Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Kính mời các bạn tham gia ghi lại kinh nghiệm tu tập và những gì mắt thấy tai nghe về sự cảm ứng nhờ hành trì giáo lý Phật.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

11. Triều nhà Tống, vợ của Lữ Hoằng Đô Quán Viên Ngoại tên là Ngô Thị. Hai ông bà đều trai giới thanh tịnh, và rất thông đạt Phật lý. Ngô Thị thờ Quán Âm Bồ Tát rất thành kính, hàng ngày đều chuyên tâm lễ Phật, niệm Phật nên có được nhiều linh cảm. Trong Tịnh thất của Ngô Thị có mấy chục cái bình sành, Bà dùng tịnh thủy rót đầy trong ấy, tay cầm cành dương liễu, trì tụng Chú Đại bi vào ấy. Khi thực hành như vậy thì thấy Quán Âm phóng quang minh vào trong bình. Bệnh nhân ở các nơi đến xin nước ấy uống đều được thuyên giảm bệnh tình. Nước tụng chú để nhiều năm vẫn không hư. Vào tiết mùa Đông lạnh giá vẫn không đóng thành băng giá, do vậy mà nhiều người gọi Bà là Quán Âm Viện Quân. Bà có hai người thị nữ cũng theo tu theo Tịnh nghiệp, một trong hai người này rất nghiêm trì tịnh giới, chuyên tu khổ hạnh, có khi suốt tháng không thấy Cô dùng đến cơm cháo. Mỗi ngày chỉ cần uống một chén tịnh thủy của Quán Âm Viện Quân trì chú mà thôi. Một thời gian sau, Cô nhìn thấy Phật A Di Đà cùng chư Bồ tát thượng thiện nhân ở Cực Lạc hiện ở trước mắt, mãi như vậy trải qua trong suốt thời gian một năm. Đến ngày cuối cùng, Cô an nhiên niệm Phật mà vãng sanh. (Trích Long Thơ Tịnh Độ Văn).

12. Triều nhà Tống, có Trịnh Thụ là người ở huyện Tiên Đường, tỉnh Chiết Giang. Hàng ngày,Ông đều lập thời khóa tụng Kinh niệm Phật không gián đoạn. Về sau trong khi bị bệnh thì một ngày nọ nhờ người đỡ ngồi dậy, dẫn đi tắm rửa, sau khi tắm rửa xong thì Ông ngồi ngay thẳng, xoay mặt về hướng Tây rồi hỏi người nhà: “Có nghe tiếng khánh không? Chư Thánh hiền ở Tây Phương Tịnh Độ đã đến.” Nói rồi chắp tay vui vẻ, tươi cười niệm Phật. Trong chốc lát lại nói: “Phật, Bồ Tát đã đến tiếp dẫn, Đức Quán Âm Bồ Tát tay bưng kim đài, Từ phụ A Di Đà Như Lai đỡ tôi bước lên Liên tọa.” Dứt lời thì yên lặng kiết già thường thệ. (Trích Vãng Sanh Tập).

13. Triều nhà Tống, Vương Thị Nữ ở xứ Kiến An, tỉnh Giang Tây là một nữ Phật tử thâm tín Tam bảo, thờ Mẹ rất chí hiếu. Hàng ngày Cô tụng Quán Âm Phổ Môn phẩm cùng với các Kinh Di Đà, Kim Cang, và chuyên tâm niệm Phật cầu thoát khỏi luân hồi. Lúc mẫu thân Cô chết,khi tẩn liệm thì máu chảy dầm dề, Thị Nữ nhìn thấy thế vô cùng đau đớn bèn nguyện rằng: “Nếu lúc Mẹ tôi còn sống, Tôi thật là một đứa con chí hiếu thì giờ phút này xin vật ô uế này đừng lưu xuất nữa.” Vừa dứt lời thì máu cũng ngưng tức khắc. Thời gian sau, cha Cô lập kế mẫu. Người Mẹ kế cùng với Cô đồng tu Tịnh nghiệp. Lúc Bà lâm chung, Thị Nữ đến chùa bái thỉnh Cao Tăng về nhà giảng nói pháp Quán Tịnh độ cho Bà. Sau khi nghe giảng xong thì Bà nhờ người mang Tịnh Y đến mặc vào, nằm nghiêng qua phía tay phải, kiết tường thệ thế. (Trích Vãng sanh Tập).

14. Triều nhà Nguyên, Đào Thị Tập Lục Nương là người ở Từ Thôn, huyện Thường Thục. Lúc hai mươi sáu tuổi thì Cô góa chồng nhưng vẫn chưa có con. Đào Thị cảm ngộ nhơn sanh vô thường khổ não, thế gian toàn cảnh ô trược xấu xa, không có gì đáng lưu tâm luyến tiếc, nên phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Hàng ngày Cô chuyên trì Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn phẩm. Một hôm nọ, Cô mộng thấy một người mặc bạch y, tay cầm đóa sen trắng trao cho. Sau khi tỉnh giấc thì thân tâm Cô khác hẳn lúc trước, Cô dọn một gác nhỏ trang nghiêm, thờ Tây Phương Tam Thánh, chuyên tụng Kinh A Di Đà và niệm Phật. Vừa đúng ba năm thì Cô thấy Phật hiện quang minh, trên hộc thờ Kinh bỗng thấy như có cục lửa lớn cở viên đạn nên Đào Thị sợ cháy kinh, vội dùng tay phủi xuống đất thì mới biết đó là hạt xá lợi không phải lửa. Vào giờ phút lâm chung, Cô được hóa Phật đến nghinh tiếp, Cô từ biệt mọi người rồi vui vẻ niệm Phật mà thệ thế. (Trích Tịnh Độ Thiện Nhân Vịnh).

15. Triều nhà Minh, Ni sư Thành Tịnh là người ở Cổ Cương, tỉnh Quảng Châu. Ni Sư phát tâm trường trai, thọ Tam quy ngũ giới từ lúc còn bé, nên đến tuổi cập kê thì thệ nguyện giữ mình trinh khiết. Ni sư sau đó đảnh lễ Chơn Phạm Am chủ đồng ở cùng ấp làm Thầy để làm lễ thế phát lúc xuất gia. Sau đó, Ni sư chuyên tâm tụng Kinh Đại thừa Niết Bàn, thờ Thầy rất kính cẩn. Đến tuổi trung niên, Ni sư thọ giới cụ túc, lưu tâm pháp môn Tịnh độ, tâm nhớ miệng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật không dứt. Tánh ý Ni sư từ hòa, thích hạnh bố thí, oai nghi đầy đủ và làm mô phạm trong chúng. Ni sư từng đi các nơi khuyến hóa Phật tử để tạo Thánh tượng Thiên thủ Thiên nhãn Đại bi Quán Thế Âm bằng gỗ chiên đàn, phụng thờ ở Đại từ xứ Phụng Thành. Năm sau đó, Ni sư bị bệnh nhẹ, biết trước ngày giờ vãng sanh, liền khuyến hóa đồ chúng cùng với tất cả đàn việt nên cố gắng siêng tu Tịnh nghiệp và chứa nhóm các hạnh lành để cầu sanh Tịnh độ, đừng biếng nhác trễ nãi theo thế tục mà tạo nghiệp. Đến sáng hôm sau thì Ni sư bảo đệ tử rằng: “Đức Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát đã đến đây tiếp dẫn, quí vị nên cùng nhau thành kính cung nghinh Ngài. Quí vị ở lại xin nhớ lời Tôi dặn bảo tu hành.” Dứt lời thì Ni sư nhắm mắt niệm Phật rồi viên tịch. (Trích Quán Âm Từ Lâm Tập).

16. Triều nhà Minh, Thái thừa Thực Tự Hòe Đình phát tâm trường trai, niệm Phật từ lúc nhỏ. Khi lớn lên, Ông đỗ đạt ra làm Quan Thái Thú. Một mặt khuyến hóa dân chúng quy hướng Tam bảo tu hành, mặt khác cấm dân chúng không được sát sanh cúng tế quỉ thần. Lúc già, Ông từ Quan, lập hội niệm Phật, chuyên dẫn dắt những người nghèo khổ làm thuê làm mướn, khuyên họ cố gắng ăn chay niệm Phật làm lành, đem công đức ấy hồi hướng nguyện vãng sanh Tịnh độ. Lúc Ông bị bệnh, liền phát nguyện đến chùa bái thỉnh cầu xin chư Tăng làm lễ thế phát, xong việc về đến nhà thì thấy Quán Âm Bồ Tát bưng ngân đài đến tiếp dẫn. Hòe Đình vô cùng vui mừng, thành kính liên tục xưng niệm Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát rồi vui vẻ kiết già mà thường thệ. (Trích Tịnh Độ Thánh hiền lục).

17. Triều nhà Minh, mẫu thân của Lưu Đạo Long là Lý Thị. Vào năm bốn mươi tuổi thì phát nguyện trường trai, thờ Phật và niệm Phật nhưng Lý Thị lại không tụng Kinh được vì Bà không biết chữ. Bà sửa sang một ngôi Tịnh thất trang nghiêm để thờ Quán Âm Đại Sĩ, ngày đêm lễ bái xưng niệm cúng dường rất chí thành. Bà niệm Phật mỗi ngày đến một ngàn biến, dù tiết trời nóng bức vào ngày Hạ hay lạnh buốt vào ngày Đông thì việc tu niệm cũng không hề gián đoạn. Bà lại phát nguyện ấn tống Kinh Kim Cang và đem ấn thí khắp nơi, khuyên mọi người lễ bái cúng dường trì tụng, dù tốn nhiều tiền của nhưng không hề tiếc nuối. Thực hành như thế trải qua thời gian hai mươi lăm năm. Trước ngày Bà thệ thế một năm thì bao nhiêu tiền bạc để dành từ lâu đều đem ra làm Phật sự, bái thỉnh chư danh Tăng về nhà tụng Kinh và trai Tăng cúng dường,… Sau khi Phật sự viên mãn, một đêm Bà nằm mộng thấy Quán Âm Bồ Tát nơi mình thờ cầm một xâu chuỗi ngọc đưa cho và bảo rằng: “Ta đem vật nầy tặng cho ngươi, y theo số chuổi chính là thời khắc của ngươi vãng sanh Cực lạc.” Trong giấc mộng, Lý Thị đếm được năm mươi ba hạt chuỗi nhưng vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa. Đến ngày 13 tháng 5 năm Canh Tý, bỗng nhiên Bà nói với người nhà rằng: “Ngày hôm nay tôi về Tây Phương, tất cả mọi người nên vân tập cao tiếng niệm Phật để trợ giúp cho Tôi vào giờ phút cuối cùng để vãng sanh Cực lạc.” Tất cả con cháu trong nhà vâng lời, đều cùng nhau tụ họp trước giường Bà đồng thinh niệm Phật, chừng hơn một giờ sau thì Lý Thị vui vẻ kiết già thường thệ trong tiếng niệm Phật vang động khắp nhà. (Trích Kinh Kim Cang Kinh Ứng Lục).

18. Triều nhà Thanh, Tống Phu Nhơn là người thuộc gia đình cao môn vọng tộc ở Trường Châu, tỉnh Giang Tô. Bà là vợ của Thái Học Sĩ Cố Văn Diệu, thờ mẹ chồng là Hà Thái Phu Nhân rất kính cẩn. Hà Thái Phu Nhân là một Phật tử thờ kính Quán Âm Bồ Tát rất thành kính, sau khi tạ thế thì để Thánh tượng ấy lại cho Tống Phu Nhân, hàng ngày Phu Nhân cũng lễ bái xưng niệm cúng dường rất kiền thành. Trải qua thời gian trên mười năm, một ngày nọ, con trai của Bà là Tân Phương vào ban đêm nằm mộng thấy chiếc y trên thân của hai vị Đại sĩ bị hư rách và đến nhà mình dường như có ý cầu xin. Lúc sáng ra thì lại gặp một người đi ghe, đem đến hai bức tượng đến xin bán, một bức điêu khắc Tăng tướng Quán Âm thời xưa do Ngô Bào tử vẽ, còn bức tượng kia thêu Tống Tử Quán Âm. Tấn Phương nhớ lại giấc mộng đêm qua đã nhìn thấy hình tượng hai Đại Sĩ đã cũ hư nên vô cùng mừng rỡ, biết là Bồ tát thương mình thị hiện nên vội đem tiền của mướn thợ làm lại thành hai pho tượng mới, rồi đưa đến Am Nguyệt Thinh ở đồng xóm thờ phụng. Thời gian hơn một năm sau đó, Tấn Phương lại nằm mộng thấy hai vị Đại sĩ trước đây đến nói rằng: “Chúng ta sẽ đi nơi khác, không ở Am Nguyệt Thinh nữa”. Tấn Phương tỉnh mộng thức dậy trong lòng rất lo lắng, chờ đến sáng đến Am Nguyệt Thinh xem thử thì thấy hai pho tượng quả nhiên bị để vào một bên vách, lập tức kính thỉnh mang về nhà, để thờ nơi Tịnh thất của mẫu thân mình là Tống Phu nhân. Hàng ngày đứng hầu bên hai pho tượng mà trì niệm Thánh hiệu Tây phương A Di Đà và các Kinh chú, chiêm bái cúng dường hai pho tượng Đại Sĩ không ngày nào bỏ qua. Một ngày nọ, trên viên gạch trong tịnh thất bỗng hiện Tăng tướng Quán Âm Đại Sĩ giống hệt bức tượng của Ngô Đạo Tử họa. Ba ngày sau lại hiện lên bức tôn tượng Quán Âm Tống tử có Thiện tài Long nữ trước sau đồng xuất hiện. Bức tượng Tướng Quán Âm hiện trên viên gạch có kim dung rực rỡ nên Tống Phu Nhân thấy thế vô cùng vui mừng, từ đấy đối với Tịnh nghiệp tinh tấn gấp bội hơn trước. Lúc phu nhân sắp lâm chung thì gọi các con đến cạnh khuyên bảo: “Các con mãi mãi phải tròn bổn phận nhân đạo, đừng tranh giành tài sản với nhau như người thế tục, nên gắng noi theo Mẹ, kính trọng Tam Bảo, tinh tấn niệm Phật và tu tập pháp lành. Giờ phút này Mẹ được về Tây phương Cực lạc là một phước báu lớn không gì so sánh được nên các con nên cùng nhau, đồng xưng niệm Thánh hiệu Từ phụ A Di Đà để đưa Mẹ về Tây, đừng như người thế tục si mê khóc than kể lể.” Dứt lời, Phu nhân kính cẩn chấp tay lên trán, nhất tâm niệm Phật và trì tụng thần chú mình thường trì tụng. Xung quanh mọi ngườiđều ngửi thấy mùi hương ngạt ngào khắp trong thất, sau đó Phu Nhân ra đi trong tiếng niệm Phât của con cháu. Bấy giờ là vào lúc niên hiệu Càn Long năm thứ 57 nhà Thanh, vào ngày Đoan Ngũ tháng 5 năm Nhâm Tuất, Phu Nhân hưởng thọ 54 tuổi. (Trích Nhất Hạnh Cư Tập).

19. Triều nhà Thanh năm Mão, Cảnh Trí Đạo nhơn, người họ Uông là một nữ Phật tử đặc biệt trong giới Phật giáo triều nhà Thanh. Bà về sống với Lý Cảnh Hy đến năm hai mươi sáu tuổi thì góa chồng. Sau khi Cảnh Hy thệ thế, Cảnh Trí Đạo Nhơn tự ngộ mình có túc phước nên không bị trần lao triền phược, Bà phát tâm xuất thế nên đến chùa bái thỉnh Cao tăng truyền trao giới Bồ tát. Sau khi thọ đại giới, Bà luôn đem Phật pháp dẫn dắt tất cả người trong làng xóm và những chúng hữu duyên. Đạo Nhơn khuyến hóa rất đông người, số người thâm tín thực hành theo Bà trên ngàn người. Đạo Nhơn từng chích máu nơi lưỡi để chép các kinh Pháp Hoa (một bộ), Kinh A Di Đà (một quyển), Phạm Võng Giới Bồ Tát Bổn (một quyển). Lúc ba mươi tuổi, Bà bị bệnh kiết lỵ kéo dài không dứt. Đến một ngày nọ, Bà cố gắng ngồi dậy, tắm gội sạch sẽ rồi mặc Tịnh Y vào, ngồi kiết già chuyên tâm niệm Phật và thệ thế. Bấy giờ là vào niên hiệu Càn Long năm thứ 49 nhà Thanh. Ba năm sau có một cô gái họ Hà ở cùng xóm với Bà bị bệnh nhiệt. Lúc bị bệnh hành hạ mê man thì thấy có một nhóm người cầm đèn và chiếc kiệu lớn đến khiêng mình đến nơi một cung điện nguy nga, trong ấy có một vị vương gia mặt xanh ngồi chính giữa, tả hữu có nhiều tiểu quỷ theo hầu, tất cả đều cầm chĩa ba bằng thép và chùy đồng. Vị Vương giả đó phán bắt cô gái họ Hà này lại và dùng chùy đánh. Trong lúc kinh hãi chưa biết làm sao thì Cô nhìn thấy từ phía bên trong bảo điện, có một vị đạo nhân đứng chính giữa, kim đồng ngọc nữ cầm tràng phan bảo cái đứng hầu hai bên đang từ từ bước ra. Đạo nhân này không phải như người thường vì Ngài đi cách đất chừng một trượng, đầu đội mão xanh, thân mặc y điếu, tay cầm phất trắng, chân mang vân hài, hình tướng đoan nghiêm thanh tịnh không ai sánh kịp. Cô gái ấy nhìn kỹ lại thì đạo nhân đó không ai xa lạ chính là bà họ Lý ở cùng xóm ngày xưa, chỉ có khác là hình tướng của Bà giờ đây quá trang nghiêm, đẹp đẽ khác hẳn lúc sanh tiền nên không nhận ra ngay. Bà họ Lý thấy tiểu quỉ bắt cô gái lại định đánh thì vội ngăn lại bảo: “Thôi! Thôi!”. Vương gia nghe thấy, tức tốc truyền lệnh ngưng và phóng thích Cô. Đoạn Ngài rời chổ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân bà họ Lý, xong rồi quỳ trước mặt Bà và thưa rằng: “Con xin thành kính vâng lời”. Bà họ Lý đó bèn đưa tay dắt Cô vào trong nội điện. Khi vừa bước vào trong thì thấy cảnh tượng vô cùng trang nghiêm, không sao tả được, ánh quang minh rực rỡ, bàn ghế, chiếu niệm đã trải sẳn rất chỉnh tề, trên bàn hương án có cúng dường kinh Phật. Bà họ Lý truyền lệnh đem trà ngon, trái cây quí ra đãi cô. Trái ấy giống như trái Tần bà, mùi vị ngon ngọt, thơm ngát. Bà hỏi: “Con có biết trái ấy ở đâu không?” Nói rồi tự trả lời: “Ta mang từ Tây phương đến đó”. Sau khi cho Cô ăn và uống trà xong thì dắt Cô đi quan sát cảnh giới địa ngục. Trong lúc đi xem, bà nắm tay và giảng giải Phật pháp cho Cô nghe rất nhiều nhưng Cô chỉ còn nhớ những điểm chính như Thân người khó được, khác nào như đất dính móng tay nên phải cố gắng trì trai, giữ giới, chuyên tâm niệm Phật cầu sanh Tây phương. Sau đó Bà bảo Cô mau trở lại dương thế và nhớ lời Bà khuyên nhủ. Những điểm cần yếu Bà dạy là gái lớn lên tốt nhất không nên lấy chồng, ráng ăn chay niệm Phật cho chuyên, cần nhất là giữ ý nguyện về Tây phương, và ngoài việc niệm Phật thì nên kính tụng Kinh, trì Chú. Bà bảo: “Khi giờ ngày đến thời Ta sẽ đến nghinh tiếp con, con nên cố gắng”. Dứt lời, Bà bảo Cô lên kiệu ngồi rồi sai người đưa về, trong chốc lát thì Cô liền tỉnh cơn hôn mê. (Trích Nhất Hạnh Cư Tập).

20. Hồ Thị Nữ là người ở Hồ Châu, Bà về sống với người họ Phan ở Hàng Châu. Ông họ Phan này là một Phật tử biết ăn chay trường niệm Phật từ lúc thơ ấu. Khi kết hôn với Ông, Bà thấy chồng như vậy nên cũng phát nguyện trường trai, niệm Phật. Sống với nhau một thời gian ngắn thì Ông bị bệnh qua đời. Từ đó, Thị Nữ sống một mình cô quạnh trong một căn nhà cao rộng, hàng ngày nhìn lên bốn bức vách đìu hiu thê thảm, nên Bà tỉnh ngộ cuộc đời như huyễn mộng. Bà từ bỏ phấn son, nhung lụa, mỗi ngày chỉ bỏ ít tiền mua đậu hủ, rau trái ăn cho qua bữa nhưng không thấy đói. Trong nhà Bà có thờ Quán Âm Bồ Tát, hàng ngày đều lễ bái xưng niệm, cúng dường và tụng Kinh trì Chú. Bà đến chùa Quy y và được cho pháp danh là Tịch Niệm. Lúc trước khi phát tâm tu hành thì dù ở trong cảnh nhà giàu sang, Bà vẫn đi làm các công việc nữ công để kiếm thêm tiền, nhờ vậy mà dành dụm được một số tiền. Nay Bà bèn đem hết số tiền này cúng dường chư Tăng và sắm một cái khánh, đem gởi ở nhà người khác. Vào niên hiệu Khang Hy, triều nhà Thanh, vào ngày 15 tháng 6 năm Tân Mùi, Bà nhờ người đến lấy khánh đem về, lại bái thỉnh Linh Phong Hòa thượng đến chứng minh cho lễ hỏa thiêu mình. Hàng Phật tử tại gia tất cả mọi người có đến vài trăm người đến tiễn đưa Bà. Mọi người đều đồng ngợi khen là chuyện hiếm có trên thế gian. Bấy giờ Thị Nữ đúng bốn mươi tuổi. (Trích Khoán Viên Tân Chí).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

21. Triều nhà Thanh, Viên Giản Trai từng thuật lại câu chuyện như sau: Bà nội của Tôi là Sài Thái Phu Nhân ngày còn sống thường hay kể cho tôi nghe chuyện về bà ngoại của Bà là Dương Thị, dù tuổi đã già nhưng không có một đứa con bên cạnh vì tất cả đều đã chết, nên ở với một đứa cháu gái bà con xa tên là Hồng Phu Nhơn. Đến năm chín mươi bảy tuổi thì Dương Thị thệ thế. Lúc sanh tiền, Bà thường sống trên lầu cao, trong đó có thờ Thánh Tượng Quán Âm Bồ Tát, hằng ngày lễ bái xưng niệm cúng dường rất chí thành và tụng kinh niệm Phật không hề biến trễ. Trải qua thời gian ba mươi năm không một lần bước chân xuống lầu, tánh tình Bà nhu hòa, hiền thiện. Trước khi thệ thế, Bà bảo đem bồn đến để rửa chân. Khi người hầu đem thùng gỗ vẫn dùng thường ngày đến cho Bà thì Bà bảo: “Không được! Vì lần này Ta đi sẽ đạp trên liên hoa, con mau mang thao bằng đồng rửa mặt đến đây cho Ta dùng”. Rửa chân xong thì mùi hương chiên đàn ngào ngạt xông khắp cả tầng lầu, Bà kiết già đoan tọa và thệ thế. Diệu hương ấy trải qua ba ngày đêm mới tan hết. (Trích Tân Tế Hải).

22. Lưu Sùng Khánh là người thường trì chú Chuẩn đề trong Tịnh thất của Ông tu hành, do đó Ông thường thấy bạch hào quang phóng vào Tịnh thất, và thấy thân tướng của Đức Đại Chuẩn đề hiện đến. Lúc sắp thệ thế, thân Ông không bệnh khổ, tâm thần minh mẫn, lại thấy Quán Thế Âm Bồ Tát đưa ra một vật giống như mãn nguyệt, biểu thị ý tiếp dẫn. Sùng Khánh thành kính tụng Chú Đại bi ba biến vừa xong thì an nhiên thệ thế. (Trích Quảng Tín Phủ Chí).

23. Triều nhà Thanh, có Ni sư Phật Kỳ, lập nguyện tạc tượng Tây phương Tam thánh bằng gỗ chiên đàn, với bệ cao 8m. Hàng năm, Ni sư đều kiết tập lập hội niệm Phật, đốc xuất ni chúng và các Phật tử tại gia tham dự vào hội niệm Phật rất đông. Trước khi thệ thế ba ngày, Ni sư thấy Quán Âm Bồ tát hiện thân có hai đồng tử hầu hai bên tả hữu. Lúc ấy, có người nói ngửi được mùi thơm hoa cúc nhưng Ni sư Phật Kỳ nói không phải, đây là mùi thơm của thanh liên hoa, dứt lời thì Ni sư vui vẻ niệm Phật mà viên tịch. (Trích Tịnh Độ Thánh Hiền lục).

24. Triều nhà Thanh, có một nữ Phật tử là người họ Hàng, pháp danh là Thiện Ích, chuyên thực hành Đại bi sám pháp và lễ Kinh Hoa Nghiêm hai bộ. Lúc tuổi già, Bà chuyên trì tụng Chú Đại Bi và niệm Thánh hiệu A Di Đà, cầu nguyện vãng sanh Tây phương. Một ngày nọ, Bà bị bệnh nhẹ thì thấy Quán Âm Đại Sĩ hiện thân. Bà bảo đứa con gái rằng: “Phật phóng quang minh khắp trong nhà con có thấy không?” Cô con gái đáp rằng: “Dạ, Con không thấy.” Bà lại dặn dò: “Con ở lại cố gắng noi theo gương Mẹ, chuyên cần tu tập và chuyên tâm niệm Phật cầu về Tây phương. Thôi Mẹ đi đây!” (Trích Tịnh Độ Thánh Hiền Lục).

25. Triều nhà Thanh có bà lão họ Nghê, pháp danh là Hiếu Chơn là người ăn chay niệm Phật đã nhiều năm. Nhà của Bà nghèo, chật hẹp nên không có nơi thờ Phật nhưng ở một nhà trong thôn có thờ Thánh tượng Quán Âm nên mai chiều Bà đều đến nơi ấy, xin cho được đảnh lễ Bồ tát và chí thành xưng niệm Thánh hiệu Bồ Tát. Thời gian sau, Bà thường mộng thấy Thánh tượng Bồ tát mà mình chiêm bái lễ tụng hàng ngày. Đến lúc già, Bà bị bệnh nhẹ rồi gọi đứa con trai đến nói rằng: “Mẹ thấy Bồ tát đến gọi Mẹ, bảo đi, vậy là thời điểm vãng sanh của Mẹ đã đến. Con ở lại mạnh khỏe, gắng siêng niệm Phật.” Đứa con thưa: “Thưa Mẹ! Nếu Bồ tát đã giáng lâm, con xin đi chợ mua ít trái cây để cúng dường Ngài và Mẹ.” Bà liền nói: “Con có ý ấy cũng tốt nhưng Mẹ sợ là không kịp.” Đứa con nói xong, liền vội vã chạy đi mua trái cây nhưng khi về đến nơi thì Bà đã kiết già tạ thế. (Trích Tịnh Độ Thánh Hiền lục).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THIÊN THỨ NĂM
RỘNG KHẮP KHUYÊN RĂN
1. Triều nhà Lương, Phật tử Lưu Tề là một người rất có chí hướng. Tuy sống trong gia đình nghèo thiếu nhưng Ông là người con chí hiếu, học hành siêng năng không chịu lùi bước. Ông cùng với em trai ngày đêm chịu khó đèn sách, dùi mài kinh sử, rộng thông tất cả các sách. Vào niên hiệu Thiên Giám nhà Lương, Ông ra làm quan trông coi hai ấp lớn. Vốn là người có tâm tính nhân từ, thương dân như con nên Ông nổi tiếng là vị quan nhân đức vào thời ấy. Lúc Ông năm mươi tuổi thì Mẹ Ông là Minh Thị bị một cơn bệnh nặng, ngày Ông lo việc quan, tối đến lại lo cơm cháo thuốc thang cho Mẹ, đến nổi không còn lúc nào rảnh để vá lại chiếc áo mình mặc. Trải qua thời gian bảy tuần lễ, Ông phát nguyện tụng Kinh Phổ Môn vạn biến, cầu nguyện cho Mẹ qua hết bệnh trạng và được tăng thêm tuổi thọ. Một đêm nọ, Ông nằm mộng thấy một vị Tăng đến bảo rằng: “Mẫu thân của Ngài đã tận số nhưng do tâm chí thành khẩn thiết của Ngài nên sẽ sống thêm được sáu mươi ngày nữa mới tạ thế.” Đúng như lời Tăng nhân mách bảo, mẫu thân Ông sống lại thêm hai tháng thì tạ thế. Ông bèn từ quan, xây một cái chòi tranh bên mộ của Mẹ, ngày đêm chuyên tâm niệm Phật, nguyện cầu cho Mẹ được siêu sanh Lạc quốc, ngày ngày đều có một cặp bạch hạc quấn quít bên chòi tranh của Ông. (Trích Lương Thư).

2. Triều nhà Minh, Bành hiếu Từ Hữu Nguyên tự Tín Vũ là người ở Ích Dương tỉnh Hồ Quảng. Ông phát tâm tín kính Tam Bảo từ lúc thơ ấu, hàng ngày thường trì tụng Kinh Phổ Môn và Chú Đại bi để cầu nguyện cho song thân được tăng tuổi thọ. Một ngày nọ, phụ thân Ông bị trọng bịnh, Hữu Nguyên bèn cắt thịt cánh tay để làm thuốc điều trị cho phụ thân lành bệnh, nhờ đó phụ thân Ông sống thêm được mười năm năm nữa. Sau khi cha chết, Ông thờ Mẹ chí hiếu. Sống trong cảnh gia đình túng thiếu nhưng Ông luôn cố gắng làm thuê làm mướn, kiếm tiền để mua món ngon vật lạ dâng lên cho mẹ hàng ngày. Đến niên hiệu Sùng Trinh, mùa Thu năm Bính Tý, mẫu thân Ông lâm trọng bệnh, bệnh liệt giường không ngồi dậy nổi, lại bị lở loét ung nhọt ăn lủng bàn tay, đau nhức rên la thảm thiết. Hữu Nguyên nhìn thấy cảnh tình này nên trong lòng buồn rầu không xiết. Một đêm, Ông nằm mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ mách bảo: “Thọ số của mẫu thân người sắp hết, chứng bệnh đang phải thọ khổ đó không có phương thuốc nào trị lành, ngoại trừ phải ăn gan người thì bệnh mới mong qua khỏi.” Sáng hôm sau Ông đến thăm Mẹ thì Bà bảo muốn ăn món gan dê. Hữu Nguyên bèn thưa: “Thưa Mẹ, đây là sự việc Bồ tát có dạy con trong giấc mộng đêm qua, xin Mẹ cứ yên tâm, để con đi tìm món ăn này dâng lên cho Mẹ”. Ông nói xong thì từ giã Mẹ ra khỏi phòng rồi đi đến trước bảo tọa Quán Âm, chí thành lễ bái rồi bạch rằng: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Bồ Tát đã thùy từ chỉ dạy cho con, cầu xin Bồ tát chứng minh gia hộ cho con, con nguyện tự mổ gan mình để cứu cho Mẹ con khỏi bệnh.” Đêm ấy, Ông nằm mộng thấy Quán Âm Bồ tát cùng với các Thánh hiền ngự trước mắt mình, lại thấy có vô số chúng cầm tràng phan, bảo cái theo hầu. Ông giật mình tỉnh giấc thì toàn thân toát mồ hôi như nước, bèn đi tắm rửa sạch sẽ rồi vào trước Phật đài đảnh lễ, sau đó trở về nơi nghĩ, rồi dùng dao tự rạch bụng chổ có là gan. Vì quá đau đớn nên Ông ngất đi một hồi lâu. Khi tỉnh lại, Ông gọi vợ bảo: “Bà hãy đem lá gan này chưng cho thật kỹ rồi dâng cho mẫu thân.” Người vợ vâng lời, đem dâng món gan cho Mẹ chồng mình ăn. Bà Mẹ không biết tưởng là gan dê nên vui vẻ dùng món ăn thì quả nhiên lành bệnh. Sự việc này sau đó được đồn khắp nơi, nên xa gần người người đều cảm động rơi lệ tán thán, nhiều người đến thăm Ông nhìn thấy vết thương quá lớn đều nghẹn ngào, họ đến trước bảo tọa của Đại Sĩ cầu đảo cho Ông. Tuy bị trọng thương nhưng tinh thần của Hữu Nguyên vẫn an ổn như thường. Đêm ấy, Ông lại mộng thấy Đại Sĩ hiện thân và bảo rằng: “Lá gan và vết thương của hiếu tử con muốn mau lành không khó, nhưng vì đây là thời mạt pháp, thế gian kẻ nhân hiếu hiếm có nên Ta muốn để vết thương này sẽ tự lành trong một trăm ngày, để cho tất cả thế nhân đến xem mà phát khởi tâm hiếu đạo phần nào. Qua thời gian một trăm ngày, vết thương con sẽ tự bình phục lại bình thường như trước đây.” Sự tích trên đây là do Tiến sĩ Vương Văn Nam tự ghi lại rồi mướn người chép ra và in ấn thành bản rất nhiều, phát cho dân chúng để mong mọi người học theo hạnh hiếu đạo của Hữu Nguyên. (Trích Quán Thế Âm Trì nghiệm ký).

3. Triều nhà Minh, có Phật tử tên Ngô Chương ở huyện Ngô Giang, tỉnh Giang Tô, lúc mới lên mười một tuổi thì phụ thân đã tạ thế. Ông sống với người mẹ trẻ là Lục Thị. Ngày ngày cắp sách đến trường và chuyên tâm lo học hành vì mọi việc đã có mẹ lo. Nhờ gia đình Ông cũng khá giả nên cuộc sống cũng không có gì khó khăn. Nhưng thế sự vô thường. Vào niên hiệu Vĩnh Lạc, năm Quí Mão, triều đình ban sắc lệnh tuyển dụng tất cả sương phụ đưa vào triều nội, nên Ngô Chương đã mất cha, giờ đây lại mất thêm Mẹ. Đến niên hiệu Tuyên Đức nhà Minh năm Bính Mùi, Lục Thị vì không thể trái lệnh của triều đình nên theo họ Vương về nhậm chức tại tỉnh Quảng Đông. Ngô Chương nghe tin thì quyết đi tìm Mẹ cho kỳ được. Ông thuê một chiếc thuyền lớn để đi đến xứ Quảng. Trên đường đi, Ông lập bàn thờ cúng dường Quán Âm Đại Sĩ, ngày đêm lễ bái xưng niệm cầu đảo, mong Bồ tát từ bi gia hộ cho chí nguyện được thành tựu. Không may là lúc trên ghe, Ông mắc phải chứng bệnh kiết lỵ rất nặng. Trong cơn mê, Ông vẫn mặc niệm Thánh hiệu Quán Âm, có khi gọi Mẹ không dứt. Trên thuyền có vị Tăng là Uẩn Không, thấy Ông bệnh nên hết lòng điều trị, Ông nhờ đó mà được lành bệnh. Khi thuyền đến nơi, Ông tìm đường đến dinh của quan tỉnh mà hỏi thăm thì được biết họ Vương đã đổi đến Nhiêu Châu làm tri phủ. Đường đi đến Nhiêu Châu lại vô cùng gian nan vì không có phương tiện nào đến đó. Ngô Chương lại tự mình trèo núi, băng sông, khi đi bộ qua một bãi sa mạc thì hai chân Ông bị phỏng nứt hết không thể đi tiếp được, Ông tìm được một ngôi chùa trong một làng nọ để xin nghỉ trọ nơi hành lang và may mắn được một Tiên đạo nhân cho thuốc xức lành. Ngô Chương lại tiếp tục lên đường, lúc băng qua một ngọn núi thì lại bị rắn độc cắn, đôi chân thấm nọc độc nên phải nằm lại trong đường núi, may thay được vị Tiên nhân trước đây tìm thấy và cứu chữa, Ông lại tiếp tục đi xuống núi thì gặp được một ngôi làng lúc trời tối. Ông ghé vào một ngôi nhà tranh xin tá túc. Khi vừa nằm xuống nghỉ, thì bỗng đâu bọn người đến cướp nên Ông chống cự, lao ra khỏi nhà, gặp tiết trời Đông lạnh giá, tuyết rơi dày khắp nơi nên Ông phải lết trên tuyết. Được một đoạn, nhìn thấy một ngôi miếu cũ nên Ông ghé vào tá túc. Đêm đó Ông lại mộng thấy vị đạo nhân trước kia đến bên an ủi: “Con vì tìm Mẹ mà quên thân mình, thật là một người gan đồng dạ sắt. Trời sẽ không phụ tấm lòng chí hiếu và những gian khổ của con. Ta chắc chắn con sẽ sớm được gặp lại Mẹ.” Dứt lời, vị đạo nhân lấy trong túi ra chiếc bánh cho Ông ăn đỡ đói lòng. Khi trời gần sáng, Ngô Chương lại vội vã lên đường. Đi đến khi quá ngọ thì mới hỏi được đường đến phủ họ Vương, biết Mẹ Ông hiện có ở trong phủ này nên ngày ngày Ông đến khẩn cầu, lạy lục xin cho Mẹ được về nhà để mình trọn đời phụng dưỡng nhưng Quan phủ không đồng ý. Không biết phải làm sao nên Ngô Chương bèn thuê một gian phố phía Đông của Phủ quan, chính giữa nhà viết hai chữ lớn “Tử Thân” bên cạnh là hai câu đối: “Vạn Lý tâm thân lịch, bách gian nan vô hối. Nhứt triệu kiến mẫu, thệ cửu tử dĩ hà tử” nghĩa là “Muôn dặm tìm Mẹ, chịu dữ gian nan nào có hối. Sớm mai thấy Mẹ, chín lần bị giết cũng không từ.” Vương Công nghe được câu chuyện, cảm động ngợi khen nên ưng thuận lời yêu cầu của Ngô Chương. Từ đó, hai mẹ con được gặp nhau và Ngô Chương được suốt đời phụng dưỡng Mẹ như ước nguyện. Dân chúng ai nghe chuyện của Ngô Chương cũng đều khen ngợi tấm lòng chí hiếu của Ông đã cảm đến lòng từ bi của Quán Âm Bồ tát nên Ngài đã nhiều lần hiện thân để gia hộ cho Ông. (Trích Tiên Tân Lục).

4. Triều nhà Minh, Châu Đức Trinh, người Lư Giang là con gái thứ ba của Quan Tể Tướng Đại thần. Từ thuở bé, nàng đã được sự dạy dỗ của gia đình nên là một người con chí hiếu và giữ gìn đức hạnh trinh tiết không ai bì được. Lúc được tám tuổi, cha mẹ hai bên gia đình hứa hôn, gả nàng cho con của Nghi Vệ Đại Thần Vương Đình Khanh là Trọng trường, mặc áo vải thô, mượn thợ vẽ Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ để thờ, mai chiều hương khói lễ bái tụng kinh niệm Phật, cầu nguyện cho chồng. Lúc đến tuổi cập kê, có một công tử trong vùng đến cầu hôn nhưng Đức Trinh đến trước song thân chấp tay thưa rằng: “Con gái cha mẹ đã là vợ của họ Vương, từ ngày được tin Trọng Hiền thệ thế, con đã thề sẽ không tái giá.” Cha mẹ Cô vừa nghe xong, nổi giận đánh mắng Cô thậm tệ, nhưng Đức Trinh vẫn cương quyết không thay đổi, Cô lại phát thệ rằng: “Con không thể kết hôn với người sống mà lổi đạo với người chết, nếu cha mẹ cho là trái lệnh phụ mẫu, ra lệnh giết chết thì con cũng cam lòng chịu chết.” Phát thệ xong thì Cô tuyệt thực nhiều ngày liền, cha mẹ Cô thấy vậy sợ Cô chết nên không bàn đến việc hôn nhân nữa. Niên hiệu Thiên Khải, nhà Minh, vào mùa thu năm Tân Dậu, đến ngày mãn tang Trọng Kiên, Đức Trinh đến lễ bái song thân rồi vào Tổ miếu dâng hương lễ bái ông bà tổ tiên, đến ngày 29 tháng 8, Cô về nhà họ Vương, mặc áo vải thô, tay cầm gậy làm lễ mãn tang cầu siêu cho chồng. Sau lễ cầu siêu, Cô đến chùa xin Thầy truyền trao Tam quy ngũ giới, rồi về nhà dọn dẹp thành ngôi Tịnh thất trang nghiêm thờ Tây phương Tam Thánh. Mỗi ngày hai thời, thời khóa sáng thì tụng kinh Phổ Môn và Chú Đại Bi, niệm Phật còn thời khóa chiều thì tụng Kinh Di Đà, chú Vãng Sanh, niệm Phật,… Đức Trinh xưa kia nổi tiếng là nữ sĩ giỏi về thi văn nhưng bây giờ thệ bỏ hẳn. Mỗi năm, đến ngày giỗ của Trọng Hiền, Cô lại lo chuyện cúng tế rất chu đáo, từ trái cây phẩm vật cúng dường Tam bảo, đến tụng kinh niệm Phật từ sáng đến tối, nhất nhất nghi tắc không sai. Cha mẹ chồng thấy nàng dâu như vậy thì vô cùng cảm động nên đều nguyện trường chay niệm Phật. Sự ăn uống hàng ngày của cha mẹ chồng đều do tự tay Cô nấu nướng đem dâng. Lúc hai ông bà bị trọng bệnh, Cô đến săn sóc, vấn an rất kính cẩn và chu đáo. Năm Giáp Tý, phụ thân của Đức Trinh lâm trọng bệnh, Cô nguyện cắt bắp thịt ở chân để làm thuốc cho cha uống. Đêm ấy, phụ thân của Cô nằm mộng thấy Đại Sĩ đến dạy rằng: “Ngươi nhờ có đứa con gái chí hiếu nên bệnh sẽ được lành hẳn và còn sống lâu nữa.” Thời ấy, người ở Hương Giang từ quan đến dân, ai ai cũng ngợi khen tấm lòng chí hiếu và đức tiết trinh của Đức Trinh. (Trích Quán Thế Âm Trì nghiệm ký).

5. Triều nhà Thanh, có một người đàn ông họ Huỳnh là người ở xứ Sở Bắc, ưa thích tu tập thiện pháp, lại là người con chí hiếu. Ông sống trong cảnh nhà thanh bần, làm nghề giáo, dạy trẻ con trong làng. Tuy đã đến tuổi lục tuần nhưng bên cạnh chỉ có đứa con gái nhỏ mười bốn tuổi. Đứa bé gái này rất hiền từ lại có trí huệ vì từ lúc nhỏ đã được theo Cha đọc sách Thánh hiền. Cô từng mua chỉ tơ về thêu bức tranh Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát để thờ cúng. Hàng ngày, Cô lễ bái xưng niệm rất chí thành. Một đêm nọ, Cô nằm mơ thấy Đại Sĩ dạy rằng: “Tự Cô! (tên gọi của đứa con gái duy nhất nối dõi tông đường trong nhà) Cha của con là người hiền đức, chí hiếu nên Ta không nở để cho tuyệt tự. Vậy nay Ta muốn đem thân con biến thành một nam tử.” Dứt lời thì Bồ Tát đưa cho Cô một bình thuốc hồng và bảo Cô uống. Sau khi uống xong, Cô cảm nhận có một luồng nhiệt khí từ ngực chạy xuống đến bụng, rồi bắt đầu hôn mê và ngủ suốt bảy ngày. Khi thức dậy, Cô thấy khỏe khoắn nhưng chỉ có điều lạ là thân nữ giờ đã biến thành nam nhi. Cô vừa thẹn thùng, vừa cảm động vui mừng vì biết việc này là do thần lực bất khả tư nghì của Bồ tát muốn cho cha mình có người nối dõi. Vì vậy, tín tâm của Cô với Tam bảo càng sâu nặng, tu hành càng dõng mãnh tha thiết hơn. (Trích Vạn Ngọc Sơn Phòng Bút Ký).

6. Triều nhà Thanh, Mẫn Trinh tự là Chánh Trai, người ở Quảng Tế, tỉnh Hồ Bắc là người hiền lương và chí hiếu, cha mẹ đều đã tạ thế từ lúc còn nhỏ. Khi lớn lên, vào một dịp cuối năm đến ngày trừ tịch, mọi người đua nhau dọn dẹp nhà cửa, sửa sang bàn thờ, đem hình tượng của ông bà, cha mẹ lên bàn thờ để cúng tế. Chánh Trai nhìn thấy nên sụt sùi giọt lệ, lòng đau đớn vì không được nhìn thấy di dung của cha mẹ. Nhiều người thấy thế cũng cảm động thương tâm, có người bảo rằng: “Các nhà vẽ chân dung có pháp tri dụng, vậy ông nên tìm những người còn sống, mặt mũi, thân thể ốm gầy, cao thấp tương tự với song thân mình trong lúc sanh tiền, có thể lấy những người ấy làm mẫu để vẽ chân dung thì chắc cũng có thể phảng phất được”. Nhưng các nhà vẽ chân dung trong nước không có ai có diệu xảo, vì vậy Chánh Trai quyết lòng đi học họa miêu thần nhiếp sắc. Nhờ gắng công học hỏi, chỉ trong một năm thì Ông nắm được diệu xảo trường khang. Sau khi học nghề thành công, Ông liền mai chiều đối trước Quán Âm Đại Sĩ, chí thành lễ bái cầu đảo, mong sao gặp được hai người tương tự như cha mẹ mình. Trong ý nghĩ của Chánh Trai cho rằng người trong trời đất này không lẽ không có một đến hai người tương tự với cha mẹ mình. Ông cầu xin Bồ tát từ bi dùng thần lực mách hộ, xui khiến cho người ấy đến trước mặt mình để làm người mẫu cho mình họa hình tượng cha mẹ. Dân chúng trong làng nghe nói, ai nấy đều cười chê cho là điều ngu ngốc, thậm chí có người còn tìm cách gạt Ông bảo rằng: “Chánh Trai ơi! Vừa rồi Tôi thấy có hai ông bà xách giỏ chống gậy, giống hệt với hình dáng của Ông bà song thân Anh lúc sanh tiền. Tôi có hỏi thăm thì nghe hai Ông bà ấy nói vì có duyên sự phải đến Kinh Như, mà lộ trình từ đây đến đó không xa lắm, Anh có thể theo kịp để rước về nhà làm mẫu mà họa hình song thân.” Chánh Trai vui mừng, tin rằng đó là sự thật nên bỏ mọi duyên sự, sắm sửa hành trang cất bước lên đường. Một ngày đêm đi hơn hai trăm dặm mới đến Kinh Như, hai chân bị sưng phồng lên không đi được nữa thì bỗng nhiên gặp được hai ông bà già giống hệt song thân mình. Ông cúi đầu chào và năn nỉ rước hai ông bà về nhà, hai ông bà lão vui vẻ ưng thuận. Về đến nhà, Ông lo cơm nước cho hai ông bà lão dùng, xong rồi ngơi nghỉ. Lúc bấy giờ, Chánh Trai mới đem việc mình cầu xin Bồ Tát giúp và đến giờ phút này Bồ Tát thương xót, minh gia cho mình được toại nguyện, kể cho ông bà nghe. Hai ông bà bèn đồng ý lưu trú lại đó một thời gian ngắn. Sau khi Chánh Trai họa xong chân dung, thì hai ông bà nói trên bổng nhiên biến mất. Tất cả bô lão trong vùng trông thấy hình vẽ đều ngợi khen là giống hệt cha mẹ của Chánh Trai. Trong xóm làng, già trẻ lớn bé đều muôn miệng đồng lời, xưng tán ngợi khen và cho rằng do tâm chí hiếu của Chánh Trai mà cảm đến đức từ của Bồ tát minh gia nên được sự linh dị như thế. (Trích Mộng Hán Tập Trước).

7. Triều nhà Thanh có người thiếu phụ ở xứ Quảng, tỉnh Hồ Bắc, người chồng vì tìm kế sanh nhai phải đi xa xứ. Lúc ấy trong gia đình chỉ còn có hai người là mẹ chồng và nàng dâu. Gia đình đã nghèo thiếu giờ càng bất hạnh hơn vì bà mẹ chồng mắc phải chứng bệnh nghẹn, chẳng những cơm ăn không được mà hớp nước cũng không vô, chạy chữa thuốc thang đều không hiệu quả. Lưu Thị thấy thế hết sức buồn đau vì thuốc đã vô hiệu thì không biết lấy phương cách gì mà chạy chữa. Lúc ấy, Lưu Thị nghe người chỉ bảo, bèn tự nguyện cắt thịt bắp đùi, hầm cháo dâng cho Mẹ chồng dùng, Bà ăn cháo ấy xong thì bệnh liền lành, nhưng một tuần sau bệnh lại tái phát. Lưu Thị lại tiếp tục cắt thịt bắp đùi mình làm thuốc dâng cho Mẹ. Bà dùng thuốc này xong thì bệnh lành tức khắc nhưng sau một tuần thì vẫn tái phát như cũ. Lưu Thị không còn biết phương cách gì nữa nên đến quỳ trước Quán Âm Bồ tát cầu nguyện, xin đem thân mình thay thế cho mẹ chồng, nhờ Bồ tát từ bi gia hộ, chỉ cho phương cách cứu Mẹ. Bấy giờ, trong hàng y sĩ có một người bảo rằng: “Bệnh này không thể dùng thuốc mà trị được. Nếu có được miếng gan tươi của người sống thì mới có thể trừ tiệt bệnh căn.” Lưu thị hớn hở tin theo, lập tức lén dùng dao bén mổ dưới hông mình, lá gan lòi ra ngoài chừng vài tấc thì lập tức cắt đi. Nhưng vì qua đau đớn nên Lưu Thị té nhào xuống đất ngất đi. Trong lúc bất tỉnh, nàng mơ màng thấy Quán Âm Đại Sĩ vuốt ve trên thân thể nàng mà nói rằng: “Khổ lắm phải không con?” Dứt lời, Ngài dùng hoàng thuốc phết lên chổ bị thương. Lưu Thị liền tỉnh lại, đem miếng gan đi chưng cách thủy và dâng cho mẹ chồng ăn. Sau khi Bà ăn món thuốc này thì bệnh lành hẳn, không còn tái phát nữa. Sau khi bệnh đã khỏi thì thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn. Mẹ con chung sống trong gia đình rất vui vẻ nhưng Bà để ý thấy có điều lạ là Lưu Thị khi làm việc cũng như đi đứng, thường đem bàn tay đỡ nơi hông. Bà gạn hỏi nhiều lần nhưng Lưu Thị vẫn không chịu đáp. Một hôm nọ, Bà tự động đến dở vạt áo Lưu Thị lên xem thì thấy có một vết mổ rất lớn. Bà kinh hoàng hỏi duyên cớ, Lưu Thị biết không thể dấu diếm nên thưa rõ tự sự đầu đuôi. Bà nghe xong cảm động kêu lớn: “Dâu hiền vì Ta mà đến nông nổi này sao con ơi, lòng Mẹ sao nỡ nhận việc làm ấy của con”. Sau đó Bà đem chuyện con dâu mình đã làm kể cho khắp mọi người gần xa biết. Người người đua nhau đến xem, không chổ chen chân nhưng Lưu Thị vẫn nhốt mình trong phòng kín, không chịu ra cho mọi người thấy mặt. Vì thế, mọi người thất vọng giải tán ra về. Người trưởng tộc đem việc này trình cho quan huyện Lý Quân biết nên Ông liền cho người mời Lưu Thị đến để nghiệm xét sự thật nhưng Lưu Thị từ khước và nói với Sứ giả của quan huyện rằng: “Kẻ hèn này nhìn nhận đã vì mẹ chồng bệnh nặng, không tiếc kiếp sống thừa của mình để làm việc ấy, nhưng không mong được biểu dương. Xin Ngài về bẩm lại với quan trên không cần phải kiểm nghiệm thực giả để làm gì.” Sứ giả trở về tâu lại, quan huyện vô cùng cảm động nên sanh tâm cung kính. Việc này sau đó được lan truyền đến tai của một vị đại quan, lập tức Ông sai người mang kiệu, cờ xí đến đón Mẹ chồng nàng dâu về tư dinh, nguyện cung cấp bảo hộ suốt đời. Từ ấy, mẹ chồng nàng dâu có nơi ăn chốn ở rất êm ấm, không phải lo đến chuyện sinh kế hàng ngày nữa. Một ngày khi nghĩ lại, Cô cảm động đến đức từ bi của Bồ tát đã gia hộ nên phát nguyện chuyên tâm vào việc tu niệm, cả hai mẹ con thực hành bái Sám, niệm Phật, tụng Kinh rất tinh tấn. Gương sáng ấy đã ảnh hưởng đến cả gia đình của vị đại quan nên cả gia đình đều phát tâm kính tín Phật Pháp, lễ Phật, tụng Kinh, trì chú như mẹ con Lưu Thị. Việc này xảy ra vào niên hiệu Càn Long, triều nhà Thanh, tháng sáu năm Kỷ Hợi. (Trích Di Đà Khả Tín Lục).

8. Tôn Phục Nho là người ở Vũ Tấn, tỉnh Giang Tô. Vợ Ông là Kim Thị, tánh tình hiền hòa lại là người chí hiếu. Thấy cha chồng là người thích thực hành những thiện sự, đặc biệt là bố thí nên gia đình từ giàu có dần dần trở thành túng thiếu, nên Kim Thị phát mãi ruộng vườn, bán hết nữ trang để chu cấp phí tổn sinh hoạt trong nhà. Năm hai mươi bốn tuổi, chồng chết, nàng nguyện thủ tiết không tái giá. Bấy giờ, cha chồng sau mươi lăm tuổi bị bệnh nặng, một tay Kim Thị lo lắng cơm cháo, thuốc men. Trải qua sau mươi ngày đêm không hề nhắm mắt mà bệnh tình của cha chồng không hề thuyên giảm, Kim Thị không còn phương cứu chữa nên đến trước Thánh tượng của Quán Âm Bồ Tát chí thành lễ bái cầu đảo, nguyện cầu xin Bồ tát gia hộ. Nàng tự cắt thịt bắp đùi của mình để làm thuốc trị bệnh cho cha chồng. Lúc ấy cha chồng đang thèm ăn bánh bột gạo nên khi biết được việc ấy, Kim Thị bèn lấy thịt của mình xay chung với gạo để làm bánh bột gạo dâng cha. Cha chồng nàng ăn năm cái liền thì đêm ấy ngủ rất ngon giấc. Khi vừa thức giấc, Ông gọi Kim Thị lại và nói rằng: “Con ơi, chắc Cha không chết đâu vì Ta thấy trong người khỏe rồi.” Kim Thị cúi đầu chào cha chồng rồi bước ra, Ông ngủ trở lại và mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ đến bảo rằng: “Dương số của ngươi đã hết nhưng do lòng chí thành của con dâu ngươi đã cảm đến Thiên đình nên tăng tuổi thọ cho ngươi thêm một kỷ nữa.”Quả nhiên, chỉ trong thời gian ngắn, bệnh của Ông lành hẳn và sống đến 77 tuổi, như lời Bồ tát đã dạy trong mộng là sống thêm được một kỷ nữa. (Trích Tự cầu Tập).

9. Triều nhà Minh, Công Tứ Tước tự Kinh Lược là người ở Thái Khương, tỉnh Giang Tô. Dù sống trong địa vị hiển vinh nhưng là người không háo sắc, hiền hòa, thích thực hành thiện sự, tất cả phạm vũ khắp nơi đều quyên góp tiền. Lúc tuổi về già, Ông mướn họa sĩ dùng nước kim ngân họa Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ, rồi tự tay viết bài để cho mọi người lễ bái xưng tụng (số lượng bài viết ấy không ghi lại là bao nhiêu). Con trai của Công Tứ Tước là Khâm Tiên Sinh, tên Hoạnh, thi đậu bảng nhãn. Cháu nội là Thời Mạnh, hiệu là Yên Khắc, là một Phật tử rất sùng kính Phật giáo. Yên Khắc là một đại quan trong triều, mỗi khi gặp nhằm năm mất mùa, dân chúng đói khát, Yên Khắc thường mở kho chẩn tế, lại tự mình xuất tiền mua gạo nấu cháo, giúp đỡ cho những người đói ăn. Bên cạnh đó, Yên Khắc còn thỉnh Văn Cốc Đại sư đến tư dinh, tuyên dương Phật pháp cho dân chúng để làm món ăn tinh thần. Lục Tiến Sĩ Doãn Thăng, một hôm nằm mộng thấy mình đi đến một ngôi đại già lam, lúc ấy có sáu người gánh đậu đến bán, trong đó có đậu nành lẩn với đậu tầm. Vị Lão tăng đứng bên cạnh nói: “Sáu gánh đậu này đều là quả lành của Yên Khắc chứa nhóm tu tập, đại thiện thì ghi bằng một hạt đậu tầm, tiểu thiện thì ghi bằng hạt đậu nành, tất cả chứa được thành sáu gánh.” Yên Khắc sanh được chín đứa con trai - đứa thứ tư tên Quỉ, còn đứa thứ tám tên Viên, con cháu đều đậu Tiến Sĩ. Gia tộc Ông đều là những người hiền hậu nhân đức, nên đời đời được hiển vinh. Tuy sống trong gia đình vọng tộc cao sang, giàu có sung sướng nhưng họ vẫn noi theo gương Ông cha, sùng tín Tam bảo, tu tập thiện sự, ăn chay niệm Phật. (Trích Hiếu Quả Tùy Lục).

10. Triều nhà Minh, Lâm Ong là người ở Phủ Hồ Châu, tỉnh Quảng Đông. Ông làm chức Điếu lại ở Hình Bộ. Công việc của Ông là xét xử những người có tội, nhưng tâm lại rất từ bi, thương xót những người bị hàm oan, bị nghi ngờ mà phải tống vào ngục. Một lần, Ông biết có người tử tội bị oan, nên tìm đủ phương cách rửa oan cho người ấy. Tình thế cấp bách Ông chẳng biết phải làm như thế nào nên đến trước Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ, ngày đêm lễ bái cầu đảo, mong Đại Sĩ chỉ dạy cho phương pháp cứu người hàm oan. Đêm nọ, Ông mộng thấy Đại Sĩ dạy rằng: “Lời nghị của Án viên ấy thật đáng nghi, vị Hình quan ấy thẩm xét tình tiết vụ án không xác thực, cứ theo đây mà luận biện thì có thể thấy tội nhân này thật sự không có tội”. Khi trời sáng, Ông đã thay thế người hàm oan ấy viết thư tỏ bày với Quan trên thì quả nhiên, nhờ lòng Từ bi của Bồ tát gia hộ nên kẻ ấy được quan trên khoan dung phóng thích. Người ấy vô cùng cảm động thâm ân cứu mạng của Lâm Ong. Khi biết họ Lâm chưa có người kế tự thìxin đem con gái mình cho làm thiếp để tạ ơn nhưng Lâm Ong quyết liệt từ chối không chấp nhận. Người ấy không biết làm thế nào nên tìm cách tổ chức yến tiệc, phục rượu cho Lâm Ong say rồi mời vào phòng kín ngơi nghỉ, đoạn bắt con gái mình vào phòng ngủ chung. Lâm Ong no say ngủ không biết gì. Lúc tỉnh giấc thấy có một tiểu thư bên cạnh mình thì nghiêm sắc mặt quở rằng: “Không được!”. Tiểu thư bèn thưa: “Con vâng lệnh của song thân bắt buộc.” Ông nói tiếp: “Không được. Không được”. Dứt lời, mạnh dạn bước ra khỏi nhà, từ ấy về sau không bao giờ đi ngang qua cửa nhà người ấy. Khi đến tuổi ngũ tuần thì vợ Ông sanh được một nam tử. Ông đặt tên con là Đại Không. Đứa trẻ này lớn lên học hành rất tấn phát. Vào niên hiệu Gia Tĩnh, nhà Minh năm Nhâm Thìn, Đại Không vào kinh đô ứng thí. Một ngày trước ngày thi, chủ nhân khách sạn Kinh đô nằm mộng thấy Đại Sĩ đến mách bảo rằng: “Sáng ngày sẽ có con của Lâm Ong đến ngụ tại đây, người ấy chính là tân khoa Trạng nguyên”. Quả thật sáng hôm sau, Đại Không đến mướn phòng nghỉ trọ. Chủ nhân khách sạn đem giấc mộng kể lại nhưng công tử Đại Không ngơ ngác không hiểu gì, đến ngày nêu tên lên bảng vàng thì không sai, Đại Không là Trạng nguyên tân khoa. Tân Trạng nguyên đem việc ấy về thưa lại với mẫu thân thì được Phu nhân dạy rằng: “Đây là nhờ âm đức của cha con đó.” Đại Không lúc bấy giờ là vị Trạng nguyên trẻ tuổi đương triều nhưng vẫn không quên noi theo gương sáng đức hạnh của Cha mình, nhất tâm tín kính Tam bảo. Hàng ngày, ngoài việc triều đình, thì lúc về nhà,ngày đêm Ông lễ bái thành kính cúng dường Quán Âm Đại Sĩ. (Trích Khuyến Giới Loại Sao).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

11. Triều nhà Thanh, có Ni sư hiệu là Đăng Linh, họ Đặng, là người ở Phiên Ngôn, tỉnh Quảng Đông. Ni sư là người giữ gìn giới luật rất tinh nghiêm, đối với các thời khóa hàng ngày, không hề thiếu sót. Bà chuyên tu theo pháp môn Tịnh độ, chí nguyện thiết tha cầu vãng sanh Cực lạc thế giới, ngày đêm chuyên niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ không dứt. Ngày 23 tháng 7 năm Canh Dần, khi Bà đang lễ niệm đến lúc nửa đêm thì bỗng thấy cám cảnh không bạn đồng tu. Bà nhìn lên bàn Phật và bốn bức tường trong Tịnh thất trong cảnh tịch mịch thê lương này thì cảm thấy tinh thần mình như bị kiệt quệ. Khi đặt lưng xuống chiếu, lúc mơ màng thì cảm thấy trong bàn tay hình như đang có vật gì, bất giác Bà lấy vật ấy cho vào miệng rồi sau đó xòe bàn tay ra thì thấy có ba hạt rất đẹp, hìnhthù như châu sa. Từ đấy, Ni sư không cần ăn uống gì vẫn không thấy đói khát, tự lễ niệm Phật tinh tấn như thường ngày. Về sau Ni sư chỉ dùng chút ít bánh và thức ăn vào đúng thời, nhưng tất cả vật thực nấu nướng đều không chạm môi, da dẻ Ni sư vẫn hồng hào, thân thể khỏe mạnh, tinh thần tráng kiện hơn xưa. Ni sư an trụ nơi An nghiêm Tịnh tỉnh Quảng Châu, tu hành tinh tấn. Đến giờ phút cuối cùng, Ni sư an nhiên niệm Phật mà trường thệ. (Trích Quán Âm Từ Lâm tập).

12. Triều nhà Thanh, Phùng Như Kinh tự là Thu Thủy, là một người thuộc cao môn vọng tộc ở Ngạn Môn. Lúc ông nhậm chức quan Sứ ở Tây Ninh, tỉnh Quảng Đông, dân chúng nơi ấy đang nổi loạn. Sau khi dẹp yên loạn, nước nhà bình định, vị Tướng trấn nhậm nơi ấy có ý định đem những người làm loạn giết sạch. Phùng Tiên sinh bí mật vì dân, thỉnh cầu xin tha mạng nhưng Tướng quân không chấp thuận. Phùng Tiên Sinh bèn thưa: “Tướng quân nên biết, Trời đất lấy hiếu sanh làm đức, lấy chấm dứt can qua làm vũ khí. Hiện nay những kẻ nổi loạn đương nhiên là đáng tội nhưng những kẻ cầm đầu chỉ có khoảng mười người mà thôi. Số dân liên lụy đến mấy ngàn người, trong đó có người bị uy hiếp phải theo, hoặc có người vì vô trí khờ dại, hoặc có người vì già cả, yếu đuối, cô độc quả nên họ không phân biệt được tốt xấu sai trái như lá cờ phải theo hướng gió mà phất nên bây giờ phải đồng chung số phận với kẻ chủ xướng, chịu cảnh đầu rơi máu đổ, dưới lưỡi gươm đao phủ. Chúng ta mang danh cho mẹ của dân nở nào nhìn thấy cảnh tượng như vậy thưa Tướng quân. Xin Ngài chấp thuận lời thỉnh cầu của Tôi, nếu có biến loạn lần thứ hai, Tôi nguyện sẽ đem toàn gia chịu tội”. Phùng Tiên Sinh hai, ba phen khẩn cầu thì Tướng quân ấy mới ưng thuận. Bấy giờ chỉ vài người trong bọn cường phỉ bị chém đầu, còn binh sĩ thuộc hạ thì bị phạt sơ sài và đi đày, còn dân chúng tất cả đều được phóng thích. Đêm ấy, Phùng Tiên Sinh nằm mộng thấy từ vân bủa khắp trong nhà, phút chốc có một người từ trên trời giáng hạ giống hệt trong bức tranh Quán Âm mọi người thường thờ cúng. Đại Sĩ tay bồng đứa trẻ bảo Phùng Công rằng: “Ông không có con nên Ta đem đứa trẻ này tặng cho Ông. “Phùng Công đáp: “Con đã có con, vì sao Ngài lại nói không?” Đại Sĩ nói: “Đứa con ấy chẳng phải con Ông, đứa trẻ này mới chính thật là con Ông”. Phùng Tiên Sinh vội đưa tay tiếp đứa bé thì bỗng nhiên có một con trâu đứng giữa ngăn lại không cho Ông bước đến trước. Đại Sĩ nói tiếp: “Ông có biết vì sao không? Vì nhà Ông ăn thịt trâu nên từ đây phải chừa bỏ tội ấy mới được.” Phùng Công ở trước Đại Sĩ phát nguyện: “Con nguyện đời đời không ăn thịt trâu nữa.” Ông vừa dứt lời, con trâu biến mất. Phùng Công tiến tới phía trước, nhận lấy đứa bé, ôm vào lòng. Năm sau, phu nhân của Ông sanh con trai, sau này chính là Cấp Giáng Uy Vân Túc, một đại thần của nhà Thanh. Riêng về trưởng tử của Ông, khi đến tuổi trung niên thì qua đời, không có con nối dõi, chỉ còn con của Cấp Giáng Đại thần là những người kế tự. Trải qua mấy chục năm sau, nghiệm lại lời dạy của Bồ Tát nên Cấp Giáng Đại thần và con cháu đều noi theo gương cha ông, kính tin Phật pháp trong nhà thờ Quán Âm Bồ Tát thường lễ bái cúng dường, trì lục trai, tụng kinh niệm Phật, rất chuyên cần. (Trích Liễu Nhai Ngoại Bích).

13. Triều nhà Thanh, Thí Lệ Cẩm ở Chu Môn, lúc còn là chư sinh thì có nghe người nói về một thiếu phụ nhan sắc tuyệt đẹp, có thể nói là khuynh quốc nghiêng thành nhưng có thể dùng vàng dụ dỗ được. Lệ Cẩm dù không cố ý say đắm theo nữ sắc nhưng vẫn nghe theo bạn bè làm thử. Khi đến gần người đẹp ấy thì bỗng thấy thiếu phụ tỏ vẻ thẹn thùng, nơi mí mắt có giọt lệ rưng rưng. Lệ Cẩm gạn hỏi thì thiếu phụ ấy đáp: “Vì thiếp ở trong cảnh nghèo túng không biết lấy gì nuôi thân nên vạn bất đắc dĩ phải lấy sắc mà bán, để cho qua cảnh cơ hàn, chứ thật sự không phải là người tán tận lương tâm làm việc vô lương sĩ này.” Lệ Cẩm hỏi: “Bây giờ chồng của Cô đang ở đâu?” Thiếu phụ đáp: “Đang lẩn tránh trong nhà”. Lệ Cẩm bảo: “Cô mau gọi anh ta ra đây.”Khi chồng của thiếu phụ bước ra thì Lệ Cẩm gạn hỏi và quở trách việc để cho vợ phải tiếp khách. Chồng thiếu phụ trả lời: “Vì trong cảnh cơ hàn nên đành phải làm những chuyện lấp ngòi rảnh này để kiếm được năm - sáu lượng vàng trả nợ nần, phần còn lại sẽ làm số vốn nhỏ để vợ chồng cùng mua bán nuôi thân vậy thôi“. Lệ Cẩm nghe xong không nói một lời, vội vã ra về. Về đến nhà, Ông lấy mười lượng vàng đem đến đưa cho vợ chồng thiếu phụ rồi từ ấy về sau tuyệt tích không bao giờ ghé nhà của vợ chồng thiếu phụ ấy nữa. Người chồng cảm động đại ân của Lệ Cẩm nên thường lai vãng đến thăm hỏi. Người trong vùng vì thế đều xầm xì cho rằng Lệ Cẩm chắc có tư tình với mỹ nhân nên là một người không có liêm sĩ. Thiếu phụ nghe lời dị nghị ấy thì buồn thẹn muôn phần, phát tâm tạo pho Thánh tượng Quán âm Đại Sĩ rồi mai chiều dâng hoa, lễ bái cầu nguyện rằng: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, xin Ngài từ bi chứng giám cho sự nguyện cầu của con được mãn nguyện. Vì con có tâm bất chánh mà làm cho người nam tử ấy phải bị tiếng chê bai không trinh khiết mà chồng con cũng chẳng có lỗi gì. Nay thí sinh đó đã có từ tâm chu cấp giúp cho người hoạn nạn, bảo toàn danh tiết cho con mà trả lại thì bị hàm oan, nhận những lời chê bai khinh miệt như vậy, con nguyện xin Bồ tát chứng giám cho con, từ đây sớm chiều con nguyện lễ bái xưng niệm hồng danh của Ngài để cầu cho khoa thi này, chàng thí sinh họ Thí được đậu giải Nguyên để rửa được những tiếng thị phi nhơ nhục kia.” Quả nhiên, như ý nguyện của người Thiếu phụ mong cầu, khoa thi năm Canh Tý, niên hiệu Khang Hy nhà Thanh, Thí Lệ Cẩm đậu giải Nguyên ở Giang Nam. (Trích Khuyến giới Loại Sao).

14. Triều nhà Thanh, Giáng Nam Cư sĩ tự thuật lại câu chuyện sau: “Tôi cùng với Cần Sơn Trương Tiến Sĩ đồng ngụ tại Tây Giang, mỗi sớm mai đều nghe âm thanh tụng niệm của họ Trương, thanh cao lảnh lót nên Tôi gạn hỏi thì anh ấy nói: “Mỗi sáng, tôi đều tụng Tâm Kinh Bát Nhã, Bạch Y Thần chú cùng Kinh Cao Vương Nhân Thọ, v.v... mà không chỉ riêng Tôi trong đời này, trải qua từ ba đời trước, ông cha Tôi đã thâm tín phụng trì nên có rất nhiều linh nghiệm rõ ràng, tại sao Anh không trì tụng?” Tôi đáp: “Vâng”. Chàng họ Trương sau đó tặng cho tôi một quyển sách, trong đó gồm đủ Kinh Chú. Do vậy hàng ngày, Tôi đều chí thành trì tụng có ghi biến số. Về sau có duyên sự, Tôi đi đến Ngô Giang và đậu ghe nơi Cồn Thái Tử, lúc bước lên Cồn đi đến bảo điện thờ Quán Âm Đại Sĩ thì xin xâm được bài xâm như sau: "Khuyên người làm việc, tâm phải kiên trung. 34 có duyên đơn quế. Đồng căn ngày phát đạt. Rau cần thơm có giống thứ đệ liên." Mùa Thu năm ấy, huynh trưởng của tôi lãnh trách nhiệm làm giám khảo Hương thí. Tôi thì được bổ vào Trường quân làm việc. Mấy đứa cháu cũng được vào trường của nhà nước học hành, thi đậu các kỳ thi. Có điều lạ là hai anh em tôi lúc nêu tên trên bảng thì số thứ tự được để kế nhau trong bảng, rất phù hợp như lá xâm lúc trước đã nói, do vậy mà Tôi càng thâm tín sự linh ứng của Quán Âm Đại sĩ và tin lời nói của Cần Sơn quả là đúng sự thật, không có sự lừa dối. (Trích Quán Thế Âm Kính bạc).

15. Tại Đương Hồ có một người họ Lâm có hai chị gái đều gả cho hai anh em nhà họ Lục. Người chị lớn sanh được đứa con trai thì sau đó người chị kế cũng sanh được một con trai, đặt tên là Thiên Tứ. Vào niên hiệu Khang Hy, nhà Thanh, năm Mậu Ngọ, người họ Lâm này bị bệnh chết. Qua hôm sau thì Anh sống lại, rồi nói với mọi người rằng: “Vô cùng quái lạ, hai đứa cháu trai họ Lục của tôi thật là một chuyện nhân quả ly kỳ. Vừa rồi, trong lúc Tôi bị bệnh và hôn mê thì thấy mình đi đến một nơi có cung điện lầu các nguy nga tráng lệ. Lúc ấy Tôi thấy có một nhóm thần nhân đem bảng khoa thi năm nay từ thiên đình xuống để tra xét rõ ràng công đức tội lỗi của những thí sinh để quyết định người nào đáng bỏ, người nào đáng lấy. Bấy giờ phía trong có một vị Vương gia đi ra, an toạ nơi bàn án, lập tức quan lại đem sổ bộ đến dâng. Tôi đứng bên cạnh thì nhìn thấy tên của người đậu giải nguyên là đứa cháu trai họ Lục. Trong sổ bộ lại ghi chép, mẹ của nó họ Lâm - chị dâu của Tôi, vì có lỗi ưa nguyền rủa, khẩu nghiệp rất nhiều nên phạm đến thiên đình. Vương gia vừa xem xong, nổi giận phừng phừng, Ngài kiểm tra tiếp việc làm của đứa cháu họ Lục thì thấy nó thường phạm về các tội mê đắm hai chữ sắc - tài. Vương gia lập tức cầm bút son vòng lại và gạch bỏ tên nó. Tiếp theo, Ngài kiểm tra đến tên thứ hai mươi mốt là thằng cháu trai họ Lục tên Thiên Tứ thì cũng thấy tội khẩu nghiệp của mẫu thân nó cũng bằng với bà Dì. Vương Gia cầm bút chuẩn bị gạch bỏ thì bỗng Quán Âm Bồ Tát từ đâu giáng lâm trước mắt Vương Gia. Ông liền tức khắc đứng dậy, rời khỏi chổ ngồi đến đảnh lễ Bồ Tát, đoạn truyền lệnh thiết lập pháp tòa, cung thỉnh Bồ Tát an tọa. Sau khi Bồ tát an tọa, Ngài nói với Vương Gia: “Nhà vua nên biết, phu nhân họ Lâm, mẫu thân của Thiên Tứ này, dù lời khẩu nghiệp có nhiều nhưng với Phật pháp thì có tín tâm, lại thờ Phật rất chí thành, vậy là có pháp lành đáng ghi. Hơn nữa Đại vương nên tra kỹ trong sổ bộ phần của Thiên Tứ có ghi chú rõ ràng việc có môt người bạn của nó vì trốn thuế nên bị phạt bằng đánh trượng rất nặng. Thiên Tứ đã vì bạn bồi thường số thuế giúp nên người bạn được tha tội. Chú của nó khi làm tri huyện, xâm tổn công quỹ rất nhiều, nó cũng lập tức bán tài sản bồi thường. Còn một điều cũng đáng lưu ý là nó từng cự tuyệt việc quan hệ bất chánh với một thiếu nữ. Ba sự kiện Ta vừa nói đều thuộc về đại thiện. Nếu Đại vương không tin thì bảo Phán quan đem sổ bộ tra thì sẽ rõ”. Vương gia nghe lời Bồ tát dạy, nhan diện vui tươi, tức khắc quỳ xuống chấp tay thưa rằng: “Xin Bồ tát từ bi tha lỗi, con xin vâng lời.” Đoạn Vương gia trở về chổ ngồi khuyên dụ Tôi rằng: “Chắc nãy giờ Ông đã nghe lời Bồ tát dạy Ta, cháu trai của Ông có ba điều đại thiện ấy sẽ được lưu danh vào trong bảng. Còn Ông, phước lộc cũng như tuổi thọ chưa hết nên mau trở về dương thế, cố gắng thực hành thiện sự. Đối với Tam bảo phải có tín tâm, ăn chay niệm Phật, tụng Kinh lễ Sám cho tinh cần thì mới khỏi phụ hồng ân của Đại sĩ đã giáng lâm nơi đây chỉ dạy.” Tôi cúi đầu lạy tạ Bồ Tát cùng Vương gia rồi bước ra khỏi điện thì trong lúc đang mơ màng đã thấy đến nhà nên Tôi sống lại.” Hai đứa cháu trai họ Lục nghe tin Cậu qua đời nên về nhà, đứng bên cạnh nãy giờ đã nghe rõ câu chuyện Cậu mình đã thuật. Hai đứa đều suy nghĩ đến việc mình đã làm trong lúc hàng ngày, bên nội bên ngoại không một ai hay biết nhưng dưới chốn Minh ty đều đã biết trước một cách rõ ràng thì lấy làm lạ không sao kể xiết. Khoa thi năm ấy khi nêu tên lên bảng, quả nhiên Thiên Tứ trúng tuyển thứ hai mươi mốt. Câu chuyện sau khi hồi dương người em kể lại từ dưới Âm Ty làm cả hai người Chị đều rùng mình rợn óc, từ ấy về sau đều nguyện bỏ tội ác khẩu nghiệp, rủa nguyền, đem thân lễ Phật, dùng miệng tụng Kinh niệm Phật để chừa bỏ tội lỗi khẩu nghiệp ngày xưa. Cậu con trai của người Chị cũng nguyện chừa bỏ tội tham luyến sắc tài, hướng về Phật pháp, lánh dữ làm lành. Riêng Thiên Tứ, dù lộc vị quí hiển nhưng vẫn không dám buông lung, mà y theo lời của Minh vương dạy cho Cậu mình nên ngày thì lo việc quan còn sớm chiều thì tu niệm rất tinh cần. (Trích Âm Chất Văn Tân Biên).

16. Có một Ni sư họ Đổng ở tại miếu Sáp Hoa, xứ Thượng Châu. Nhân ngày vía của Quán Âm Bồ Tát, Ni sư sắm trai phẩm hoa trái rất nhiều, từ sớm đến trưa lo dọn dẹp, rửa hoa trái. Vừa xong thì Ni sư cảm thấy tinh thần không yên nên tạm ngồi xuống ghế dưỡng thần. Khi vừa thiu thiu ngủ thì mộng thấy Đại Sĩ đến dạy rằng: “Ni Cô ơi, Ni cô không cần hiến cúng cho Ta vì Ni cô không cúng dường thì Ta cũng chẳng bao giờ đói mà Ni Cô có cúng dường, Ta cũng không no thêm. Hiện ngoài cửa chùa có khoảng bốn, năm người lưu dân đang xin ăn nhưng không ai cho một miếng, đói khát gần chết. Thôi vậy Ni Cô hãy đem phẩm vật cúng dường cho chúng nó ăn để đỡ đói thì Ni Cô sẽ có công đức gấp hơn mười lần cúng dường cho Ta”. Ni sư giật mình tỉnh dậy, mở cửa ra xem thì quả nhiên đúng như lời Bồ tát dạy. Do vậy mỗi năm đến ngày vía của Đại sĩ, Ni sư đều sắm trai phẩm, hoa trái rất nhiều, trước hiến cúng Bồ tát, sau đem bố thí cho những người ăn xin. Ni sư khuyến hóa họ rằng: “Đây là Tôi vâng theo Từ ý của Bồ Tát, thế nên vật thực cúng dường cho Ngài đều đem phân phát cho quý vị. Vậy Tôi mong quí vị thọ dụng thức ăn của Tam bảo, phải phát tâm tin Tam bảo, tưởng Phật, niệm Phật, giữ lòng thanh tịnh thì Tôi chắc chắn nhờ đức từ bi của Bồ tát gia hộ, quí vị sẽ được no đủ.” (Trích Hải Nam Nhất chước).

17. Đào Hoành Phong ở huyện Kim Lăng có vợ là Tống Thị. Bà thờ Quán Âm Bồ tát rất thành kính, hằng ngày đều trì tụng Kinh Chú rất chí thành. Vào năm 81 tuổi, Hoành Phong bị bệnh nặng nên Ông nói với Tống Thị rằng: “Tôi nhớ trước kia có một thầy tướng số cho biết tuổi thọ của Tôi ngang chừng đây. Hôm nay bệnh Tôi trầm trọng thập tử nhất sinh như vầy thì lời ấy chắc đúng.” Tống Thị vừa nghe xong thì hai dòng lệ tuôn trào, khóc nức nở. Đêm ấy, Bà đến trước Thánh tượng Đại Sĩ dâng hương lễ bái cúng dường cầu đảo, nguyện bớt tuổi thọ của mình để chồng được sống thêm, sau đó lại cắt thịt cánh tay, chưng làm thuốc để dâng cho chồng. Hoành Phong dùng thuốc ấy qua ngày sau thì bệnh hoàn toàn thuyên giảm. Tống Thị vô cùng cảm động đức Từ của Bồ tát minh gia nên từ đó Bà phát nguyện trì trai và sự tu hành ngày càng chí thành. Hoàng Phong sống thêm mười hai năm thì tạ thế. Sau khi Hoành Phong qua đời, trong tất cả các thời niệm Phật tụng Kinh, Tống Thị luôn cảm thấy như có thần minh tả hữu. Sớm mai thức dậy, dù bận rộn thế nào Bà cũng đều trì một trăm lẽ tám biến chú, không hề biếng nhác. Đến năm bảy mươi tuổi, gặp nhằm lúc tại Giang Nam, bệnh dịch lan tràn, Tống thị cũng bị nhiễm bệnh rất nguy kịch. Trong lúc bệnh nặng đang hôn mê thì Bà mộng thấy mình đi từ nhà ra cửa gặp một người áo mão chỉnh tề bảo rằng: “Trong thời gian này, ngươi không nên ở nơi đây, Ta sẽ dắt đến Đại Sĩ cầu Ngài cứu hộ.” Dứt lời thì người ấy dẫn bà đến một cung điện nguy nga. Khi mới đến, Bà không thấy Bồ Tát, chỉ thấy có hai vị phục sức áo mão như thời xưa ngồi ở trên. Tống Thị phủ phục trước bàn án hơn một giờ thì vị ngồi phía tả nói: “Người đàn bà này trong thời gian này không nên ở nơi ấy.” Vị phía hữu gật đầu, lập tức bảo người dẫn Tống Thị ra. Người dẫn đường nói: “Bà đã khỏi bệnh rồi, Tôi xin đưa Bà trở lại dương thế”. Khi Bà vào cửa thì bị té, liền giật mình tỉnh lại, toàn thân toát mồ hôi như tắm, bệnh liền lành. Đến năm tám mươi tuổi, Bà bị bệnh đau xương cổ, sức già yếu, suốt ngày đầu cúi xuống đất thì vô cùng đau nhức. Bà thường nói với mọi người: “Xương cổ tôi thế này, theo thế tục thì triệu chứng này là tôi sắp chết rồi.”Vào một đêm, Bà nhìn thấy có một bà già dắt một đứa đồng tử bước vào nhà và mang theo một chén nước trà trao cho Tống Thị rồi nói rằng: “Tôi vâng lệnh Quán Âm Bồ Tát đến đây để chữa cho xương cổ của Bà được thẳng. Bà chỉ cần uống chén nước trà này sẽ lành.” Tống Thị kính cẩn nhận chén nước trà, khi nhìn vào trong ấy thì thấy có những lá xanh nho nhỏ nổi lên giống như lá oắc hương. Khi Bà uống thì cảm nhận được mùi thơm, vị ngon ngọt. Uống xong chén trà thì không còn cảm thấy đau nhức nữa, khi dùng gương soi thì thấy xương cổ đã ngay. Lúc ấy Bà giật mình tỉnh giấc thì thấy quả nhiên xương cổ đã thẳng lại, chứng đau cổ cũng hết hẳn. Bà sống đến tám mươi tuổi, đến giờ phút cuối cùng thì thân không bệnh khổ, Bà gọi đứa con là Tầm Sơn đến dạy bảo: “Hôm nay Mẹ về Tây Phương, con ở lại, đối với Tam Bảo phải có tâm thâm tín, xa lìa các điều ác, cố gắng tu tập pháp lành, hàng ngày theo gương Mẹ nên tinh tấn trì chú niệm Phật.” Dứt lời thì Bà an nhiên niệm Phật trường thệ, lúc ấy hương thơm bay khắp nhà. Tầm Sơn vâng theo lời Mẹ, hàng ngày chiêm bái cúng dường Đại Sĩ và trì chú niệm Phật không hề giải đãi. (Trích Quán Âm Trì Niệm Ký).

18. Triều nhà Tống, có Trương Phụng Trực là người Hồ Lương, tỉnh Giang Tây. Ông có một đứa đầy tớ có tính thích giết trâu nên thường nằm mộng thấy thân mình nằm chung trong bầy trâu. Phật tử Phụng Trực nghe nói liền bảo rằng: “Mầy tạo ác nghiệp nghiêm trọng nên sắp bị đọa vào xúc sanh, nếu không thống thiết và sám hối tội lổi thì không thể nào thoát tội.” Nói rồi ông đem kinh Phổ Môn dạy cho đứa tớ. Không bao lâu, đứa tớ này tụng thuộc được phẩm Phổ Môn, lại phát thệ bỏ hẳn tội trước. Trải qua thời gian 10 năm, một ngày nọ hắn gặp người đồ tể giết trâu, người tớ sanh tâm hoan hỉ, mua nửa phần thịt để đem đi bán. Đêm đó, người tớ nằm mộng lại thấy điềm mộng như trước. Sáng ngày thức dậy muốn tụng Kinh nhưng bây giờ đã quên hết, một câu cũng không nhớ nổi, những chữ trong Kinh trước kia biết đọc, bây giờ cũng quên hẳn, rồi rồi sau đó bị ác bệnh hoành hành hơn một tuần rồi chết. (Trích Hải Nam Nhất Chước).

19. Triều nhà Minh, Phật tử Trương Tổ là người ở Cao Kiều, Tô Châu. Ông vốn là một Phật tử thành kính ngôi Tam bảo, bình nhật Trương Tổ hay sắm đồ cúng dường Tam bảo. Vào niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh năm Tân Hợi, Trương Tổ đến Phổ Đà Sơn để chiêm bái Quán Âm Bồ Tát. Khi đi, Ông dắt theo đứa cháu tám tuổi. Lúc xuống thuyền, đứa bé ấy bổng thấy tất cả người trong thuyền đều bị trói cột tay chân. Nó hoảng sợ vội theo sau, nắm vạt áo Trương Tổ kéo lại và nói sự lạ lùng với nội của nó. Trương Tổ vừa nghe thì sợ hãi, dắt cháu lên bờ. Đến thuyền thứ hai, đứa bé ấy cũng nói nó thấy giống như trước. Trương Tổ lại dắt cháu lên bờ đi tìm chiếc thuyền thứ ba. Khi vừa xuống thuyền này, Ông hỏi cháu mình có thấy điều lạ không thì nó đáp: “Con chỉ thấy ở hai chiếc thuyền trước có sự lạ như vậy còn chiếc thuyền này và các chiếc khác đều không có.” Lúc ấy, trong ý của Trương Tổ chưa biết quyết định như thế nào thì bỗng phía trước có hai người kêu lớn rằng: “Ông đừng đi lên hai chiếc thuyền kia, nên lên thuyền này mà đi, thuyền này rất an ổn.” Tổ dụ dự còn chưa muốn bước lên thuyền thì trong giây lát cảm thấy dường như ở phía sau có người xô đẩy. Ông lập tức dắt cháu lên thuyền. Khi vừa ngồi tạm yên thì người kêu cũng như người xô đẩy Ông lúc nãy biến mất. Bấy giờ mặt trời sắp lặn, thì cũng vừa đến biển lớn, đột nhiên ba đào nổi dậy trắng xóa, lượn sóng nào cũng cao như núi. Hai chiếc thuyền trước đều bị chìm lật úp, tất cả mọi người trên thuyền không người sống sót. Riêng chiếc thuyền của hai ông cháu Trương Tổ đi thì vẫn an nhiên vô sự. Ba ngày sau đó, Quán huyện ở Nhơn Hào ra biển tuần hành kiểm soát thì phát hiện thấy ở xác của những tử thi nổi lên, phía sau lưng của mỗi người đều có cột hai cây côn và dao nhọn. Quan huyện nhìn thì biết đây là đồ dùng để giết người cướp của nên suy luận theo đó thì biết bọn người trên hai chiếc thuyền bị chìm này đều là bọn xiển đề vô lại, chuyên môn cướp của giết người, vì chủ thuyền không biết nên mới rước họ đi biển, nên bọn chúng đã bị trừng trị. (Trích Quái Viên Chí Diệc).

20. Triều nhà Minh, vào niên hiệu Sùng Trinh, có chàng thiếu niên họ Triệu, người huyện Xương Môn, tỉnh Giang Tô. Chàng ta là người giàu có nên tánh tình rất kiêu ngạo, và mắc phải chứng bệnh đắm say nữ sắc. Mỗi khi gặp một người phụ nữ nào thì đều lễ bái mong cầu cho được gần, thế rồi chàng ta tìm đủ phương tiện chặn đường đón ngõ để được gần gũi với người mình mong ước. Bấy giờ vào ngày 19 tháng 6 là ngày vía Quán Âm Đại Sĩ, chàng thiếu niên họ Triệu ấy nhàn du vào một ngôi chùa. Vừa lúc ấy thì gặp một người phụ nữ đang phủ phục trước Phật đài, hai dòng lệ tuôn rơi, tiếng khóc than xen lẩn tiếng nguyện cầu rất chí thành xin cho mẫu thân qua cơn trọng bệnh. Thiếu niên họ Triệu gặp gái trẻ đẹp thì động tà tâm, chàng ta giả vờ như người bị vẹo chân đi cà nhắc, rồi nhảy qua đầu thiếu nữ làm cho mái tóc mượt mà của cô bị rối. Mọi người không biết chàng trai này đang giả dối nên tha thứ bỏ qua, nhưng chàng thiếu niên họ Triệu ngay lúc ấy bỗng có cảm giác dịch hoàn xưng đau không tả xiết. Chỉ trong một tuần thì dịch hoàn xưng lên bằng cái đấu to nên hắn ta đi đứng vô cùng khó khăn, đi tập tểnh như con nít. Khi vào thành, mọi người đều bàn tán khinh chê, nên chàng ta cảm thấy vô cùng hổ thẹn. Từ đấy về sau, dịch hoàn càng ngày càng lở loét, trong thời gian vài năm thì qua đời. (Trích Tư Cầu Tập).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

21. Triều nhà Minh, vào niên hiệu Vạn Lịch, có người tên là Tiêu Giáp làm thông mai ở huyện Tiêu Văn. Do có công soạn Bộ Sự Tích Hồ quảng mà được thăng làm Lương Sự. Tiêu Giáp lúc rảnh rổi thường du ngoạn chốn núi sông, thưởng ngoạn nơi biển cả. Một hôm, có một vị Hòa thượng ở Nam Hải từ đất Thục đến xin quá giang thuyền để về Phổ Đà, nhưng chủ thuyền không ưng thuận. Hòa thượng thấy Tiêu Giáp là hàng hoạn quan và là người tử tế nên đem sự tình thổ lộ với Giáp rằng: “Không dấu gì Ngài, Bần tăng từ lâu đi quyên góp được sáu trăm lạng vàng, định đem về Phổ đà kiến lập bảo điện thờ đức Quán Âm Bồ Tát. Mong Ngài thương lượng giúp với chủ thuyền cho Tôi được quá giang thì công đức ấy thật vô lượng vô biên, vì chắc Ngài cũng dư rõ, Bần tăng một mình mà lại nhiều tài bảo, ở lại đây chắc là bất tiện. Giáp ưng thuận thương lượng với chủ thuyền cho Hòa thượng cùng đi. Nhưng đi được vài ngày, trong lòng Giáp bỗng khởi ác niệm. Thừa lúc đêm tối, sóng to gió lớn, Tiêu Giáp liệng Hòa thượng xuống biển, đoạn đến giở tráp ra thì quả nhiên có số vàng mấy trăm lượng. Tiêu Giáp bèn lấy hết bỏ vào túi riêng. Khi trời vừa hừng sáng thì bỗng Giáp thấy Hòa thượng ấy từ dưới biển ngoi lên đứng trước mặt đòi mạng. Từ đấy, ngày đêm Hòa thượng luôn hiện hình khuấy rối, Tiêu Giáp suốt ngày đêm trong tâm lo sợ, không một phút tạm yên nên sanh trọng bệnh. Tiêu Giáp đi khắp nơi cầu đảo khấn vái nhưng vô hiệu quả vì hình bóng Hòa thượng không lúc nào xa rời. Bệnh gần một năm thì tài vật của Hòa thượng, cũng như tài vật của Giáp đều hết. Một ngày nọ, vị Hòa thượng quá cố nói trên bỗng nhiên xuất hiện. Ngài cầm chiếc gậy đến viếng thăm Giáp và bảo Giáp rằng: “Thưa Ngài, tôi đây chính là người thật, chẳng phải quỷ ma đâu! Năm vừa rồi, lúc tôi bị ném xuống biển, đang lênh đênh trên sóng gió thì trong tâm tự nghĩ thế nào cũng sẽ chết. Giờ phút ấy Tôi vẫn nhớ Phật, niệm Phật, nên cầu xin về Tây phương Cực lạc, bỗng nhiên đức Đại bi Quán Thế Âm từ trong không trung giáng hạ, tay cầm một ngọn đèn rồi đưa Tôi vào một bãi lau, sau đó thì gặp được một người chài lưới cứu thoát. Sáu trăm lạng vàng ấy dù bị Ngài cướp đoạt nhưng sau khi thoát nạn thì Tôi liền đi quyên góp lại và số ấy đến nay đã gần đủ. Hiện nay Tôi đang về Phổ Đà để thù đáp bổn nguyện năm xưa. Khi Tôi đi ngang qua xứ Giang Âm thì nghe dân chúng xôn xao truyền rằng Ngài mắc phải chứng bệnh lạ, nên đến đây thăm viếng, Tôi khuyên Ngài hãy bỏ hẳn cái sai lầm ấy đi. Hiện giờ bần tăng cũng có phần đói bụng nên xin Ngài cho một bữa cơm chay rồi sẽ từ biệt lên đường.” Sau khi Hòa thượng thọ trai xong thì từ giã Giáp, cất bước lên đường. Giáp trong ý vẫn còn ngờ vực nên cho người theo chân Hòa thượng dò xét, quả nhiên thấy Ngài cầm gậy, bước lên thuyền đang đậu sẳn nơi bờ biển. Từ ấy, hình bóng ma quỷ hoàn toàn không hiện nữa, nhưng bệnh trạng của Giáp vẫn không thuyên giảm chút nào. Trải qua vài tháng thì thần thức rời khỏi thân xác. Theo nghiệp vào chốn u minh để thọ cực hình thảm khốc do chính mình đã tạo. Giáp chỉ có một con trai, cũng là một người học vấn văn chương có tiếng. Nếu gặp vận tốt thì có lẽ đã làm đến đại quan hơn cha mình nhiều nhưng đến kỳ ứng thí, vì cha chết nên không thể bỏ đi. Không biết thiếu niên ấy vì buồn rầu hay vì nhìn thấy cha chết nằm đó chưa chôn mà thẩn thờ đi ra bờ sông rồi nhảy xuống sông trầm mình tự vẫn. Nói đến vị Hòa thượng, sau khi về đến Nam Hải, Ngài được tin cha con của Giáp đều từ trần một cách thảm thiết, với từ tâm của một người đã xuất gia, nghĩ đến ác nghiệp của chúng sanh, lòng Hòa thượng đau như cắt. Ngài quá thương tâm nên không thể ngăn được giọt lệ, từ ấy mỗi thời khóa tu niệm hàng ngày, lễ Sám, niệm Phật, Ngài đều nhất tâm cầu nguyện cho cha con họ Tiêu được mau thoái khỏi luân hồi mà vãng sanh Cực lạc quốc. (Trích Ứng Thiên Tăng chú).

22. Ngoài Nam Môn, huyện An Dương, tỉnh Nam Kinh, có đài lạc thạch. Đài ấy cao vút trời lại rất cheo leo, phía trước có một con suối rất sâu, trên đài có Thánh tượng Quán Âm đúc bằng đồng. Niên hiệu Nhiên Khải, năm Nhâm Thìn, có bọn cường đạo muốn cướp tượng đồng nên dùng dây làm thang để lên đài cướp đoạt. Khi lên được đài cao, chúng nhận thấy không thể khuâng Thánh tượng của Bồ tát đi nên dùng búa sắt đập phá tan nát, bức tượng của Ngài vì vậy chỉ còn chiếc đầu nên chúng đem giấu trong bụi rậm và tìm đường tẩu thoát. Ngay lúc ấy, Phật tử trong chùa được tin kim thân Bồ tát bị bọn cường đạo hủy phá nên đi khắp các nơi lùng bắt. Do chẳng biết lối đi nên chúng chui vào một đám ruộng ẩn núp, người đi đường thấy vậy sanh nghi gạn hỏi, bọn người vô lương tâm ấy ấp úng trả lời nên bị người dân giữ lại, vì thế mà khỏi cần nhọc công đi tìm kiếm chúng. Phật tử bèn tóm chúng và đưa đến quan huyện để xét xử trị tội. Quan huyện địa phương là một Phật tử thành kính Tam bảo, lại tinh thông giáo lý Phật đà nên vừa được tin kim thân Bồ tát bị nạn thì Ngài im lặng giây lâu vì quá đau đớn nên không nói nên lời. Sau đó Ngài nói với các Phật tử trong chùa: “Quí vị nên biết, tội ác của bọn cường đạo này dù có bị xử tử cũng chưa nói là đền bù được nhưng thể theo lòng từ bi của Bồ Tát Như Lai, tôi không giết chúng nó làm gì, nhưng tội ác tày trời cũng không thể dung tha nên Tôi báo cho quý vị biết sẽ giam chúng vào ngục, cấm cố chung thân để đền tội. Tôi cũng mong đức từ bi của Bồ tát gia hộ cho chúng nó hồi tâm hướng thiện để vơi bớt phần nào tội ác của chúng.” Nói xong, quan huyện tự tay thảo một lá đơn khuyên người đóng góp và ký tên vào, bảo các Phật tử về trao lại cho vị Tăng chủ trong chùa, khuyến khích đi các nơi quyên góp để đúc lại Thánh tượng mới. (Trích Giác Thế Kinh thuyết chứng).

23. Tại Lĩnh Nam, trầm hương rất rẻ nên tất cả dinh thự của vua quan đều được điêu khắc bằng gỗ trầm hương. Nhân dân nơi đô thị Lĩnh Nam trước đây đã dùng gỗ trầm hương và mướn thợ tinh xảo, điêu khắc một tượng Phật rất trang nghiêm. Bấy giờ có bọn yêu quái giả làm mấy mươi người Tăng nhân, mượn Phật pháp thực hành mưu gian kế quỷ của mình. Chúng mướn thợ tinh xảo điêu khắc tượng Quán Âm Bồ tát bằng trầm hương, bên ngoài sơn phết thành kim thân, bên trong thì trống rỗng để tiện đặt máy móc, chứa toàn những thứ hung đao, giáo mác. Chúng thường cung nghinh Thánh tượng Bồ tát đi các nơi để huyễn hoặc tất cả nam nữ có tín tâm với Phật pháp. Nhờ phương tiện này, chúng ra tay giết người cướp của không kiêng sợ phép nước. Lúc ấy, Quan Thái thú huyện Trấn Giang vừa mới đổi đến. Đêm ấy, Ngài nằm mộng thấy một người phụ nữ mặc bạch y đến tỏ bày tự sự: “Thưa Quan lớn, trong bụng của Tôi luôn đau nhức, xin Ngài có cách chi cứu giúp thì phước đức vô lượng.” Quan Thái Thú khi thức giấc, trong tâm thấy vô cùng lạ, lập tức đến Phủ đường hỏi tả hữu rằng: “Các ngươi có ai biết trong vùng này có một phụ nữ nào bị oan uổng hay không?” Khi ấy, Thú tuần binh đứng hầu bên cạnh, tiến ra thưa rằng: “Bẩm Quan lớn, ngày gần đây ở dưới sông này có một chiếc ghe lớn, trong ghe có một Thánh tượng Quán Âm Bồ tát bằng trầm hương, dân chúng đua nhau đến lễ bái cúng dường đông hơn hội chợ. Con nghĩ việc này chắc trong Phủ Quan đã nghe.” Thái Thú lập tức bảo người chuẩn bị xa giá ra khỏi thành, đi ngay đến chiếc ghe thì thấy có Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát. Lúc ấy trong lòng Ngài tự nghĩ: Quán Thế Âm Bồ Tát thường hiện thân phụ nữ, thế thì phu nhân hiện trong mộng chắc là Ngài, không còn nghi ngờ gì nữa. Thái thú bèn xin phép chư Tăng cho hạ tượng Quán Âm xuống để có việc cần khám xét. Sau khi xem xét kỹ, ông thấy pho Thánh tượng này được ráp từ từng mảnh, có thể mở ra xem rất dễ. Quả nhiên khi mở ra thì phía trong ấy toàn là hung khí, gươm đao, v.v... Quan Thái thú bèn truyền lệnh dùng xiềng xích trói bọn côn đồ giả dạng Tăng nhân lại, đưa hết chúng vào Phủ đường để tống giam vào ngục. Ba ngày sau toàn bộ bọn chúng đều bị giải đến pháp trường xử tử. Bấy giờ, dân chúng xứ Lĩnh Nam, vạn người như một đều tán thán sự linh dị của Quán Thế Âm Bồ Tát. Bọn hung đồ kia tạo nhân lãnh quả, chỉ trong đời hiện tại đã không thoát được lưới pháp luật. Những người thông đạt Phật pháp cho rằng: hiện báo mà chúng phải trả chỉ là hoa báo mà thôi, quả báo sẽ là việc thọ đại hình nơi Vô gián địa ngục. Sự việc trên là do vị Đốc phủ Trung quân thuật lại. (Trích Quái Viên Chí Dị).

24. Triều nhà Minh, niên hiệu Chánh Đức, có Quan tri huyện Giang Âm, họ Vương. Một ngày nọ, Ông bảo người đến gọi người giúp việc cho mình là vị Thông Lại đến phủ để dạy việc, nhưng vị Thông Lại vào ngày ấy lại lo bận việc cúng lễ vía đức Quán Âm, nên Ông nhờ người thưa lại sự việc với Quan huyện. Chùa Quán Âm ở vùng phụ cận có Thánh tượng Quán Âm bằng gỗ trầm hương, trước giờ rất linh hiển. Quan huyện được người về thưa lại việc Thông Lại vì lo chuyện nhà chùa mà trái lệnh của mình nên nổi trận lôi đình, lập tức truyền lệnh cho bốn người lính tại nha môn cùng đi đến chùa Quán Âm. Lúc ấy Phật tử đang hội họp cùng với chư Tăng trong chùa làm lễ, tri huyện dẫn 4 người lính xông ngay vào chánh điện. Vừa tới Phật đài, Ông ra lệnh cho quân lính triệt hạ Thánh tượng Quán Âm, đem ra phía ngoài chế dầu thiêu đốt. Trước hành động bạo ngược của vị Quan địa phương, muôn người như một, không ai chẳng tức giận, nhưng toàn thể Phật tử vẫn im lặng vì lẽ chốn Từ bi trang nghiêm thanh tịnh không thể gây ra sự đổ máu mà vị Quan huyện cũng là người đứng đầu trong huyện. Sau khi thiêu hủy Thánh tượng thì Quan huyện bỏ ra về. Vài ngày sau, Ông vào triều tiếp kiến Hoàng thượng, nhưng đi giữa đường thì tim Ông đau nhức như bị người cầm dao đâm. Tri huyện tự hối hận, lập tức quay về, nhờ người bái thỉnh chư Tăng đủ giới đức, rước về tư dinh, tụng kinh bái sám mong tiêu tội ác. Có ba vị Tăng sau khi đến tư dinh thì một vị đứng ra cảnh giới cho tri huyện: “Quan huyện nên biết, đức Quán Âm Bồ Tát là bậc đại từ đại bi thương xót chúng sanh như con, tùy duyên hiện thân trong mười phương để cứu khổ chúng sanh. Thế thì Ngài không nên vì một pho tượng bằng gỗ mà sanh lòng sân hận. Chúng tôi y cứ theo Phật lý mà xét thì đây là hiện báo của Ngài vì chư Hộ pháp, Thiện thần muốn chỉ rõ báo ứng hiện tiền để cảnh cáo Ngài mà cũng là để làm gương cho thế nhân. Quan huyện có tín tâm với Phật pháp, rước chúng tôi đến tụng Kinh bái Sám, việc ấy chúng tôi cũng sẳn sàng chí thành lễ bái cầu nguyện, nhưng ác nghiệp của Ngài quá sâu, hiện báo đã thuần thục, chúng tôi e rằng khó qua khỏi.” Quả nhiên như lời vị Cao Tăng nói, tri huyện nằm trên giường bệnh, lăn lộn, kêu la, chỉ trong thời gian ba ngày thì thần thức rời khỏi thân, theo ác nghiệp vào chốn Minh Ty chịu khổ cực hình. (Trích Âm Chất Văn khuyến giới Thiên).

25. Cuối triều nhà Minh, có người tên Trần Kinh Sơn, là một võ Quan của triều đình, tánh tình vô cùng bạo tàn, ngày đêm thường cờ bạc. Trong nhà y có thờ Thánh tượng Quán Âm, khi nào thắng bài thì về đến nhà, thắp hương cúng dường lễ bái trước Phật đài, khi bị thua chút ít thì về đến nhà, mắng chửi Bồ tát. Một ngày nọ bị thua sạch, vừa về đến nhà, hắn ta nổi giận, đem Thánh tượng Đại Sĩ vứt trong nhà xí, lại hằng ngày dùng nắp bô đổ phẩn tiểu để trên bài vị thờ thần. Niên hiệu Sùng Trinh nhà Minh năm thứ 17, vào nửa đêm ngày 27 tháng 4, nhà láng giềng bị hỏa hoạn lan đến nhà Kinh Sơn. Đang lúc ngon giấc, hắn giật mình thức dậy, cảm thấy hơi nóng nên chạy ra ngoài trốn lửa, nhưng không biết ai xui khiến, hắn lại chạy trở vào nhà để tránh lửa. Khi đi vào nhà xí, nơi đã vứt bỏ Thánh tượng Bồ Tát, hắn ngồi yên trong ngọn lửa, tự thiêu mình như con heo quay. (Trích Dẩu Am Tỏa Ngư).

26. Triều nhà Minh, Từ Tú Tài tự Thái Xanh là một người tài cao đức hạnh vẹn toàn, vì vậy mà từ thành thị đến thôn quê, ai cũng kính trọng Ông. Con lớn của Từ tiên sinh tên Khôn, đứa con nhỏ tên Phật Xá tự Thành Dân, tuổi vừa hai mươi mà đã là người xuất chúng, rất thông minh, lại trung trực chí hiếu. Tuy còn trẻ nhưng Thành Dân đã phát tâm thâm tín Phật pháp, trì trai niệm Phật tụng kinh, lòng từ bi có thể nói cảm đến muôn loài, cho đến đối với loài thảo mộc, côn trùng cũng không nhẫn tâm làm thương tổn. Vào đêm 12 tháng 6 năm Quý Dậu, Thành Dân được một vị Thiên Vương ở cung trời Đao Lợi mời đến. Khi Thành Dân vừa đến bảo điện Thiên vương thì Ngọc Hoàng tức khắc niềm nở nghinh tiếp. Sau khi an tọa, Thiên vương cho biết, vì công việc ở đệ ngũ điện trong Minh phủ quá nhiều, Trẩm xin cung thỉnh Ngài đến đó làm việc trong một trăm ngày. Từ ấy về sau, mỗi đêm, Thành Dân khi thì du hành các nơi dưới Minh phủ, khi thì làm việc tại bổn điện. Nhân vì mục kích những thảm cảnh trong chốn u minh mà nghĩ đến chúng sanh trong chốn dương gian đang tạo ác nghiệp, lòng Ngài càng đau đớn, muốn đem Phật lý khai hóa nhưng chẳng biết làm sao vì âm dương cách trở. Ngài nghĩ: bây giờ chỉ có cách là vận sức thần thông, hiện thân ở những nơi đó, tùy cơ thuyết pháp cho mọi người nghe để sanh tâm sợ hãi, bỏ dữ theo lành, quy hướng về Tam bảo. Thành Dân thực thi theo ý định nên mọi người đua nhau đến xem nghe, không chổ chen chân. Trong thời gian Thành Dân hiện thân thuyết pháp, Ngài diễn tả cảnh trong chốn Minh đồ vô cùng thê thảm, hình phạt của các tội nhân trong các địa ngục, nào là bị gông cùm xiềng xích, kéo lưỡi trâu cày, nấu tội nhân trong vạc dầu sôi, xay, giã, cưa xẻ, leo núi đao, rừng kiếm, ôm cột đồng sôi, nằm giường sắt nóng, v.v... ai nghe thấy cũng phải rùng mình, nhắm mắt, khi nghe tiếng gào thét của tội nhân thì phải bịt tay lại không dám nghe. Những cảnh tượng ấy, có người thì dùng miệng để kể lại, có người thì dùng bút ghi chép lại những gì Thành Dân thuật lại thành một pho sách mô tả địa ngục, được chia ra làm mười tám cảnh, hình phạt phân ra đến muôn ức thứ. Chư Bồ Tát, chư Phật không lúc nào không hiện thân vào địa ngục để cứu khổ cho chúng sanh. Tuy nhiên những tội nhân không có thiện căn từ đời trước thì dù chư Phật phóng quang minh cũng không cứu giúp họ được, dầu cho có đứng trước mặt thuyết pháp khai thị, các tội nhân đó vẫn hồn mê bất tỉnh, duy chỉ có ngày 15 tháng 7 là ngày chư Phật hoan hỉ khắp trong trời đất, nơi nào cũng có Lễ sám, lập chay đàn thí thực, nên trong ngày này đích thân Quán Thế Âm Bồ Tát thống lĩnh tất cả tội nhân đi đến đạo tràng để thọ tài thí. (Trích Ngoạt Diêm La Minh Phán Nhứt).

27. Triều nhà Minh có vị y tăng là Thích Pháp Trình tự Vô Uổng ở Ôn Châu. Ngài bị mù từ thuở bé, cha mẹ chạy chữa trăm phương ngàn kế đều không có kết quả. Thầy Pháp Trình tự biết nghiệp nặng, thuốc thế gian không mong kết quả, nên ngày đêm thành tâm xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Thực hành như thế trải qua mười lăm năm, một hôm trong giấc mộng, Thầy nghe Bồ Tát gọi tên bảo đến trước nhưng dường như có vật gì trói chân mình, không thể cử động. Trong giấc mộng, Thầy nghe Đại Sĩ than rằng: “Sự việc này là do nghiệp nhân đời trước của Ông từng làm một vị Sư, lúc châm cứu làm tổn mắt ngườinên đời này phải chịu khổ báo ấy. Ta hết sức thương xót tâm chí thành của Ông nên sẽ làm cho đời sống của Ông mọi sự nhu dụng vô cùng phong phú.” Dứt lời, Ngài lấy từ trong áo ra một nắm bảo châu trao cho, thầy Pháp Trình kính cẩn tiếp lấy rồi thức giấc. Từ ấy, nghề thuốc của Thầy hết sức thịnh, khách đông không chổ chen chân. Quả nhiên đúng như lời Bồ tát dạy, sự thọ dụng của Thầy không thiếu món chi, thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, sống đến tuổi cao. Đến giờ phút cuối cùng, Thầy vui vẻ đoan tọa, chí thành xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm mà tạ thế. (Trích Đường Nghi Chi Y khuyên).

LỜI PHỤ: Cứ theo lời Bồ tát dạy thì thầy Pháp Trình do định nghiệp, đôi mắt vẫn mù nhưng y đạo được thịnh hành có lẽ nhờ do Thầy thuộc tất cả các phương thuốc, sau khi chẩn mạch rồi nhờ người viết toa.

28. Phật tử Trương Ngọc ở tỉnh Tây Sơn có đứa con gái nhỏ tên Phật Nhi. Bé gái này khác hẳn các trẻ khác là tuy sống trong gia đình cha mẹ không hề dạy bảo, mà lại thích tụng Kinh niệm Phật, đặc biệt nhất là với phẩm Phổ Môn. Bé gái này tụng Kinh không thiếu một ngày. Lúc gần tuổi cập kê thì bị bạo tử, trong nửa ngày thì sống lại rồi kể lại câu chuyện sau: Cô bị hai người bắt dẫn đến xứ Xoa Lãnh, trên đường đi Cô thấy những người đi với mình thì có hai người đi trước bị minh dịch (lính dưới âm phủ) dùng mền đen trùm toàn thân, tiếp theo đó thì họ dùng chiếc mền hoa trùm Phật Nhi lại. Vừa tới nhà họ Trần, minh dịch bảo rằng: “Tụi bây mắc nợ nhà này nên phải vào trong ấy đền trả, riêng Phật Nhi số nợ của ngươi lên đến một ngàn năm trăm quan.” Lúc ấy bỗng có một người mặc áo xanh đến trước mặt bảo họ rằng: “Hai ngươi không biết hay sao, con bé Phật Nhi này ăn chay niệm Phật mỗi ngày, chuyên tụng kinh niệm Phật, các ngươi nên mau phóng thích nó về nhà.” Hai người ấy vâng lời, dẫn Phật Nhi đi nhanh, thì bỗng nhiên Phật Nhi trợt chân té và sống lại. Phật Nhi đem việc ấy kể hết cho phụ thân. Đến sáng ngày sau, Phật tử Trương Ngọc đến Xoa Lãnh hỏi thăm thì quả nhiên có nhà họ Trần và trong đêm vừa rồi, con chó cái trong nhà sanh được ba con chó con, hai con màu đen, một con vá. Con chó vá thì đã chết nhưng chưa đem đi chôn. Trương Ngọc là Phật tử thông giáo lý, thâm tín nhân quả, khi vừa thấy chó vá thì biết đó chính là con mình, vội vã trở về nhà đem số tiền một ngàn năm trăm quan trả cho họ Trần, nhưng dù cho Trương Ngọc nói cách nào thì chủ nhà họ Trần cũng không chịu nhận. Phật tử Trương Ngọc thành kính tạ ơn, đem số tiền ấy về, thêm vào chút ít rồi mang đến chùa làm Phật sự, cầu nguyện cho con được tiêu túc nghiệp. (Trích Nam Hải Từ Thoàn).

29. Có một người sinh viên sống tại Cao Phồn ở Lâm Giang, tỉnh Giang Tây. Lúc mới lên sau, bảy tuổi đã nổi tiếng là thần đồng, vì thông minh không ai bì kịp, lại kiêm đủ đức hiếu hạnh. Năm mươi bốn tuổi, Cao Phồn vào trường quốc học, đến lúc trưởng thành thì đậu cao. Cha mẹ sau đó cưới vợ cho Cao Phồn. Người vợ là Phàn Thị, tự Châu Thành, cô gái này sắc đẹp không ai bì nhưng tánh tình lại hung dữ chẳng ai sánh kịp. Đôi vợ chồng trẻ gần nhau chưa bao lâu thì trở thành như bà chủ đối với đầy tớ, Phàn Thị lấn hiếp Cao Phồn đủ muôn ngàn cách. Cha mẹ chồng không thể cấm ngăn nên vạn bất đắc dĩ phải cho ra riêng. Cao Phồn không chịu nổi sự khổ nhọc hành hạcủa Phàn Thị, ngày càng gầy ốm, thân thể chẳng khác gì que cũi. Mẫu thân Cao Phồn thấy thế buồn đau, ngày đêm biếng ăn bỏ ngũ, vì Cao Phồn là con trai duy nhất, lại tài đức không ai sánh bằng. Một đêm nọ, bà mộng thấy một ông già đến bảo rằng: “Con dâu của nhà ngươi là nghiệp chướng từ đời trước, Phàn Thị ngày trước là con chuột trường sanh của Hòa Thượng Tịnh nghiệp, còn con của ngươi đời trước là một sĩ tử đại tài. Một hôm nọ, người ấy tình cờ đến chùa và giết chết chuột trường sanh nên đời này ác báo ấy phải tự thọ, không thể dùng nhân lực chuyển hóa được. Chỉ có cách sớm chiều phải chí thành trì tụng Thánh hiệu Quán Âm cùng trì tụng Kinh Phổ Môn cùng Chú Bạch Y 108 biến thì chắc chắn sẽ có hiệu quả.” Khi vừa thức dậy, bà đem việc ấy thuật lại với phụ thân Cao Phồn, hai ông bà vâng theo lời dạy của ông già trong mộng, trì tụng kinh hơn hai tháng nhưng tánh tàn bạo của Phàn Thị vẫn như xưa, lại còn thêm lăng loàn hơn trước. Một ngày nọ, có một vị Hòa thượng đến địa phương của gia đình họ Cao để tuyên dương Phật pháp, mọi người đua nhau đi nghe, số đến cả ngàn người, Phàn Thị lúc ấy cũng đến nghe. Sau khi Hòa thượng giảng thuyết Phật lý xong, Ngài bước xuống Pháp tòa, bảo người mang cho Ngài một chén tịnh thủy. Sau đó, Ngài bưng đến trước mặt Phàn Thị, trịnh trọng nói rằng: “Con không nên sân hận mãi vì đời trước cũng chẳng phải hư giả, đời này cũng chẳng phải chân thật. Chao ôi! Chuột hãy chạy cho mau, đừng để mèo nó tìm được thì khốn.” Dứt lời, Ngài liên tiếp hớp nước phun vào mặt Phàn Thị khiến mặt mày và y phục của Phàn Thị đều ướt đẫm. Hàng thính chúng thấy thế đều kinh ngạc vì họ nghĩ thế nào Hòa thượng cũng bị Phàn Thị chửi mắng một trận, nhưng trái lại, cô ta lau mặt, rồi kính cẩn cúi đầu chào rồi đi về nhà. Vị hòa thượng này sau khi phun nước rồi cũng bỏ đi. Phàn Thị từ đó về sau, bổng ăn năn lổi lầm ngày trước, lại phát tâm tin Phật pháp, trì trai niệm Phật, tụng Kinh, bái Sám, v.v… và sau đó trở thành một người phụ nữ khác, xứng đáng là bậc vợ hiền dâu thảo. (Trích Liêu Trai Chí Dị).

30. Triều Nhà Thanh, Huỳnh Bá Lân ở Nguy Khương, rời gia đình đến ở Dương Châu đã nhiều năm. Bá Lân là một Phật tử kính tín Tam bảo. Trong nhà, Ông thờ Quán Âm Bồ Tát rất thành kính.Hàng ngày Ông đều xưng tụng lễ bái cúng dường và trì tụng Kinh chú. Mùa Hạ năm Ất Dậu, trong xứ nổi loạn, binh sĩ kéo đến thành Dương Châu đánh phá dữ dội. Dân chúng sợ hãi, chạy trốn khắp nơi. Bá Lân lo sợ, đến trước Thánh tượng Đại Sĩ lễ bái cầu đảo, mong Ngài cứu hộ. Đêm ấy, Ông nằm mộng thấy Đại Sĩ bảo rằng: “Nhà của ngươi tất cả mười bảy người, mười sáu người kia đều có thể khỏi nạn, chỉ một mình ngươi, vì định nghiệp không thể trốn tránh.” Bá Lân giật mình tỉnh giấc, trong tâm rất lo sợ, lại đến trước Phật đài lễ bái cầu đảo. Sau đó Ông trở về phòng, vừa nhắm mắt thì lại thấy Bồ tát đến bảo rằng: “Đời trước, ngươi chém Vương Ma Tử hai mươi sáu nhát dao nên đời này phải đền trả. Ngươi nên bảo tất cả gia đình và gia nhân chạy ra phía Đông mà lánh nạn, chỉ mình ngươi nên ở giữa nhà mà chờ đợi, đừng để liên lụy đến người nhà.” Phật tử Bá Lân thâm tín vâng lời Bồ tát dạy. Quả thật năm ngày sau thì binh sĩ kéo đến nhà, Bá Lân vui vẻ nghinh tiếp và hỏi rằng: “Trong số các vị ở đây thì vị nào là Vương Ma Tử xin cho Tôi biết, vì Tôi thiếu nợ Vương Ma Tử hai mươi sáu nhát dao, giờ đây Tôi xin sẳn sàng trả nợ, xin cứ giết Tôi.” Trong số binh sĩ đến, quả thật có người tên Vương Ma Tử, người ấy lấy làm kinh sợ hỏi rằng: “Vì sao Ông biết tên họ tôi?” Bá Lân bèn đem việc trong mộng thuật lại, Vương Ma Tử nghe xong than rằng: “Đời trước, Ông chém tôi hai mươi sáu nhát dao nên đời này tôi tìm Ông để trả thù. Nhưng đời này nếu tôi giết Ông thì cũng không tránh khỏi đời sau Ông sẽ tìm tôi để trả thù lại. Thế là trả vay, vay trả biết khi nào mới dứt nợ.” Dứt lời, Vương Ma Tử dùng sống dao chém nhẹ trên thân Phật tử Bá Lân hai mươi sáu nhát, đoạn nói rằng: “Thế là chúng ta không còn oán thù gì nữa, vì người mắc nợ và người trả nợ đã thanh toán xong.”

Phật tử Đường Nghi Chi bình luận: “Khi tôi chép truyện ngắn trên, tự thấy có ba thâm ý - thứ nhất là đức đại từ đại bi của Quán Âm Bồ Tát có năng lực hồi chuyển định nghiệp của chúng sanh - thứ hai là nghiệp nhân đã gieo từ đời trước thì đến đời này thuần thục, khó mong mà thoát khỏi - thứ ba là những quả báo đã lãnh thọ trong đời hiện tại này đều do nghiệp nhân của kiếp trước nên phải vui vẻ sẳn sàng mà lãnh thọ, không nên oán trời trách người, cũng không cần trốn tránh chi cho cực khổ. (Trích Đường Nghi Chi Kỷ Cầu Thơ).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

31. Triều nhà Thanh, đứa con gái của Phật tử Lâm Tựu Khiết ở Hàng Châu, một hôm bổng mắc chứng bệnh rất lạ kỳ, miệng cứ lẩm bẩm. Khiết gạn hỏi thì đứa con gái đáp: “Ta họ Nghê, tên Thoại Lâm, người ở Dương Châu, có 50 mẫu đất bị mày chiếm đoạt. Đời trước, đứa con gái này là con người họ Lưu, làm sao thẩm sát có nhận của ta một số bạc lớn để xử vụ kiện ấy, nhưng đã không xử, lại còn giết ta chết trong ngục. Từ ấy đã sáu mươi năm ta bị hàm oan nên tìm cách đòi mạng, nhưng vì không có dịp nên đến hôm nay, ta đến đây đòi mạng vậy thôi.” Thế rồi trong miệng cô gái đó cứ lâm râm chuyện mình đến địa phủ và thuật lại những việc ở chốn Minh ty. Tựu Khiết thấy vậy, hết sức buồn rầu nhưng không biết làm sao giải quyết. Sau đó, Ông bảo con gái mình đến trước Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát lễ bái cầu đảo và phát nguyện mỗi ngày sẽ niệm thánh hiệu của Ngài ba ngàn biến để nhờ Bồ Tát giải trừ oan nghiệp. Cô gái ấy một hôm nằm mộng thấy minh dịch (lính dưới âm phủ) cho biết rõ thời gian xử án. Quả nhiên, đến thời hạn thì bị đưa đến Minh phủ. Cô gái ấy nghe thấy người tố cáo mình ăn hối lộ và giết hại mạng của ông ta nên Cô cật lực cải chính rằng người họ Nghi chết không phải do mình giết. Phán Quan bảo rằng: “Tội giết sanh mạng thì không thật nhưng tội thọ lãnh tiền tài thì thật có, vì thế ngươi cần phải đền tội. Tuy nhiên việc ấy phải đợi Diêm Vương đệ tam điện phán xử.” Trải qua ba ngày, cô gái ấy lại bị bắt đến đệ tam điện để thẩm vấn, đối diện trước Diêm vương, Cô vô cùng sợ hãi khóc lóc cầu xin tha tội. Diêm Vương phán: “Tội của ngươi tạo thì phải lãnh thọ, không thể dung tha. Nhưng Ta niệm tình ngươi có tâm sám hối và trì niệm Thánh hiệu Đại Sĩ, vậy Ta tha cho ngươi, khi trở về dương thế thì phải gắng làm lành, lánh dữ, giữ tâm thâm tín Tam bảo đừng xao lãng, phải niệm Phật, lễ sám tụng kinh tinh tấn hơn trước thì sẽ hưởng thọ cao niên.” Dứt lời, Diêm vương truyền lệnh hai quỷ đưa cô gái ấy hồi dương.

Phật tử Lục Kỳ bình luận: Xét kỹ thì thấy cô gái họ Lăng bị bệnh từ năm Quý Tỵ, nếu so với thời điểm của câu chuyện xảy ra thì đúng là sau mươi năm. Khi vị Quan huyện cho người đi kiểm tra thì đúng là có người tên Ưng Lăng, người ở Triều Dương, huyện Bảo Khánh tỉnh Hồ Quảng. Vào niên hiệu Vạn Lịch nhà Thanh, năm thứ 8 vào năm Canh Thìn, thi đậu Tiến sĩ. Sau khi thi đậu thì nhậm chức tri huyện ở Côn Sơn. Qua năm Bính Tuất, Ông đi thẩm tra ở tỉnh Tứ Xuyên. Đến năm Mậu Tý thì làm Quan Tuần Diên coi các sở muối ở xứ Tường Lô. Đến năm Kỷ Sửu, Ông làm Quan Tuần án ở Hoài Dương. Thế là trước kia trong niên hiệu Vạn Lịch, nhà Thanh năm Kỷ Sửu, Ưng Lăng đã làm Quan Tuần án, cho đến bây giờ là năm Quý Tỵ thì đầu thai làm thân nữ. Khi bị quỷ bắt đến Minh ty thì tổng cộng thời gian từ đó đến nay là sáu mươi lăm năm, đến năm Ất Mùi là sáu mươi bảy năm, mọi sự chuyển biến như vậy thật đáng ghê sợ. Tôi mong tất cả mọi người nói chung, và trong hàng Phật tử nói riêng, khi xem tích này nên sanh tâm chán ngán kiếp luân hồi của chúng sanh trong lục thú, mau tìm đường giải thoát. Nhưng muốn giải thoát thì không phải là chuyện nhỏ, cốt yếu nên vâng lời Phật dạy, nhất tâm niệm Phật, cầu về Tây phương Cực lạc thế giới, ấy là thượng sách, không có phương cách gì tốt hơn. (Trích Minh Báo Lục).

32. Chùa Linh Chi, xứ Tây Hồ là thắng cảnh duy nhất ở Ngô Việt, vì thế khách thập phương đi hành hương cũng như ngoạn cảnh, đông đúc tấp nập vô cùng. Nơi ấy, có thờ một Thánh tượng Quán Âm bằng gỗ cao bảy mét, tướng hảo đoan nghiêm, từ xưa đến nay rất là linh ứng. Tương truyền, pho Thánh tượng ấy là do một vị Tăng đi hành khất, quyên góp mà tạc thành. Sau khi Thánh tượng tạc xong thì Thầy đi nơi khác. Trải qua nhiều đời, ngôi bảo điện thờ Bồ tát theo thời gian cũng bị sụp đổ. Sau đó nền của điện lại bị một người là Tiêu Tú tài ở Hàn Châu đến chiếm cứ, vị Tú tài này là người không tin Phật pháp nên chiếm nền điện xây cất thư xá. Đã hơn mười năm mà Thầy trụ trì trong chùa không đủ năng lực để kiến tạo ngôi bảo điện trở lại nên tạm đem Thánh tượng Bồ tát đặt dưới chân pho tượng Tam Thánh trong Chánh điện. Một Phật tử từng kể lại: “Tôi trước kia có đến ở chùa này một thời gian, mỗi khi vào Chánh điện thi lễ, nhìn thấy Thánh tượng Quán Âm không nơi thờ cúng, lòng hết sức bùi ngùi, nên bàn thảo với thầy trụ trì tìm phương cách để kiến tạo lại bảo điện. Thầy vui vẻ đồng ý nên Tôi liền tự tay viết lá đơn, nói rõ nguyên do xin quyên góp để kiến tạo ngôi bảo điện. Viết đơn xong thì trước khi thầy trụ trì đi quyên góp, phải đem đến cho vị Tú tài ấy xem để thực chứng vì Tiêu Tú Tài là người quyền thế trong địa phương nhưng họ Tiêu từ chối vì lý do ứng thí khoa cử nhân chưa ổn định, vậy là sự kiến tạo bảo điện Bồ tát bất thành. Vài ngày sau trên bảng nêu tên các thí sinh trúng tuyển không thấy có tên vị Tú Tài đó mà còn mắc phải chứng bệnh lạc huyết rất nặng. Một hôm, Quảng Công Tử Khả Thành từ Hội Khê đến thăm, Tôi mời ở lại dùng cơm tối và nghỉ ngơi thì Công tử kể lại một giấc mộng rằng: năm xưa, người ấy từng nghỉ trọ tại thư xá của họ Tiêu, đêm nằm mộng thấy một thần nhân từ không trung giáng hạ bảo phải đi ngay tức khắc, nếu không sáng ngày hôm sau sẽ có đại họa. Khi thức giấc, ông cảm thấy rất bàng hoàng về giấc mộng nên quyết định ra đi. Sau khi người ấy rời khỏi thư xá, thì có một người từ phong trần đến nghỉ trọ, nửa đêm không bệnh mà bị bạo tử. Thế là đại họa ấy họ Tiêu phải mang. (Trích Quái Viên Chí Dị).

33. Cử nhân Đái Tinh Quy ở Tô Châu, là người có tánh tính lăng loàn, tạo nhiều tội ác nên tất cả dân ở xứ Ngô Việt thường gọi hắn là Đái Si. Vì có nhiều người bị hại, nên họ báo quan. Họ Đái bị Quan bắt trói, tống vào ngục, sau một thời gian ngắn thì chết. Một hôm, có một người sống tại thành Tô Châu bị bạo tử, ngày sau sống lại thì thuật lại rằng khi vừa chết thì thấy mình đến một nơi có cung điện nguy nga, giữa điện có Diêm vương an tọa, tả hữu có Phán Quan, lại có quỷ đầu trâu mặt ngựa, cầm chỉa ba bằng thép, chùy đồng đứng xếp hàng nghiêm chỉnh. Diêm Vương truyền lệnh bảo người đem họ Đái bỏ vào vạc dầu sôi. Dứt lời thì nơi bình địa bổng hiện chảo dầu đang sôi sùng sục, ngục tốt xúm lại, cầm chỉa ba đâm họ Đái để bỏ vào chảo dầu. Đái quá kinh sợ nên lớn tiếng niệm Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, tức thì chảo dầu sôi bổng hóa thành những đóa hoa sen. Diêm Vương nghe vậy liền phán: “Nó có thể trì tụng chú Phật thì không thể hành hình được. Cần phải tra xét trên dương thế xem nó làm tội ác ở nhà nào thì cho lên đầu thai ở nhà ấy mà trả quả.” Vị Phán Quan ở bên tả tâu rằng: “Hạ thần biết ở tại Gia Hưng có một đồ tể làm ác đã ba đời, người này không con, vừa rồi có mời các đạo sĩ lập đàn cúng tế cầu nguyện.” Diêm Vương lập tức truyền lệnh cho Đái đầu thai trong nhà ấy. Người bạo tử kia có nhớ rõ ngày tháng nên đến gần ngày sinh thì đến Gia Hưng để hỏi thăm, quả nhiên sự việc ấy không sai một mảy may. (Trích Hiện Quả Tùy Lục).

34. Chùa Phổ Môn ở tại Linh Sơn có một vị Cao tăng, giới luật tinh nghiêm, tu hành dõng mãnh, đồ chúng của Ngài rất đông, trong đó có tám vị Tăng. Các thầy thường đến nhà của quý Phật tử gần chùa, lập đạo tràng phổ độ vong nhơn. Mỗi khi làm lễ cầu siêu, các Thầy ấy tự tiện đem ba mươi quyển Bát nhã Tâm kinh thiêu hóa thành tro, tàn tro theo gió bay tản mác tứ phương. Trong tám vị Tăng nói trên, có một vị Tiểu đầu đà, tự biết việc làm ấy không đúng nhưng chẳng dám nói ra. Một đêm nọ, Tiểu Đầu đà mộng thấy mình bị bắt đến Diêm phủ. Khi vừa đến, chú nhìn thấy một vị vương gia, ngự tên tòa cao trong ngôi bảo điện. Bảy vị Tăng trong chùa đều hiện diện và quỳ phía trước. Diêm vương hỏi: “Tại sao mấy thầy dám cả gan đem Bát Nhã Tâm Kinh ra thiêu đốt trong lễ cầu siêu? Hiện tại, các chữ kinh còn rõ ràng bị vứt bỏ trên các nẻo đường, người đi dậm đạp, làm nhơ Thánh kinh, không tội nào lớn hơn tội này.” Bảy vị Tăng ấy đều nhận tội. Diêm Vương lại hỏi Tiểu Đầu Đà rằng: “Tại sao Thầy thấy mà không chịu cản ngăn?” Thầy thưa: “Tôi mới vào chùa, không dám trái ý sư phụ, sư huynh.” Diêm Vương nói: “Trẫm tha thứ cho Thầy nhưng khi về dương thế phải bạch với Trưởng lão từ nay về sau, phải triệt để ngăn cản đồ chúng, đối với kinh điển phải hết lòng kính trọng, không nên khinh thường.” Diêm Vương lại phán: “Việc đốt Kinh Bát nhã trong các lễ cầu siêu chỉ có các vị Thánh Tăng, giới hạnh cao thì mới làm được do vì tro đó sẽ bay lên thượng giới; trái lại các phàm Tăng, giới hạnh không toàn, khi thiêu hóa một tờ kinh, giấy tro rơi xuống đất, chẳng những hoàn toàn không có công đức, lại tự mình tạo tội ác muôn ngàn. Thôi Thầy mau trở lại dương thế đi, đem lời Trẫm nói để phổ biến trong hàng Tăng tục ở mười phương, tụng Bát nhã tâm Kinh in trong các Kinh thì được, còn việc thiêu hóa để cầu siêu thì không nên làm.” Tiểu Đầu Đà khi thức dậy thì đem việc này bạch với Trưởng lão. Không bao lâu thì có bốn vị Tăng bị tử nạn, do bức tường đè chết, hai vị Tăng khác thì bị chết đuối dưới sông, vị Tăng còn lại chết vì bị Quỉ mị đè. Tiểu Đầu Đà thấy mọi sự ứng hiện như lời Diêm vương nói, từ đấy quyết tu hành tinh tấn hơn xưa, về sau chứng ngộ đạo quả. (Trích Tích Tự Toàn Biên).

35. Triều nhà Thanh, phụ thân của sinh viên Du Nguyên ở Triều Châu, tỉnh Giang Tây, bị bệnh phổi đã nhiều năm. Riêng Du Nguyên bị chứng động phong từ lúc nhỏ, đôi mắt bị tổn thương, tất cả lương y đều bó tay không có cách nào chữa trị. Nguyên cưới vợ là Hồ Thị đã ba mươi năm nhưng không có con. Hồ Thị nhìn thấy toàn gia bên chồng bị tai ách nên buồn rầu khó ăn, mất ngủ. Niên hiệu Càn Long nhà Thanh, mùa Xuân năm Kỷ Hợi, Hồ Thị họp cả gia đình lớn nhỏ, đoạn quì dưới gối cha mẹ chồng thưa rằng: “Thưa cha mẹ, từ lâu con rất buồn khổ, vì trông thấy gia đình mình, từ cha mẹ cho đến chồng của con, và anh chị em trong nhà đều bị bệnh khổ triền miên. Con tự nghĩ đây chắc là do nghiệp nhân không tốt nên chiêu cảm quả báo như thế. Vậy con mong cha mẹ cũng như anh chị em trong nhà, đồng một chí nguyện hướng về Tam bảo, ăn chay niệm Phật tụng kinh, và giữ lòng cho thanh tịnh. Ngoài việc niệm Phật tụng Kinh, tất cả nên chí thành xưng niệm danh hiệu Quán Âm Bồ Tát để sám hối túc nghiệp thì con chắc chắn, nhờ từ lực của Tam bảo minh gia sẽ chuyển khổ thành vui, chuyển nguy thành an ổn.” Cha mẹ chồng thuận theo lời khuyên của Hồ Thị mà thực hành, quả nhiên không cần thuốc thang, cả nhà bệnh hoạn đều khỏi hẳn. Du Nguyên chồng của Hồ Thị, bệnh mắt cũng được lành. Hồ thị cũng sanh một đứa con trai và mẹ chồng hưởng thọ đến tám mươi tuổi. Lúc còn sống, mẹ chồng của Hồ Thị bị bệnh lạc huyết rất nguy kịch, Hồ Thị đã đến trước Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, huyết lệ tuyên rơi, nhất tâm cầu đảo Bồ Tát xin cho bệnh của mẹ chồng mau khỏi. Mẹ chồng của Hồ Thị trong lúc hôn mê bất tỉnh, phảng phất thấy một bà già đứng trước giường bệnh và nói: “Không hề gì đâu. Ta bảo đảm bệnh ngươi sẽ khỏi.” Quả nhiên, trong vòng vài ngày, mẹ chồng Hồ Thị khỏi hẳn chứng bệnh ấy. Từ đó về sau, gia đình họ Du tụng Kinh niệm Phật rất chuyên cần, và mỗi năm cho người ấn tống kinh Phổ môn và phát cho người trì tụng. (Trích Nam Hải Từ Thoàn).

36. Triều nhà Thanh, có người sinh viên tên Kim Hoàng, ở huyện tỉnh Triết Giang, tánh tình hiền hậu và chí hiếu. Vào niên hiệu Khang Hy, năm thứ 6, ngày 21 tháng 7, Hoàng nằm mộng thấy Tường Y Tiên nhân đến bảo rằng: “Ngươi có túc nghiệp nên ngày này năm sau sẽ bị Thiên lôi đánh.” Hoàng giật mình thức dậy, nhớ lại lời của Tiên Ông dạy, vô cùng lo sợ. Nhưng do Hoàng là đứa con sống trong gia đình Phật tử, kính tín ngôi Tam bảo, hiểu rõ lý nhân quả, nên hàng ngày đến trước Phật đài, cầu xin sám hối tội lổi, tiêu trừ nghiệp chướng. Ngoài giờ lễ sám tụng Kinh, thì cầu Bồ Tát gia hộ. Năm sau, vào ngày nói trên đúng lúc bầu trời quang đãng, Hoàng bỗng thấy không trung mây đen bủa khắp tối tăm, tự biết không thể nào tránh khỏi túc nghiệp như lời Tiên Ông đã nói. Việc trả quả, Hoàng vui lòng nhưng điều Hoàng hết sức lo buồn là còn mẹ già ở lại, không người phụng dưỡng, dù anh chị em có đông nhưng những người ấy không lo được cho mẹ. Hoàng vội đến dưới ngôi phù đồ ở núi Vân Bút, quỳ trước bảo tháp, chắp tay thành kính xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm. bỗng một trận cuồng phong bão nổi dậy, sấm sét đùng đùng vang trời, lúc ấy tất cả gia nhân đều hốt hoảng khóc than, vì họ tin rằng thế nào Hoàng cũng sẽ chết dưới lưỡi tầm sát của Thiên lôi, nhưng trận mưa dông vừa chấm dứt thì cảnh trời trở lại quang đãng. Mọi người kéo nhau đến ngôi phù đồ thì thấy Kim Hoàng vẫn chấp tay ngồi thẳng như nhập thiền định, mọi người mừng rỡ muôn phần, đỡ Hoàng đứng dậy, đưa về nhà. Hoàng lúc ấy kể lại: “Lúc tôi đến quì trước bảo tháp thì chuyên niệm Thánh hiệu Quán Âm, Tôi cảm thấy an ổn như ngủ và thấy Quán Âm Đại Sĩ tay cầm nhành liễu tưới nước cam lồ trên thân. Ngài lại cầm chiếc gương báu chiếu vào thân tôi rồi bỏ đi. Khi ấy tôi như người trong giấc mộng thức dậy.” Từ đấy, thân mẫu Kim Hoàng cùng tất cả gia nhân, tín tâm với Phật pháp càng mãnh liệt, nhất là với Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng tin càng triệt để. Mỗi ngày hai thời, việc tụng niệm không biếng trễ và chuyên lễ bái cúng dường Đại sĩ để ghi nhớ thâm ân hồi sanh cứu tử cho Kim Hoàng. (Trích Hồ Duy Tập ký).

37. Triều nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy, vào năm thứ 5, có một nhóm người ở Tây Dương đến Phổ Đà Sơn tạm trú khoảng nửa tháng, thì thừa dịp này, lén vơ vét hết bảo vật trong chùa như các bức tượng đồng thếp vàng và tràng phan bảo cái, v.v… Sau đó, họ mang sang Nhật bản bán, lấy được số tiền trên hai trăm lạng vàng. Nhóm người ấy khi chuẩn bị về bổn quốc, thuyền vừa ra biển thì phát hỏa. Tất cả đều bị chôn thân trong biển lửa. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).

38. Triều nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy, vào năm thứ 11, đầu năm Nhâm Tý, có một toán binh sĩ đông đến cả ngàn người, đi trên các chiến thuyền, đến đậu tại Lạc Gia (tức Phổ Đà). Họ ghé vào bảo điện thờ Quán Âm Đại sĩ, dù nơi đây là chốn thanh tịnh trang nghiêm nhưng các binh sĩ đó không một chút kiêng dè, mang cả giày dép đi vào trong bảo điện như đang đi ngoài đường, lại còn nói cười, ca hát tự do như ở chốn đồng hoang. Lúc họ vào thì bình yên vô sự, nhưng khi trở ra thì bỗng có độc xà gần mười thước xuất hiện ngay cửa, hả miệng hà hơi độc, và bắn những chiếc lông nhọn trên mình vào đám lính ấy. Cả bọn hãi hùng, kêu la tìm đường chạy trốn nhưng lúc ấy, tình thế lại càng nguy hiểm hơn vì có một đàn chó khổng lồ từ đâu không biết nhảy ra bao vây đám binh sĩ. Đám binh sĩ lúc này không có phương nào chạy trốn, bị bầy chó dữ lao đến, cắn xé như chó săn gặp thú rừng. Bọn chúng lớp chết, lớp bị thương rất nhiều. Dân chúng đương thời cho rằng đó là do Hộ pháp cảnh cáo bọn quân nhân vô đạo. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).

39. Tại Thạch Bồ Trầm ở Giang Tô, tỉnh Côn Sơn, có một điện đường thờ Quán Âm Đại Sĩ, nơi đây phong cảnh rất tịch mịch và thanh lương. Vào niên hiệu Khang Hy, năm đầu nhà Thanh, có vài người trong làng mang thỏ vào điện đường làm thịt để nhậu. Sau khi giết thỏ, chuẩn bị đem chiên xào thì không có dầu. Lúc ấy, một người chỉ lên chiếc đèn lưu ly dầu phọng đang thắp trên bàn thờ Phật rồi tự tiện lên lấy đổ dầu vào chảo để xào thịt thỏ. Sau khi ăn nhậu xong, thì đôi mắt bọn chúng bỗng nhiên bị mù, muốn đi vài bước cũng không được. Những người quen biết liền đến nhà báo tin cho gia đình biết, vợ con đến dẫn về thì chỉ trong vài ngày sau thì chết. (Trích Âm Chất Văn Giảng nghĩa).

40. Nhược Am Lục Sư ở chùa Bạch Tước, xứ Triều châu. Hòa thượng phát nguyện kiến tạo lại ngôi bảo điện để thờ Quán Âm Bồ tát nhưng lúc chưa hoàn thành ngôi bảo điện thì tài chánh đã hết nên không thể xây thêm bốn bên hành lang. Lúc bấy giờ, có người Phật tử họ Phan nghe tin, vội mang đến hai mươi lượng vàng cúng dường để hoàn thành công việc này, nhưng lúc ấy, do Tăng chúng trong chùa rất đông, không có chổ để ăn uống, nên Hòa thượng bèn đem số vàng ấy cất một dãy nhà vệ sinh. Về sau, Phật tử họ Phan đến hỏi thì Ngài đáp: “Tôi đã đem số vàng ấy làm việc công đức khác cần thiết hơn, nên việc xây thềm tam cấp xung quanh bảo điện chưa làm được. Tôi định sẽ tìm số tiền khác để hoàn thành bổn nguyện của thí chủ.” Phật tử họ Phan vừa nghe xong thì trong lòng không được vui, Ông không nói một lời, lặng lẽ bỏ đi. Không bao lâu thì Hòa thượng lâm bệnh qua đời nên việc hoàn thành bảo điện bị bỏ dở. Sau một thời gian, tự dưng chú Sa di trong chùa bỗng mắc bệnh điên, hung hăng đập phá trong chùa, nên người Trụ trì buộc phải trói chú trong một biệt thất, vài giờ sau đã thấy Sa di đi ra. Thấy vậy các Thầy hỏi: “Ai mở trói cho Ông?” Chú liền đáp: “Nhược Am Hòa thượng mở trói cho tôi chứ ai!” Mọi người đều nói rằng Chú nói láo thì ngay lúc ấy thì vị Lục Sư quá cố liền nhập vào thân Sa di nói rằng: “Mấy ông đừng nói Tiểu Sa Di nói láo, sự thật chính tôi đã mở dây cho nó. Nhân tiện đây, Tôi cũng xin thú nhận đã dùng tiền của một thí chủ cúng dường xây thềm đá ở đại điện Quán Âm để xây nhà vệ sinh, nên từ ngày Tôi xả báo thân, chẳng những không được siêu sanh Phật quốc mà còn bị đọa xuống Minh phủ, bị Diêm Vương cật lực quở trách, lại phán quỉ tốt ngày ngày lấy đá đè lên thân, sự đau khổ ấy Tôi không thể dùng lời tả xiết. Vậy Tôi mong tất cả đồ chúng nghĩ tình Sư đệ, mau mau quyên góp tiền, mua đá rửa thật sạch, mướn người xây tam cấp để công việc bảo điện được hoàn thành. Hàng ngày, xin huynh đệ vân tập lên Chánh điện, chí thành trì tụng Phạm Võng Bồ Tát Giới Kinh thì chắc Tôi sẽ được thoát khổ.” Trong chúng có một vị cao tuổi đứng ra hỏi: “Kính bạch Tôn Sư, vì sao Tôn sư lại dựa vào chú Sa di này?” Cố Hòa thượng đáp: “May mắn cho Tôi vì trên đỉnh đầu của Sa di này không có quang minh, nên Tôi mới mượn được thể xác của nó để truyền tin.” Dứt lời thì cố Hòa thượng trong xác Sa di buồn khóc nghẹn ngào, đoạn nói tiếp: “Các vị có biết không, nếu Tôi không mượn xác của Sa di nhỏ này thì chắc thọ khổ không biết lúc nào mới ra khỏi.“ Đồ chúng biết Thầy mình bị đọa nên nhiều vị thương cảm, ngã xuống đất khóc mà nói không ra lời. Sau đó, tất cả cùng nhau lo xây tam cấp để ngôi bảo điện được hoàn thành. Trải qua hơn một tháng thì Nhược Am Lục sư xuất hồn mà đi, bấy giờ Tiểu Sa Di trở lại tình trạng thanh tịnh như trước. (Trích Hệ Quả Tùy lục).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

41. Triều nhà Thanh có người tên Khưu Lổ, huyện Lâm Xuyên, tỉnh Giang Tây, đã ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn chưa có con. Vào niên hiệu Uông Chánh, năm Ất Mẹo, vào một hôm nọ, Khưu Lổ may mắn gặp được Kinh Phổ Môn nên vui mừng phát tâm trì tụng để cầu con. Quả nhiên, hai năm liên tiếp sanh được hai đứa con trai, nhưng sau khi có con thì tín tâm Ông lại thối lùi, tự cho rằng có con là lẽ tự nhiên, không phải do thần lực Bồ tát gia hộ. Đến năm Đinh Tỵ và Mậu Ngọ, hai trẻ ấy liên tiếp bị yểu số. Khưu Lổ giật mình tỉnh ngộ, biết ác nghiệp nghi ngờ trước đây là điều đại tội nên Ông đến trước Thánh tượng Đại Sĩ, chí thành lễ bái sám hối và cầu Ngài từ bi chứng giám, rồi phát nguyện ấn tống Kinh Phổ Môn, sau khi phát nguyện thì theo bổn nguyện mà thực hành. Đến năm Canh Thân, vợ Ông là Nhan Thị mộng thấy Đại Sĩ nhan diện hoan hỉ, Ngài mĩm cười bồng theo đứa trẻ rồi để nơi giường và bỏ đi. Quả nhiên sau đó Nhan Thị sanh được một nam tử. Một năm sau đó, Nhan Thị cũng mộng như trước và lại sanh tiếp một nam tử nữa. Từ đó, vợ chồng Khưu Lỗ hết lòng thâm tín Đại sĩ, hàng ngày mai chiều lễ niệm, và trì tụng kinh Phổ Môn không ngày nào thiếu sót. (Trích Nam Hải Từ Thoàn).

42. Triều nhà Thanh, Ca Bang Việt là người ở tỉnh An Huy, đã đến tuổi tứ tuần nhưng không có con. Cháu của Ông là Ca Khởi Nguyên khuyên Ông rằng: “Tụng Kinh Phổ Môn, cầu con rất linh nghiệm. Chú đã lớn tuổi, chưa có con kế tự, sao không đọc tụng kinh này.” Bang Việt nghe xong thì liền nói: “Chú cũng tin như thế nhưng hiện tại không có Kinh ấy.” Khởi Nguyên thưa: “Cháu xin đi thỉnh cho Chú một quyển, nhưng Cháu xin thưa trước, việc tụng kinh phải chí thành mới có kết quả. Lại nên phải nguyện trì tụng ít nhất một tạng và ấn tống kinh ấy, rồi phát cho mọi người đọc tụng, như thế mới mong thêm tiêu trừ nghiệp chướng, tăng thêm phước báu.” Vào niên hiệu Khang Hy, năm Tân Dậu, vợ chồng Bang Việt đồng phát nguyện hàng ngày trì tụng, nên liên tiếp sanh hai đứa con trai, nhưng chỉ vài năm sau thì hai đứa trẻ ấy bị yểu số. Vợ chồng tự hối trách về lổi xao lãng, vì họ chưa ấn tống Kinh Phổ Môn cho người trì tụng, năng lực công đức kém ít, nên mới xảy ra việc như thế này. Ngày Nguyên Đán năm Ất Sửu, hai ông bà liền đến trước Phật đài, chí thành lễ bái cầu đảo, nguyện Phật chứng minh gia hộ, nếu sanh được đứa con trai khác thì nguyện sẽ ấn tống ba ngàn quyển Phổ Môn. Quả nhiên đến tháng 11 năm ấy, họ sanh được một đứa con trai, đặt tên là Phật Tứ. Bấy giờ, hai ông bà không dám khinh suất như ngày trước, họ vội xuất tiền, in Kinh ấn tống thực hiện bổn nguyện. Đứa bé ấy lớn lên rất dễ nuôi, khôn ngoan và chí hiếu. Từ ấy, hai ông bà tu hành rất tinh tấn. (Trích Nam Hải Từ Thoàn).

43. Phật tử Trí Ông là một người cự phú ở Tô châu, tuy sống trong cảnh giàu sang sung sướng nhưng với tiền bạc, ông lại xem thường như đất đá. Ông chỉ ưa thích việc làm trọng đạo nghĩa, nhất là hạnh bố thí. Trên bốn mươi tuổi, Ông mới sanh được một đứa con trai, đặt tên trẻ ấy là Hoàng. Một hôm, ông mang ba trăm lượng vàng đến chùa Hoa Nghiêm, xứ Hổ Khâu, để trùng tu đại điện thờ Quán Âm Bồ tát. Khi vừa đến chùa, Trí Ông bỗng nghe tiếng khóc than bên hồ Kiến Trì, ông vội chạy đến xem thì thấy không ai xa lạ, chính là người họ Quế, bạn đồng học của Ông lúc nhỏ. Trí Ông gạn hỏi lý do và biết được người ấy vì mắc nợ quá nhiều, bị chủ nợ bức bách nên định đến hồ này kết liễu cuộc đời. Trí Ông vào chùa, mở lấy ba trăm lạng vàng trao cho họ Quế. Họ Quế cúi đầu cảm động, bèn đến trước tượng Đại Sĩ phát thệ rằng: “Cầu xin Bồ tát chứng minh gia hộ cho con, mang thâm ân của Trí Quân, cứu tử hồi sanh, nêu đời này không thể đền đáp, nguyện sanh làm chó ngựa, trở lại trả nợ cho Ngài.” Trí Ông an ủi: “Anh cứ yên tâm, đem số tiền này về lập nghiệp sinh sống, chúng ta là bạn từ thuở bé nên việc trả lại khi nào cũng được, xin Anh đừng bận lòng.” Trí Ông sau đó trở về nhà, mang đến đủ số vàng như trước trở lại chùa, cầu xin Trụ trì trong chùa lo việc trùng tu bảo điện Quán Âm cho mãn nguyện. Trí Ông lại đem khu vườn trồng táo độ hai, ba mẫu biếu cho họ Quế để lập gia nghiệp. Năm đó, nhà họ Quế sanh một con gái nên ước hẹn sẽ kết thông gia. Không bao lâu, trong lúc dọn vườn ở gốc cây táo, họ Quế đào được lu vàng trên ngàn lượng do phụ thân của Trí Ông đã chôn. Nhờ duyên may này mà họ Quế dần trở thành triệu phú, xây cất nhà ngang dãy dọc, tậu ruộng vườn rất nhiều. Trái lại, gia đình Trí Ông ngày càng sa sút, hai ông bà lại lần lượt tạ thế nên bấy giờ, đứa con trai tên Hoàng trở thành trẻ mồ côi không nơi nương tựa. Họ Quế nghe vợ là Tôn Thị thuật rõ tình cảnh hiện tại của Hoàng nên Ông ta sợ đến đòi món nợ ngày trước, bèn toan tính việc phản bội lời đính ước với Trí Ông trước đây. Ông ta dời cả gia đình đến Hội Kê lập gia nghiệp khác, ngôi nhà đồ sộ đang ở thì sang lại cho người khác. Hoàng nghe nói họ Quế dọn đến Hội Kê nên nghĩ thế nào họ cũng nghĩ lại nghĩa xưa với cha mình nên đến Hội Kê tìm nhà họ Quế. Bất hạnh cho đứa trẻ ngây thơ, khi vừa đến nhà gặp họ Quế thì Quế giả như người tai điếc, mắt ngơ không biết đến tên. Hoàng quá ngây thơ không biết được lòng người điên đảo nên đem sự thật hoàn cảnh của mình tỏ bày với Quế. Quế vẫn lắc đầu làm ngơ đáp: “Tôi không biết sự việc này.” Hoàng nhắc lại việc mượn ba trăm lạng vàng của cha mình, bấy giờ Quế lại dở trò tàn nhẫn bảo: “Ngươi mau ra khỏi nhà này, đừng nhiều lời lôi thôi, nếu không Ta sẽ gọi nhà hữu trách đến trừng trị”. Vì món nợ ấy không có một tờ giấy làm chứng nên Hoàng vừa nghe những lời bạc ân của họ Quế thì cúi đầu nuốt lệ, ngậm hờn mà ra đi. Qua năm sau, họ Quế lại vào Kinh đô toan tính chuyện làm ăn lớn, hợp tác với người nhưng người gian ác tất gặp kẻ ác gian. Quế mua phố lầu làm ăn được thời gian ngắn thì bị người lừa gạt, tài sản hao hơn phân nửa, sau đó lại bị chiếm đoạt luôn nhà phố. Bấy giờ Quế ở kinh đô như lữ khách không nơi nương tựa. Một đêm nọ, trong lúc nghĩ trọ ở nhà người, suốt đêm trằn trọc không ngủ được, khi vừa thiu thiu ngủ thì thấy mình đi đến một ngôi nhà đồ sộ, cửa nẻo đóng kín chỉ có một lổ trống bên cạnh. Quế dùng hai tay chống xuống đất chui vào thì thấy ở nhà trên, đèn lớn sáng trưng, có một lão Ông ngự nơi bàn án. Quế nhìn kỹ thì chính là Trí Ông. Quế vô cùng hổ thẹn, muốn đưa tay lên vái chào nhưng hai tay bị dính chặt dưới đất không thể giơ lên, Quế bò ra vườn sau thì thấy vợ mình và hai con đều hiện diện ở đó. Nhìn kỹ thì tất cả đều là hình dáng chó chứ không phải là người, ngó lại bóng mình cũng đã hóa thành chó. Quế quá kinh hãi nên hỏi nguyên do. Ôn Thị nói: “Ông không còn nhớ lời thề ở trước Quán Âm Đại Sĩ hay sao? Bấy giờ còn hỏi lại làm chi?” Quế giật mình thức dậy thì biết đó là giấc mộng bèn vội vã sắp xếp hành trang trở về Hội Kê. Vừa về đến nhà thì nhìn thấy trong nhà có hai chiếc quách, trên bàn có bài vị của hai đứa con mình, Quế hãi hùng bước vào trong thì thấy Vợ cũng đang bị bệnh nguy ngập sắp tắt hơi. Quế đứng bên cạnh gọi lớn thì vợ ông bỗng mở mắt, nhưng lạ lùng là người vợ của Quế cất giọng hỏi Ông bằng giọng của đứa con trai lớn: “Tại sao hôm nay Cha mới về, quá chậm trễ như vậy? Gia đình Ta phụ ơn bội nghĩa nhà họ Trí, nên Minh vương căn cứ vào lời thề của Cha ngày trước phạt ba người là Mẹ và anh em chúng con đến sáng ngày mai sẽ đến nhà họ Trí đầu thai làm chó. Trong ba con chó đó có hai con đực chính là anh em chúng con, con chó cái trên lưng có bướu chính là Mẫu thân. Riêng phần Cha, đến tháng 8 mùa Thu năm nay, cũng sẽ làm chó nhà họ Trí để trả lại lời thề trước. Chỉ có em gái của con thì được khỏi nạn ấy mà thôi vì trên thiên đình cũng như Âm phủ đều đã định nó cùng với đứa con trai nhà họ Trí làm vợ chồng.” Đứa con trai nói mấy lời ấy xong thì thần thức rời khỏi thân xác. Quế nghe những lời nói vừa rồi thì hoàn toàn ứng hợp với giấc mộng, nhưng cố gắng không nghĩ đến để lo việc tẩn liệm thi hài của vợ và chôn cất hai con. Họa vô đơn chí, nhà Quế lúc ấy đột nhiên bị hỏa hoạn nên tử thi của vợ và hai con đều cháy rụi. Bấy giờ họ Quế cùng với đứa con gái ngây thơ không một nơi nương tựa, dắt nhau đến Tô châu, hỏi thăm tin tức con trai họ Trí, thì được biết Hoàng đã thi đổ cao và được Triều đình tuyển dụng làm Thượng Thư Bộ Lễ. Chàng cũng đã cưới con gái của Quan Bố Chánh làm vợ. Cha con của Quế vừa tới trước tư dinh của Thượng Thư thì người gác cửa không cho vào, Ông ta thẹn thùng ân hận muôn phần. Hai ba phen khẩn thiết xin vào yết kiến Quan Thượng thư nên người gác cửa bèn vào bẩm lại. Thượng Thư họ Trí liền cho mời vào ngay tức khắc. Khi cha con Ông vừa vào thì ba con chó đột nhiên cũng từ lổ vách chạy ra, Quánh quẩn bên chân cha con họ Quế và kêu la rất buồn thảm. Họ Quế nhìn kỹ trên lưng con chó cái thì quả nhiên có cái bướu. Lòng Ông đau như cắt, đứng trước Quan Thượng thư, tuôn trào nước mắt, lễ bái và thuật lại hết nguyên do. Cuối cùng Ông nói: “Hiện giờ gia sản tan tành, cha con tôi không nơi nương tựa, vạn bất đắc dĩ phải đến đây, xin Quan lớn nhận đứa con gái này làm tỳ nữ cho phu nhân. Tôi cũng xin được vào hàng nô bộc của Quan lớn, nguyện trọn đời đem sức lực của mình hầu hạ cho Ngài, chỉ ước mong sao cho khỏi báo thân làm chó là mãn nguyện rồi.” Thượng Thư họ Trí nghe qua thì vô cùng xúc động, mắt ngấn lệ, rồi an ủi cha con họ Quế rằng: “Bác và Tiểu thư cứ an tâm ở nơi đây, Tôi sẽ cung phụng đầy đủ.” Đêm ấy, họ Quế nằm mộng thấy vợ con mình đến cung kính tạ ơn nói rằng: “May mắn là lang quân đã biết ăn năn tội lổi nên song thân của Quan Thượng thư họ Trí đã vì lang quân mà xin cho chàng khỏi thọ thân làm chó, mà Mẹ con tôi cũng được thoát thân súc sanh đê tiện này rồi.” Quả nhiên đến sáng, Ông nghe tin ba con chó đêm vừa rồi đều chết. Cha con họ Quế ở lại tư dinh của Quan Thượng Thư, trải qua hơn một năm thì Quế không hề bệnh hoạn chi và thoát khỏi hẳn quả báo súc sanh. (Trích Tự Cầu Tập).

44. Vương Kiến ở Ngô Môn là người tánh tính hiền hậu lại chí hiếu, đặc biệt có tánh cẩn thận. Một hôm nọ, không bệnh hoạn gì nhưng vào lúc ban ngày bổng ngã ra chết. Thần thức Ông theo một vì thông lại mặc áo xanh đến Minh phủ. Đến nơi, Ông nhìn thấy một cung điện nguy nga, ở giữa có Diêm Vương ngồi thẩm vấn các tội nhân. Khi hỏi đến Vương Kiến thì mới biết là quỷ sứ đã bắt lầm, vì người phải bắt cũng là Vương Kiến nhưng ở Sơn Đông, chứ không phải Vương Kiến ở Ngô Môn. Diêm Vương quở trách vị thông lại rồi bảo người dẫn Vương Kiến hồi dương. Kiến vừa ra khỏi điện thì thấy địa ngục lửa cháy rần rần, khói đen mịt trời, tiếng la hét kêu gào của tội nhân như sấm vang. Lại trông thấy có ba vị Lão tăng ngồi kiết già trên cành đại thọ, mỗi khi tiếng khóc la của tội nhân ngục tù vang dội thì ba Ngài dùng tịnh thủy rưới, âm thanh ấy tức thì tạm dừng. Kiến đến gần hỏi thăm thì Phán Quan cho biết: “Ông không nên cho rằng ba Ngài là lão Tăng tầm thường, đây chính là ba vị Đại sĩ Quán Âm, Phổ Hiền và Địa Tạng.” Ông nhìn quanh thì thấy có một ngườiHòa thượng quen với mình ngày trước. Ngài ở dưới Minh Phủ, mặc áo cà sa, cầm tích trượng như lúc sanh tiền từng dự vào việc cứu khổ tội nhân đọa địa ngục. Sau khi Vương Kiến hồi dương liền viết lại một chương Hồi ký, mướn thợ khắc bản in ấn, phổ biến khắp nơi, mong mọi người hồi đầu bỏ dữ theo lành, hướng về Tam bảo, ăn chay niệm Phật để thoát khỏi hậu báo ở Diêm đình. (Trích Hệ quả tùy lục).

45. Triều nhà Thanh, vào niên hiệu Khang Hy, năm thứ 33, lúc tháng Giêng, có một người họ Lý ở xã An Đông, huyện An Tước, bổng nhiên mắc bệnh điên, luôn nói mê sảng. Tất cả việc mình làm lúc bình sanh đều nói ra, có khi tự mình nói, có khi thần nhân nói. Trên giữa không trung người ta nghe có tiếng nói rất rõ, mọi người hỏi thì Lý đáp: “Đó là người xem sổ bộ án.” Trong sổ bộ ấy thuật lại một việc là con gái họ Vươngđược gả cho một người nhưng vì thấy hai vợ chồng bất hòa nên họ Lý xúi giục ly dị để giới thiệu gả cho người ở Tây Hoa. Người con gái họ Vương nghe tin ấy liền bỏ nhà trốn đi, nhưng sợ người hàng xóm biết nên cô cải trang xen lẫn trong nam tử, đi lang thang không nơi nương tựa, phần thì buồn rầu lo sợ không yên nên sanh bệnh, trải qua chín ngày thì lìa đời. Đọc sổ bộ án xong thì nghe có tiếng người hỏi: “Họ Lý có việc lành gì đáng ghi không?” Tiếng ở không trung đáp lại: “Ngày ấy, tháng ấy, năm ấy nó có tu bổ điện thờ đức Quán Âm.”Lại nghe tiếng Minh Quan nói: “Tội nhân này đáng lẽ bị trời tru lục, nhưng do chút phước lành ấy nên cho nó hồi dương và bảo phải đem việc Minh phủ tuyên truyền cho người thế gian biết.” Sau khi họ Lý tỉnh lại, thì đi khắp mọi nơi kể lại rằng: “Dưới Minh phủ không giống dương gian, mọi việc có không được thẩm xét rõ ràng không sai một mảy may, nên người đã tạo tội không cách gì lẩn trốn.” rồi cật lực tuyên truyền khắp trong thế nhân, khuyên người cố gắng bỏ dữ làm lành, dù chỉ là một ác niệm cũng không nên móng khởi vì chư Thần mỗi mỗi đều thấy rõ và ghi chép lại. Từ đây, họ Lý hoàn toàn tỉnh ngộ, hồi đầu, phát tâm tín kính Tam bảo, ăn chay lễ sám, tụng Kinh, niệm Phật cho đến lúc già vẫn khỏe mạnh. Đến ngày cuối cùng, không bệnh khổ, an nhiên niệm Phật mà tạ thế. (Trích Âm Chất Văn Tân Biên).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THIÊN THỨ SÁU
PHỔ BIẾN THỊ HIỆN
1. Cách phía Nam ngôi đại già lam Ca Bố Đức, nước Ma Kiệt Đà, xứ Trung Thiên Trúc hai, ba dặm có một ngọn cổ sơn. Núi ấy cao chọc trời, rừng cây rậm rạp, tất cả kỳ hoa, dị thảo không thiếu thứ nào, bốn phía có suối nước trong veo, róc rách chảy suốt ngày đêm, trên đỉnh núi có một Tịnh xá, tất cả như một bức tranh đẹp do một hoạ sĩ tinh xảo vẽ nên. Ở chính giữa Tịnh xá ấy, có một Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát nhỏ nhưng rất trang nghiêm, tay Ngài cầm hoa sen, đầu đội mão có hình cổ Phật. Nhiều người ở nơi đây từng phát nguyện tuyệt thực, nhất tâm xưng niệm Thánh hiệu Bồ tát để được thấy Ngài. Thời gian thực hành nguyện vọng ấy không cố định mà tùy theo người nguyện, có lúc bảy ngày, mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày hoặc một tháng. Nhiều người do tâm chí thành nên đã được thấy Bồ Tát hiện tướng đoan nghiêm, hào quang rực rỡ và được nghe những lời an ủi từ nơi Thánh tượng. Tương truyền rằng xưa kia, vua Già La Nam Hải, vào một buổi sáng mai, khi Ông dùng kính soi mặt thì không thấy mặt mình trong gương mà lại thấy hiện lên một ngọn núi nhỏ trong rừng Ta La ở nước Ma Kiệt Đà thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, trên núi có Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát nên Ông vô cùng vui mừng cảm động, phát tâm tìm kiếm cho kỳ được. Khi đã đến núi này thì Ông thấy giống y cảnh tượng trong gương, do nhân duyên ấy, nhà vua đã kiến lập Tịnh Xá và tạo tượng Quán Âm Bồ Tát để cúng thờ, hàng ngày cúng dường lễ bái. Từ ấy về sau, các vị vua ở các triều đại kế tiếp, tưởng nhớ di phong của Tiên vương nên các Ngài kiến lập thêm một Tịnh xá mới, trên một khu đất rộng bên cạnh Tịnh xá, trước và bên trong cũng có thờ Thánh tượng Bồ tát, hàng ngày đều dùng hoa hương, kỷ nhạc cúng dường không dứt. (Trích Tây Vực Ký).

2. Thanh Biện Lục Sư ở nước Ấn độ từng đến trước Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, chí thành lễ bái cầu đảo, trì tụng Chú tùy tâm Đà La Ni và phát nguyện tuyệt thực, mỗi ngày chỉ dùng nước. Trải qua thời gian ba năm thì cảm đến Bồ Tát, Ngài hiện sắc thân vi diệu và hỏi chí hướng của Lục Sư mong cầu điều chi. Lục sư bạch: “Kính bạch Đại Sĩ! Chí nguyện của con là xin lưu nhục thân này, đợi đến ngày đức Từ Thị Bồ Tát thành Phật.” Bồ Tát dạy: “Lục sư, Ông nên đến chổ Vị chấp Kim cang Thần, nơi ngọn núi phía Nam của thành Đại An Đạt La, chí thành trì tụng thần chú Chấp Kim Cang Đà La Ni thì sẽ được toại nguyện.” Lục Sư vâng lời Bồ tát dạy, đến nơi đó trì tụng ba năm thì Ngài được Chấp Kim Cang thần truyền dạy một phương pháp và bảo Lục Sư rằng: “Ở trong núi đá này có cung điện A Tu La, Ngài hãy theo đúng như pháp thực hành, cầu thỉnh vách đá hé mở. Khi nào thấy vách đá hé mở thì phải vào trong ấy tức khắc và an trú trong ấy thì có thể lưu thân đợi đến ngày nhìn thấy Từ Thị Di Lặc Bồ tát hạ sanh thành Phật.” Lục Sư vâng lời chuyên tâm trì tụng, trải qua thời gian ba năm, không hề có một tạp niệm. Ngài trì chú vào những hạt cải rồi đem gắn chúng vào vách đá thì bỗng nhiên cửa Động tự mở. Dân chúng lúc bấy giờ đua nhau đến xem, số đến nghìn vạn ức người. Lục Sư đến nơi cửa, trịnh trọng tuyên bố với đại chúng rằng: “Thưa quý vị, Tôi trải qua thời gian rất lâu chí thành cầu khẩn, trông mong đợi đến ngày Di Lặc hạ sanh thành Phật để được thấy Ngài. Nhờ đức từ của Quán Âm Bồ Tát cùng Thánh linh gia hộ, đại nguyện ấy nay đã được thành tựu. Vậy xin mời quí vị nên vào trong đây để cùng tôi lưu thân thấy Phật xuất thế.” Mọi người nghe xong đều sanh tâm sợ hãi cho rằng đấy là hang rắn, họ sợ vào sẽ tán thân mất mạng, nhưng Lục Sư vẫn tha thiết hai ba lần khuyến tấn thì có sáu người theo Ngài vào trong ấy. Khi vừa vào thì vách đá tự nhiên đóng lại. (Trích Đường Tây Vực Ký).

3. Triều đại nhà Tống, có ni sư hiệu là Tăng Đoan, người ở Quảng Lăng. Ni sư sanh trưởng trong gia đình tin Phật, nhưng trong nhà chỉ có hai chị em có tín tâm thâm hậu, riêng Tăng Đoan có chí nguyện xuất gia nên quyết định không lấy chồng. Vì người Anh và mẫu thân đã hứa gả Tăng Đoan cho một nhà triệu phú nên trước khi làm lễ kết hôn vài ngày, Tăng Đoan quỳ trước Phật đài, ngày đêm chí thành lễ bái cầu nguyện cho chí hướng của mình được toại. Ngoài việc lễ Phật cầu đảo, Tăng Đoan lại xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát và tụng Kinh Phổ Môn. Ba ngày sau trong khi Tăng Đoan đang lễ bái tụng niệm, thì thấy tượng Phật cử động và bảo rằng: “Chồng của con đã hết số, con chỉ cần tinh tấn tu niệm, đừng quá lo lắng đau buồn.” Sáng ngày hôm sau, Tăng Đoan hay tin chàng rễ đó đã bị trâu chém chết. Nhờ vậy mà Tăng Đoan được mãn nguyện xuất gia. (Trích Tỳ Kheo Ni truyện).

4. Triều nhà Đường, Pháp Tịnh Pháp sư là người ở Bạch Thủy, huyện Nam Dương, mỗi ngày sáu thời hành đạo rất tinh tấn. Một hôm nọ, Ngài đi vào điện Phật thì nhìn thấy Quán Âm Bồ Tát từ ngoài cửa đi vào, đoạn ngự ở không trung, thân tướng vòi vọi, đoan nghiêm rực rỡ, nơi cổ có mang chuỗi anh lạc thật là hy hữu, tất cả thánh tượng ở thế gian không thể sánh bằng, trong giây lâu mới ẩn mất. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 1).

5. Triều nhà Đường có Phổ Minh Thiền Sư, pháp danh trước kia của Ngài là Pháp Kính. Một độ nọ, Ngài theo Trí giả Đại Sư đến chùa thực hành Quán Âm Sám pháp. Tháng ấy nhằm tiết Đông, lạnh rét buốt xương thịt, nhưng Thiền Sư không mặc áo bông ấm, chuyên tâm hành đạo khổ hạnh. Một ngày nọ, có một vị Tăng đến dạy rằng: “Pháp danh của Ông là Pháp kính không tốt, nên đổi thành Phổ Minh mới hay, vì danh hiệu này biểu hiện tâm trí Ông sáng suốt, chiếu hiệu ba đời.” Sau khi lễ sám xong, Ngài đem việc ấy bạch lên Trí Giả Đại Sư thì Đại Sư thuận theo lời vị Tăng ấy dạy, đổi tên Ngài là Phổ Minh. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2).

6. Triều nhà Đường có thầy Thích Đàm Tạng, là người họ Dương, ở Hoa Âm. Lúc mười lăm tuổi, Thầy gặp một vị Tướng số cho biết Thầy là người yểu số. Song thân Thầy nghe nói thì vô cùng buồn bã vì Thầy là con một. Tức thời, hai ông bà liền bàn tính chuyện hôn nhân, nhưng sự việc này không phải là bổn nguyện của Thầy bởi tâm Thầy đã quyết chí tìm nơi thâm sơn cùng cốc ẩn thân tu hành nên đành trái lệnh mẹ cha. Chí nguyện như vậy nhưng Thầy lại không biết đường đi nên Thầy chỉ một lòng thành kính chuyên niệm Thánh hiệu Quán Âm, đi một lúc, bổng nhiên gặp một người nói rằng: “Ông cứ nhằm hướng Tây mà đi, sẽ có một ngôi già lam gần nơi đây, không xa lắm.” Thầy Đàm Tạng vâng lời, đi lối một dặm thì nghe tiếng đại hồng chung và thấy một ngôi chùa Tăng phía trước. Thầy liền bước vào trong và cầu xin Hòa thượng làm lễ thế phát để được toại với bổn nguyện. Nhưng sau khi Hòa thượng làm lễ thế phát, thì lập tức đuổi Thầy ra khỏi chùa. Thầy không dám trái lệnh liền bỏ ra đi. Đi được độ một trăm bước, khi quay đầu nhìn lại thì Chùa ấy đã không còn. Một hồi lâu thì trời mới sáng, Thầy theo đường tiến bước thì cuối cùng gặp một ngôi cổ tự giữa chốn núi rừng thiên nhiên u tịch, Thầy bèn ẩn tu nơi đó. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2).

7. Vương Tử nước Yết Nhã, Khúc Xà, miền Trung Ấn Độ tên là Hỷ Tăng. Lúc sắp kế vị, Ông đến trước Thánh tượng của Quán Âm Bồ Tát ở bờ sông Hằng, phát nguyện tuyệt thực, ngày đêm lễ bái cầu đảo, mong cầu Bồ tát từ bi gia hộ cho mình khi nhận tước vị, trị nước an dân được nhiều an ổn. Trải qua thời gian hai mươi mốt ngày, cảm ứng đến Bồ tát, Ngài hiện thân khuyến hóa Vương tử: “Khi nối ngôi Tiên vương, phải hết lòng hộ trì Tam bảo, làm cho Phật pháp được hưng long, đối với dân chúng phải lấy tâm từ bi làm bản hoài, không bao lâu Vương tử sẽ ngự trị toàn cõi Ấn độ.” Vương Tử vâng lời Bồ tát dạy sau khi kế vị, tự xưng hiệu là Giới Nhật, tận tâm ủng hộ Phật Pháp, rộng hoằng truyền Chánh pháp Như Lai. Riêng bản thân mình thì siêng năng tu tập, đối với dân chúng xem như con ruột. Đường Tam Tạng Huyền Trang Pháp sư trong thời gian thỉnh kinh qua Ấn độcũng đã từng đến nước này và thọ thỉnh Quốc vương Giới Nhật. (Trích Tây Bút Ký).

8. Triều nhà Đường có Thầy Thích Tăng Nhẩn, là người họ Sử ở Trần Lưu, chuyên đọc kinh Đại bi và sưu tầm nghiên cứu về bốn mươi hai cánh tay của Đại Sĩ. Khi nghiên cứu đến tay Vô Úy thì Thầy không thông đạt lý và sanh nghi nên nguyện thiết đàn lễ bái cầu thỉnh. Trải qua một tuần, tự nhiên trong không trung hiện ra cánh tay ấn ấy, hai cánh tay có thể trông thấy một cách rõ ràng. Thầy liền rước họa sĩ đến họa cánh tay ấy. Bấy giờ có người nghe thì sanh tâm dị nghị chê bai nhưng Thầy vẫn một lòng tín thành, làm theo chí nguyện. Khi thợ vẽ đem bút đồng để vẽ cánh tay ấy thì bổng nhiên cảm đến Bồ tát, Ngài hiện ra một đóa hoa bảo tấm, cành lá tươi đẹp rực rỡ, mọi người ai trông thấy cũng cho là chuyện kinh lạ và tán thán. (Trích Cao tăng Truyện - Tập 3).

9. Triều nhà Đường, vợ của Tần Huyền Phạm là Trương Thị, là một nữ Phật tử kính tín ngôi Tam bảo. Bà thờ Phật rất trang nghiêm thanh tịnh, thường phát nguyện dù thế nào cũng phải tạo được một Thánh tượng Quán Âm Bồ tát để suốt đời lễ bái cúng dường. Ý muốn như vậy nhưng năng lực không thể làm, Bà chuyên tâm niệm lâu ngày thì bỗng thấy Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát bằng hoàng kim, quang minh rực rỡ, cao chừng năm thước hiện ra nơi tòa cao. Đương thời, dân chúng hết lòng tán thán do tâm chí thành của Bà mà cảm đến Bồ tát như vậy. (Trích Biện Chánh Học Luận).

10. Triều nhà Đường, Văn Tôn Hoàng Đế là người rất thích ăn các loại sò ốc. Nhà vua truyền lệnh cho dân chúng miền duyên hải Đông Nam, mỗi năm phải đem vào cung hiến dâng món ăn này, vì thế dân chúng miền biển cực khổ không tả xiết. Một ngày nọ, quan ngự trụ đi chợ thì thấy có một con sò rất lớn. Ông ta mua về dùng dao chẻ nhưng nó không hả miệng, nhưng lúc dùng dao gõ thì nó liền hả miệng. Nhìn vào bên trong thì Ông nhìn thấy một tượng Quán Âm Bồ tát rất oai nghiêm nên Quan ngự trụ kinh sợ không dám làm thịt, vội mang lên dâng cho vua xem. Văn Tôn Hoàng đế nhìn thấy vô cùng kinh ngạc, Ngài lập tức truyền lệnh cho Quan Đại thần rước thợ đến làm một chiếc hộp bằng gỗ chiên đàn hương, sơn son thếp vàng để đựng Thánh tượng và thờ ở nội cung. Hàng ngày, Văn Đế mai chiều đến trước Thánh tượng ấy lễ bái. Nhà vua lại cho người đến thỉnh Quốc sư sư vào nội cung để hỏi nguyên nhân Bồ tát hiện thân. Sau khi Quốc sư đến, Văn đế đảnh lễ và thỉnh vấn nguyên nhân. Quốc Sư đáp: “Bệ hạ nên biết, Bồ tát ứng hiện nơi vật không bao giờ hư dối. Trong thân sò ốc mà có Thánh tượng Quán Âm là muốn khởi tín tâm cho Bệ hạ, cần phải tiết kiệm sự thọ dụng và đối với nhân dân thì phải luôn có từ tâm. Y như trong Kinh dạy: nếu có người cần dùng thân Bồ tát để độ thoát thì hiện thân Bồ tát mà vì đó thuyết pháp.” Văn Đế lại thưa: “Nếu Quốc Sư dạy như vậy thì Trẫm chỉ mới thấy thân Bồ Tát nhưng chưa được nghe Ngài thuyết pháp”. Quốc Sư liền hỏi: “Bệ hạ có tin hay không?”Văn Đế đáp: “Trẫm đâu dám không tin.” Quốc Sư tiếp: “Như vậy là Bệ hạ đã nghe thuyết pháp rồi đó.” Văn Đế vui cùng vô mừng nhờ câu nói của Thiền Sư mà được tỏ ngộ, từ đấy tuyệt đối không ăn sò ốc nữa, mặt khác cũng ra lệnh cho dân chúng không được bắt bán và ăn sò ốc và lệnh cho các tự viện phải kiến tạo Thánh tượng Quán Âm Bồ tát để kính thờ, chiêm bái và cúng dường. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 3).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

11. Triều nhà Đường, Quan ngự trù của Văn Tôn Hoàng Đế, một hôm nọ khi luộc trứng gà thì bỗng nghe các trứng trong chảo luộc xưng niệm Quán Âm Bồ tát, âm thinh nghe rất thảm thiết. Quan Trù giám lập tức đem việc ấy tâu lại thì Văn Đế truyền lệnh đem cho Ngài xem xét thì quả nhiên đúng như vậy. Nhà vua than rằng: “Trẫm không ngờ thần lực của Phật pháp có thể như vậy” đoạn Văn Đế bảo Quan trù giám từ nay không được dâng trứng gà cho Ngài dùng nữa vàban hành sắc lệnh cấm dân chúng không được ăn. (Trích Thiên Ất Chí và Cảm Ứng Thiên truyện).

12. Niên hiệu Trinh Minh năm thứ hai, triều nhà Lương, thời Ngũ Đại, có một vị Hòa thượng nước Nhật bản, hiệu là Huệ Ngạc đến non Ngũ Đài, thỉnh được Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát. Hòa thượng vui mừng, đem về bổn quốc để cúng dường chiêm lễ. Khi thuyền vừa đến biển Liên Hoa thì đâm phải đá ngầm nên không đi tiếp được. Hòa thượng tự biết có sự linh ứng trở ngại gì đây nên Ngài chí thành lễ bái cầu đảo và nguyện rằng: “Nếu chúng sanh quốc độ của con, không nhân duyên được thấy Bồ tát, thì xin Ngài gia hộ, dùng thần lực khiến cho thuyền này đi về hướng nào thì con sẽ xin y theo sự chỉ giáo của Bồ tát, kiến lập Tịnh xá để thờ Ngài.” Sau khi cầu đảo, chiếc thuyền ấy tự nhiên lướt sóng tiến tới, đến Động Hải Triều Âm thì dừng lại. Lúc ấy có một cư dân họ Trương sống ở đấy mục kích sự kỳ lạ này, Ông rất hoan hỉ, nguyện bỏ ngôi nhà mình đang ở, kiến lập Tịnh xá, cúng dường Đại sĩ. Ngôi Tịnh xá ấy đề biển tên là Bất Khẳng Khứ Quán Âm Viện (Viện Quán Âm Bồ Tát không chịu đi). (Trích Phổ Đà Sơn Chí).

13. Triều nhà Tống, Phổ Minh Thiền Sư, vào niên hiệu Sùng Minh, ngày 15 tháng 8, kiết thất ở chùa Thiện Thương Trúc đã mãn, Ngài bỗng thấy một vị cao tăng đến bảo rằng: “Ông nên gắng sức xiển dương pháp Tam thừa và thực hành thì mới có thể độ khắp tất cả quần sanh. Nếu Ông làm được như thế thì mới mong đền đáp được thâm ân của Phật.” Thiền Sư lại hỏi: “Nói pháp Tam thừa thì có phần quá mênh mông, vậy cúi xin Hòa thượng cho biết nên đem Pháp chi để hóa độ người?” Cao Tăng đáp: “Ta xem dân chúng trong quốc độ này rất có nhân duyên với Quán Âm Bồ tát, vậy Ông nên đem hình tượng của Ngài, nói lược đầu đuôi để lưu hành trong thế gian, cho mọi người biết lễ bái, cúng dường trì niệm, thì phước đức ấy không luống uổng.” Dứt lời, Cao tăng ấy tuyên diễn tất cả hình tướng của Bồ tát, sau khi diễn giảng xong, liền biến mất. Thiền Sư nhờ đó mà biên tập thành một pho Kinh gọi là Quán Âm Bổn Hạnh. Sau khi pho Kinh thành tựu, đức Quán Thế Âm Bồ tát bỗng hiện thân tướng Tử kim, tay bưng Tịnh bình, tay cầm nhành liễu, ngự trong tường vân ngũ sắc, giây lâu thì ẩn mất. Dân chúng đương thời đều được thấy, ai cũng vui mừng cảm động, đảnh lễ tán thán. (Trích Quán Thế Âm Bổn Hạnh Kinh Tự).

14. Triều nhà Tống có Phật tử Du Tập là người ở xứ Lộc Thủy. Vào niên hiệu Trung Hòa, Ông đến Hưng Hóa nhận chức Thái úy. Khi đi thì mang theo cả gia đình và đi bằng đường thủy. Đến xứ Sông Hoài thì Ông thấy có rất nhiều con trai lớn và những người trên ghe hàng ngày mua về để nấu ăn. Du Tập mỗi khi thấy thì thường xuất tiền mua hết rồi thả lại xuống sông. Một hôm, Ông nhìn thấy mọi người đang mang một giỏ đựng đầy trai lớn rất nặng đem đi nấu ăn, Ông liền trả giá cao gấp bội nhưng họ không chịu bán và đem bỏ vào nồi nấu. Bỗng nhiên lúc ấy, từ trong nồi nấu có âm thanh niệm Phật rất lớn, lại thấy ánh quang minh phát ra bên ngoài. Tất cả mọi người trên ghe đều kinh sợ, giở nắp ra xem thì thấy có một con trai rất lớn đang mở nắp hả miệng, trong thân con trai đó có Thánh tượng Quán Âm Bồ tát tướng hảo đoan nghiêm, trên thân có đủ chuỗi, áo mão, anh lạc, bên cạnh lại có hai cây trúc, cành lá tươi tốt đều là do thứ ngọc rất nhuyễn hợp thành. Du Tập liền bảo những người trong ghe phải chí thành niệm Thánh hiệu Tây phương A Di Đà Phật, sám trừ tội ác, đoạn thỉnh vỏ trai ấy về tư dinh thờ, mai chiều lễ bái cúng dường Đại Sĩ. (Trích Cảm Ứng Thiên truyện).

15. Triều nhà Tống có vị sứ giả nước ngoài đem lễ vật vào cung cống hiến. Khi thuyền đi qua biển Phổ đà, nghe thấy những điều linh dị của đức Quán Âm Bồ tát thì sứ giả có ý muốn vào lấy đem về bổn quốc. Lúc sắp đi vào thì gió to sóng lớn nổi dậy, khắp mặt biển đều mọc hoa sen sắt, cuồng phong ba đào càng lúc càng dữ dội hơn trước. Thuyền không cách nào tiến bước nên sứ giả sợ hãi lui thuyền. Vì thế chổ này sau đó được gọi là Liên hoa dương (Biển Hoa Sen). Thời gian sau có một vị quan nhà Tống phụng mệnh chiếu chỉ triều đình, mang tràng phan bảo cái đến Phổ Đà Sơn cúng dường. Trong tâm vị này sanh nghi cho là làm gì trong biển cả mênh mông ấy lại có Bồ tát, sự việc ấy chắc là do mọi người mê tín bịa đặt ra mà thôi. Khi vừa mở dây thuyền rời bến thì khắp mặt biển đã mọc hoa sen sắt, sóng gió nổi lên đùng đùng dữ dội, không cách gì lướt sóng, mọi người vô cùng hoảng sợ nên một lòng thành kính hướng về Phổ Đà Bảo Sơn, chấp tay cúi đầu xin niệm Thánh hiệu Đại sĩ thì đương lúc sóng to gió lớn, sóng bỗng lặng gió yên, rồi một con trâu trắng từ núi Phổ Đà lội xuống biển ăn hết tất cả hoa sen sắt. Con trâu ấy sau đó lặn xuống nước và hóa thành đá trắng đến nay vẫn còn dấu tích. Do tích ấy mà địa phương này còn được gọi là Thạch Ngưu Cản. (Trích Quán Âm hướng truyện).

16. Triều nhà Nguyên, niện hiệu Thái Tổ, năm thứ 13, Thừa Tướng Bá Nhân cùng với Tướng soái Các Lạc Đài cùng nhau đến Phổ Đà Bảo Sơn và động Hải Triều để yết kiến Quán Thế Âm nhưng không nhìn thấy gì hết. Hai ông cho rằng không linh ứng nên giương cung bắn vào Động rồi bỏ đi. Khi bỏ lên thuyền thì thấy khắp mặt biển mọc hoa sen, cả hai thất sắc nhìn nhau và tự hối tội lỗi của mình, chuyên tâm mặc niệm Thánh hiệu Bồ tát, mong Ngài từ bi hỷ xả. Đoạn cùng nhau trở lên núi lễ bái chí thành cầu đảo, từ từ họ được thấy kim thân của Bạch Y Đại Sĩ, có đồng tử theo hầu. Hai Ông vô cùng mừng rỡ, chí thành lễ bái lại phát nguyện kiến tạo điện đường nơi Động và tạo Thánh tượng Quan Âm trang nghiêm đem đến thờ. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).

17. Triều nhà Nguyên, niên hiệu Đại Đức, năm thứ 5 có một vị học sĩ là Trương Hồng Sơn, khi đến Động Triều Âm thì thấy thân tướng Quán Âm Bồ tát phảng phất trong vách động, kế đến lại thấy Thiện Tài, Đồng Tử hiện trong tường vân trên đỉnh núi. Sau đó, nhìn thấy Đại Sĩ thân tướng trang nghiêm, đầu đội mũ báu, đeo chuỗi anh lạc, tay cầm dương chi, có chư thần hộ pháp theo hầu. Họ Trương bèn đốc thúc mọi người chí thành lễ bái, Bồ Tát phóng tường quang khắp trong động, giây lâu mới ẩn mất. (Trích Quán Âm Cảm Ứng Tập).

18. Triều nhà Nguyên có tích truyện: Trên tấm gạch Diệu Nguyên Công chúa thường quỳ lễ bái, hiện lên hai bàn chân lờ mờ trên bề mặt, bảo vật thần kỳ này hiện nay vẫn còn lưu giữ tại chùa Đàm Đế. Tương truyền rằng Diệu Nguyên Công chúa là con gái vua Thế Tổ nhà Nguyễn, Bà cắt tóc chuyên tu Tịnh nghiệp. Hàng ngày, Công chúa đảnh lễ Quán Âm Đại Sĩ rất chí thành, đương thời sự linh dị rất rõ rệt. Vào triều nhà Minh, niên hiệu Vạn Lịch, năm Nhâm Thìn, Hiếu Đình Hoàng Thái Hậu khi nghe sự việc ấy, xa giá cùng với các cung nhân đến tận chùa chiêm lễ. Bà dùng chiếc hộp đàn hương đựng miếng gạch có hai bàn chân rồi rước về nội cung lễ bái, trong một thời gian ngắn thì Bà cho người trả lại chùa. (Trích Thần Viên Chí Dị).

19. Triều nhà Minh có một bà lão ở xã Cô Lý, huyện Thường Thục. Lúc bình nhật, Bà thường trì trai niệm Phật rất chí thành. Con của bà vì kế sanh nhai nên phải về làm cho quan Quán Sát Ấn Hoàng Thời Vũ để lấy tiền cấp dưỡng cho Bà và tự nuôi thân. Vào niên hiệu Vạn Lịch, mùa thu năm Giáp Dần, Bà lão được sáu mươi lăm tuổi thì bị bệnh nặng sắp chết. Bà nhờ người tìm cho một bộ áo quần mới để mặc nhưng không có nên bảo lấy bộ quần áo vải lam cũ thường mặc hàng ngày đang phơi ngoài sân mặc. Trong bộ quần áo đó có mười hai miếng vá thì trong chốc lát bỗng hiện ra tướng Thập Nhị Diện của Quán Âm Bồ Tát. Mổi miếng vải hiện tướng không giống nhau, lại có rừng trúc, chim anh vũ, hết sức trang nghiêm. Cảnh tượng lạ kỳ ấy trải qua một ngày đêm, sau khi bà lão vãng sanh mới ẩn mất. Tất cả dân chúng trong làng đều nhìn thấy nên ai cũng tán thán sự việc chưa từng có ấy. Cũng nhờ nhân duyên này nên mọi người theo gương bà lão trường chay, niệm Phật rất đông. (Trích Hải Nam Nhất Chước).

20. Phật tử Nam Thiệu là người ở Cô Quốc, thờ Phật rất trang nghiêm. Vào ngày 16 tháng 9 là ngày vía của Quán Âm Đại Sĩ, Ông nhìn thấy nơi điện thờ hiện ra một tôn tượng Bồ tát trang nghiêm rất rõ ràng. Mọi người vừa hay tin thì đua nhau đi xem, không chổ chen chân. Nhưng trong số người xem đó có những người phá rối nên Thánh tượng bỗng nhiên ẩn mất. Phật tử Nam Thiệu vô cùng hối tiếc, ngày đêm truy niệm đến Tôn dung, rồi đi tìm họa sĩ giỏi rước về, trai giới thanh tịnh để họa lại Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát để ngày ngày lễ bái cúng dường, tỏ bày chút lòng thành đáp lại hồng ân của Bồ tát đã từ bi thị hiện. (Trích Tĩnh Am Thiền Sư Ký lục).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

21. Cạnh sông Nghi Huỳnh, tỉnh Giang Tây có một con suối rất lớn, phía Bắc suối ấy nổi lên một cái cồn ở giữa dòng. Cồn ấy chu vi chưa đầy một dặm, chung Quanh đều có nước. Xưa kia có người dùng ghe chở Thánh tượng Quán Âm về quận, chiếc ghe đang đi nhẹ như chiếc lá nhưng khi vừa đến cồn này thì ghe bỗng nặng như đá, không thể nào đi tới trước được. Người đó đến trước Thánh tượng Bồ tát lễ bái cầu đảo và nguyện rằng: “Theo ngu ý của con tự xét, Bồ tát muốn lưu trú tại đây để kiến lập Tịnh xá phải không? Nếu đúng như vậy thì cho con xin một keo liền được.” Người ấy xin keo thì quả nhiên như lời nguyện. Tất cả dân chúng trong xóm nghe tin vô cùng mừng rỡ, đồng phát nguyện kiến lập Tịnh xá để cúng dường Tôn tượng Đại Sĩ. Có điều lạ là cồn này không thấp cũng không cao, nước suối chảy như thác và hay tràn ngập nhưng không bao giờ lên được đến nền Tịnh xá ấy. Do nhân duyên này mà dân chúng ngày càng thâm tín, sự tu hành lễ niệm ngày càng đông đảo, những người đi vãn cảnh nghe thấy ai cũng tán thán. (Trích Long Xuyên Truyện Chí).

22. Triều nhà Thanh, vào niên hiệu Thiệu Trụ, năm đầu, có tướng cướp biển là Nguyễn Tuấn cùng với vị Tăng Nhật bản lập mưu đoạt Đại tạng Kinh của Quốc vương nhà Minh cúng dường cho Phổ Đà Bảo Sơn. Niên hiệu Vạn Lịch, năm 49 thì đem chở về nước Nhật. Sau khi biết Đại Tạng Kinh bị đoạt mất thì Hòa thượng trong Chùa hiệu là đốc thúc chúng Tăng đến nơi thuyền của người đoạt Đại Tạng Kinh cầu xin trả lại. Van xin mấy ngày thì tướng cướp Nguyễn Tuấn nổi giận tuyên bố rằng: “Mấy Ông muốn được Đại Tạng Kinh thì đến Long cung Thủy phủ mà cầu thỉnh. Đại Tạng Kinh này chúng tôi sẽ đem về Đông Kinh.” Dứt lời, họ Nguyễn truyền lệnh cho thuyền nhổ neo rời bến. Vừa ra đến biển thì có một kình ngư tiến ra cản thuyền, trải qua vài ngày vẫn không nhúc nhích. Họ Nguyễn tự hối, cầu xin Bồ tát tha tội cho mình, rồi vội vàng lui thuyền trở lại để trả Đại Tạng Kinh. Chỉ trong chốc lát thì thuyền đến chân núi, chúng Tăng nghe được tin vô cùng vui mừng về sự linh dị của Pháp bảo và thần thông oai lực của Bồ tát. Họ cùng nhau xuống thuyền, cung kính thỉnh Đại Tạng Kinh trở lại chùa. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).

23. Triều nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy, năm thứ 30, Hòa Thượng Huệ Như ở Am Bảo Sương tại Trà Sơn thấy Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ vì lâu năm bị hư hoại nên Ngài định đến Vân nam mộ hóa để sơn thếp lại, nhưng trải qua hơn một tháng vẫn không có người bố thí cho một đồng. Ngày nọ, Hòa thượng nhờ người cùng với mình thỉnh Thánh tượng Bồ tát để nơi cửa của Thừa Tướng Vương Công. Đêm ấy, phu nhân của Thừa Tướng mộng thấy một người phụ nữ mặc áo vải trắng phai màu hư rách đến nói rằng mình từ Phổ Đà đến để khất hóa chiếc áo. Phu nhân tỉnh giấc đem việc ấy thưa với Thừa tướng thì Thừa Tướng bảo cũng mộng thấy như vậy. Đến sáng hôm sau, Thừa Tướng gọi người gác cửa đến thì người ấy cho biết có một vị Hòa thượng đem tượng Đại Sĩ để nơi cửa rồi bỏ đi. Thừa Tướng và Phu nhân nghe xong thì vô cùng mừng rỡ vì biết mình có duyên với Bồ tát nên tức tốc cho người tìm Hòa thượng Huệ Như vào tư dinh. Sau khi tìm được Hòa thượng và mời về, hai ông bà niềm nở đón tiếp, mời Ngài trà nước điểm tâm xong thì Thừa tướng thưa: “Hòa thượng cứ yên tâm! Chúng con sẽ lo liệu sao cho Thánh tượng mới và đẹp lại.” Sau khi sơn thếp xong, Thừa tướng làm lễ cúng dường và Hòa thượng cung nghinh Thánh tượng trở về Bảo Sơn. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).

24. Triều nhà Thanh có Hòa thượng hiệu là Hành Nghĩa cùng với các vị vân thủy tăng, tất cả tám người từ chùa Tiến Phước ở Trường An đến Non Phổ Đà ở Định Hải. Đang lúc mưa to gió lớn, các thầy vẫn xông pha mưa gió đi đến Động Hải Triều để dâng hương lễ bái cầu đảo, khẩn xin làm sao thấy được từ dung của Đại Sĩ. Bổng nhiên từ trong Động, hiện ra quang minh ngũ sắc, trong quang minh ấy có Thánh tượng Đại Sĩ đang đứng, tướng mạo trang nghiêm, bên cạnh có bạch anh vũ, nhưng chỉ có một mình Hòa thượng Hạnh Nghĩa được nhìn thấy, còn bảy vị vân thủy tăng kia trông thấy mỗi người mỗi khác, không giống nhau, giây lâu sau thì Thánh tượng mới ẩn. Khi Hòa thượng Hành Nghĩa đi về, gặp người chài lưới họ Vương, trên đường đi hai người cùng đàm đạo dọc đường đi, Hoà thượng tuyên truyền với mọi người, mong mọi người phát tín tâm với Đại sĩ, đến Động lễ bái cúng dường để được nhiều lợi lạc. (Trích Cư Dị Lục).

25. Ngô Thiên Chương tự thuật lại một chuyện như sau: Trương Hán Nho từng bị một bệnh rất nguy hiểm, dây dưa nhiều năm, thuốc thang không hiệu quả. Một hôm nọ, Ông nằm mơ thấy có ba vị Phạm Tăng đến xoa bụng thì sau đó Ông khỏi bệnh, nên phát nguyện đến thăm tứ đại danh sơn. Trước tiên Ông đến Phổ Đà Sơn đảnh lễ Đại Sĩ thì gặp môt người cao niên đang dọn dẹp quét tước ngoài động Hải triều. Hán Nho cùng Ông già nói chuyện thì Ông già bảo rằng: “Ông từ đường xa đến đây, chắc có lẽ cũng muốn được thấy tôn nhan của Đại Sĩ lắm phải không? Hán Nho nói: “Tôi từ bốn năm ngàn dặm đến đây, nếu được thấy tôn dung của Đại Sĩ thì có chết cũng cam lòng.” Ông già bảo: “Điều ấy không khó, chỉ cần hết lòng thành kính cầu đảo sẽ được thấy Ngài.” Hán Nho cùng với bạn đồng hành hơn 10 người liền chí thành lễ bái cầu đảo, quỳ gối chấp tay một hồi lâu, bổng trước cửa Động hiện ra quang minh kim sắc. Ông già nói: “Thế là Đại Sĩ sắp ra đấy.” Mọi người nhìn kỹ thì quả nhiên nhìn thấy Đại Sĩ từ trong vách đá bước ra, nhưng chỉ nhìn thấy được một bên mặt của Ngài nên tất cả đều chí thành đảnh lễ nguyện rằng: “Chúng con vô phước duyên nhưng được Đại Sĩ từ bi hiện thân, chúng con mong mỏi được thấy chánh diện của Ngài để đảnh lễ và sau khi về chúng con sẽ họa Tôn dung Ngài.” Đại Sĩ tức thì quay lưng vào động, mặt hướng ra biển, cách những người cầu đảo chừng 1m, tóc của Ngài mướt xanh, ngọn tóc cong tròn như hơi uốn, đôi lưỡng quyền cao, mặc y phục màu lục, nửa thân còn lại của Ngài vận khí không thể nhìn thấy rõ. Mọi người vô cùng hoan hỉ, cảm động cúi đầu lễ bái. Chỉ trong chốc lát, khi mọi người ngẩng đầu lên thì Ngài đã ẩn vào vách đá. Ông già nói: “Khi tôi mới đến, cũng do có phước duyên được gặp Đại Sĩ hiện thân. Thế nên nguyện xả thân nơi đây để làm công việc tưới quét. Tôi ở nơi thanh tịnh này đã lâu ngày thường được thấy Thánh dung, thật là một sự kiện vô cùng an ủi.” Căn cứ theo những bài thơ có ghi lại tại đây thì Đại thần Tương Quan Bậc nhà Nguyên, khi đến Phổ Đà Sơn chiêm ngưỡng, cũng được Bồ Tát ứng hiện cùng với Thiện Tài Đồng Tử. Bài thơ do do Lam Anh Loại sáng tác cho thấy việc Bồ tát hiện thân đã diễn ta từ xưa chứ không phải mới. (Trích Cư Di Lục).

26. Triều nhà Lương có Ngài Bảo Chí Đại Sĩ, người thế tục thường gọi là Chí Công Hòa Thượng. Năm lên 7 tuổi, Ngài xuất gia, y chỉ vị Hòa thượng ở Trung Sơn, chuyên tu Thiền. Triều nhà Tống, niên hiệu Thái Thì năm đầu, ở Ngài Bảo Chí đã xuất hiện những sự kiện kỳ lạ, vua Lương Võ Đế thời ấy rất kính trọng Ngài nên bảo Trương Tăng Do họa hình tượng Ngài. Bảo Chí Đại Sĩ đã rạch mặt mình thành mười bốn hình đức Quán Âm, diện mạo thù đặc, hoặc từ bi hoặc oai vệ, vì thế Tăng Do chịu phép không thể nào họa được hình. Cả nhà của Lỗ rất kính thờ Ngài Bảo Chí và thường được Ngài hiện chân dung giống hệt Quán Âm Bồ Tát, ngoài ra còn nhiều vô số sự tích linh dị khác, không thể nào ghi chép hết. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 1).

27. Hóa Vị Phạm Tăng Trì Bát có phép truyền Quán Âm Đại Sĩ đã hiện bảy hình tướng như sau: Triều nhà Đường, niên hiệu Vĩnh Hy, Ngài hóa hiện thành Ông già râu bạc, đầu đội mão bạch liên hoa, thân mặc cà sa, vai mang bình bát, đến nhà một nông dân tên Tế La ở Mông San (huyện Mông Hóa ở phía Nam của Vân Nam ngày nay) để khất thực. Hóa Vị Phạm Tăng Trì Bát đến gặp một phụ nữ đang làm việc ngoài đường để khất thực, Ngài ngồi trên thạch bàn ở Cổ Sơn, phía trước có trâu xanh, bên trái có ngựa trắng mồm đỏ, bên phải có voi trắng, phía trên có tường vân ngũ sắc che phủ. Trong tường vân ấy có hai đồng tử, một người cầm thương sắt, một người cầm chiếc kính vuông. Khi cảnh tượng này diễn ra thì tất cả mọi người từ người nông phu làm ruộng đến trẻ chăn trâu đều nhìn thấy, giây lâu sau thì Ngài bay vào trong mây ẩn mất. Đời Nam Chiêu Vương, Mông La Thành, Ngài lại hóa thân thành một vị Tăng, vai mang bình bát, tay cầm tích trượng, đi khất thực, có dắt theo một con chó trắng. Dân chúng ở xã Khai Nam, chuyên môn làm nghề trộm cắp, nên chúng rất ghét chó dữ, xúm nhau bắt Ngài rồi cắt lóc da thịt trên thân Ngài ra từng mảnh, nhưng trong chốc lát thì Ngài sống lại, cười nói như thường. Bọn đạo tặc này rất nổi giận lại quyết tâm giết hại Ngài. Chúng lóc thịt da Ngài rồi đem bỏ đi, còn phần xương đem đốt thành tro, rồi bỏ vào ống tre thả chìm trôi theo làn sóng, nhưng sau đó thì Ngài lại từ ống tre đi ra, hình thể không hề bị tổn thương chút nào. Tất cả dân chúng trong làng thấy thế kinh sợ, đều phát nguyện quy y với Ngài và từ ấy phát tâm kính tin Tam bảo, nhà nhà ăn chay niệm Phật tụng Kinh, bỏ hẳn nghiệp xưa. Hóa Vị Phạm Tăng có lần hóa hiện thành vị Tăng, tay cầm nhành dương liễu, chân mang guốc cây hướng về Bảo Sơn mà đi, bọn Vương Lạc cưỡi ngựa đuổi theo không kịp nên tức giận giương cung bắn nhưng tất cả những mũi tên ấy đều hóa thành Liên hoa. Có một hôm, Ngài đi đến một địa phương, thì bay lên không trung hóa thành Quán Âm Bồ Tát, phóng quang rực rỡ chiếu khắp trần gian, dân chúng bị quang minh chói lòa mắt không dám ngước mặt nhìn xem. Bấy giờ, có một ông lão nói rằng: “Thánh tượng này tôi có thể đúc được.” Mọi người nghe nói sanh tâm vui mừng, xuất tiền ra cúng dường để Ông lão mua vàng đúc Thánh tượng Đại Sĩ. Pho Thánh tượng ấy đến nay vẫn còn để cúng thờ. Hóa Vị Phạm Tăng ở Tây Vực, hiện thân hiệu là Bồ Đề Đạt Ma. Vào niên hiệu Bảo Hòa, năm thứ hai, Ngài vào đến Trung quốc, nói với Quốc vương: “Ta là Tôn giả A Ta La Quán Âm của Liên Hoa Bộ, nước Tây Vực, đến quốc độ của nhà vua để giáo hóa, hiện nay nên để Tôi ở chổ nào?” Dứt lời thì Ngài nhập định. Triều nhà Đường, Ngài hiện thân thành một Đại sư ở Tây Vực. Vào niên hiệu Long Sóc năm đầu, đi đến phường Tín Nghĩa, tỉnh An Huy để mộ hóa một khu đất để sáng lập già lam. Khi xây nền thì Đại sư đào được một bia cổ của chùa Hương Tích và một tôn tượng bằng hoàng kim, trên chiếc bia ấy có bốn chữ Phổ Môn Chiếu Vương Phật. Đại Sư bèn kiến lập già lam nơi đây. Đến niên hiệu Cảnh Long năm thứ hai, Trung Tôn Hoàng Đế sai sứ giả bái thỉnh Đại Sư về nội cung, tôn làm Quốc Sư và thỉnh Ngài đến chùa Tiến Phước cư trú. Thường ngày Đại Sư ở một mình trong Tịnh Thất, trên đảnh của Ngài có một cái huyệt, ban ngày Ngài dùng bông gòn đậy lại, ban đêm thì lấy ra.Mùi hương từ trong đảnh bay ra thơm ngào ngạt, đến sáng thì mùi hương lại đi vào trong đảnh. Hàng ngày, khi Đại sư rửa chân thì mọi người đến xin nước ấy uống, tất cả cố tật đều lành. Một ngày nọ, Văn Đế cho người mời Ngài vào điện để đảnh lễ rồi bạch rằng: “Kính bạch Tôn Sư, nơi kinh kỳ trải qua vài tháng không có một hạt mưa, Trẫm vô cùng lo buồn, cúi xin Đại Sư giải trừ nổi lo buồn này của Trẫm.” Đại Sư liền đem nước từ Tịnh bình rưới khắp không trung, trời đang quang đãng, nắng như thiêu đốt thì đột nhiên mây đen bủa khắp và trời đổ xuống một trận mưa lớn. Văn Đế vô cùng vui mừng, đảnh lễ Đại Sư và phát nguyện phụng hiệu tên chùa mà Đại sư đang ở. Đại Sư bèn nói: “Hoàng Thượng muốn sắc tứ hiệu Chùa nên dùng Phổ Chiêu Vương”nhưng do Văn Tôn Hoàng đế muốn tránh tên húy của Thiên Hậunên đổi lại thành tên Phổ Quang Vương Tự. Vào niên hiệu Cảnh Long, năm thứ 4, ngày 2 tháng 3, Đại Sư ngồi viên tịch ở chùa Kiến Phước, Tường An. Hiện nay ngôi bảo tháp của Ngài vẫn còn ở huyện Long Hòa. Sau khi Đại Sư viên tịch, Trung Tôn Hoàng đế hỏi Vạn Hồi Hòa thượng rằng: “Tăng già Đại Sư là người chi?” Vạn Hồi Hòa Thượng đáp: “Chính là hóa thân của Quán Âm Bồ Tát. Như trong Phẩm Phổ Môn nói: đối với người nên dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni để độ thoát, tức thì hiện thân ấy để thuyết pháp, nên chính Ngài hóa hiện làm thân của Đại Sư vậy.” Đại Sư lúc mới đến Trường An thì Vạn Hồi Hòa Thượng có đến yết kiến, chí thành đảnh lễ. Đại Sư vỗ đầu bảo rằng: “Tiểu Tử, tại sao làm gì ở đây lâu như vậy, nên đi đi.” Quả nhiên sau khi Đại Sư viên tịch thì Vạn Hồi Hòa thượng sau vài tháng cũng bổng nhiên tạ thế. Sự tích giáo hóa của Đại Sư rất nhiều. Trong bổn truyện về Ngài, có ghi chép đủ, ở đây chỉ lược ghi một sự tích mà thôi. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 3).

28. Triều nhà Đường ở tại xứ Thiểm Hữu, tập tục của dân chúng địa phương này chuyên cưỡi ngựa tập bắn, đối với Phật pháp, danh hiệu Tam Bảo họ còn chưa biết huống chi là quy y, thọ giới, ăn chay, niệm Phật và tụng Kinh. Vào niên hiệu Nguyên Hòa, năm thứ 12 nhà Đường, thì một hôm bổng xuất hiện một mỹ nữ xách giỏ cá rao bán. Tất cả nam tử trong vùng ấy, đua nhau muốn cưới mỹ nữ làm vợ. Mỹ nữ ấy phân trần: “Tôi đây thân gái chỉ có một, làm sao có thể làm vợ hết cho các Anh. Giờ Tôi quyết định một việc cho các Anh thực hiện, mỗi người sẽ được Tôi trao cho một quyển Kinh Phổ Môn, chỉ trong một hôm phải tụng cho thuộc lòng. Sáng ngày mai, nếu ai đọc Kinh thuộc lòng thời Tôi sẽ ưng thuận làm vợ người ấy.” Sáng ngày hôm sau, trong số các nam tử đến trước mỹ nữ tụng Kinh trả bài thì những người tụng thuộc có trên hai mươi người. Bấy giờ Mỹ nữ lại phân trần với họ: “Tôi là phận thân gái không thể làm vợ một lúc 20 người được nên giờ đây, Tôi trao cho các Anh quyển Kinh Kim Cang Bát Nhã, cũng trong một đêm nếu người nào tụng thuộc, không sót một chữ thời Tôi sẽ ưng thuận làm vợ người ấy.” Sáng hôm sau, những người này đến trả bài, số người thuộc Kinh được mười người. Mỹ nữ cũng nói lời từ chối như trước và lần này trao cho bộ Kinh Pháp Hoa và kỳ hạn cho trong ba ngày, nếu người nào đọc tụng thông suốt thì sẽ ưng thuận làm vợ người ấy. Sau ba ngày, chỉ có chàng họ Mã là tụng Kinh Pháp hoa thông suốt, thế là mỹ nữ không thể từ chối được nữa. Chàng thanh niên họ Mã, sắm sửa lễ vật hậu hĩnh để rước mỹ nữ về nhà, sau khi làm lễ Ông bà, đến tối trong giờ phút chuẩn bị động phòng thì mỹ nữ nói hiện giờ đang bị trọng bệnh nên cầu xin cho ở riêng một phòng khác. Chàng họ Mã và người trong gia đình đều ưng thuận. Khi bước vào phòng riêng, chưa kịp dùng thuốc thì chỉ trong chốc lát đã qua đời. Có điều lạ là sau khi chết, thông thường các tử thi thường để hai, ba ngày thì mới sình trương rục rã, còn mỹ nữ sau khi tắt thở thì tử thi sình trương ngay lập tức, thúi hôi không tả xiết, nên người nhà lập tức lo tẩn liệm, sáng ngày làm lễ an táng. Sau khi làm lễ tống táng cho vợ xong, chàng họ Mã mỗi ngày đến phần mộ khóc than kể lể. Đến ngày mở cửa mã thì đột nhiên có một vị Hòa thượng mặc y tử bào đến nơi phần mộ, thấy thanh niên họ Mã khóc than kể lể, Ngài hỏi lý do. Thanh niên họ Mã đem hết đầu đuôi câu chuyện thuật lại cho Hòa thượng nghe. Ngài nghe xong liền bảo rằng: “Đấy chẳng qua là do Ông thấy sai lầm, chứ làm gì mà thân người vừa chết lại sình trương hôi thúi, giờ Ông nghe lời Ta, cho người đào mã giở hòm ra xem.” Quả nhiên sau khi đào mã, giở hòm ra xem thì trông thấy trong ấy, phần xương của mỹ nữ đều là những thỏi hoàng kim sáng rực. Tất cả dân xứ Thiển Hữu nghe tin đua nhau đến xem. Ai nấy đều lấy làm lạ và tán thán là sự việc chưa từng có. Hòa Thượng đứng giữa mọi người rồi trịnh trọng dạy rằng: “Mỹ nữ này chính là hóa thân của Quán Âm Đại Sĩ, vì thương xót các Ông si mê, gây tạo vô biên tội ác rồi gánh chịu trầm luân thống khổ mà thân người quý báu muôn thuở mới có được một lần, nên Ngài phương tiện thị hiện để hóa độ các Ông thế thôi”. Dứt lời, vị Hòa thượng nọ bay lên không trung biến mất. Thanh niên họ Mã kia, vốn là con của một nhà triệu phú, bổng nhiên được một chiếc quan tài đầy vàng trong ấy thì đâu biết dùng vào việc gì nên chàng trai họ Mã vô cùng cảm động thâm ân của Bồ tát đã từ bi hiện thân hóa độ mình, bèn dùng hết số vàng ấy xây một đại điện và rước thợ đúc kim thân Bồ tát để thờ cúng. Từ đấy dân chúng địa phương Thiểm Hữu bỏ hẳn tập tục cưỡi ngựa bắn cung, ngoài giờ lo công việc làm ăn lương thiện thì ngày ngày mai chiều đến nơi bảo điện thờ Quán Âm Đại Sĩ, lễ sám, tụng Kinh niệm Phật rất tinh cần. Riêng chàng họ Mã thì không còn nghĩ đến chuyện vợ con thế tục nữa nên cắt tóc xuất gia, suốt đời an trú trong già lam này mà tự tu, đem Phật Pháp soi sáng cho mọi người. (Trích Quán Âm Cảm ứng truyện).

29. Triều nhà Đường có Thầy Thích Huệ Khoan, là người ở Thiên Trúc, xứ Ích Châu. Tương truyền Thầy là ứng thân mười đời của đức Quán Âm. Khi hạ sanh Thầy, có những tướng khác lạ thù thắng. Đối với tất cả kinh luật, khi Thầy đã nghe hay xem qua, thì nhớ lại không sót một chữ. Những kinh luật chưa nghe nhưng nếu có ai tham vấn thì Thầy giải đáp một cách thông suốt. Tập tục của dân chúng xứ Thiên Trúc từ trước cho đến bấy giờ là tin tưởng theo ngoại đạo, nhưng từ khi Thầy Thích Huệ Khoan đem giáo lý Phật Đà phổ biến trong nhân gian, dân chúng đều bỏ tà về chánh. Những thoại ứng tu hành cùng việc hoằng hóa của Thầy không thể nào tính kể. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2).

30. Triều nhà Đường, vào niên hiệu Thiên Phước, năm thứ tư, Đạo Dục Thiền Sư tiến hành xây một thảo am tại phía Bắc núi Thiên trúc để ẩn thân chuyên tu, thức ăn hàng ngày là hoa quả trong núi rừng, còn y phục được bện từ cỏ, đạo hạnh tuyệt vời của Thiền Sư không ai có thể sánh nổi. Một đêm nọ, ngọn núi phía trước am bổng có quang minh chiếu sáng rực rỡ lên đến trời xanh, Thiền Sư đến nơi phát ra ánh sáng thì tìm thấy một khúc gỗ rất quý và đẹp, hiếm có trong đời nên mướn thợ khắc thành Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ. Một đêm, Ngài nằm mộng thấy một người mặc bạch y nói rằng: “Thánh Tượng điêu khắc đã xong, sáng mai sẽ có một vị Cao tăng từ Lạc Vương đến đây, vị tăng ấy có mang xá lợi đức Cổ Phật theo bên mình. Thầy nên chí thành cầu xin cho kỳ được.” Sáng ngày, quả nhiên có vị Tăng đến. Thiền Sư vâng lời dạy trong mộng, cầu xin được ba hạt xá lợi, đem để trên phần đảnh môn của Đại Sĩ. Từ ấy về sau, xá lợi thường phóng bạch quang rực rỡ nơi nhục kế, sự linh dị ấy rất rõ ràng. (Trích Bảo Lâm Cao Truyện Sự lược).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

31. Triều nhà Tống có Phật tử Vương Viên, từ lúc ấu thơ đã bị lưu lạc và ngụ nơi xứ Giao Chỉ. Nơi ấy có một vị Pháp sư hiệu là Hiền, đạo cao đức trọng. Khi vừa nhìn thấy Vương Viên, Pháp sư biết là người có thiện duyên với Phật pháp nên cho Viên thọ Tam quy ngũ giới. Sau khi truyền trao quy giới xong, Pháp sư lại tặng Viên một Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát bằng hoàng kim và căn dặn Viên khi về bổn quốc nên cung thỉnh Thánh tượng Bồ tát về nhà cúng dường. Viên vâng lời, cùng với hai người em thỉnh tượng về, hằng ngày chí thành lễ bái cúng dường rất tinh cần. Thời gian sau vì nhà Viên hư sập, phải sửa sang, tôn tượng không nơi thờ phụng nên Viên phải đem gởi trong chùa ở Kinh Sư. Bấy giờ nhằm lúc nhân dân trong nước đua nhau đúc tiền vàng, bọn trộm cướp do vậy nên thường tìm đến các chùa để trộm những tượng Phật bằng vàng, hủy phá để lấy vàng cho việc đúc tiền. Tôn tượng Quán Âm Viên gởi trong chùa được vài tháng thì một hôm trong lúc Viên đang nghỉ trưa, chợt thấy tôn tượng đến trước mặt mình. Khi thức giấc, Viên lấy làm lạ và sanh nghi, lại thấy nóng ruột nên vội đến chùa đang gởi tượng, dù mặt trời đã về chiều và gần lặn rồi vẫn cung nghinh Thánh tượng trở về nhà. Ngay đêm đó, hơn mười bức tượng bằng vàng tại chùa Nam Giản đều bị kẻ trộm mang đi hết. Không lâu sau, Thánh tượng bằng vàng ở nhà Viên trong đêm tối, phóng quang minh rực rỡ, chiếu sáng ra cả vùng phụ cận đến hơn ba dặm. Ban ngày thì thâu quang minh của Thái dương, ban đêm thì che khuất ánh sáng của mặt trăng, đèn, nến,… Sự việc này anh em của Viên cùng với hơn 10 người nô bộc trong nhà đều nhìn thấy rõ, những người đủ phước duyên thì được thấy thường xuyên, ngoài họ ra thì rất ít người được trông thấy sự kiện này. (Trích Minh Tường Ký).

32. Triều nhà Thanh có Phật tử Trương Minh Đạt là người ở Thuận Đức. Mẫu thân là Đặng Thị Thường, sanh con nhưng không nuôi được, do vậy Bà đến trước Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ lễ bái cầu đảo. Ngày sanh ra Minh Đạt, quang minh chiếu khắp trong nhà. Lúc chưa được năm tuổi thì mẫu thân qua đời, bà nội của Đạt là Dư Thị xem cháu nội như con muộn của mình, tận tâm săn sóc dạy dỗ. Khi nội của Đạt lâm chung để lại số bạch kim gần cả trăm lượng, lúc ấy Đạt cũng đã khôn lớn nên đem số bạh kimấy cất kỹ. Năm Mậu Tý bị mất mùa, dân chúng đói khát, đa số bị chết nên Đạt vội lấy số bạch kim của Nội để lại, chẩn thí cho mọi người. Nhờ việc làm từthiện này mà nhiều người được cứu sống an toàn trong năm cơ cẩn. Trong số quyến thuộc của Đạt, có vài người thấy việc làm thiện của Đạt thì không những không hoan hỉ tán thán mà còn sanh tâm tật đố và đem việc này sàm tấu với phụ thân Đạt, cho rằng Đạt tự do lén lấy tiền của để làm việc chẩn thí. Đạt bị hàm oan nhưng không thể biện minh. Sau đó có người từ xa nghe Đạt có lòng từ bi, bố thí khắp trong nhân gian nên đến cầu xin Đạt giúp cho họ qua cơn đói thiếu nhưng do Đạt giờ đây không còn một đồng nên làm cho người từ phương xa ấy khổ cực đến mà không được mãn nguyện. Trải qua vài ngày, người ấy vì đói khát bức ngặt mà chết. Đạt nghe xong lòng buồn vô hạn, tự nghĩ do mình kém phước nên thiếu phương tiện để giúp cho mọi ngườihết cơn nguy cấp. Vì nhân duyên này mà Đạt nảy sinh ý nghĩ nếu được thác sanh vào chốn vương giả thì có thể có tiền của dồi dào mà tự do cứu tế. Sau khi có ý nghĩ ấy thì lên ngọn núi cao thờ Quán Âm Đại Sĩ ở bổn xứ, đến trước Thánh tượng lễ bái và chí thành phát nguyện: “Nam mô Đại từ Đại bi tầm thinh cứu khổ Quán Thế Âm Bồ Tát, nguyện Ngài thùy từ chứng minh gia hộ để cho con được mãn nguyện.” Nguyện xong thì Đạt từ trên núi cao gieo mình xuống. Khi gieo mình xuống núi thì thân thể của Đạt rơi xuống một tảng đá dưới chân núi, nhưng kỳ lạ thay, Đạt vẫn ngồi an nhiên trên tảng đá như trên một cái nệm, hoàn toàn không bị thương tổn chút nào. Đạt tự nghĩ: “Đây chắc là do sức oai thần từ lực của Bồ tát gia hộkhông cho mình xả thân.” Từ đó, Đạt phát tâm ly trần, trì trai niệm Phật. Lúc mười bảy tuổi, Đạt thưa với Phụ thân, tỏ bày ý nguyện được xuất gia. Do Đạt là con một nên Phụ thân vừa nghe qua thì nổi giận lôi đình, quở trách thậm tệ. Đạt nghe xong không dám trái lệnh, cúi đầu lễ tạ rồi trở về nhưng ý hướng xuất gia thì không lúc nào xao lãng. Bấy giờ Đạt bèn tính đến hai phương sách: một là đến Ông nội cầu xin để nhờ Ông khuyên nhủ cha mình; hai là nhất tâm thầm niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ cầu Ngài minh gia cho mau toại nguyện, nhưng vẫn không được toại nguyện trong thời gian ngắn. Một hôm vào khoảng nửa đêm, Đạt nằm mộng thấy một người mặc bạch y đến bảo rằng: “Phật tử phải đi mau, đừng để thời gian tốt trôi qua.” Đạt giật mình thức dậy, vội vàng mở cửa bỏ nhà đi. Theo lệ thường, vào lúc ban đêm, tất cả cửa cổng trong làng đều đóng, nhưng đêm nay thì trái lại cửa cổng lại mở, đường xá vắng tanh, lại nhằm lúc trời mưa tầm tã, đêm tối như mực chẳng hề biết hướng Đông Tây, chỉ có mấy con đom đóm bên cạnh Đạt, khi bay thấp lúc lên cao, nhờ đó mà Đạt nương theo chúng để tiến bước. Đi hơn mười dặm dặm thì trời bắt đầu sáng, ngay trước mặt Đạt là một cảnh già lam đồ sộ ở non Đảnh Hồ. Đạt vào chùa lễ bái và được Hòa thượng làm lễ thế phát và cho pháp danh là Khai Quýnh. Danh hiệu Khai Quýnh với hàng Phật tử tại gia thì không biết nhưng các vị xuất trần thì không ai chẳng biết vì người xuất gia đều học Bộ Quy Sơn Cảnh Sách mà trong Bộ Kinh này, lời ký là do Ngài Khai Quýnh soạn. Nơi đây xin trích lục một đoạn: “Vị yểm trần lao, cầu thoát sanh tử. Hưu tâm tức niệm, đoạn tuyệt phan duyên. Cố danh xuất gia, khởi khả đẳng nhàn lợi dưỡng mai, một bình sanh. Trực tu hướng đầu toát khai trung gian phóng hạ, Ngộ thinh, ngộ sắc như thạch hương. Tài hoa kiến lợi kiến danh, Văn trung. Huống tùng vô thỉ nhĩ lai, bất thị bất tằng Kinh lịch, như Kim bất biến cảnh đãi hà thời.”Thầy Khai Quýnh ở đó không lâu thì mắc chứng bệnh trầm kha. Một ngày nọ, thân sắc của Thầy biến đổi, chỉ có hơi thở ra mà không có thở vào, mọi người trông thấy đều cho là trăm phần khó sống. Lúc bấy giờ, Thầy chỉ một lòng giữ gìn chánh niệm, mãi nhớ tưởng đến Thánh hiệu đức Quán Âm, giây lát bỗng nhiên sống lại và hoàn toàn bình phục như thường. Thầy tự biết nhờ đức từ bi cứu tử hồi sanh của Đại sĩ nên sống lại, nên rước thợ vẽ Thánh tượng Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát để trọn đời phụng thờ. Trong lúc vẽ tượng, Thầy kiết đàn trì tụng Chú Đại bi. Hàng ngày trước khi vào đạo tràng, Thầy đều tắm gội, thay đổi y phục. Riêng người vẽ tượng, Thầy bảo phải trai giới thanh tịnh và ngay lúc cầm bút vẽ phải dùng giấy bịt hơi trong miệng nữa, các loại màu sắc không được dùng ngưu dao (da trâu), các thứ giấy viết, mỗi mỗi đều được gia trì thần chú. Sau khi tượng vẽ xong, đêm ấy từ nơi tượng phóng đại quang minh khắp từ trong đạo tràng ra đến ngoài rừng cây, tất cả đều ánh màu vàng rực rỡ. Đương thời ai thấy cũng kinh ngạc và tán thán. Cũng do nhân duyên này mà những người đã có sẳn tín tâm với Đại Sĩ càng tăng trưởng tín tâm, những người chưa phát tín tâm thì nhân cơ hội này mà tín tâm sanh khởi. (Trích Quán Âm Từ Lâm Tập).

33. Triều nhà Thanh có vị Đại sư; lúc tám tuổi thì cha mẹ liên tiếp qua đời. Thầy đêm ngày buồn rầu đau khổ, ngày quên ăn, đêm bỏ ngủ. Mỗi khi thấy những người đồng niên cha mẹ còn, nước mắt Thầy tuôn trào không sao ngăn được. Sau đó Thầy có nghe nói đến việc trì trai niệm Phật có thể tương trợ cho vong nhân, nên lập tức dứt sạch các thứ huyết nhục không dùng. Về sau khi được xem Lục Tổ đầu kinh, Thầy cảm ngộ và biết rõ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và có thể thành Phật. Bấy giờ Thầy nguyện xuất gia, mong lập thân hành đạo để mang lại lợi ích cho cha mẹ đã qua đời. Hàng ngày mai chiều Thầy lễ Phật, tụng kinh niệm Phật rất tinh cần. Mỗi năm gặp lễ Vu Lan, Thầy đều cử hành lễ truy tiến rất trang trọng. Mùa Xuân năm Đinh Dậu, Thầy mua lụa bạch diệp Tây dương, rồi mướn thợ vẽ tượng Thiên thủ Thiên nhãn Đại bi Quán Thế Âm chiều cao bảy thước. Khi vẽ tượng, Thầy bảo thợ chỉ dùng nước thơm trộn với màu để vẽ, tuyệt nhiên không dùng các thứ mực nấu bằng da trâu, lại bảo thợ vẽ phải trì trai, tắm gội mỗi ngày. Sau khi đã hoàn thành Thánh tượng, Thầy đem tất cả đồ của đàn việt bố thí đem bán để kính thỉnh chư Tăng vân tập. Trước tiên Đại Sư giảng nói Đại bi, sau đó kiết đàn tu Sám pháp hai mươi mốt ngày. Do tâm chí thành cảm đến Quán Âm Bồ Tát nên nơi thân của Thánh tượng phóng quang minh tam sắc, hai đóa hoa sen xanh đỏ mà Bồ tát cầm trên tay thường phóng quang minh rất đẹp. Sự việc này tất cả Tăng tục đều trông thấy, muôn người như một, dị khẩu đồng âm, tán thán là việc chưa từng có. Từ đó về sau, đại phàm chúng tăng ở trước Thánh tượng lễ sám tụng kinh niệm Phật, hoa sen ấy thường phóng bạch quang, mọi người trông thấy không ai chẳng hoan hỉ và phát đại tín tâm. Do nhân duyên này, Đại sư nghiên cứu toàn cầu trong Tam tạng, cùng kiểm duyệt các truyện ký, căn cứ theo chổ thấy nghe của mình biên soạn thành bộ sách mang tên “Quán Âm Từ Lâm Tập”, tất cả có ba quyển. (Trích Quán Âm Từ Lâm Tập Ký).

34. Triều nhà Nguyên, Ưu Đàm Tôn chủ là người Đơn Dương. Lúc hai mươi tuổi, Ngài xuất gia tại chùa Đông Lâm nơi Ngô Sơn, về sau về ở tại chùa Diệu Quả, xứ Đơn Dương. Vào niên hiệu Chí Đại, năm đầu nhà Nguyên, vua Nhân Tôn hạ chiếu bãi bỏ Liên Tôn. Tôn Chủ nghe xong cả sợ nói rằng: “Mô Phật! Đâu có được. Tôi nương giáo pháp Liên Tôn gần ba mươi năm năm mà để cho giáo pháp diệt mất trong đời của Tôi hay sao?” Nói xong Ngài liền đến trước Phật đài, thành tâm đảnh lễ tác bạch và phát nguyện nhất định phải khôi phục Liên Tôn. Bấy giờ Ngài trước tác Bộ Liên Tôn Bảo Giá mười quyển. Nơi đây xin trích bốn đoạn rất thiết yếu có nội dung cảnh sách người tu Tịnh nghiệp. Bốn đoạn văn ấy như sau:

“Đại phàm người tu theo pháp môn Tịnh độ, rõ ràng là phải đối phó với sanh tử nên phải xem đó là một sự kiện rất thiết yếu, chính mình phải thực hành mới được, chẳng phải nói suông cho xong chuyện là thôi, nên nghĩ vô thường mau chóng, thời gian là vàng ngọc, không đợi người nào. Nếu trong tâm bán tín bán nghi, nửa tiến nửa thối, khi vô thường đến thì biết nương tựa vào đâu và làm sao thoát khỏi luân hồi? Nếu tín tâm đã vững, thì từ ngày hôm nay phải phát tâm đại dũng mãnh, đại tinh tấn, không luận ngộ lý hay chẳng ngộ lý, thấy tánh hay không thấy tánh, chỉ cần chấp trì một câu A Di Đà Phật như tựa vào một tòa núi Tu Di, không thể làm lay động được, giữ tâm cho chuyên, ý cho nhất. Về việc niệm Phật, có nhiều cách, hoặc tham cứu mà niệm, hoặc quán tưởng mà niệm, hoặc trong tâm chuyên nhớ nghĩ mà niệm, hoặc niệm thầm, niệm ra tiếng hoặc chuyên niệm, hoặc hệ niệm hoặc lễ bái mà niệm hoặc tu theo pháp thập niệm. Khi niệm Phật, cố gắng để tâm duyên theo tiếng niệm Phật, thường nhớ thường niệm đừng để tâm xao lãng, sớm niệm, chiều niệm, tối cũng niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm, đừng để tâm niệm luống qua. Phải giữ câu niệm Phật luôn trong tâm mình, từng ngày, từng giờ, từng phút, miên miên mật mật, giữ ý nghĩ, không cho xen tạp niệm như gà ấp trứng, thường phải làm cho hơi ấm tiếp nhau. Niệm Phật được như thế là tu hành đã đến mức Tịnh niệm nối nhau, niệm Phật không gián đoạn. Lại thêm dùng trí quán chiếu tức thời biết rõ Tịnh độ chính là tâm của mình, đây chính là công phu tu tiến của bậc thượng trí. Cố gắng thực hành được như vậy và giữ tâm cho vững, dù gặp phải những hoàn cảnh khổ vui, thuận nghịch, hiểm trở trước mắt cũng chỉ giữ một câu niệm Phật này, không có một niệm đổi khác, không có một niệm biếng lười và thối thất, cũng không có một niệm tạp tưởng cho đến suốt đời hẳn không có một niệm gì khác thì chắc chắn được vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới. Nếu có thể dụng công tu tập như vậy thì vô minh sanh tử trong nhiều kiếp tự nhiên dứt sạch, chính mắt được nhìn thấy Từ phụ A Di Đà không ngoài tự tâm, công hạnh viên mãn, nguyện lực giúp nhau, đến lúc lâm chung chắc chắn sẽ vãng sanh Thượng phẩm. Nếu người niệm Phật nội tâm trần cấu chưa sạch, khi ác niệm sanh khởi cần phải tự kiểm điểm lấy mình, những tâm niệm ác ấy có nhiều dạng, chỉ lược kể vài thứ như sau: tâm san than, tâm tật đố, tâm sân hận, tâm si mê, tâm luyến ái, tâm giả dối, tâm ngã nhân, tâm cống cao, tâm dua nịnh, tâm tà kiến, tâm khinh mạn và đối với những hoàn cảnh thuận nghịch, tùy theo đó mà sanh tâm bất thiện. Khi những tâm niệm nói trên sanh khởi, hãy cất cao tiếng niệm Phật, thâu nhiếp trở về chánh niệm, đừng để cho những ác niệm ấy tương tục, cần phải diệt trừ ngay cho sạch hết, đừng để cho nó phát sanh trở lại. Đối với bao nhiêu tâm niệm tốt như tâm thâm tín, tâm chí thành, tâm phát nguyện hồi hướng, tâm từ bi, tâm hỉ xả, tâm khiêm hạ, tâm bình đẳng, tâm phương tiện, tâm nhẩn nhục, tâm bố thí, tâm trì giới, tâm thiền định, tâm tinh tấn, tâm Bồ đề và tất cả thiện tâm khác thường phải giữ gìn cho luôn được tăng trưởng. Lại cần phải xa lìa luật sai phạm hạnh, đoạn ác lục nghi nghĩa là phải thận trọng đừng nuôi các thứ gia súc như gà, vịt, heo, dê, v.v... lại cũng không được săn bắn, chài lưới. Nên biết chư thượng thiện nhân trong cõi nước Cực lạc đều là do tránh xa các việc ác, tu tập tất cả pháp lành mà được vãng sanh Tây phương Cực lạc. Đối với quả Vô thượng Bồ đề không thối chuyển, người niệm Phật phải học theo Phật, phải lấy việc bỏ dữ làm lành làm mục đích chính của mình.

Đại phàm người tu theo pháp môn niệm Phật, muốn chắc chắn vãng sanh về Tây phương Tịnh Độ phải thường nghĩ tất cả mọi thứ trên thế gian đều là vô thường, có thành thì có hoại, có sanh sẽ có tử, nếu không được nghe Phật pháp thì bỏ thân rồi lại thọ thân, luân chuyển trong Tam giới lục đạo, không biết ngày nào mới ra khỏi. Ngày nay chúng ta có chút phước duyên được nghe Chánh Pháp của Phật, lại hân hạnh được tu theo pháp môn niệm Phật, là pháp môn thượng Thánh hạ Phàm đồng tu, không luận người trí kẻ tu đều thực hành được, bởi pháp môn này nương nhờ tha lực của Phật nên lợi ích của nó thù thắng vô biên, tất cả các pháp môn khác đều không sánh bằng, vì lý do ấy mà chỉ có việc niệm Phật là điều đáng nhớ nghĩ. Khi bỏ báo thân này sẽ vãng sanh Cực lạc, hóa sanh trong hoa sen, hưởng thụ các sự an vui, thoát khỏi sanh tử luân hồi, đối với quả vị Bồ đề hẳn không thối chuyển. Đây chính là việc cần làm trong lúc bình sanh của bậc Trượng phu vậy!

Khi bị bệnh tật, cần có tâm hướng về trước nghĩa là nghĩ đến việc vãng sanh Tây phương, đừng sanh tâm lo sợ đến việc bệnh hoạn. Phải ngồi ngay thẳng, mặt xoay về hướng Tây, chuyên nhất tưởng đến Từ phụ A Di Đà Phật, cùng Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát và vô số các Phật đều hiện ở trước mặt mình rồi nhất tâm xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, mỗi câu đều liên tiếp không gián đoạn. Đối với các sự việc trên thế gian, đừng để tâm nghĩ nhớ và đừng tham luyến, nếu những tâm niệm ấy sanh khởi thì chỉ cầnmau mau xưng niệm Thánh hiệu của Phật vì trong mỗi câu Phật hiệu đều có công năng diệt trừ tội nặng sanh tử trong 80 ức kiếp, chỉ một câu niệm Phật này thì quyết định vãng sanh Tây phương. Nếu thọ số chưa hết thì tự nhiên thân được mạnh khỏe, tâm được an vui, tuyệt đối chớ sanh vọng tâm lưu luyến chuyện thế gian, nếu thọ số đã hết thì muốn sống cũng không được mà nếu thọ số chưa hết thì muốn chết cũng chẳng đặng, vậy đừng nên lo việc sống chết, cốt yếu phải lo việc vãng sanh Tây phương, không cớ gì phải sanh tâm lo sợ. Nếu xả ly được thân này thì cũng giống như bỏ đi bộ y phục rách rưới dơ bẩn mà được khoác lên bộ y phục mới quý báu tốt đẹp, xả ly thân phàm phu sanh tử để về cõi Phật được thân đẹp đẽ trang nghiêm, như thế chẳng phải là việc lớn duy nhất cần làm hay sao? Người tu pháp môn niệm Phật phải có tín tâm chân thật, phải hiểu niệm Phật để làm gì, đích xác là để vãng sanh Cực lạc thế giới. Suy nghĩ như vậy rồi thì phải nhất ý trì niệm một câu A Di Đà Phật và lấy một niệm này làm Bổn sư của ta, một niệm này chính là đức hóa Phật, một niệm này là viên dũng Tướng phá ngục, một niệm này là thanh bảo kiếm chém tà ma, một niệm này là chiếc minh đăng trừ diệt hắc ám, một niệm này là chiếc thuyền Từ đưa Ta qua biển khổ, một niệm này là phương thuốc màu chữa lành bệnh sanh tử, là đường tắt ra khỏi Tam giới, một niệm này chính là bổn tánh Di Đà, một niệm này mà đạt lý duy tâm Tịnh độ. Chỉ cần ghi nhớ một câu A Di Đà Phật này rõ ràng trong tâm, đừng để lạc mất, niệm niệm thường hiện tiền, niệm niệm không rời tâm, vô sự cũng niệm như thế mà lúc hữu sự cũng niệm như thế, khi an vui cũng niệm như thế mà lúc khổ bệnh hoành hành cũng niệm như thế, sống cũng niệm như thế mà chết cũng niệm như thế. Nếu làm được như vậy thì một câu A Di Đà phân minh, không mê muội, thì cần chi phải hỏi người khác tìm đường về nhà.”

Sau khi trước tác bộ sách nói trên, Ưu Đàm Tôn Chủ đưa đến các Tòng lâm ở khắp nơi để cầu các chư Thượng đức chứng giám nhưng không ai sửa đổi một chữ. Sau đó, họ cùng đem bộ sách ấy dâng lên cho Nhân Tôn Hoàng đế, cầu xin khôi phục phái Liên Tôn. Hoàng đế đọc xong thì rất hoan hỉ nên phong cho Ưu Đàm làm Tôn chủ của Liên Tôn và ban cho bảo hiệu Hào Khê Tôn giả. Đến niên hiệu Chí Thuận, năm đầu nhà Nguyên, Tôn Chủ thân không bệnh khổ, an vui niệm Phật rồi viên tịch. (Trích Liên Tôn Bảo Giáo).

35. Triều nhà Minh, Thánh tịnh Ni sư là người ở Đông Cương, tỉnh Quảng Châu. Từ lúc nhỏ, Ni sư đã phát tâm thọ Tam quy, Ngũ giới và ăn chay trường. Về sau Ni sư xuất gia, y theo lời Phật dạy, thọ giới Sa Di Ni Thức Xoa Má Na, kế đến thì thọ giới cụ túc. Ni sư lấy việc niệm Phật làm trọng tâm duy nhất cho việc tu hành trong đời mình, không cần học kinh luật luận cho nhiều, vì thế nên Ni sư niệm Phật ngày đêm không hở. Ni sư từng đến nhà các Phật tử khuyến hóa tiền tài, phát tâm cúng dường để giúp Ni sư tạc pho tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát bằng gỗ chiên đàn. Sau khi tạc tượng xong thì qua năm sau Ni sư bị bệnh sơ sài, biết trước thời giờ vãng sanh nên bảo chúng đệ tử đến, rồi nói rằng: “Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ tát đã tự thân đến đây tiếp dẫn Thầy, Thầy nói để các con biết. Các con ở lại cố gắng tinh tấn niệm Phật. Thầy đi đây.” Ni sư nói mấy lời trên rồi nhắm mắt an tọa mà viên tịch. (Trích Kinh Lục Quán Âm Từ Lâm Tập).

36. Triều nhà Thanh, Trương Quốc Sĩ Diên là một học sĩ ở huyện Thường Thục. Trước kia, khi chưa phát tín tâm với Phật pháp thì Ông thường hay uống rượu, lấy hiệu của mình là Bất Mãn. Khi nghe ai nói đến Kinh Phật thì Sĩ Diên hiện sắc mặt bất bình rồi thốt lên những lời không tôn kính. Một ngày nọ, tình cờ xem qua lý Nhân Quả luân hồi, Ông bỗng nhiên tỏ ngộ đại sự sinh tử là vấn đề khổ nhất của nhân sinh. Sĩ Diên liền phát tâm nghiêm trì giới sát và bỏ hẳn việc uống rượu, lại tu hành rất tinh tấn. Hằng ngày Ông trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, chú Đại bi, và niệm Phật, thành tâm nguyện đem công đức này hồi hướng vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới. Ông cũng sám hối những lầm lổi của mình trước đây và vô lượng kiếp xưa, rồi sau đó Ông tinh tấn phát nguyện trường trai. Về sau Ông mắc phải chứng bệnh phong rất khổ sở, toàn phân bên phải tê liệt khô gầy, những người quen biết nhìn thấy khuyên Ông nên ăn thịt để bồi bổ. Nghe những lời khuyên ấy Ông chỉ buồn bã, cười nhẹ, nước mắt tuôn rơi, chấp tay tạ lỗi mà từ khước. Vào niên hiệu Đạo quang nhà Thanh năm thứ 19, vào mùa Xuân chính tay Diên Sĩ chép bản Phổ Môn rồi mướn người in ấn phổ biến khắp nơi. Trong những bản kinh Phổ Môn ấn tống, Sĩ Diên viết những lời khuyên nhủ tha thiết: “Thưa quý vị, xin đừng xem thường Kinh này rồi bỏ qua là điều đáng tiếc. Kinh này chính là thuyền Từ cứu chúng sanh ra khỏi bể khổ vậy.” Mùa Thu năm ấy, cư sĩ mộng thấy mình nuốt đóa hoa sen. Từ đó sự tu hành của Cư sĩ càng tinh tấn bội phần. Cư sĩ bảo em mình là Sĩ Đăng rằng: “Anh cần tụng Phẩm Phổ Môn đủ một vạn hai ngàn biến thì mới mãn nguyện của Anh.” Sĩ Đăng nghe nói, gạn hỏi duyên cớ thì Cư sĩ yên lặng chốc lát rồi đáp: “Em nên biết trong thế gian có bốn thứ khổ lớn là Sanh - Lão - Bệnh - Tử. Bản thân Anh đã trải qua ba thứ, còn một thứ nữa dù chưa đến nhưng nó cũng sẽ đến trong nay mai, đó là cái chết, vì thế lẽ nào Anh lại không chuẩn bị tư lương từ trước.” Niên hiệu Đạo Quang năm thứ 20, vào khoảng đầu hôm, ngày 11 tháng Giêng, Sĩ Đăng nằm trăn trở suốt đêm không thể nào ngủ được vì nghe Anh mình tụng phẩm Phổ Môn, âm thanh vang lanh lảnh. Sĩ Đăng đến nơi thì thấy Anh mình vẫn đang ngon giấc, hoàn toàn không nghe tụng kinh ra tiếng, hóa ra âm thanh đó chỉ là trong mộng của Ông thôi. Sáng ngày thức dậy cũng như thường lệ, Ông tụng Kinh xong thì có chút việc phải đến nhà bà con, khi mới đến nơi thì bổng bị đàm kéo lên nghẹt cổ, người nhà bà con tức tốc đưa cư sĩ về. Lúc về đến nơi thì Cư sĩ mê man bất tỉnh. Đến chiều ngày 13 tháng Giêng, thân hữu của Cư sĩ là Tạ Mộc Ngô đến thăm Cư Sĩ, bảo người nhà lên đèn, thắp hương trên bàn Phật và đưa xâu chuổi Cư sĩ thường ngày dùng niệm Phật để trước ngực thì đôi mắt Cư sĩ tự mở ra, sáng lên long lanh, toàn thân đều cử động nhưng hơi thở thì đã hết. Các Phật tử khác đến thăm nhìn thấy đều nói rằng đây là trạng thái Kiết tường thượng thệ, chắc chắn vãng sanh Tây phương. Nhưng riêng vợ Cư sĩ thì không tin, Bà đến trước quan tài của Ông khấn rằng: “Nếu quả thật Ông được vãng sanh thì trong giấc mộng, xin báo cho Tôi được rõ.” Trải qua năm ngày, đêm ấy người vợ nằm mộng, thấy một người đến báo rằng: “Ngươi đừng khóc! Người nhà của ngươi đã đi qua mười vạn ức Phật độ rồi.” Khi thức giấc, Bà lấy lạ về điềm mộng ấy, do lúc bình sanh, Bà này chưa bao giờ tụng kinh Di Đà nên đối với câu kinh có năm chữ “mười vạn ức Phật độ” thì không hiểu là ý nghĩa gì. Ngày hôm sau, bà đến chùa thỉnh vấn một Hòa thượng thì sau khi được Hòa thượng giải thích, bà mới biết chồng mình chắc chắn đã được vãng sanh và điềm mộng đúng là sự hiệu nghiệm rõ ràng. Sĩ Đăng tự ghi lại câu chuyện trên và từ đó theo gương của Anh mình, tu theo pháp môn Tịnh độ rất tinh tấn. Ông lại in một bộ sách tựa đề là Vãng Sanh Đề Mục Lục để lưu hành trong thế gian. (Trích Vãng Sanh cận nghiệp lục).

37. Triều nhà Thanh, Như Bang Hiền là người ở Triệu Hưng, lúc trẻ tuổi chuyên nghề buôn bán để nuôi thân, đến khi 60 tuổi thì Ông bỏ hẳn việc bán buôn. Hai ông bà phát nguyện tu Tịnh Độ, ngoài việc niệm Phật, hai ông bà từng đảnh lễ kinh Hoa Nghiêm tám bộ, thông thường gọi là lạy Kinh. (Lạy Kinh là cách thức lạy từ đầu đến cuối bộ Kinh, mỗi chữ là một lạy. Khi lạy Kinh Pháp Hoa thì xướng rằng: “Nam Mô Đại thừa Diệu pháp Liên hoa Kinh” sau đó lạy một lạy rồi tiếp tục đọc: “Như thị ngã văn, v.v... cho đến hết bộ cũng như vậy). Như thế, mà hai Ông bà Phật tử Bang Hiền đã lạy tám bộ Kinh Hoa nghiêm, mỗi bộ là tám mươi quyển. Bao nhiêu cũng đủ thấy công phu tu hành của hai ông bà sâu dầy biết chừng nào. Niên hiệu Đạo Quang, triều nhà Thanh năm thứ 18, Phật tử Bang Hiền được tám mươi sáu tuổi. Bà vợ Ông bệnh sơ sài trước Ông, sau đó Ông cũng bệnh nhẹ. Đến một hôm, Bà gọi con dâu đến bảo rằng: “Con chạy ra ngoài thất của Cha (ông bà sống riêng) chuyển lời của Mẹ báo cho Cha con biết rằng Mẹ sắp về Tây phương, Cha con ở lại mạnh giỏi, cố gắng niệm Phật rồi về sau.” Con dâu vâng lời đến thưa với cha chồng, Phật tử Bang Hiền bảo: “Con vào nhà thưa với Mẹ con hãy chậm lại ba ngày nữa để đồng đi với Cha luôn một thể cho tiện.” Con dâu vào nhà thưa lại thì Bà ưng thuận. Quả nhiên đến ngày thứ ba, cả hai ông bà an nhiên vui vẻ, niệm Phật mà vãng sanh. Bấy giờ nhằm ngày 23 tháng 6. (Trích Ngô Dần Đường Thuật).

38. Triều nhà Thanh, Trần Trinh Nữ là con gái của Trần Tiết Thanh Cư sĩ. Trinh Nữ lúc ấu thơ đã từng nghe cha mẹ giảng về thuyết nhân quả. Tuy còn nhỏ nhưng đã phát tâm kiên trì giới sát và thực hành hạnh phóng sanh. Khi lên mười bốn, mười lăm tuổi, Trinh nữ nghe ai bàn chuyện hôn nhân thì đều khóc lóc và bỏ cả ăn uống. Cha mẹ thấy thế bèn gạn hỏi chí hướng là muốn làm gì? Trinh Nữ liền thưa: “Con có ý nguyện đợi đến khi nghĩa lý trong Kinh có thể thông hiểu thì xin cha mẹ cho con được xuất gia làm Ni.” Mẫu thân của Trinh Nữ thì im lặng nhưng phụ thân thì vô cùng tán thán và chấp nhận. Thoạt đầu, Trinh Nữ chỉ đọc văn tự các Kinh nên không lưu tâm nghiên cứu tìm tòi. Hàng ngày nàng chỉ chuyên tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, kinh Di Đà, Thập Chú Đại bi, Bát Nhã tâm kinh. Dù đọc tụng nhiều nhưng nghĩa lý vẫn chưa hiểu. Vì vậy Trinh Nữ chỉ nhất tâm niệm Phật mà thôi. Đến lúc mẫu thân tạ thế thì Trinh Nữ phát nguyện trường trai. Năm lên hai mươi lăm tuổi, vào lúc tháng năm, Trinh nữ mắc chứng bệnh thời khí, nằm liệt giường hơn hai mươi ngày. Phụ thân của Trinh Nữ thấy con bệnh nên rất buồn thương, nhưng là người thông đạt Phật pháp nên Ông thường đến cạnh giường con để khuyên nhủ phải thường xuyên niệm Phật, quán Phật và nhất tâm cầu về Tây phương. Đến sáng ngày ba mươi, bệnh Trinh nữ càng nặng nên hôn mê bất tỉnh. Phụ thân thấy thế buồn đau rơi lệ, nhưng vẫn đến trước giường bệnh, kêu lớn tên con mà cảnh tỉnh, lại đem những cảnh an vui ở Cực lạc thế giới tuyên thuyết nhắc con phải gắng nhớ Phật, niệm Phật, đừng nghĩ đến việc khổ đau. Đến giờ Mùi (khoảng một - hai giờ trưa), Trinh nữ bảo người đở ngồi dậy, hướng về Tây phương, chấp tay niệm Phật. Trong chốc lát, Trinh nữ bổng mở mắt hỏi người xung Quanh: “Phụ thân Tôi ở đâu không thấy?” Mọi người đáp: “Ông có việc đã đi ra ngoài rồi”, do mẫu thân của Quan huyện bệnh nặng và phụ thân của Trinh nữ đang đi thăm nên không có ở nhà. Trinh Nữ nói: “Không hề gì! Không cần tìm kiếm và mời Người về. Khi Cha tôi về đến thì hãy hoan hỉ nói lại xin Người hãy yên tâm vì vừa rồi Tôi đã được hai đại Bồ tát dẫn đi đến Cực lạc Tây phương và được Từ phụ A Di Đà thọ ký cho Tôi vãng sanh hạ phẩm hạ sanh nhưng vì lòng chí hiếu với mẫu thân đã hai lần cắt thịt cánh tay trị bệnh cho Mẹ nên chuyển lên hạ phẩm trung sanh. Tôi may mắn được phụ thân luôn nhắc nhở niệm Phật nên xin Người hãy an tâm lo tu niệm, đừng để Tâm nhớ nghĩ đến Tôi.”Dạo trước, có người giúp việc trong nhà là họ Tôn, thấy Trinh Nữ trẻ tuổi mà tu hành tinh tấn nên Bà cũng phát nguyện trường chai, chuyên tâm niệm Phật. Giờ đây khi chứng kiến sự vãng sanh của Trinh nữ, Bà thốt lên rằng: “Tiểu Thư ơi, Tiểu thư là một đồng nữ trinh tiết mà cũng là bậc chân tu nên được sự lợi ích vĩ đại thù thắng này, còn chúng tôi đây là kẻ mới giữa đường phát tâm tu hành, sợ rằng sẽ không được như thế.” Trinh Nữ trả lời: “Xin Bà an tâm, không phải như thế đâu. Việc niệm Phật cần phải có tâm chân thiết, còn việc tu hành bất luận là nửa đường hay không nửa đường, tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi người.” Nói mấy lời trên xong thì Trinh nữ quay sang quyến thuộc dặn dò: “Quí vị trong lúc bình nhật niệm Phật mà không có tâm chí thành tha thiết, Tôi sợ e khó đắc lực. Nếu dùng tâm chí thành, chân thật mà niệm Phật, thì đến giờ phút này mới tự biết mình sẽ được sự thọ dụng rất lớn lao. Vậy xin quí vị cố gắng, Tôi xin đi đây.” Dứt lời Trinh nữ nhắm mắt tạ thế. Phụ thân của Trinh Nữ đến giờ Dậu mới về, nghe người nhà thưa lại tình hình giờ phút cuối cùng của con, Ông đến sờ trên đầu thì trên đảnh đầu của Trinh nữ vẫn còn ấm. (Trích Du Huệ Ức Sao).

39. Có một hiệu thư(*) không rõ họ tên, vừa quá tuổi cập kê bỗng nhiên tỉnh ngộ bỏ hẳn việc làm cũ, tự giữ mình tinh khiết, lại quy y Tam bảo, thọ trì năm giới. Đối với Phật Pháp lòng rất thâm tín, bấy giờ hiệu thư bỏ hẳn phấn son, chuyên tâm niệm Phật. Cô còn một người Mẹ già nên đến Thượng Hải thuê một gian nhà, rước Mẹ cùng về ở để mình phụng dưỡng và khuyên Mẹ niệm Phật. Riêng cá nhân Cô thì sớm chiều thành tâm niệm Phật không gián đoạn. Cô sửa sang phòng thành một nơi Tịnh thất, vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh, không khác gì chốn lan nhã và thỉnh Tôn dung của Từ phụ A Di Đà Phật về nhà để ngày đêm lễ bái cúng dường. Khi còn sống trong nghiệp phong trần, dù trong cảnh gió bụi nhưng Cô không buông lung phung phí như người khác nên dành dụm được số tiền kha khá. Số tiền ấy Cô đem gởi cho một Phật tử ở Việt Đông nhờ giữ dùm cho Cô. Đến năm Dân Quốc thứ 13, đầu tháng Hai, Cô nhờ bà giúp việc đến Việt Đông mời Lương Tiên sinh đến và thưa rằng: “Thưa Tiên Sinh, con tu hành chưa được bao lâu mà may mắn quá, con được giải thoát. Hôm nay làm phiền Tiên Sinh đến đây để con thưa Tiên sinh biết ngày ấy con sẽ về Tây phương. Về số tiền con gởi cho Tiên Sinh, sau khi con bỏ thân phàm này, xin Tiên Sinh dùng số tiền đó lo việc tống táng và trai Tăng làm phước, và để lại một phần cấp dưỡng cho mẹ già của con. Mong Tiên Sinh từ bi hoan hỉ mà chứng minh cho. Con thành tâm vạn tạ.” Lương Phật tử nghe nói thì đáp rằng: “Tuổi Cô chỉ vừa mới quá Xuân, tại sao vội nói đến việc ấy?” Hiệu thư yên lặng, đưa Lương Phật tử ra về. Đến ngày Cô đã hẹn như nói trên, bà giúp việc đến nhà Lương Phật tử báo tin Cô đã vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới. Phật tử họ Lương nghe xong thì hết lòng tán thán, vội vã đến nhà để lo việc tống táng, mọi việc đều làm y theo như lời Cô dặn và chừa lại một phần để cấp dưỡng cho mẫu thân Cô. (Trích Cận Đại Vãng Sanh truyện).

(*) Danh từ hiệu thư có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là vị quan vào thời đại xưa có trách nhiệm cất giữ sách vở và hiệu chính các sách, nghĩa thứ hai là cách gọi khác của kỷ nữ. Trong truyện này chính là nghĩa thứ hai.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • Lời bình luận của Phật tử biên soạn bộ Tịnh Độ Thánh Linh Cảm Lục:
Sanh ra làm người đã không được mang thân nam tử, lại phải mang thân nữ nhân, nghiệp ấy đã nặng rồi, nhưng làm nữ nhân mà còn lao vào con đường bán thân nữa thì nghiệp đã nặng lại càng nặng. Tuy nhiên “Nghiệp hải mang mang, hồi đầu thị nhạn (Nghiệp sanh tử luân hồi mênh mông không bờ mé) nhưng một khi hồi đầu tỉnh ngộ ấy chính là Cực lạc Niết bàn.” Chúng ta nên biết tất cả chúng sanh đều sẳn có Phật tánh, như cô hiệu thư trong truyện. Chính trong lúc tuổi quá thanh xuân mà có thể phản tỉnh hồi đầu, mạnh mẽ bỏ hẳn việc dâm uế, theo lời Phật dạy, y theo pháp môn Tịnh độ, gắng sức tu hành, chưa được vài năm liền như bổn nguyện, lại biết trước ngày giờ về Lạc bang. Nói đến đây chúng ta có thể thấy pháp môn Tịnh độ là pháp vi diệu, thù thắng đệ nhất mà lại thích hợp với mọi căn cơ nên Ấn Tổ thường nói: “Pháp môn niệm Phật là pháp môn Thượng Thánh - Hạ Phàm đồng tu, chỉ cần tín sâu, nguyện thiết thì chắc chắn được thành tựu, thế nên Quốc học tiến sĩ Vương Nhật Hựu soạn bộ Long thư Tịnh Độ, trong ấy có một thiên khuyến hóa các ả phong trần. Cô hiệu thư này đã vâng theo lời khuyên dạy ấy, bỏ hẳn thứ dâm uế ở Ta bà để nhất tâm niệm Phật, cầu về Tịnh độ ở Lạc bang. Hiệu thư hãy còn được như thế thì Tôi kính khuyên các hàng Phật tử hay chưa vào hàng Phật tử, hãy nên dõng mãnh phát sanh chánh tín, nhất là đừng sanh niệm nghi ngờ hủy báng để khỏi phụ với kiếp làm người như trong Khoa văn cúng thí thực có câu: Kim xin bất khả Di Đà niệm - Uổng tại nhân gian tẩu nhất tao. (Sống chẳng niệm Di Đà Phật hiệu - Uổng một đời chơi nẻo nhân gian).
  • LỜI PHỤ
Sáu truyện vãng sanh trên, một truyện của đức Ưu Đàm Tôn chủ là nói về sự chứng đắc cấp bậc thượng thủ trong tứ chúng. Hai truyện sau cùng nói về nữ Phật tử được chứng đắc thấp nhất trong tứ chúng. Khi còn ở Ta bà thì theo giai cấp giới phẩm có thấp cao, nhưng một khi đã vãng sanh về Cực lạc rồi thì dù có chậm mau, sai khác bất đồng, đồng dự vào ngôi bất thối, đồng chứng quả vô sanh, đồng thành Chánh giác. Sự tích vãng sanh có lợi ích lớn lao thì các sự tích trì niệm danh hiệu đức Đại bi Quán Thế Âm cũng thế nên dịch giả thành kính cố công biên dịch từ Hán văn ra Việt văn, mong đem lại sự lợi lạc cho các vị có tín tâm với Đại Sĩ, bất luận là đã vào hàng Phật tử hay chưa vào hàng Phật tử, nương theo đây mà tín tâm được tăng trưởng, những vị nào chưa phát tín tâm cũng nương theo đây mà phát tín tâm.

Tuy nhiên có điều dịch giả xin thưa: quý vị trong lúc bình nhật, thân thể khỏe mạnh, tâm thần sáng suốt nên chí thành cung kính, tinh tấn xưng niệm danh hiệu của Đại sĩ và tụng kinh Phổ Môn, chú Đại bi cho thường, đừng nghĩ rằng Bồ tát thần lực vô biên lại từ bi thương xót chúng sanh như thế nên để khi nào có tai nạn gì thì mới nghĩ đến cầu đảo xưng niệm, lúc thường ngày thì không cần lắm, như vậy là sai lầm lớn. Tại sao vậy? Vì khi tai nạn xảy đến, tâm ý chúng ta hoảng sợ, hãi hùng, tinh thần không minh mẫn, lúc ấy chỉ duy nhất có tâm trạng sợ chết thì làm sao mà niệm, cho dù có xưng niệm được cũng khó mà nhất tâm. Điều này quý vị đã xem qua các sự tích từ sáu thiên trong bộ sách này đã dạy rõ.

Dịch giả xin nhắc lại hai tích chuyện trong thiên Cứu tế ách nạn để chứng minh: Chuyện thứ nhất là đời Nguyên Ngụy, có Thầy Thích Pháp Lực, muốn xây cất Tịnh xá ở tại Lô Sơn để tu hành nhưng tài chánh quá thiếu thốn, Phật tử lại không ủng hộ nên Thầy cùng với Sa Di Minh Thám thân hành đi đến Thượng Cốc. Cả hai Thầy trò ở lại đó một năm để xin chỉ gai đem về bán để xây Tịnh xá. Công việc xong, hai thầy trò trên đường về chùa thì đi ngang qua một đầm hoang có đầy cỏ lau. Nhằm lúc mùa nắng bổng gặp lửa dữ cháy khắp trong đầm, xe Thầy lúc đó ở ngay hướng gió nên vô phương tránh khỏi, Thầy Pháp lực lúc ấy vì quá mỏi mệt nên ngủ mê trên xe, khi nghe lửa nóng giật mình thức dậy thì lửa đã sát bên mình, ngay lúc ấy Thầy cất lên tiếng xưng niệm cầu Thánh hiệu Quán Âm, nhưng Thầy chỉ la lớn được tiếng Quán, chưa đến 2 chữ Thế Âm, ứng theo âm thanh xưng niệm thì gió tự nhiên chuyển hướng, đám lửa dữ đều tắt. Hai thầy trò về đến chùa an nhiên vô sự. Trong lúc tai nạn cấp bách mà được sự minh gia của Bồ tát như thế là do thường ngày Thầy đã tín sâu và thành kính xưng niệm, công huân thuần thục mới cảm ứng đến Đại Sĩ như âm vang ứng tiếng. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2)

Chuyện thứ hai là tại huyện Đông hải có một bà lão Phật tử họ Vương tuổi đã thất tuần. Một hôm Bà bồng đứa cháu qua sông thì rủi ro trợt chân té xuống nước, lại nhằm lúc nước lớn, chảy mạnh như thác nhưng bà lão vẫn bồng cháu đứng trên mặt nước, tự nhiên như đứng trên bình địa. Dân chúng thấy vậy vô cùng kinh ngạc, lật đật kéo ghe tiếp cứu bà lên bờ. Sau khi bà lên bờ thì mọi người gạn hỏi. Bà nói: “Tôi không biết gì là hiểm nạn, lúc ấy chỉ bồng cháu và trì niệm Quán Thế Âm không dứt mà thôi.” Do bà lão này thường nhật trì niệm Thánh hiệu của Đại Sĩ chẳng những lâu năm mà còn thuần thục nên được Bồ tát gia hộ như thế. Sự tích nói trên là do Thích Minh Huệ Sơn Hòa thượng ở chùa Tây Thiên, xứ Kim Lăng thuật lại (Trích Quán Thế Âm Trì niệm Ký)

Đức Liên Tôn Bát Tổ có dạy: “Nhàn thời biện - Mạnh thời dụng.” Ý Tổ dạy: lúc rảnh rỗi, phải lo tu tập các công đức, tụng Kinh niệm Phật, trì chú lễ Sám, v.v... thì đến khi đại hạn đến hay gặp tai nạn mới có mà thọ dụng. Giống như truyện vãng sanh thứ 5 của Trinh Nữ ở trên. Trinh Nữ khuyên mọi người trong lúc bình nhật phải niệm Phật chí thành tha thiết thì đến giờ phút lâm chung mới biết sự thọ dụng của công phu tu niệm.
  • LỜI KHAI THỊ CỦA ẤN TỔ:
Đức Quán Âm Bồ Tát đã thành Phật trong kiếp xa xưa. Thánh hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai nhưng vì lòng từ bi đối với chúng sanh quá thiết, dù đã an trú Thường Tịch Quang Độ mà vẫn hiện thân nơi ba độ là thật báo, phương tiện, đồng cư. Dù thường hiện Phật thân nhưng vẫn lại hiện phổ thân trong cửu giới, dù luôn bên cạnh hầu hạ A Di Đà nhưng vẫn hiện sắc thân Pháp giới trong mười phương, đúng như lời tiên đức đã nói: chỉ cần có lợi ích cho chúng sanh thì không một việc gì chẳng thực hành và như trong Kinh dạy với những chúng sanh nên dùng thân chi để độ thoát thì hiện thân ấy mà vì đó nói Pháp. Vì lý do ấy nên biết Phổ Đà Bảo Sơn chính là nơi ứng tích của Bồ tát. Vì muốn cho chúng sanh có chổ chiêm hướng quy lễ mà thị hiện nơi Bảo Sơn này, đâu phải Bồ tát chỉ ở nơi Phổ Đà mà không ở nơi chổ khác.

Lấy ví dụ cho dễ hiểu, như một vầng trăng sáng rực trên không trung, bóng trăng ấy muôn sông đều hiện, dù cho là một gáo nước hay một giọt sương trên cành cây thì mỗi mỗi đều hiện cả mặt trăng trong ấy, tuy nhiên
nếu nước đục và chao động thì bóng trăng không rõ ràng. Tâm chúng sanh cũng như nước, nếu chí thành một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ tát thì Bồ Tát chính trong lúc xưng niệm khiến được sự lợi ích minh hiển, trái lại nếu tâm không chí thành, không chuyên nhất thì khó mong được Ngài cứu hộ. Ý nghĩa này rất sâu xa, muốn biết rõ thì phải xem lời tựa Thạch Ấn Phổ Đà Sơn Chí trong bộ Ấn Quang Văn Sao.

Tại sao Bồ tát lại có danh xưng là Quán Thế Âm? Vì Bồ tát nhận biết được lòng cầu khẩn của chúng sanh do quán văn thanh mà chứng viên thông trên. Quả vị do quán âm thanh cứu độ cho nên mệnh danh là Quán Thế Âm. Vì sao sự thị hiện của Bồ Tát gọi là Phổ Môn? Vì Bồ tát quảng đại phổ biến thị hiện vô biên, tùy thuận theo căn tánh của chúng sanh trong khắp pháp giới, có thể độ chúng sanh đến cảnh giải thoát, không riêng lập một pháp môn nào, giống như bệnh trong đời có nghìn loại, lẽ đương nhiên thì thuốc cũng phải có muôn phương, không chấp định một pháp nào, tùy theo chổ mê cũng như chổ tỏ ngộ của chúng sanh mà khai hóa điểm thị như lục căn, lục thức, thất đại, mỗi mỗi đều có thể chứng được viên thông. Ý nghĩa này phải xem trong Kinh Lăng Nghiêm thì rõ. Vì thế, tất cả Pháp đều là cửa thoát sanh tử luân hồi thành Vô thượng giác cho nên được mệnh danh là Phổ Môn. Nếu Bồ tát chỉ ở nơi Nam Hải thì không thể gọi là Phổ.

Tôi kính mong quý Phật tử trong cả hai giới hàng ngày ngoài việc lo bổn phận của mình, phải một lòng chí thành xưng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, lại sớm chiều ở trước Phật đài hết lòng sám hối túc nghiệp từ vô thỉ, thực hành lâu ngày sẽ ở trong chổ “không biết không hay” mà được lợi ích không thể nghĩ bàn. Trong Kinh Pháp Hoa có dạy rằng: “Nếu chúng sanh nào tâm dâm dục quá mạnh, thường cung kính xưng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát liền được ly dục; sân nộ, ngu si cũng thế. Nếu chúng ta một lòng thành kính chuyên niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát thì ba độc tham sân si tự nhiên có thể tiêu trừ. Chúng ta sống trong thời mạt pháp này, tai ách hoạn nạn quá nhiều, thế nên ngoài việc niệm Phật, cần phải kiêm xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát, trong minh minh tự nhiên có sự hồi chuyển không thể nghĩ bàn, thế mới mong không đến nổi túc nghiệp hiện tiền vô phương trốn tránh.

Kính thưa quý đọc giả, Bộ sách này trước tiên là do Ấn Tổ đề tựa, sau đó là Ngài mong chúng ta y theo các tích trong 6 thiên này mà thực hành nên Tổ đều có những lời khai thị phía sau trong các chuyện, thâm ý mong muốn chúng ta có kết quả mỹ mãn, đây chính là sự vô giá của bộ sách này.

Bộ Tân biên Quán Âm Linh Cảm Lục bao gồm 6 thiên đã đủ. Còn một phần mang tên Quán Âm Linh Cảm Cận Văn Lục nghĩa là ghi chép lại những sự linh cảm của đức Quán Âm cứu khổ độ sanh do tai nghe mắt thấy trong thời gian gần đây, phần này có khoảng 60 - 70 sự tích, dịch giả thấy rằng dịch tiếp cũng tốt hoặc không dịch cũng được vì 60 - 70 sự tích này cũng tương tự như các tích trong 6 thiên đã dịch, chuyên về sự bạt trừ bệnh khổ, v.v... không có nhiều khác biệt, chỉ khác biệt ở điểm thời gian xưa và nay.

Cuối cùng dịch giả thành kính xin quý vị khi được xem bộ sách này nên một lòng thâm tín đức từ bi cứu khổ ban vui của Quán Thế Âm Bồ Tát, cố gắng thực hành mới mong đem lại kết quả và giới thiệu cho người khác được xem để cũng được kết quả như mình thì công đức ấy vô lượng vô biên. Sự việc này nếu xem trong Thiên thứ 3 đức Quán Âm Bồ Tát dạy Phật tử Phượng Hiền thì rõ, dịch giả xin nhắc lại để đọc giả không nhọc công tìm kiếm lại: “Đức Quán Thế Âm khuyên Phật tử Phượng Hiền nếu có thể khuyến hóa nghìn người tránh xa cạm bẫy của nữ sắc thì được phước đức vô lượng vô biên. Phượng Hiền kính cẩn từ chối không đủ năng lực làm việc ấy. Bồ Tát liền trao cho quyển Giới Nịch Nữ Đồ Ca và khuyên nếu Ông khắc bản ấn tống quyển sách ấy thì cũng như đã khuyến hóa vô lượng vô số người, không chỉ có nghìn người mà thôi. Vậy dịch giả trông mong quý vị sẽ cố gắng vâng lời Bồ tát thực hành thì ý nguyện của dịch giả được hoàn toàn viên mãn. Xin cảm tạ thâm ân của quý vị.
  • Hòa Thượng
    THÍCH TRÍ MINH
Hình ảnh


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.21 khách