Discourse on Emptiness)
(Cùlasunnata sutta)
-Lâm tưởng:
Ví như lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ-kheo; cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng. Tâm của vị ấy được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có thôn tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng". Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên lâm tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
-Perception of wilderness:
Just as this palace of Migara's mother is empty of elephants, cattle, & mares, empty of gold & silver, empty of assemblies of women & men, and there is only this non-emptiness — the singleness based on the community of monks; even so, Ananda, a monk — not attending to the perception of village, not attending to the perception of human being — attends to the singleness based on the perception of wilderness. His mind takes pleasure, finds satisfaction, settles, & indulges in its perception of wilderness.
"He discerns that 'Whatever disturbances that would exist based on the perception of village are not present. Whatever disturbances that would exist based on the perception of human being are not present. There is only this modicum of disturbance: the singleness based on the perception of wilderness.' He discerns that 'This mode of perception is empty of the perception of village. This mode of perception is empty of the perception of human being. There is only this non-emptiness: the singleness based on the perception of wilderness.' Thus he regards it as empty of whatever is not there. Whatever remains, he discerns as present: 'There is this.' And so this, his entry into emptiness, accords with actuality, is undistorted in meaning, & pure.
Đức Thế tôn giảng tiếp:
Ví dụ: Lâu đài Lộc Mẫu nơi Đức Thế Tôn và Ngài A nan Đa đang ở đây không có thú vật, người ta, hay vàng bạc . Do đó người tu (vị tỳ kheo) không nghĩ đến thú, người hay vàng bạc , nhưng lại nghĩ đến núi rừng (nơi lâu đài Lộc -- Nai -- Mẫu tọa lạc) đang trú ngụ . Trong trường hợp này, người tu (hay thiền sinh cũng vậy) bị lâm tưởng (wildness) không cho tâm thanh tịnh . Người tu nhận biết rõ ràng sự hiện diện của lâm tưởng, và sự vắng mặt của người (nhân tưởng), làng xóm (thôn tưởng).
Tương tự như vậy, từng đoạn trong bài Kinh dạy về:
-Địa tưởng (The Perception of Earth)
-Không vô biên xứ tưởng (The Perception of The Infinitude of Space)
-Thức vô biên xứ tưởng (The Perception of The Infinitude of Consciousness)
-Vô sở hữu xứ tưởng (The Perception of Nothingness)
-Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng (The Perception of Neither Perception nor Non-Perception)
-Vô tướng tâm định (Theme-Less Concentration)
Và cuối cùng:
-Giải Thoát (Release)
Cái gì không có mặt, vị ấy xem cái ấy là không có. Cái gì hiện hữu, vị ấy biết hiện hữu . Có sao thấy vậy . See things as they are .
----------------------------------------------------------------
Bài Kinh này có vài điểm đáng chú ý:
1/ Vị tỳ kheo (hay thiền sinh) hành Thiền Vắng Lặng (hay Thiền Chỉ) và chứng đắc các tầng thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới:
-Không vô biên xứ tưởng (The Perception of The Infinitude of Space)
-Thức vô biên xứ tưởng (The Perception of The Infinitude of Consciousness)
-Vô sở hữu xứ tưởng (The Perception of Nothingness)
-Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng (The Perception of Neither Perception nor Non-Perception)
-Vô tướng tâm định (Theme-Less Concentration)
Và sau cùng là vị tỳ kheo đạt giải thoát .
2/ Vị tỳ kheo (thiền sinh) đi từ môi trường xung quanh (lâm tưởng) và từ từ lên đến Định (vô tướng tâm định) rồi đạt quả cao nhất là Giải thoát .
3/ Dù ở trình độ nào chăng nữa , quan trọng vẫn là : Có gì biết nấy . See things as they are .
4/ Dù ở trình độ nào trong Thiền Sắc Giới và Thiền Vô Sắc Giới, Tưởng Uẩn (lâm tưởng, địa tưởng, ... ) luôn luôn hoạt động .
Như vậy, cho dù trong cuộc sống chúng ta nhìn mọi sự như ảo ảnh, như ánh chớp, đó cũng chỉ là hoạt động nhớ lại (Tưởng) do đọc sách hoặc do nghe giảng mà thôi .
5/ Thiền Định (Thiền Chỉ) của Phật giáo rất quan trọng . Tuy rằng chỉ Thiền Quán (Thiền Tứ Niệm Xứ) mới cho Đạo Quả , nhưng chúng ta không thể coi thường Thiền Chỉ .
Danh và sắc là pháp cần phải biến tri,
Vô minh và ái là pháp cần phải đoạn trừ,
Minh và giải thoát là pháp cần phải được chứng ngộ,
Chỉ và quán là hai pháp cần phải được tu tập.
Mến,
YP
Bản Việt ngữ: http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-ki ... ung121.htm
Bản Anh ngữ: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka ... .than.html
Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya
121. Kinh Tiểu không (The Lesser Discourse on Emptiness)
(Cùlasunnata sutta)
-Lâm tưởng:
Ví như lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ-kheo; cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng. Tâm của vị ấy được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có thôn tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng". Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên lâm tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.
-Perception of wilderness:
Just as this palace of Migara's mother is empty of elephants, cattle, & mares, empty of gold & silver, empty of assemblies of women & men, and there is only this non-emptiness — the singleness based on the community of monks; even so, Ananda, a monk — not attending to the perception of village, not attending to the perception of human being — attends to the singleness based on the perception of wilderness. His mind takes pleasure, finds satisfaction, settles, & indulges in its perception of wilderness.
"He discerns that 'Whatever disturbances that would exist based on the perception of village are not present. Whatever disturbances that would exist based on the perception of human being are not present. There is only this modicum of disturbance: the singleness based on the perception of wilderness.' He discerns that 'This mode of perception is empty of the perception of village. This mode of perception is empty of the perception of human being. There is only this non-emptiness: the singleness based on the perception of wilderness.' Thus he regards it as empty of whatever is not there. Whatever remains, he discerns as present: 'There is this.' And so this, his entry into emptiness, accords with actuality, is undistorted in meaning, & pure.
Đức Thế tôn giảng tiếp:
Ví dụ: Lâu đài Lộc Mẫu nơi Đức Thế Tôn và Ngài A nan Đa đang ở đây không có thú vật, người ta, hay vàng bạc . Do đó người tu (vị tỳ kheo) không nghĩ đến thú, người hay vàng bạc , nhưng lại nghĩ đến núi rừng (nơi lâu đài Lộc -- Nai -- Mẫu tọa lạc) đang trú ngụ . Trong trường hợp này, người tu (hay thiền sinh cũng vậy) bị lâm tưởng (wildness) không cho tâm thanh tịnh . Người tu nhận biết rõ ràng sự hiện diện của lâm tưởng, và sự vắng mặt của người (nhân tưởng), làng xóm (thôn tưởng).
Tương tự như vậy, từng đoạn trong bài Kinh dạy về:
-Địa tưởng (The Perception of Earth)
-Không vô biên xứ tưởng (The Perception of The Infinitude of Space)
-Thức vô biên xứ tưởng (The Perception of The Infinitude of Consciousness)
-Vô sở hữu xứ tưởng (The Perception of Nothingness)
-Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng (The Perception of Neither Perception nor Non-Perception)
-Vô tướng tâm định (Theme-Less Concentration)
Và cuối cùng:
-Giải Thoát (Release)
Cái gì không có mặt, vị ấy xem cái ấy là không có. Cái gì hiện hữu, vị ấy biết hiện hữu . Có sao thấy vậy . See things as they are .
----------------------------------------------------------------
Bài Kinh này có vài điểm đáng chú ý:
1/ Vị tỳ kheo (hay thiền sinh) hành Thiền Vắng Lặng (hay Thiền Chỉ) và chứng đắc các tầng thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới:
-Không vô biên xứ tưởng (The Perception of The Infinitude of Space)
-Thức vô biên xứ tưởng (The Perception of The Infinitude of Consciousness)
-Vô sở hữu xứ tưởng (The Perception of Nothingness)
-Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng (The Perception of Neither Perception nor Non-Perception)
-Vô tướng tâm định (Theme-Less Concentration)
Và sau cùng là vị tỳ kheo đạt giải thoát .
2/ Vị tỳ kheo (thiền sinh) đi từ môi trường xung quanh (lâm tưởng) và từ từ lên đến Định (vô tướng tâm định) rồi đạt quả cao nhất là Giải thoát .
3/ Dù ở trình độ nào chăng nữa , quan trọng vẫn là : Có gì biết nấy . See things as they are .
4/ Dù ở trình độ nào trong Thiền Sắc Giới và Thiền Vô Sắc Giới, Tưởng Uẩn (lâm tưởng, địa tưởng, ... ) luôn luôn hoạt động .
Như vậy, cho dù trong cuộc sống chúng ta nhìn mọi sự như ảo ảnh, như ánh chớp, đó cũng chỉ là hoạt động nhớ lại (Tưởng) do đọc sách hoặc do nghe giảng mà thôi .
5/ Thiền Định (Thiền Chỉ) của Phật giáo rất quan trọng . Tuy rằng chỉ Thiền Quán (Thiền Tứ Niệm Xứ) mới cho Đạo Quả , nhưng chúng ta không thể coi thường Thiền Chỉ .
Danh và sắc là pháp cần phải biến tri,
Vô minh và ái là pháp cần phải đoạn trừ,
Minh và giải thoát là pháp cần phải được chứng ngộ,
Chỉ và quán là hai pháp cần phải được tu tập.
Mến,
YP