Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Kính mời các bạn tham gia ghi lại kinh nghiệm tu tập và những gì mắt thấy tai nghe về sự cảm ứng nhờ hành trì giáo lý Phật.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hình ảnh

PHẦN I
LỜI MỞ ĐẦU


LƯỢC TRÍCH ĐỀ MỤC CỦA BỘ TÂN BIÊN QUÁN ÂM LINH CẢM LỤC

Tân Biên là bộ sách mới, ghi chép những sự tích của đức Quán Âm cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Bộ sách này được nói là mới để phân biệt với những sách xưa cũng ghi chép lại những sự tích của đức Quán Thế Âm cứu khổ ban vui cho chúng sanh.

Quán Âm là Thánh hiệu của một vị Bồ Tát mà giới Phật tử đều biết và từng nghe danh hiệu của Ngài. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn, Dịch giả xin trích dẫn phần giải thích Phật hiệu này trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, Đức Bổn Sư Thích Ca đã giải thích nhân khi Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát thưa hỏi: “Kính bạch Thế tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà được gọi là Quán Thế Âm?” Bổn sư Thích Tôn dạy: “Này Vô Tận Ý Bồ Tát! Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh bị các khổ não, được nghe danh hiệu của vị Đại Sĩ này, một lòng xưng niệm thì ngay lúc ấy, Quán Thế Âm Bồ tát quán sát âm thinh xưng niệm kia, liền đến cứu giúp cho tất cả đều được giải thoát”, lại có câu “Trong ấy, nếu chỉ có đến một người xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì những chúng sanh ấy đều được giải thoát khỏi tai nạn quỉ La sát, vì nhân duyên ấy nên được gọi là Quán Thế Âm.”

Linh cảm là hai chữ rút gọn, nếu nói đủ thì phải gọi là Đại từ, Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quảng Đại Linh cảm, bởi vì Đức Quán Thế Âm Bồ tát chẳng những cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh trong lục đạo mà còn cứu nguy cho các hàng Thánh nhân trong Tam thừa, vì thế nên chẳng những chúng sanh trong lục đạo trì niệm danh hiệu của Bồ tát mà chúng sanh trong Tam thừa cũng đều trì niệm. Thế nên, tâm Đại từ Đại bi của Bồ tát phổ biến trong cả chín pháp giới nên được gọi là Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quảng đại Linh cảm.

Dịch giả lẽ ra không cần thiết phải viết Lời Mở Đầu cho quyển sách này vì đã có phần Đề tựa quý giá của Liên Tôn Thập Tam Tổ. Đó là những lời vàng ngọc quý hóa dạy bảo hàng Phật tử phải thành tâm trì niệm danh hiệu của đức Đại sĩ Quán Thế Âm. Trong khi dịch giả tự xét mình là kẻ hậu học, văn vụng lời quê, lại đi viết lời mở đầu là việc không phù hợp cho lắm. Tuy nhiên, theo thiển ý, Dịch giả nhận thấy Phật pháp quảng đại vô biên, nên dù chúng sanh trên quả đại địa đều thành vô thượng giác, hiện tướng lưỡi rộng dài, dùng sức thần thông, sức trí huệ, trải qua số kiếp như vi trần, tận lực tuyên thuyết sự quảng đại của Phật pháp cũng không thể nói hết được. Vì thế nên dù sở học kém cõi nhưng Dịch giả cũng không ngần ngại dùng sự hiểu biết nông cạn của mình, thành thật phô bày tấm lòng thành với đọc giả về một số quan điểm sau đây:

Kính thưa quý vị, Bộ sách Đường về Cực lạc do Hòa Thượng Vạn Đức (Thượng Trí - Hạ Tịnh) dịch thì sau khi xuất bản, dịch giả được nghe một số vị gồm cả Phật tử tại gia và người xuất gia phê bình rằng: Truyện vãng sanh là chuyện những người tu hành được vãng sanh, cần chi phải nhọc công phiên dịch khiến cho đọc giả phải chán tai, mỏi mắt và mất thời gian. Có người lại cho rằng nên để thời gian ấy để dịch Kinh sách luận về Giáo lý thì thiết thực hơn là bỏ công dịch truyện Vãng sanh. Thưa quý vị, theo thiển ý của dịch giả thì những lời bình phẩm trên là sai lầm và gây tai hại rất lớn. Tại sao thế? Vì Nho thơ có câu: “Hải trung hậu lãng, thôi tiền lãng; Thế thường tân nhơn, vấn cựu nhơn”, nghĩa là “Sóng biển lớp sau đùa lớp trước, Sự đời tuổi trẻ hỏi người xưa.” Sự tu hành cũng thế, chúng ta là kẻ hậu tiến cần phải hiểu biết công phu tu trì của các bậc tiền nhân để noi theo gương sáng của các Ngài mà thực hành theo. Nếu theo quan niệm ngộ nhận như của các Phật tử nói trên thì thử hỏi chư Tổ Tông Liên Tôn và quí tiên hiền trong Phật pháp, cần chi phải sưu tầm các sự tích vãng sanh trải qua nhiều đời, vừa khổ nhọc, lại phí công vô ích? Hơn nữa, xin quý vị hãy đọc toàn bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục hoặc Đường về Cực Lạc. Trong ấy hàng ngàn sự tích vãng sanh, mỗi sự tích không chỉ ghi lại việc vãng sanh vào giờ phút lâm chung mà còn là bao lời dạy khuyên quý hóa vô ngần để làm kim chỉ nam cho chúng ta tu học hiệu quả.

Cuối cùng, Dịch giả thành kính xin các bậc Cao minh, Đại đức, Đại sĩ trong giới xuất gia cùng với chư Phật tử tại gia, khi đọc bộ Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục này, nếu thấy có chổ sai lầm, xin từ bi phủ chính và chỉ giáo cho. Dịch giả thành tâm vạn tạ.
  • Kính cẩn,
    Sa môn Thích Trí Minh
Hình ảnh
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 11/01/16 03:51 với 1 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LỜI TỰA CỦA
LIÊN TÔNG THẬP TAM TỔ
ẤN QUANG PHÁP SƯ

Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát thệ nguyện sâu rộng không ngần, tâm Từ Bi quảng đại vô biên, thế nên Ngài phân thân khắp vi trần sát độ trong mười phương thế giới, tùy duyên hiện hình, tầm thinh cứu khổ, độ cho tất cả chúng sanh thoát khỏi vòng khổ não. Đặc biệt, với chúng sanh ở cõi Ta bà này, tâm bi mẫn của Ngài càng chí thiết, thế nên chúng sanh nào chí thành xưng niệm đều được Ngài cứu độ không bỏ sót một ai.

Những năm gần đây, tất cả nhân loại thường gặp rất nhiều hoạn nạn, khổ ách, có muốn trốn thoát cũng khó đặng và cũng không có phương gì để tránh cho khỏi. Vì sao vậy? Vì trong thời hiện đại này, thế đạo nhân tâm xấu ác, đảo điên đến cực độ. Đối với cha mẹ là người có đại ân đức, sanh thành dưỡng dục mà còn ngang nhiên đề xướng bác bỏ hiếu đạo, kết bạn bè cùng với những kẻ ác nghịch giết cha hại mẹ. Thế nên, những ai sanh ra trong thời kỳ này, chẳng phải là việc buồn đau, đáng thương xót hay sao? Đại phàm những người có chánh tri chánh kiến, không một ai chẳng lưu tâm nghiên cứu Chánh pháp, không một ai chẳng lo tu trì Tịnh nghiệp để mong thoát ly cõi đời ác ngũ trược này, mau chóng dự vào Liên Trì Hải hội, như thế mới mong được thoát khỏi vô lượng thống khổ nơi cõi Ta bà này và được hưởng thọ sự an vui nơi Lạc quốc.

Nhưng đối với chúng ta, khi chưa được về Lạc quốc và vẫn còn đắm chìm trong cảnh khổ nơi Ta Bà thì cần phải có đấng Mẹ hiền để làm nơi nương tựa. Đấng Mẹ hiền ấy chính là Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, vì Bồ Tát đối với cõi Ta Bà đau khổ, nhất là trong thời kỳ mạt pháp này, Ngài đặc biệt sanh khởi tâm Đại từ vô lượng, vận dụng lòng Đại bi đồng thể. Đối với tất cả thứ khổ nạn, Ngài luôn luôn thùy từ cứu độ. Thế nên, chúng sanh nào xưng niệm hồng danh của Ngài, nếu lúc gặp phải nguy hiểm liền hóa thành kiết tường, gặp phải nạn tai thì biến thành an lạc. Những sự việc linh ứng của Bồ tát không bút mực nào có thể tả xiết. Các tích cảm ứng của Bồ tát thường thấy tản mác trong các sách nhưng những bộ sách chuyên ghi chép sự linh ứng của Ngài thì có thể nói đến như Quán Âm Từ Lâm Tập của Hoàng Tán Đại sư, Quán Âm Trì niệm Ký của Cư sĩ Châu Khắc Phục, Quán Âm Linh Cảm Lục của Cư sĩ Vưu Tích Âm, Quán Âm Bổn Tích Tụng của Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh, Quán Âm Linh Nghiệm Ký của Cư sĩ Nhiếp Vân Đài. Các bộ sách này đều có lưu hành trong nhân gian để mọi người trong các giới đều được đọc, nghe và truyền tụng.

Trong tất cả các ghi chép được xem là hoàn bị nhất thì chỉ có bộ Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục của Cư sĩ Lý Viên Tịnh vì Cư Sĩ đã tổng thâu tất cả các bộ sách khác mà biên tập thành một bộ sách này. Có thể nói bộ sách này là tập truyện đầy đủ về những khía cạnh ứng nghiệm linh cảm của Đức Quán Âm, đồng thời làm chổ y cứ cho tất cả những người có tín tâm trì niệm danh hiệu Đại Sĩ. Tuy nhiên chúng ta nên biết vì sao Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có thể linh cảm được như vậy? Bởi vì Ngài có thể phản văn, văn tự tánh (nghĩa là không nghe theo thinh trần mà trở lại nghe nơi tự tánh) và chiếu kiến ngũ uẩn giai không (tức dùng trí soi chiếu đều thấy thân ngũ uẩn đều là không thật có). Thế nên, Tôi mong những vị nào được xem bộ sách này mà có thể chí thành khẩn thiết niệm hồng danh của Quán Âm Đại Sĩ, niệm đến lúc tất cả vọng niệm tiêu vong, chánh niệm hiện tiền thì tất cả phiền não ác nghiệp hiện có đều tiêu tán và quán được tất cả những cảnh duyên khổ vui đều không thật có. Chính trong trạng thái không thật có này, có thể phát khởi được tâm đại từ, vận dụng tâm đại bi, tùy cơ tiếp dẫn hóa độ, dùng tâm của Đức Quán Âm làm tâm mình, dùng việc làm của Đức Quán Âm làm việc làm của mình, đều muốn cho khắp chúng sanh đang bị thống khổ đồng được gội nhuần ân đức của Bồ tát Quán Thế Âm, từ ngày nay cho đến đời vị lai, đồng nhau thực hành hạnh của đức Quán Thế Âm để triển chuyển cứu độ lẫn nhau, đây là bản hoài của lão Tăng khi đề tựa vậy.
    • Mùa Thu Năm Kỷ Tỵ,

      Tàm Quý Tăng Thích Ấn Quang
      kính cẩn đề tựa
QUÁN ÂM TRAI KỲ
  • THÁNG GIÊNG: Mùng 8
    THÁNG HAI: Mùng 7, 9, 19
    THÁNG BA: Mùng 1, 3, 13, 19
    THÁNG TƯ: Mùng 8, 22
    THÁNG NĂM: Mùng 3,17
    THÁNG SÁU: Ngày 16, 18, 19, 23
    THÁNG BẢY: Mùng 1, 3
    THÁNG TÁM: Ngày 16
    THÁNG CHÍN: Ngày 19, 29
    THÁNG MƯỜI: Mùng 2
    THÁNG MƯỜI: MỘT Ngày 19
    THÁNG MƯỜI HAI: Mùng 8, 24
Lưu ý: Ngày sóc vọng hay tháng Nhuần cũng theo quy định như trên, nghĩa là tháng nào nhuần thì theo tháng ấy (Ví dụ: tháng Tư nhuần thì ngày ăn chay là mùng 8 và 22).

Điều cần ghi nhớ là lúc bình nhật, triệt để không được sát sanh, tốt nhất là trường trai thì càng quý. Những ngày Quán Âm Trai kỳ mà tiến hành phóng sanh thì công đức rất lớn, hơn cả làm việc phóng sanh trong những ngày thường.
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Phẩm “Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn”
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?”

Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.

1. Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức oai thần của Bồ-Tát này được như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn. Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh, vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa- cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

2. Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏị. Nếu quỉ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán-Thế-Âm Bồ Tát, thì các quỉ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được. Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi. Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc nầy”. Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát!” vì xưng danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ- Tát sức oai thần to lớn như thế.

3. Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được ly dục. Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa lòng giận. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa ngu si. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.

Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế- Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai phúc đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phước đức, mọi người đều kính mến. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức oai thần như thế.

4. Nếu có chúng sanh nào cung kính lễ lạy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng-hà- sa Bồ-Tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn đó có nhiều chăng?

Vô-Tận-Ý thưa: “Bạch Thế-Tôn! Rất nhiều”.Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận.

Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.”

5. Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Thế-Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ- Tát dạo đi trong cõi Ta-bà như thế nào? Sức phương tiện đó như thế nào?”

Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát, thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Duyên-giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên-giác mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thanh-văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh-văn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Phạm-vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm-vương mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Đế-Thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-Thích mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Đại-tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại-tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thiên-đại-tướng-quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên-đại-tướng-quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tiểu-vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu-vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trưởng-giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng-giả mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Cư-sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư-sĩ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tể-Quan được độ thoát, liền hiện thân Tể-Quan mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng-giả, Cư-Sĩ, Tể-Quan, Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân đồng-nam,đồng-nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng-nam, đồng-nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùng phi nhơn được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Chấp-Kim-Cang thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp-Kim-Cang thần mà vì đó nói pháp.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban cho sự vô-úy, nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị”Thí-vô-úy”.

6. Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Con nay muốn cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát”. Liền cởi chuỗi ngọc bằng châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng: “Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này”.

Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-Tận-Ý lại thưa cùng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát rằng: “Xin Ngài hãy vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này”.

Bấy giờ Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ-Tát: “Ông nên thương Vô-Tận-Ý Bồ- Tát và hàng tứ chúng cùng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn và phi-nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó.

Tức thời, Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn, phi-nhơn,v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa-Bảo. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà”.

Lúc đó, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật rằng:
  • 7. Thế-Tôn đủ tướng tốt!
    Con nay lại hỏi kia.
    Phật tử nhân duyên gì?
    Tên là Quán-Thế-Âm?

    Đấng đầy đủ tướng tốt.
    Kệ đáp Vô-Tận-Ý:
    Ông nghe hạnh Quán-Âm.
    Khéo ứng các nơi chỗ.

    Thệ rộng sâu như biển.
    Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn.
    Hầu nhiều nghìn Đức Phật.
    Phát nguyện thanh tịnh lớn.

    Ta vì ông lược nói.
    Nghe tên cùng thấy thân
    Tâm niệm chẳng luống qua.
    Hay diệt khổ các cõi.

    Giả sử sanh lòng hại.
    Xô rớt hầm lửa lớn.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Hầm lửa biến thành ao.

    Hoặc trôi dạt biển lớn.
    Các nạn quỉ, cá, rồng.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Sóng mòi chẳng chìm được.

    Hoặc ở chót Tu-di.
    Bị người xô rớt xuống.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Như mặt nhật treo không.

    Hoặc bị người dữ rượt.
    Rớt xuống núi Kim-Cang.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Chẳng tổn đến mảy lông.

    Hoặc gặp oán tặc vây.
    Đều cầm dao làm hại.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Đều liền sanh lòng lành.

    Hoặc bị khổ nạn vua.
    Khi hành hình sắp chết.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Dao liền gãy từng đoạn.

    Hoặc tù cấm xiềng xích.
    Tay chân bị gông cùm.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Tháo rã được giải thoát.

    Nguyền rủa các thuốc độc.
    Muốn hại đến thân đó.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Trở hại nơi bổn-nhân.

    Hoặc gặp La-sát dữ.
    Rồng độc các loài quỉ.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Liền đều không dám hại.

    Hoặc thú dữ vây quanh.
    Nanh vuốt nhọn đáng sợ.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Vội vàng bỏ chạy thẳng.

    Rắn độc cùng bò cạp.
    Hơi độc khói lửa đốt.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Theo tiếng tự bỏ đi.

    Mây sấm nổ sét đánh.
    Tuôn giá, xối mưa lớn.
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Liền được tiêu tan cả.

    Chúng sanh bị khổ ách.
    Vô lượng khổ bức thân.
    Quán-Âm sức trí diệu.
    Hay cứu khổ thế gian.

    Đầy đủ sức thần thông.
    Rộng tu trí phương tiện.
    Các cõi nước mười phương.
    Không cõi nào chẳng hiện.

    Các loài trong đường dữ:
    Địa-ngục, quỉ, súc sanh.
    Sanh, già, bịnh, chết khổ.
    Lần đều khiến dứt hết.

    Chơn-quán thanh tịnh quán.
    Trí-huệ quán rộng lớn.
    Bi-quán và từ-quán,
    Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

    Sáng thanh tịnh không nhơ.
    Tuệ nhật phá các tối
    Hay phục tai khói lửa.
    Khắp soi sáng thế gian.

    Lòng bi răn như sấm.
    Ý từ diệu dường mây
    Xối mưa pháp cam lồ.
    Dứt trừ lửa phiền não.

    Cãi kiện qua chỗ quan.
    Trong quân trận sợ sệt
    Do sức niệm Quán-Âm.
    Cừu oán đều lui tan.

    Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm.
    Phạm-âm, Hải-triều-âm
    Tiếng hơn thế gian kia,
    Cho nên thường phải niệm.

    Niệm niệm chớ sanh nghi
    Quán Âm bậc Tịnh Thánh.
    Nơi khổ não nạn chết.
    Hay vì làm nương cậy.

    Đủ tất cả công đức.
    Mắt lành trông chúng sanh.
    Biển phước lớn không lường.
    Cho nên phải đảnh lễ.
8. Bấy giờ, ngài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế-Âm Bồ- Tát Đạo-nghiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị-Hiện sức thần thông nầy, thì phải biết công đức người đó chẳng ít”.

Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
QUÁN ÂM KỆ
Trước Khi Xưng Niệm Thánh Hiệu Đức Đại Bi Quán Thế Âm
Trước Tiên Nên Đọc Bài Kệ Sau:
DỊCH ÂM:
  • Quán Âm Bồ Tát diệu nan thù
    Thanh Tịnh trang nghiêm lũy kiếp tu
    Hạo hạo hồng liên an túc hạ
    Nguy nguy cổ Phật hiện Quan đầu
    Bình trung cam lộ thường biến sái
    Thủ nội dương chi bất kể thu
    Thiên xứ kỳ cầu thiên xứ ứng
    Khổ hải thường tác độ nhân chu.
DỊCH NGHĨA:
  • Sắc đẹp Quán Âm khó tỏ trần
    Tu hành muôn kiếp tịnh nghiêm thân
    Sen hồng rực rỡ chân an ngự
    Cổ Phật uy nghiêm mão sáng ngần
    Cam lộ miên trường ban khắp chúng
    Liễu dương ngàn thuở cứu lê dân
    Ngàn nơi khẩn nguyện, ngàn nơi ứng
    Bể khổ đưa thuyền độ thiện nhân

    (Phật tử Liên Hoa tạm dịch)
Nam Mô Phổ Đà Sơn Lưu Ly Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát! (1 lần)
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát! (Xưng niệm từ một trăm, một ngàn đến vạn câu)

Lược giải bài kệ:

- Câu 1, câu 2: nguyên nhân có được hảo tướng của Đức Quan Âm. Thân tướng của Bồ tát đẹp đẽ, phi thường do Ngài trải qua vô lượng vô biên số kiếp, tu hành thanh tịnh trang nghiêm mà chiêu cảm được báo thân như vậy.

- Câu 3, câu 4: Mô tả các tướng đẹp của Bồ tát: dưới chân Ngài có hoa sen hồng lớn nâng đỡ, trên chiếc mão Ngài đội có hình đức cổ Phật đoan nghiêm hiện ra.

- Câu 5, câu 6: Lòng Đại từ bi của Bồ tát đối với tất cả chúng sanh, nước cam lồ trong bình Tịnh thủy của Ngài lúc nào cũng rưới mát tâm nhiệt não của thế gian và nhành dương liễu trên tay Ngài không ngừng dập tắt mọi nạn tai cho chúng sanh.

- Câu 7, câu 8: Sự linh ứng khắp nơi của Bồ tát, bất luận ở nơi nào, thời gian nào, nếu có chúng sanh nào chí thành cầu khẩn, Bồ tát đều ứng hiện để cứu khổ ban vui và Ngài luôn chèo thuyền từ để cứu vớt những chúng sanh đang bị chìm đắm trong biển trần khổ não.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamitahridaya Sutra) là một trong các kinh căn bản và phổ thông của Phật Giáo Đại Thừa. Bài kinh nầy là một trong các bài kinh của bộ Bát Nhã kết tập tại Ấn Độ qua bảy thế kỷ, từ năm 100 T.C.N. đến 600 C.N. Khi được truyền sang Trung Hoa, Tâm Kinh đã được nhiều vị cao tăng chuyển dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán: Trong các bản dịch nầy, bản dịch của ngài Huyền Trang là phổ thông nhất.

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn, nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.

Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
  • Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
BẢN DỊCH

Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh, mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.

Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác. Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối. Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:
  • Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)
ĐẠI BI NGUYỆN

TRƯỚC KHI TỤNG CHÚ ĐẠI BI THÌ TRƯỚC TIÊN
CẦN PHẢI KIỀN THÀNH CUNG KÍNH PHÁT
NHỮNG ĐẠI NGUYỆN SAU ĐÂY
:

DỊCH ÂM
  • Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tốc tri nhứt thiết pháp
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tảo đắc trí huệ nhãn
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tốc độ nhất thiết chúng
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tảo đắc thiện phương tiện
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tốc thừa bát nhã thuyền
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tảo đắc việt khổ hải
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tốc đắc giới định đạo
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tảo đăng niết bàn sơn
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tốc hội vô vi xá
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện ngã tảo đồng pháp tánh thân.

    Ngã nhược hướng đao sơn, đao sơn tự tồi chiếc
    Ngã nhược hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt
    Ngã nhược hướng hỏa thang, hỏa thang tự khô kiệt
    Ngã nhược hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ tự bảo mãn
    Ngã nhược hướng Tu la, ác tâm tự điều phục
    Ngã nhược hướng súc sanh, tức đắc đại trí huệ.
DỊCH NGHĨA
  • Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con mau biết tất cả Pháp
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con sớm được mắt trí huệ
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con mau độ cả chúng sanh
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con sớm được phương tiện khéo
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con sớm được qua biển khổ
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con mau được đạo giới định
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con sớm lên non Niết bàn
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con mau về nhà vô vi
    Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
    Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

    Nếu con hướng về nơi non đao, non đao tức thời liền sụp đổ.
    Nếu con hướng về địa ngục, địa ngục liền tự mau tiêu tan.
    Nếu con hướng về lửa nước sôi, nước sôi lửa cháy tự khô tắt.
    Nếu con hướng về ngạ quỷ, ngạ quỷ liền được tự no đủ.
    Nếu con hướng về chúng Tu la, Tu la tâm ác tự điều phục.
    Nếu con hướng về các súc sanh, súc sanh tự được trí huệ lớn.
CHÚ ĐẠI BI
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ Đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị, ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa). Na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu đát điệt tha. Án. A bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A Ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha. Án. Tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà gia. Ta bà ha.
PHẠN ÂM (SANSKRIT)
Namah Ratnatrayaya. Namo Arya-VaLokitesvaraya. Bodhisattvaya. Mahasattvaya. Mahakaruniakaya. Om. Sarva Rabhaye. Sudhanadasya. Namo Skrtva i Mom Arya-Valokitesvara Ramdhava. Namo Narakindi. Her-imaha Vadhasame. Sarva Atha. Dusubhum. Ajeyam. Sarva Sadha. (Nama vasatva). Namo Vaga. Mavadudhu. Tadyatha. Om. Avaloki. Lokate. Karate. Ehre. Mahabodhisattva. Sarva Sarva. Mala Mala. Mahe Mahredhayam. Kuru Kuru Karmam. Dhuru Dhuru Vajayate. Maha Vajayate. Dhara Dhara. Dhirini. Svaraya. Cala Cala. Mamavamara. Muktele. Ehe Ehe. Cinda Cinda. Arsam Pracali. Vasa Vasam. Prasaya. Huru Huru Mara. Huru Huru Hri. Sara Sara. Siri Siri. Suru Suru. Bodhiya Bodhiya. Bodhaya Bodhaya. Maitriya. Narakindi. Dharsinina. Payamana. Sva-ha. Siddhaya. Svaha. Maha Siddhaya. Svaha. Siddhayoge. Svaraya. Svaha. Narakindi. Svaha. Maranara. Svaha. Sirasam Amukhaya. Svaha. Sarva Maha Asiddhaya. Svaha. Cakra Asiddhaya. Svaha. Padmakastaya. Svaha. Narakindi Vagaraya. Svaha. Mavari Samkraya. Svaha. Namah Ratnatrayaya. Namo Arya Valokites-Varaya. Svaha. Om. Siddhyantu. Mantra. Padaya. Svaha.
BẠCH Y THẦN CHÚ
Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần, 3 lạy)

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng. Nam mô Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát. Đát chỉ đá, án dà la phạt đá, dà la phạt đá, dà ha phạt đá, la dà phạt đá, la dà phạt đá, soa ha, thiên la thần, địa la thần, nhân ly nạn, nạn ly thân, nhất thiết tai ương hóa vi trần. (3 lần)

Nam mô ma ha bát nhã ba la mật đa.
QUÁN ÂM THẬP CỬU KINH

Quán Thế Âm,
Nam Mô Phật,
Dữ Phật hữu nhơn,
Dữ Phật hữu duyên,
Phật pháp tăng diên
Thường lạc ngã tịnh
Triêu niệm Quán Âm
Mộ niệm Quán Âm
Niệm niệm tùng tâm khởi
Niệm niệm bất ly tâm.


Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THIÊN THỨ NHẤT
BẠT TRỪ BỆNH KHỔ
1. Vào triều đại nhà Tấn, niên hiệu Hưng Ninh, có vị Sa môn, Pháp hiệu là Trúc Pháp Nghĩa là một vị thạc đức đạo hạnh. Thời gian đầu lúc mới tu học, Ngài đến cư trú tại Ninh Sơn để chuyên tâm nghiên cứu các Kinh Luật luận. Hàng Phật tử xuất gia theo Ngài tu học thường xuyên có số trên trăm vị. Vào niên hiệu Hàm An, năm thứ hai nhà Tấn, Ngài bị chứng bệnh trầm khí, kéo dài trong thời gian rất lâu, Ngài nhất tâm thành kính quy hướng về đức Đại bi Quán Thế Âm, một lòng xưng niệm danh hiệu của Bồ tát. Một hôm, Ngài nằm mộng thấy có người cầm dao mổ ruột của mình, rồi rửa ráy lục phủ ngũ tạng của Ngài. Bấy giờ thần thức trong mộng thấy rõ các vật bất tịnh kết tụ trong tạng phủ rất nhiều, người ấy sau khi rửa sạch các bộ phận trong cơ thể Ngài thì đem sắp xếp theo vị trí cũ trở lại và bảo Ngài Pháp Nghĩa rằng: “Bệnh của Ông bây giờ đã khỏi hẳn rồi”. Pháp Nghĩa thức dậy, quả nhiên cảm thấy trong người thật thư thái, tất cả bệnh bỗng nhiên dứt sạch. Sự tích trên là do Quan Thượng Thơ Phó Lượng, triều Nhà Tống soạn thuật lại. Thượng Thơ thường nói với các thân hữu rằng mình là bạn thân của ngài Trúc Pháp Nghĩa. Chính Ngài Trúc Pháp Nghĩa lúc còn sanh tiền cũng thường nói đến việc được chữa bệnh trong mộng cho nhiều người nghe. Mọi người nghe xong chuyện của Ngài, không ai chẳng sanh tâm cung kính và tán thán vì những việc chưa từng có đã xuất hiện trong đời do niềm tin nơi đức Quan Âm. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2).

2. Vào Triều đại Nguyên Ngụy, có một Tăng nhân, pháp hiệu là Thích Đạo Thái, ở Tịnh xá Hoành Dương, huyện Thường Sơn. Vị Tăng nhân này từng nằm mộng thấy có người đến bảo rằng: “Số mạng của Ông sẽ kết thúc vào lúc 42 tuổi.” Đến năm đó, Thầy mắc bệnh nặng, trong tâm tự nghĩ chắc là không qua khỏi nên Thầy đem y bát và tất cả bạc tiền, đồ đạc, v.v... làm lễ Trai tăng bố thí rất lớn để cầu phước. Có người bạn đồng tu thấy thế bèn nói: “Tôi thấy trong Kinh Phổ Môn, chính kim khẩu của Bổn Sư Thích Tôn dạy Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: Nếu có người nào thọ trì danh tự của 62 ức hằng hà sa Bồ tát, lại thêm suốt đời đem thức ăn uống, y phục, đồ nằm để cúng dường, theo ý ông nghĩ sao? Công đức của thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có được nhiều chăng? Vô Tận Ý Bồ tát thưa: “Rất nhiều, thưa Thế Tôn!”. Đức Phật dạy tiếp: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát cho đến lễ bái cúng dường, chỉ trong một thời thì phước đức của hai người ấy đồng nhau không khác.” Thầy Thích Đạo Thái nghe nói thế có phần cảm ngộ, liền chí thành quy hướng nơi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, ngày đêm khẩn thiết trì niệm danh hiệu của Ngài không hề giải đãi. Thầy tinh tấn thực hành trải qua bốn ngày đêm, bấy giờ lúc Ngài đang ngồi trong mùng, bỗng nhiên thấy có quang minh từ ngoài cửa chiếu vào và thấy hai bàn chân của Quán Âm Đại Sĩ bằng hoàng kim sáng rực, chiếu khắp trong thất. Thầy Thích Đạo Thái lật đật vén mùng, quỳ xuống đất cúi đầu đảnh lễ. Khi ngước lên thì cảnh tượng lạ lùng trang nghiêm ấy đã biến mất, lòng Thầy buồn vui lẫn lộn, toàn thân toát mồ hôi ướt đầm, ngay sau đó liền cảm thấy trong người nhẹ nhàng thư thái, chứng trọng bệnh nói trên liền được dứt hẳn. (Trích Cao Tăng Truyện - tập 2).

3. Ở tại Hà Tây, có một vị Phật tử là Vương Thư Cừ Mộng Tốn, từ thuở nhỏ đã phát tâm quy hướng chánh Pháp của Như lai. Một lần nọ, Ông bị bệnh nặng, nhờ Y Ba Lập Bồ Tát ứng hiện bảo rằng: “Đức Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát rất có duyên với chúng sanh cõi Ta bà, ngươi nên phát tâm trì tụng Phẩm Phổ Môn thì bệnh chắc chắn sẽ khỏi.” Mộng Tốn vâng lời thực hành theo sự chỉ bảo của Bồ tát thì quả nhiên được lành bệnh. Do Ông là người có địa vị vào thời ấy ở xứ Hà Tây nên sự kiện tụng kinh Phổ Môn được lành bệnh của Ông, tất cả dân chúng trong vùng đều biết, ai nấy đều noi theo gương Ông mà quy hướng Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng kinh Phổ Môn. Vì nhân duyên ấy mà Kinh này đặc biệt lưu hành rộng rãi khắp xứ Hà Tây. Đây cũng chính là lý do phẩm phổ Môn còn được gọi là Kinh Quán Thế Âm. (Trích Pháp Hoa Truyện ký).

4. Vào đời Lưu Tống, có Phật tử tên là Thiện Tín, người ở Ngô Hưng, đối với Tam bảo rất có tâm tin kính. Một hôm, Thiện Tín mắc bệnh thương hàn nên không một ai dám đến gần săn sóc vì sợ lây nhiễm. Thiện Tín rất buồn khổ không biết tính thế nào, chỉ nghĩ rằng có một cách duy nhất là thành kính chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Ông trì niệm Thánh hiệu Bồ Tát chỉ trong thời gian ngắn thì bỗng có một Tăng nhân đến nhà bảo rằng: “Ta đem thứ thuốc này để cứu độ đệ tử.” Nói vừa dứt lời liền lấy trong túi ra một hộp thuốc tán đưa cho Thiện Tín bảo uống. Thiện Tín vâng lời, uống vào thì bệnh liền khỏi hẳn. (Trích Cao tăng Truyện - Tập 1).

5. Triều đại Lưu Tống có Ni sư Phiền Tảo họ Lộ, người ở Ngô Quân, con gái của An Tung Tảo. Lúc hơn 10 tuổi. Ni sư bị bệnh nên phụ thân của Ni sư nghe nói nơi nào có danh y đều đến rước về nhà chữa bệnh cho con. Vì thế hầu hết lương dược, miệng của Ni sư đều nếm qua nhưng bệnh trạng chẳng những không giảm mà còn ngày một tăng thêm. Lúc bấy giờ, Thầy Thích Pháp Tế là một Tăng nhân trong vùng nói với An Tung Tảo rằng: “Theo ý của bần Tăng, sợ e bệnh của Tiểu Thơ là do nơi nghiệp chướng, nên thuốc thế gian khó bề trị lành được. Trong Kinh Phật có dạy: “Nếu chúng sanh nào bị tai nạn, bệnh khổ, v.v... chí thành quy y Tam Bảo, sám hối cầu nguyện, đều được Từ lực của Tam bảo gia hộ cứu tế. Nếu Ngài có thể phát tâm chí thành, khẩn thiết sám hối, nguyện cầu để tẩy trừ trần cấu cho Tiểu Thơ thì bệnh sẽ được thuyên giảm.” An Tung vâng lời liền cho thiết lập bàn hương án ở giữa nhà, thờ tượng Quán Thế Âm Bồ Tát thật thanh tịnh trang nghiêm, sau đó tắm gội sạch sẽ, trai giới thanh tịnh, đến trước Phật đài, vì con gái mình sám hối cầu nguyện, lại cho người dìu bệnh nhân đến trước bàn Phật, thành kính cúi đầu xưng niệm danh hiệu Bồ Tát liên tục không gián đoạn. Thực hành như vậy trong suốt bảy ngày. Đến đầu hôm ngày thứ bảy, bỗng nhiên thấy tượng Quan Âm sắc vàng, cao chừng một thước, giơ tay xoa trên thân của bệnh nhân ba lần, tức thì Cô cảm thấy từ đầu đến chân rất thư thái, nhẹ nhàng, chứng bệnh trầm kha trước kia bỗng nhiên biến mất. Sau khi được sự linh ứng như vậy, Cô cầu xin cha mẹ cho đi xuất gia, và tu hành rất tinh tiến. Cô thường trì tụng Kinh Pháp hoa và trường trai. Trải qua 37 năm, thường chuyên tâm quán tưởng, nguyện đem công đức tụng kinh lạy Phật cầu sanh lên cung trời Đâu Suất. Niên hiệu Niên gia năm thứ 16, Ni sư đến Kinh đô để tạo kinh điển. Về sau Ni sư viên tịch nơi nào không được rõ. (Trích Tỳ Kheo Ni truyện).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

6. Vào triều đại Lưu Tống, Sa môn Thích Đàm Vĩnh ngụ tại chùa Trường Cang, vốn là người xứ Hội Kê. Xuất gia từ lúc niên thiếu, Thầy là vị Cao tăng nghiêm trì giới luật, tu hành tinh tấn. Hàng ngày, Thầy tụng kinh hơn mười ngàn lời, lại luôn dùng nhiều phương tiện thiện xảo tuyên dương pháp Đại thừa, nhiếp hóa vô lượng chúng sanh. Nhưng chẳng may, Thầy lại mắc phải chứng bệnh ghẻ khắp mình, lở loét đau nhức, tuy chữa trị nhiều năm mà bệnh vẫn không khỏi. Trong Thiền thất của Thầy có thờ một pho Tượng Quán Thế Âm. Suốt ngày đêm, Thầy dốc lòng chí thành lễ bái, cầu xin sớm được lành bệnh. Một ngày nọ, lúc đang ở trong Tịnh thất, Thầy bỗng thấy một con rắn leo lên vách tường rồi bò lên nóc nhà. Một lúc sau, một con chuột từ nóc nhà rơi xuống đất, toàn thân nó ướt đẫm, dường như đã chết, chắc hẳn nó vừa bị con rắn ban nãy cắn. Động lòng trắc ẩn, Thầy Đàm Vĩnh vội lấy chiếc thẻ tre cạo bỏ lớp nước bọt trên người con chuột, mong cứu nó sống lại. Lúc sắp vứt bỏ miếng thẻ tre cạo nước bọt ấy, bỗng nhiên Thầy sực nhớ trước kia có người từng nói nếu ai bị ghẻ lở mà tìm được nước bọt trên thân con chuột bị rắn cắn mà trét lên chổ ghẻ lỡ thì chắc chắn chổ ghẻ lỡ đó sẽ lành. Thầy lập tức lấy phần nước bọt cạo trên thân chuột thoa lên chổ ghẻ lỡ của mình. Thật lạ lùng, khi Thầy vừa thoa xong thì chuột kia cũng sống lại và bỏ chạy đi nơi khác. Chỉ trong một đêm thì bệnh ghẻ của Thầy tự nhiên lành hẳn. Bấy giờ Thầy mới nhận ra sự việc rắn cắn chuột đều là do sự thành tâm cầu khẩn Đức Quan Âm hàng ngày của Thầy nên được Bồ tát cảm ứng, thị hiện cứu độ như vậy. Sự việc này được nhanh chóng lưu truyền trong dân chúng và giới Phật tử, ai cũng cho là chuyện hy hữu và đều bàn tán khắp nơi tạo thành làn sóng dư luận chấn động đến hoàng cung, Quốc vương, các bậc Đại thần, Vương tử, v.v... đều khen là việc chưa từng có. Thầy Thích Đàm Vĩnh hưởng thọ đến 81 tuổi và viên tịch tại chùa Trường Cang. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 1).

7. Triều đại Nhà Tề có một người tên Kiến An Vương bị bệnh ghẻ lở không thuốc gì trị được. Người ấy ngày đêm khẩn thiết chí thành chuyên niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm ngày đêm không dứt. Một đêm nọ, Ông nằm mộng thấy Đại sĩ dùng tay xoa thuốc lên những nơi bị ghẻ lở cho mình. Sáng hôm sau, lúc thức dậy Ông thấy những nơi bị ghẻ lở đều đã lành hẳn. Mọi người khi nghe thấy đều lấy làm lạ và cùng ngợi khen. Việc ấy được lan truyền khắp nơi, những người đương thời do đó phát tín tâm quy hướng về Quan Âm Đại sĩ rất đông. (Trích Cảm ứng truyện)

8. Triều đại nhà Lương có một vị Sa môn là Thích Pháp Kiều, người ở Trung sơn. Thầy xuất gia từ lúc nhỏ nên đối với việc tụng Kinh niệm Phật, Thầy rất mực tinh tấn nhưng khổ nổi âm thanh của Thầy không được lôi cuốn, thiếu chất Thiền vị. Bấy giờ, Thầy bèn phát nguyện tuyệt thực sám hối, chí thiết cầu nguyện quy mạng nơi Đức Quan Thế Âm. Trải qua suốt bảy ngày đêm, Thầy kiền thành lễ bái xưng niệm không trễ lười, mong cầu được hiện báo. Bạn đồng học thấy vậy hết sức ngăn cản nhưng không một ai có thể lay chuyển được quyết tâm của Thầy. Đến ngày thứ Bảy, Thầy cảm thấy cổ họng thông suốt, liền lấy nước súc miệng rồi nói rằng: “Tôi đã được sự ứng nghiệm rồi”. Sau đó, Thầy tụng ba biến kinh, âm thanh trong trẻo, ấm áp vang xa suốt một dặm đường. Mọi người bấy giờ nghe nói đến việc này đều kinh ngạc ngợi khen, đua nhau đến Chùa để mục kích và nghe Thầy tụng kinh. Từ ấy về sau, mỗi ngày Thầy đều tụng Kinh đến vài mươi vạn lời, âm thanh ai nhã thông suốt ấy đến lúc Thầy 90 tuổi vẫn không suy giảm và thay đổi. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 1).

9. Triều nhà Tùy có vị Sa môn Hồng Mãn, người ở An Định. Lúc còn ở thế tục, Thầy mắc phải chứng bệnh thời khí, hai chân co quắp, không thể đi đứng được. Thường ngày, Thầy thành kính chuyên niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm. Một hôm, bỗng có một vị Cao Tăng, tay bưng Tịnh bình đứng trước mặt Thầy. Hồng Mãn lập tức cúi đầu thi lễ, thưa hỏi: “Đại Sư từ đâu đến?”. Vị Tăng từ tốn trả lời: “Ta thấy ngươi thường ngày thành kính khẩn thiết xưng niệm danh hiệu của Ta, nên đến đây cứu giúp. Sở dĩ ngươi mắc bệnh như vậy là do tiền thân kiếp trước, ngươi hay trói cột sinh mạng loài vật, do dư báo ấy mà mắc bệnh như vậy. Bây giờ hãy nhắm mắt lại, Ta sẽ trị bệnh cho.” Hồng Mãn vâng lời, ngay khi ấy Thầy có cảm giác trên đầu gối mình hình như có người nhổ cây đinh vài tấc ra vứt bỏ, Thầy thấy hai chân như có sức bật, trở lại bình thường và Thầy đứng dậy được. Lúc mở mắt ra làm lễ tạ ơn thì vị Tăng nói trên đã biến mất. Thầy biết đó là Bồ tát thị hiện cứu độ mình nên từ đó phát nguyện không cưới vợ, ở tại gia tu hành ngày càng tinh tiến. Dù không nghiên cứu kinh điển, nhưng tự nhiên Thầy lại thông suốt được pháp môn thiền quán. Mỗi khi tĩnh tọa, có thể trải qua suốt bảy ngày, vẫn an nhiên bất động. Đến niên hiệu Khai Hoàng, nhà Tùy, Thầy đến xuất gia tại chùa Cứu Độ. (Trích Cao tăng truyện - Tập 2).

10. Tương truyền Sử Tuần là một người tài ba lỗi lạc, học vấn uyên thâm, đương thời không người sánh kịp, nhưng Ông lại là người không tin Phật pháp và thường bài bác rằng: “Phật là người, không cần thờ.” Về sau Ông bị chứng bệnh hai chân tự nhiên bại liệt, ngồi mãi một chổ không di chuyển được. Ông nhờ người tìm hết danh y này đến danh y khác, thậm chí còn thiết lễ cầu đảo quỷ thần để tìm phương thuốc chữa trị nhưng tất cả đều vô hiệu. Lúc bấy giờ, người bạn thân của Ông là Triệu Văn đến thăm, khuyên Ông rằng: “Đức Quán Âm Bồ Tát là đấng Đại từ Đại bi, thường tầm thinh cứu khổ. Nếu chúng sanh nào bị tai nạn, bệnh hoạn, mà chí thành cầu nguyện, xưng niệm danh hiệu Ngài thì chắc được sự linh ứng. Nay bệnh của Anh đã chạy chữa đủ cách, cúng tế Thánh Thần rất nhiều cũng không có kết quả, vậy tại sao Anh không phát tâm tạc tượng Đại Sĩ, lễ bái cúng dường để cầu cho bệnh khổ được tiêu trừ?” Sử Tuần vì bệnh quá ngặt nghèo nên y theo lời, sai rước thợ đúc tượng Quan Âm Bồ Tát. Khi pho tượng đã hoàn thành thì Ông nằm mộng thấy Quán Âm Bồ Tát, tướng hảo trang nghiêm hiện trên hư không. Lúc thức dậy, nghĩ lại những lời nói sai lầm và xấc xược xưa kia của mình thì cảm thấy vô cùng hối hận. Từ ấy, Ông hết lòng kính tin Phật pháp, mỗi ngày đều hết sức tinh tấn, lễ bái cúng dường pho tượng Đức Quan Âm đã đúc thờ trong nhà và trì niệm danh hiệu Đại Sĩ không gián đoạn. Một thời gian sau, chứng bại liệt không thấy chữa trị tự nhiên hồi phục và bệnh dứt hẳn. (Trích Tuyên nghiệm ký).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

11. Triều nhà Đường có Phật tử là Sầm Văn Bổn tự Cảnh Nhơn, là người ở Kinh Dương. Ông phát tâm tín hướng Phật pháp từ khi còn nhỏ. Hàng ngày Ông đều thành kính trì tụng Phẩm Phổ Môn. Có lần Ông đi thuyền đến Ngô Giang, tỉnh Giang Tô, đến giữa dòng thì thuyền bị sóng đánh lật úp. Mọi người trên thuyền đều bị chết chìm, Văn Bổn cũng bị chìm trong nước nhưng ngay lúc ấy bổng nghe có người bảo rằng: “Nhà ngươi thường ngày thành kính trì tụng Phẩm Phổ Môn nên sẽ được qua khỏi nạn tai này”. Ông nghe ba lần như thế thì thấy thân mình như có ai đẩy lên, nổi trên mặt nước và chỉ trong chốc lát thì đã thấy đến bờ. Sau đó, Ông trở về nhà, thiết lập trai đàn cúng dường chư Tăng. Trong số chư Tăng ấy có một vị đi sau cùng bảo với Ông rằng: “Chính lúc thiên hạ rối loạn, riêng Ông nương nhờ thiện duyên phước đức mà được tai qua nạn khỏi, sau này sẽ gặp cảnh thái bình, hưởng phú quý hiển vinh”. Nói mấy lời ấy xong thì vị Tăng ấy không thấy đâu nữa. Sau khi lễ trai tăng xong thì Phật tử Văn Bổn nhìn thấy có hai hạt xá lợi ở trong chiếc bình bát của vị Tăng ấy để lại. Về sau ông làm quan đến chức Trung thư Lệnh cũng vào thời triều nhà Đường. (Trích Phật Tổ thống ký).

12. Triều nhà Đường có Ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư, vốn thuộc dòng Bà La Môn, nước Thiên Trúc. Một lần nọ, Ngài quá giang thuyền đến Nam hải, đi giữa đường thì gặp cuồng phong nổi dậy, sóng nhồi rất lớn. Các
thương nhân đều kinh sợ nên mỗi người đều theo tín ngưỡng của mình mà xưng niệm vị giáo chủ của họ, nhiều vị còn tác pháp theo các tôn giáo mà họ đang tín ngưỡng, nhưng tất cả đều không hiệu nghiệm. Sóng gió mỗi lúc một dữ dội nên mọi người bèn quay sang Pháp sư lễ bái cầu xin cứu độ. Pháp sư điềm tỉnh an ủi: “Quý vị đừng lo, Tôi hiện nay có một phương pháp có thể giúp quý vị thoát nạn”. Dứt lời, Pháp sư dùng tay mặt cầm bảo xử ngũ cổ bồ đề tâm, tay trái cầm quyển kinh Bát nhã, Ngài tụng Thần chú Đại bi của Đức Quán Thế Âm một biến, tức thì gió lặng sóng yên; nhưng lúc ấy bổng có một con đại kình ngư từ dưới biển nổi lên mặt nước, phun ra những đợt sóng nước cao như núi, đập vào mạn thuyền. Tình hình lúc này còn nguy hiểm gấp vạn lần so với nạn trước, các thương nhân chỉ còn biết phó thác sinh mạng vào Pháp sư nên đồng nhất tâm hướng về Pháp sư xin cứu nạn, Pháp sư cũng thực hành theo cách như trên, Ngài lại bảo thầy Huệ Biện, vị thị giả đi theo Pháp sư tụng Kinh “Ta Yết Long Quảng” thì mọi cơn sóng đều tan biến, tại nạn liền qua khỏi, cả đoàn thuyền nhờ đó đều được bình an vô sự. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 3).
.
13. Thời nhà Tống, triều Vua Huy Tôn, vào niên hiệu Sùng Ninh, có quan Hộ Bộ Thị lang Lưu Đại cùng với quan Cấp sự Trung Ngô Thực đồng đi sứ đến nước Cao Ly. Khi trở về bổn quốc, họ phải đi ngang qua các ngọn núi và đảo suốt bốn ngày đêm, lúc ấy nhằm lúc tiết trời âm u, trăng mờ vì mây che phủ, cảnh trời đen tối không phân biệt được hướng Đông Tây nên Lưu Đại vô cùng sợ hãi. Ông bèn hướng về Phổ Đà Bảo Sơn thành kính xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ, bổng nhiên thần quang xuất hiện, soi khắp mặt biển rõ bốn phía như lúc ban ngày và cũng thấy rõ Phổ Đà Bảo Sơn. Mọi người nhờ đó được đi đến bờ an toàn vô sự. (Trích Phổ Đà Sơn chí).

14. Triều nhà Tống, thân mẫu của Ngài Từ Hy Tải là Trình Thị, vốn là một Phật tử thành kính Tam bảo, trong nhà lại thờ Đức Quán Thế Âm Bồ Tát rất thành kính. Niên hiệu Thiên Hưng năm thứ 4 nhà Tốn, Hy Tải có duyên sự đi xa dẫn theo hai người con, đến nghỉ trọ tại nhà của Bành Đại Nhậm. Trên đường về thì gặp lúc mưa to gió lớn, sóng cao như núi nên thuyền Ông không thể nào tiến vào bờ được, chòng chành sắp đắm. Hy Tải chẳng biết làm sao nên lập tức kêu gọi những người có mặt trên thuyền đồng thanh xưng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát. Chỉ trong chốc lát, mọi người bổng nhìn thấy một gốc cây dâu vô cùng to lớn trôi đến trước mặt nên gắng sức kéo gốc cây ấy cặp sát vào thuyền và dùng dây buộc thuyền vào gốc cây dâu ấy, để nương theo gốc cây mà thuyền giữ được thăng bằng trước sức mạnh của gió bão. Đến lúc trời sáng thì tất cả mọi người đều thấy họ đang ở trên bãi cát an toàn, còn gốc cây dâu to đêm qua thì biến đâu mất không thấy nữa. Lúc Hy Tải vừa về đến nhà, mẫu thân của Ông mừng rỡ ra đón. Bà mĩm cười nói rằng: “Đêm qua Mẹ nằm mộng thấy có bà già dắt tay cha con tụi bây về thăm Mẹ, quả nhiên là y như trong mộng”. Khi ấy, Hy Tải nghiệm ra mới biết họ được thoát nạn là nhờ vào thần lực bất tư nghì của Quan Âm Bồ Tát. (Trích Dị Kiên Chí).

15. Triều nhà Minh có một đồng tử họ Tảo, người tỉnh Giang Nam. Đồng tử này phát tâm quy y Tam bảo từ lúc nhỏ và rất nghiêm trì giới luật, từng phát nguyện xả thân cúng dường Phật. Có bao nhiêu tiền của, thường đem bố thí cho người nghèo cùng ,đói khát trong xóm làng. Vào niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, tháng hai năm Canh Tuất, đồng tử theo Trang Trưởng Lão đến núi Phổ Đà chiêm bái cúng dường Đại Sĩ. Khi đến núi Mai Sầm là nơi khách hành hương đều ghé lại để chiêm bái kim dung của Quán Thế Âm Bồ Tát, đồng tử đối trước pháp tòa của Bồ tát ngự, phát thệ nguyện xả thân cúng dường để báo thâm ân của Phật. Sau đó, khi thuyền ra cửa biển đến Liên Hoa Dương thì bổng nhiên gió to sóng lớn nổi lên đùng đùng, Đồng tử chấp tay, ngước mặt lên không trung, miệng xưng Phật hiệu rồi nhảy xuống giữa muôn ngàn sóng để mãn với thệ nguyện đã phát. Trang Trưởng Lão sau khi trở về nhà, chọn ngày để mời chư Tăng tụng kinh bái Sám, làm lễ siêu độ cho đồng tử. Đến tháng bảy năm đó thì Đồng tử bổng xuất hiện tại chổ ở của Trang Trưởng Lão ai nấy đều kinh ngạc vì không tin là Đồng tử còn sống. Lúc ấy, Đồng tử thuật lại những điều đã xảy ra cho mọi người nghe. Khi vừa nhảy xuống Liên Hoa Dương thì đồng tử bổng thấy ở phía dưới biển, cách mình chừng vài bước chân có một vị Hồ tăng đang chèo một chiếc bè ván đến chổ đồng tử xả thân bảo rằng: “Thầy đến đây để độ con”. Dứt lời, vị Tăng ấy kéo đồng tử lên bè, chiếc bè chèo đi nhanh như ngựa phi, chẳng mấy chốc bè đã đến bãi cát ở vùng Châu Sơn. Vị Tăng ấy dắt đồng tử vào nhà một ngư ông xin nghỉ trọ. Sau đó, vị Tăng ấy bổng nhiên biến mất. Mọi người trong nhà ông lão dò hỏi nguyên nhân thì đồng tử thuật lại việc đã xảy ra. Ai nghe xong cũng đều ngợi khen cho là việc chưa từng có. Lúc ấy mới biết vị Tăng ấy chính là Quan Âm Bồ tát từ bi ứng hiện để cứu đồng tử. Sáng ngày hôm sau, ngư ông dẫn đồng tử đến chùa Trấn Hải ở Châu Sơn. Đồng tử cầu xin thầy trụ trì chùa ấy làm lễ thế phát và dạy cho học tập các Kinh Chú. Khi đồng tử quay trở lại cố hương, Đồng tử có vào trong một ngôi Tịnh thất xin tá túc, nhưng vị Sư trong ấy không bằng lòng nên bèn tìm hỏi nơi ở của Trang Trưởng Lão xin nghỉ trọ. Trang Trưởng Lão sau khi nghe Đồng tử thuật lại mọi việc thì rất cảm động nên mời Đồng tử ở lại gia trang vài ngày ngơi nghĩ rồi dắt về nhà cha mẹ đồng tử. Cha mẹ Đồng tử gặp lại con thì vui mừng khôn xiết, hết lòng cảm tạ Trang Trưởng Lão và thành tâm kính ngưỡng thần lực cứu độ của Quan Thế Âm Bồ Tát. Sự tích Bồ Tát ứng hiện cứu khổ trên đã làm cho mọi người Tăng tục thời ấy đều nhất tâm quy hướng về Quán Âm Đại sĩ rất đông. (Trích Quán Viên bút ký).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

16. Triều nhà Đường, Tri Huyền Pháp Sư họ Trần, là người ở Hồng Nhã, xứ Mỵ Châu. Pháp sư thường tuyên thuyết, diễn giải Kinh Luận Đại thừa. Hàng Phật tử cả Tăng lẫn tục đều hoan nghênh ngưỡng mộ hết mình. Tuy vậy, Pháp sư vẫn thường tự giận mình có giọng nói không đúng với thổ âm địa phương nên hiệu quả không như ý nguyện. Sau đó, Pháp sư lên núi Tường Nhĩ, ngày đêm chuyên tụng trì Chú Đại bi. Một hôm, Ngài nằm mộng thấy một vị Thần Tăng đến cắt lưỡi của mình, rồi thay vào chiếc lưỡi khác cho Pháp sư. Đến sáng hôm sau, bỗng nhiên khi vừa cất giọng thì Ngài nhận ra âm thanh của mình đã trở thành thổ âm của người nước Tần. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 3).

17. Triều nhà Đường, Sa môn Thích Trí Ích, họ Ngô là người huyện Trường Sa. Lúc trẻ, Thầy từng đi lính chinh phạt bọn rợ hung nô ở chốn biên cương. Sau khi ra khỏi quân ngũ, Thầy trở về quê làm nghề săn bắn và chài lưới. Một hôm, Thầy bắt được con rùa trắng nên đem về nấu ăn. Sau khi ăn xong thì toàn thân bị phát độc; sanh ghẻ lở, đau nhức lở loét từ đầu đến chân, da thịt rã rời, râu tóc đều rụng. Thầy không thể nào chịu đựng nổi sự hành hạ của cơn bệnh, lại không thể nào đi kiếm sống được, đành phải làm thân hành khất lê lết xin ăn khắp đầu đường xó chợ. Một hôm, giữa lúc Thầy đang oằn oại vì đau đớn và đang xin đồng tiền bát gạo của người qua đường thì bổng gặp một vị Tăng nhân đi ngang qua. Nhìn thấy hoàn cảnh thương tâm này nên vị Tăng bèn đến an ủi và bảo rằng: “Ngươi nên hồi tâm trì niệm Chú Đại bi, Ta sẽ dạy cho. Nếu người cố gắng tinh tiến trì tụng thì Ta tin chắc người sẽ được kết quả linh nghiệm.” Thầy vâng lời vị Tăng học thuộc Chú Đại Bi và kể từ hôm ấy, nhất tâm trì tụng. Quả đúng như lời vị Tăng nhân nói, các thứ ghẻ lở loét trên thân Thầy bớt dần, râu tóc từ từ mọc lại, da thịt lần hồi cũng hồi phục sự săn chắc. Khi bệnh lành, Thầy liền phát nguyện xuất gia làm Tăng. Sau đó, Thầy đến gặp Phục Ba Tướng quân xin cho một ngôi nhà cũ. Được Tướng quân ưng thuận, Thầy kiến lập Tịnh xá nơi ấy, làm Trụ trì, trọn đời tu hành rất tinh tấn. (Trích Thái Bình Quảng Ký và Chuyển nhân Lục).

18. Triều nhà Đường, Tịnh Chi Thiền sư, người họ Triệu, xứ Cao Lãng, huyện Ung Châu. Lúc bảy, tám tuổi, Ông đã biết ưa thích quán tưởng Thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà, và theo Kinh văn hướng dẫn tu học. Thầy lập chí xuất gia nên đến niên hiệu Trinh Quán, năm đầu nhà Đường, Thầy đến ẩn tu tại chùa Quang Hóa trên mười năm. Hàng ngày, Thầy thường ngồi thiền trong thảo am, không ở chùa Tăng. Phật tử bốn phương, ngưỡng mộ về hạnh tu của Thầy nên vân tập về tu học trên hai trăm người. Thiền Sư ngày đêm sáu thời, đốc xuất đại chúng tu trì rất tinh tiến, không phụ với chí xuất gia và không lãng phí thời giờ vàng ngọc. Một hôm nọ, mũi của Thiền Sư bổng mọc ra một cục thịt ngăn bít làm Thầy vô cùng khó thở, chạy chữa trăm ngàn phương thuốc đều không hiệu nghiệm. Lúc bấy giờ, có vị Tăng đến bảo Thầy nên phát nguyện trì tụng Bát nhã Tâm kinh vạn biến sẽ khỏi. Thiền sư vâng lời thực hành theo lời dạy thì cục thịt ấy tự nhiên rụng mất. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2).

19. Triều nhà Đường có Thầy Thích Trí Cần, họ Châu. Từ lúc bé đã có chí hướng làm việc thiện, và thực hiện theo phương ngôn “khắc kỷ - ái quần” tức là bản thân luôn nghiêm khắc với chính mình, nhưng với quần chúng thì lúc nào cũng thương yêu giúp đỡ. Hàng ngày Thầy thường chơi đùa với trẻ con cùng xóm, nói năng nhã nhặn, sắc mặt luôn vui cười. Đến lúc trưởng thành, Thầy xuất gia, tu hành rất tinh tiến; dũng mãnh, lại thường phản tỉnh tự thân và tham cứu Tam tạng giáo điển thật uyên áo. Khi Thầy cầu nguyện điều chi đều được linh ứng. Một lần nọ, thân mẫu của Thầy bị bệnh rất nặng, Thầy phát tâm vì Mẹ ngày đêm kiền thành trì tụng Thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ để cầu cho Mẹ được mau lành bệnh. Do tâm chí thành cảm đến Bồ tát nên trên lá của những cây cối trong khuôn viên nhà chùa đều hiện thật nhiều hóa Phật. Sự việc này cả gia đình Thầy mọi người đều tận mắt nhìn thấy. Bệnh tình của mẫu thân Ngài nhờ sự chí thành trì niệm Thánh hiệu Đại sĩ mà được lành. (Trích Cao Tăng Truyện - Tập 2).

20. Triều nhà Tống có Pháp sư Kế Trung, tự Pháp Thần. Pháp Sư là con của họ Khâu, ở huyện Vĩnh Gia, tỉnh Chiết Giang. Trước kia, cha mẹ của Pháp sư vì hiếm muộn nên đến trước Phật đài, chí thành lễ bái cầu tự. Một hôm, hai ông bà đồng nằm mộng thấy một vị Tăng đem một đứa bé kháu khỉnh, khôi ngô đến trao cho và nói đây là của Loa Khế Tôn giả xin gởi cho hai ông bà nuôi giúp. Lúc tỉnh dậy, Mẫu thân Pháp sư liền thọ thai. Một điều lạ là trước kia bà ưa thích ăn thịt cá, nhưng từ lúc thọ thai thì liền chán ghét, chỉ dùng đồ chay. Pháp Sư từ lúc thơ ấu, mỗi khi thấy tượng Phật, tức thời đều lễ kính. Khi lên tám tuổi, Ngài đến Khai Nguyên xuất gia. Sau đó Ngài đến Nam Hồ, y chỉ theo Ngài Quảng Chí Pháp sư tu học. Do quá sức khắc khổ tu hành, Ngài bị kiệt sức và lâm bệnh, Pháp sư Quảng Chí thực hành Pháp thỉnh Quán Âm Tam muội, cảm ứng đến Đại Sĩ phóng quang cứu bệnh. Thầy được Quảng Chí Pháp sư dùng nước cúng dường đức Quan Âm rưới trên đỉnh đầu, liền đó Pháp sư được khỏi bệnh. Sau đó Thầy trở nên thông minh cực độ, thông suốt giáo quán không bị trở ngại. (Trích Phật Tổ thống ký).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

21. Triều nhà Tống, niên hiệu Khánh Hòa, năm thứ 7, có người tên Lý Bác bị bệnh đại ma phong (bệnh cùi) đã hơn ba năm nhưng tất cả y sĩ đều nói không chữa được. Trước kia khi chưa bị bệnh, Lý Bác thường tụng kinh Phổ Môn đến hơn ba tạng (tức hơn 10.500 biến). Một ngày nọ, bỗng nhiên có một vị Tăng đến nhà, trao cho Lý Bác một hoàn thuốc, Lý Bác cung kính đón nhận, nhưng chưa dám dùng. Tối đó, Ông nằm mộng thấy vị Tăng gặp lúc sáng bảo rằng: “Thầy vì thương con tụng kinh rất chí thành nên đã đem hoàn linh đơn đặc biệt đến cứu khổ cho con, tại sao con không chịu uống?” Khi thức dậy, Ông liền lấy hoàn linh đơn ra uống. Thật mầu nhiệm, chỉ trong bảy ngày, da dẻ toàn thân do bệnh cùi bị lột hết đều mọc trở lại, râu tóc mọc lại đen huyền giống như một chàng trai. (Trích Hải Nam Nhứt chước).

22. Triều nhà Tống, có người tên Trương Hiếu Thuần. Thuần có đứa cháu đã lên năm tuổi nhưng vẫn chưa đi được. Bà con hàng xóm đến mách bảo rằng: “Vừa rồi ở Hoài Diện có một nông phu chân bị bệnh đã lâu năm, chạy chữa nhiều phương thuốc nhưng không hiệu nghiệm. Nông phu ấy tuy thất học nhưng lại là người hết lòng tin tưởng Quan Âm Bồ Tát nên Ông phát nguyện trì niệm Thánh hiệu Đại bi Quán thế Âm Bồ tát ngày đêm không dứt, nhờ đó mà cảm đến Bồ tát. Ngài thị hiện và để lại bài kệ bốn câu như sau:

ÂM:
  • Đại Trí phát ư tâm
    Ư Tâm vô sở tầm
    Thành tựu nhất thiết nghĩa
    Vô cố diệc vô cân.
NGHĨA:
  • Đại trí phát nơi Tâm
    Nơi Tâm không thể tầm
    Thành tựu mọi ý nghĩa
    Không nghĩ cũng không bàn.
Người nông phu trì tụng bài kệ trên đúng trăm ngày thì chân bị tật liền lành hẳn.

Hiếu Thuần nghe nói vậy, liền bảo đứa cháu và bà Vú phát tâm trai giới thanh tịnh, tụng bài kệ trên thì trải qua ba tháng, đứa bé đi đứng như những đứa trẻ bình thường khác. Không chỉ những người có con cháu bị bệnh về chân như con của Hiếu Thuần mà cả những người tâm trí kém cõi, Thuần đem bài kệ trên bảo họ học và thành tâm trì tụng thì cũng đều có kết quả linh nghiệm. (Trích Quán Âm Từ Lâm).

23. Triều nhà Tống, niên hiệu Thuần Hy, năm thứ 5, có Quan Đô tuần kiểm tên La Sanh tại Nhiêu Châu. Nhân lúc tỵ nạn lụt đến nhà Vương Mẫn Tài mục kích được một việc thật hy hữu. Trong nhà ấy có một tỳ nữ tên là Đại Hỉ, đôi mắt bị mù đã lâu năm lại thường bị đau nhức. Một hôm, Cô nằm mộng thấy có một Lão Tăng đến bảo rằng: “Đại Hỉ, Thầy rất mừng cho con. Con thật có phước duyên nên mới được đến ở trong nhà này, nếu không đến ở đây, con sẽ thành một phế nhân vĩnh viễn. Hôm nay Thầy đem thuốc này đến cứu con.” Nói dứt lời, Lão Tăng liền trao cho Đại Hỉ một chén thuốc, Cô liền bưng lấy uống, thì sau đó bổng thấy đôi mắt mình đã sáng lại trở lại. Cô kính cẩn cúi đầu chào lão Tăng rồi hỏi: “Thưa Đại sư, Ngài từ đâu đến?” Lão Tăng đáp: “Thầy là người ở trong nhà này đã lâu lắm rồi, nghe con đau mắt ngày đêm la khóc, Thầy rất thương xót nên đem thuốc cứu bệnh cho con.” Đại Hỉ giật mình tỉnh giấc thì trời đã sáng, Cô mở mắt ra thì chẳng những mắt sáng lại như xưa mà còn long lanh trong suốt rất đẹp và các chứng đau nhức cũng khỏi hẳn. Mọi người trong nhà thấy vậy đều lấy làm lạ, và bàn tán cho là việc chưa từng có. Họ cùng nhau đến hỏi thăm nên Đại Hỉ đem việc trong mộng thuật lại, Mẫn Tài đem việc ấy thưa với Mẫu thân thì Bà bảo rằng: “Đây là Đấng Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát! Con nên biết nhà của Mẹ thành kính thờ phụng Ngài đã nhiều năm, khi nào có tai nạn cấp bách, nếu lễ bái cầu đảo đều được linh hiển.” (Trích Linh Nghiệm Ký).

24. Tại xứ Đài Châu có vị Tăng tên là Sử-Thao, lúc trung niên Thầy bị bệnh mắt nên thường trì tụng Chú Đại Bi. Một hôm, Thầy nằm mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ truyền dạy cho Thầy bài kệ tụng, lại bảo mỗi ngày sớm mai thức dậy múc một chén tịnh thủy, đốt hương lễ bái rồi tụng bảy biến kệ xong, đem nước ấy đi rửa mắt. Thầy Sử Thao vâng lời làm theo sư chỉ bảo; thì bệnh mắt liền sáng lại và lành hẳn. Thầy hưởng thọ 88 tuổi.

GHI CHÚ: Người ghi lại sự tích này chính bản thân bị bệnh mắt đã hơn một tháng, nhờ Y sư Tôn-Chấn-Nguyên truyền dạy cho bài kệ ấy, Tôi đã thực hành đúng như lời hướng dẫn và quả nhiên cũng được linh nghiệm. Vì thế, Tôi không dám yên lặng và vì muốn lợi ích cho mọi người nên kính cẩn ghi vào sách bài Kệ tụng ấy như sau để cho người có lòng tin nơi đức Quan Âm được nhiều lợi ích:

ÂM:
  • Cứu khổ Quán Thế Âm
    Tứ ngã đại an lạc
    Dữ ngã đại phương tiện
    Diệc ngã ngu si ám
    Hiền kiếp chư chướng ngại
    Vô minh chư tội ác
    Xuất ngã ám thất trung
    Sử Ngã thị Phật quang
    Ngã kim thuyết tổng pháp
    Sám nhãn thích tội trọng
    Phổ phóng Tịnh quang minh
    Nguyện đắc vi diệu tướng.
NGHĨA:
  • Đại bi Cứu khổ Quán Thế Âm
    Xin ban cho con đại an lạc
    Xin ban cho con đại phương tiện
    Diệt trừ ngu si con hết tội
    Tất cả chướng ngại trong hiền kiếp
    Vô minh cùng với các tội ác
    Ra khỏi trong nhà tối của con
    Khiến con mắt sáng trông thấy Phật
    Con nay trì tụng pháp rửa mắt
    Sám trừ tội ác của nhãn căn
    Phóng Tịnh quang minh khắp soi sáng
    Nguyện được thấy rõ tướng vi diệu.
25. Triều nhà Tống, đời vua Độ Tôn, niên hiệu Hàm Thuần, tháng ba năm Bính dần, có một vị quan Thái Úy bị bệnh mắt. Ông là người tin tưởng Đức Quan Âm Bồ Tát nên sai con đến Động Triều Âm, núi Phổ Đà để cầu khẩn Quán Âm Đại Sĩ, và múc nước suối nơi ấy để đem về rửa mắt. Người con vâng lời, đến nơi múc nước suối đem nước về cho Ông rửa mắt thì bệnh mắt Ông liền lành. Để tỏ lòng thành kính với ân đức cứu độ của Quan Âm Bồ Tát, quan Thái Úy lại bảo con sắm lễ vật đến núi Phổ Đà để cúng tạ. Khi người con đến nơi, thiết lễ trang nghiêm để cúng bái thì Đức Quan Âm hiện thân. Toàn thân Ngài phưởng phất như khói nhạc và tấm áo lụa xanh mờ ảo như thể một tấm màn xanh ngăn cách. Người con sau đó đi tiếp đến động Thiện Tài Đồng tử, thì thấy Thiện Tài Đồng tử bỗng nhiên xuất hiện, tiếp theo thì Đại Sĩ cũng hiện thân. Ngài khoác chiếc áo lụa trắng, có đường viền xanh đỏ, tay Ngài mang chuổi anh lạc, nét mặt Đại Sĩ nhân từ dường như có điều muốn dạy bảo. (Trích Phổ Đà Sơn ký).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

26. Triều nhà Tống có Phật tử Vương Nhật Hưu là người có tâm thành Kính với Phật pháp. Một lần nọ, Ông đến Chùa mượn bộ Kinh Di Đà, sao chép lại và có ý muốn hiệu chính để khắc bản phổ biến khắp các nơi. Khi vừa cầm bút sắp chép kinh, bỗng nhiên tay phải bị bệnh phong rút, ngón tay Ông co giật liên hồi, không thể nào viết được. Nhật Hưu liền đưa ngón tay lên, thành kính trì niệm danh hiệu Đức A Di Đà Phật và Quán thế âm Bồ Tát xin được lành bệnh phong để thực hiện tâm nguyện sao chép và khắc bản Kinh A Di Đà. Mầu nhiệm thay, chỉ cầu nguyện có mấy câu, ngón tay của Ông không còn co giật nữa nên viết được trọn bộ kinh A Di Đà, bệnh phong từ đó cũng dứt hẳn, không tái phát nữa. (Trích Long Thơ Tịnh Độ).

GHI CHÚ[/i]: Sự tích 26 này y cứ theo Bộ Long Thơ Tịnh Độ. Trong Bộ sách ấy, theo lời của Phật tử Quốc học Tiến Sĩ Vương Nhật Hưu tự thuật: “Thời gian gần đây vì có duyên sự, Tôi quá giang thuyền đi. Lúc tới chổ cái Áp (tức là cái trạm được dựng như hình cái cổng có thể đóng mở để chắn nước, khi thuyền bè đến thì người ta mở cổng, cho thuyền đi qua, sau đó cánh cửa sẽ được đóng lại), vì nước sông nơi ấy đang lúc chảy quá mạnh không thể đi được nên chúng tôi neo thuyền lại. Tôi đến chùa Kim Sơn mượn bốn bộ Kinh A Di Đà, vì Tôi có ý muốn hiệu chính bốn bộ này và đóng lại thành một bộ để khắc thành ấn bản và phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên nhưng khi mới cầm bút lên, tay phải Tôi bỗng bị phong rút co giật liên tục, không thể viết được. Tôi liền đưa ngón tay ấy lên thành kính xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà và Quan Thế Âm Bồ tát xin được lành bệnh phong để thực hiện tâm nguyện sao chép và khắc bản Kinh A Di Đà. Chỉ cầu nguyện có mấy câu, ngón tay của Tôi tự nhiên hết co giật và bệnh phong trong người cũng dứt hẳn.” Theo như lời Vương Nhật Hưu, chúng ta có thể thấy rõ đức A Di Đà cùng Đại bi Quán Thế Âm luôn ở trước mắt mình nhưng chỉ vì lòng tin của mỗi người chưa đến mức độ kính thành nên không nhận được sự cảm ứng của các Ngài đó thôi. Ở đây, chúng tôi cũng xin giải thích thêm về bốn bộ kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà tức là Kinh Đại bổn A Di Đà, vì trong khi dịch, các dịch giả chia thành nhiều đề mục khác nhau nên gọi là bốn bộ, gồm có:
  • (1) Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh do Ngài Chi Lăng Ca, triều hậu Hán dịch.
    (2) Vô Lượng Thọ Kinh do Ngài Khang Tăng Khải, triều Tào Ngụy dịch.
    (3) A Di Đà Kinh, đồng tên với bổn A Di Đà được đọc tụng hàng ngày trong các thời cầu siêu do Ngài Ngô Chi dịch. (4) Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh do Ngài Pháp Hiền, nhà Tống dịch.
27. Triều nhà Tống, niên hiệu Nguyên Phong năm thứ hai, có quan Thị Lang tên Biên Tri Bạch. Ông là vị quan hết lòng vì nước, do phải xông pha nắng gió mà mắc chứng bệnh cảm nắng. Tuy chạy chữa nhiều nơi nhưng bệnh không thuyên giảm. Quan Thị Lang vốn là một Phật tử thuần thành nên phát tâm thành kính chuyên xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại sĩ rất chuyên cần. Một hôm, Ông nằm mộng thấy một người mặc Bạch Y dùng nước rưới từ đầu đến chân Ông. Khi thức dậy, Ông thấy trong người thân thể nhẹ nhàng khỏe khoắn, tinh thần lại rất sảng khoái. Bấy giờ, Phật tử Tri Bạch biết rằng lòng thành kính của Ông đã được cảm ứng với Đức Quan Âm, và Ngài đã cứu Ông khỏi bệnh nên từ đó Ông phát nguyện sưu tập tất cả những sự tích linh nghiệm của Đức Quan Âm có từ xưa đến nay làm thành một bộ sách, đề mục là Quán Âm Cảm Ứng và cho lưu hành phổ biến trong nhân gian. (Trích Phật tổ thống ký).

28. Triều nhà Nguyên ở tại Bình Giang, có vị Tăng Pháp hiệu là Huệ Cang. Từ lâu Thầy mắc phải chứng bệnh phiên vị (bao tử bị lộn ngược) rất nguy hiểm khiến Thầy không thể ăn uống gì được. Một đêm nọ, Thầy nằm mộng thấy có một con mèo chui vào trong bụng mình. Từ ấy bệnh tình càng nặng thêm, lại thêm trong lòng bỗng thấy thèm ăn thịt cá. Giữa lúc tư tưởng loan động như vậy, thì Thầy Huệ Cang chợt phản tỉnh, tự trách mình đã không giữ được chánh niệm Thầy biết ý nghĩ thèm ăn cá thịt là do nghiệp chướng từ nhiều đời khiến bị như vậy nên Thầy liền phát tâm trì niệm Thánh hiệu đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát trăm vạn biến và mỗi ngày trì tụng chú đại bi 108 biến. Chẳng bao lâu, Thầy lại nằm mộng thấy mình đi vào trong núi gặp một vị Tăng nhân tướng mạo trang nghiêm, bảo Thầy rằng: “Ta cho ngươi thứ thuốc này để trị chứng bệnh phiên vị của ngươi.” Ngay lúc ấy bỗng có một đồng tử mặc áo xanh, tay xách một cái lồng, trong ấy có con gà đến trước mặt Thầy. Đồng tử đến trước mặt Thầy Huệ Cang, mở chiếc lồng ra, liền khi đó con mèo từ trong bụng Thầy Huệ Cang nhảy ra khỏi miệng Thầy và vồ lấy con gà đang ở trong lồng. Thầy Huệ Cang giật mình thức dậy thì mới biết đó chỉ là giấc mộng, nhưng thật lạ lùng, chứng bệnh bao tử của Thầy từ đó dứt hẳn. (Trích Báo ứng Lục).

29. Triều nhà Nguyên, thầy Thích Mộng Nhuận tự Ngọc Cương, người ở Gia Hòa. Thầy xuất gia từ lúc 14 tuổi nhưng do sự tu học rất khắc khổ nên Thầy mắc phải chứng suy nhược rất trầm trọng. Thầy phát nguyện tu pháp thỉnh Quán Thế Âm Sám bốn mươi chín ngày. Sau khi sám hối xong thì tật bệnh liền khỏi hẳn. Chẳng những thế, tâm trí của Thầy cũng trở nên sáng suốt và phát triển trí huệ. Thầy lại phát nguyện tu các sám pháp khác như Pháp Hoa, Đại bi v.v... và được linh ứng không thể nghĩ bàn. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 4).

30. Triều nhà Nguyên, Thầy Thích Chân Tịnh, tự Như Am, con của họ Đào ở xứ Hoa Đình, tỉnh Giang Tô. Mẫu thân của Thầy nằm mộng thấy bạch nguyệt (mặt trăng trắng) sa vào lòng mà có thai, sau đó thì sanh ra Thầy. Lúc mới thụ thai thì có một vị Tăng từ trước đến giờ không ai biết, đến nhà và bảo rằng: “Thai nhi trong bụng của Đào Thị chính là Hải Nguyệt Pháp sư tái lai”. Lúc lên chín tuổi thì Thầy đến Chùa xin xuất gia, y chỉ theo Vô Cực Độ Pháp sư tu học, tất cả các Kinh nói về pháp tánh đều học thông suốt. Niên hiệu Thái Định, lúc đang ở chùa Hạ Thiên Trúc, Thầy Chân Tịnh mắc bệnh nặng nên Thầy chuyên tâm trì niệm Thánh hiệu Quan thế Âm. Một đêm, Thầy nằm mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ bưng bình cam lồ đến, dùng nhành dương liễu rưới nước vào miệng mà nói rằng: “Bệnh Ông từ nay sẽ khỏi hẳn.” Khi thức dậy, Thầy cảm thấy trong người nhẹ nhàng, chứng bệnh trước đây đã không còn nữa. (Trích Cao Tăng truyện - Tập 4).

Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

31. Triều nhà Nguyên có Thiên Nham Thiền Sư, họ Đổng, người ở tỉnh Chiết Giang. Lúc nhỏ, Thiền Sư hay bị bệnh nên mẫu thân của Ngài thường ở trước Quán Âm Đại Sĩ chí thành cầu đảo, lễ bái xưng niệm danh hiệu Đại Sĩ. Bà còn phát nguyện: “Cúi xin Bồ Tát đại từ đại bi gia hộ cho đứa trẻ này được mạnh khỏe, tật bệnh tiêu trừ, sau này con nguyện sẽ cho nó xuất gia tu hành”. Lời nguyện của Bà được cảm ứng, đứa trẻ quả nhiên mọi tật bệnh đều hết, sau đó, cậu bé được thân mẫu cho đi xuất gia theo Linh Chi Luật Sư học tập giới luật Phật pháp, tiếp theo lại được Trung Phong Hòa Thượng truyền tâm ấn. Thiền sư Thiên Nham sau về ẩn tu nơi chùa Thiên Long, hoằng truyền Phật pháp. Đức độ của Thiền Sư được nhiều người ngưỡng mộ. Tương truyền rằng, một ngày nọ, lúc Ngài đang tĩnh tọa thì có hai con rắn thật lớn đến quanh quẩn nơi pháp tòa, Thiền sư vì chúng mà giảng nói Tam quy ngũ giới. Hai con rắn ngóc đầu lên và cúi xuống lễ bái Thiền sư rất lễ kính. Sau khi lễ bái xong thì chúng bò đi nơi khác. (Trích Thính Thị Khể Cổ lược).

32. Triều nhà Minh, tại Ngô Quận có Phật tử tên là Từ Minh Phu. Phật tử này rất thâm tín Tam bảo, nhất là với Quán Âm Đại Sĩ. Ông thường ngày đêm lễ kính, xưng niệm danh hiệu của Đại Sĩ rất chí thành. Ông có đứa con tên Quán mới lên mười tuổi, bỗng nhiên mắc bệnh nguy hiểm. Hai vợ chồng Ông bèn đối trước tượng Đại sĩ, ngày đêm chí thành khẩn thiết cầu đảo, xưng niệm danh hiệu của Quán Âm Bồ Tát. Đến ngày thứ bảy thì xảy ra chuyện vô cùng lạ lùng. Vào đêm ấy, cả hai vợ chồng Ông đều nằm mộng thấy Bồ Tát đến dạy: “Ngươi hãy yên tâm, đừng quá buồn rầu. Con của hai ngươi sáng ngày mai sẽ ngồi dậy được”. Ngay lúc ấy bỗng nhiên trên bàn thờ Phật có tiếng động mạnh, hai vợ chồng giật mình thức giấc, đến trước bàn thờ Đại Sĩ thì thấy lư hương, chân đèn, bình hoa, dĩa trái cây đều bị rơi xuống đất nhưng không đồ vật nào bị hư bể. Ngay lúc ấy cả hai bỗng nghe trong miệng đứa nhỏ có tiếng nói lâm râm: “Xin Bồ Tát cứu con! Xin Bồ Tát cứu con!”. Vợ chồng ông gọi con nhưng nó vẫn ngủ say, không đáp. Đến sáng vợ chồng ông hỏi duyên cớ thì đứa trẻ cho biết: “Tối qua trong lúc đang ngủ thì con thấy Đại Sĩ đến trước giường con và nói “Con trai, Ta đến cứu con đây.” Nói rồi Bồ Tát cho con một chén nước bảo uống. Con vừa uống xong thì liền thấy nhẹ nhàng khắp xương tủy, toàn thân toát mồ hôi, đầu óc nhẹ nhàng tỉnh táo.” Cả hai vợ chồng nghe con kể lại rất vui mừng, lại càng hết lòng tin tưởng vào thần lực của Đức Đại Sĩ, mấy ngày sau thì bệnh của đứa trẻ lành hẳn. (Trích Từ Thị Đình huấn).

33. Triều nhà Minh tại chùa Thiên Đồng có Thầy Thích Tăng Chiếu là người có rất nhiều bệnh. Vào niên hiệu Hồng Vũ, năm Bính Thìn, bệnh tình của Thầy ngày càng trở nên nặng. Vị Thượng Tọa trong chùa thấy vậy, khuyên Thầy nên thành kính trì tụng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được tiêu trừ tật bệnh. Thầy Tăng Chiếu vâng lời, mỗi ngày trì niệm danh hiệu của Đức Quan Thế Âm đến hàng vạn câu. Qua năm ngày sau, lúc giờ Ngọ, Thầy tự nghĩ: bệnh tình của mình chắc khó lòng qua khỏi, có lẽ không bao lâu sẽ chết, chi bằng ngưng trì niệm Danh hiệu Đức Quan Thế Âm, mà đổi sang trì niệm Danh hiệu Từ phụ A Di Đà Phật để cầu vãng sanh thì chắc có kết quả tốt hơn. Khi Thầy vừa dấy khởi niệm tưởng này lên thì liền thấy có một phụ nữ tuyệt đẹp, thân mặc Pháp y, tay cầm Tịnh bình, từ ngoài cửa đi vào, đến trước mặt Thầy. Lúc ấy, Thầy Tăng Chiếu rất kinh ngạc, chẳng biết làm gì, sau khi Thầy định tâm nhìn kỹ lại, biết đó là Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân. Thầy Tăng Chiếu quá sức cảm động, rơi nước mắt, Thầy liền thành kính quỳ xuống, cầu xin sám hối thật bi thiết, chỉ trong chốc lát thì người phụ nữ ấy biến mất. Trải qua năm ngày sau thì bệnh của Thầy tự nhiên khỏi hẳn. (Trích Sơn Am tạp lục).

34. Triều nhà Minh ở tại Đàm Hưng, Cư sĩ Nguyễn Ứng Kiệt là một Phật tử tại gia. Ông vốn là người rất tin tưởng và luôn thành kính lễ bái trì niệm đức Quán Thế Âm. Vào niên hiệu Vạn Lịch, nhà Thanh, năm Nhâm Dần, ông mắc phải chứng bệnh đàm ứ lên chận cổ, một giọt nước gần như cũng không thể uống được. Trải qua bảy ngày, sức lực Ông hoàn toàn suy kiệt. Vào giờ Tý đêm ấy, Ông mê man, thần thức Ông thấy mình đang khiêng một chiếc kiệu đi dọc theo bờ con sông lớn, bỗng nhiên trượt chân té xuống nước. Ngay lúc ấy các loài thủy tộc có vảy, có mai hiện đến trước mắt và xúm vào đòi mạng. Lúc đó Ông tự nghĩ: chắc là Ta từ nhiều đời đã từng ăn thịt những loài này nên hôm nay mới lâm nạn như vậy. Trong lúc hốt hoảng, đột nhiên Ông cảm thấy dường như có người nắm hai tay mình dắt lên bờ, Ông ngước đầu lên xem thì thấy có một vầng thái dương đỏ thắm lửng lơ trên không trung tựa bên chân núi, Quán Âm Đại Sĩ đang ngồi trên đài sen, trang nghiêm lộng lẫy, lại có Thiện Tài Long nữ hai bên cùng với chim anh vũ và các đồ vật tịnh bình, nhành dương liễu,... như trong các bức tranh Ông thường lễ bái chiêm ngưỡng. Cư Sĩ dùng tay sờ y phục thấy vẫn khô ráo, liền đến trước Bồ tát cúi đầu lễ tạ. Đại Sĩ bèn dạy: “Ông vốn là thiện tri thức chuyển thân, lại thêm thờ Ta chí thành cung kính nên Ta đến đây để cứu Ông, nhưng vì sát nghiệp của Ông quá lớn mới mắc phải chứng bệnh nan y ấy. Vì vậy nếu Ông hoàn toàn không sát sanh nữa thì bệnh của Ông sẽ được lành.” Vương Cư Sĩ thưa: “Kính bạch Đại Sĩ, đây cũng là bổn ý của con, con xin thành kính vâng lời răn dạy của Người”. Đại Sĩ lúc ấy nói: “HIện Ta có thứ đề hồ này cho Ông uống”. Vương Cư sĩ kính cẩn bưng chén đề hồ lên uống cạn. Chén đựng đề hồ ấy giống như pha lê, trong ngoài thông suốt, đề hồ có màu sắc vàng và trong, mùi vị thanh tao không thơm gắt như vị ở thế gian. Uống xong, Vương Cư sĩ cúi đầu lễ tạ Đức Quan Âm thì liền thức giấc, trong miệng vẫn còn hương vị ngan ngát của đề hồ, toàn thân Ông ướt đẫm mồ hôi, chỉ trong giây lát, bỗng cảm thấy thân thể mát mẻ nhẹ nhàng, nơi chổ tim ngực thấy sảng khoái, cổ họng thông suốt. Người nhà Cư sĩ mang nước cháo đến uống thì khi dùng xong, Ông cảm thấy tinh thần minh mẫn, sức khỏe hồi phục lại như trước. Từ ấy về sau, Vương cư sĩ từ bỏ việc sát sanh, lại tự thân trước tác bộ Ký Linh Giới Sát Trung Ngôn (tức là dùng lời chân thật ghi chép sự linh ứng và lời răn dạy cấm sát sanh của Quán Thế Âm Bồ Tát). (Trích Từ Tâm Bảo Giám).

35. Triều nhà Minh niên hiệu Sùng Trinh, năm Tân Tỵ, tại huyện Đương Đô, có một người từ tỉnh Sơn Đông đến, người này mắc bệnh bại liệt hai chân nên không có phương sinh kế, bèn phải dùng hai tay thay chân lết đi xin ăn trong chợ. Bất hạnh cho Ông, đa số người qua đường trông thấy Ông là người nghèo khổ, tàn tật nên đều khinh khi, xa lánh, ít người giúp đỡ mà nhiều người còn lại buôn lời nhục mạ, khiến Ông rất khổ tâm không thể chịu nổi. Có người thấy vậy mách bảo cho Ông biết: nghe nói ở Am Đường Kiều có một vị Tăng, pháp danh là Thủy Cốc rất giàu lòng thương người. Ông bèn tìm đến nơi đó để tỏ bày hoàn cảnh và nổi khổ nhục của mình. Nghe kể xong, Thầy Thủy Cốc ôn tồn khuyên bảo: “Nếu Ông phát tâm xuất gia thì có thể nương nhờ sức đại từ đại bi của Phật gia hộ, nhờ đó có thể có thí chủ phát tâm bố thí”. Người bệnh nghe xong thì vâng lời, thỉnh Thầy Thủy Cốc làm lễ tế độ cho mình và phát nguyện thọ trì trai giới. Từ ấy về sau, Ông nương nhờ nơi cửa Phật, ngày ngày an nhẫn đi khất thực dù bị người hạ nhục, và hoàn toàn không ăn mặn. Thầy Thủy Cốc thấy thế rất thương xót nên dạy Ông hàng ngày chuyên niệm Thánh hiệu của Quán Thế Âm và trì tụng chú Chuẩn Đề. Ông thọ trì hơn hai năm thì vào mùa thu năm ấy, vào lúc ban đêm, Ông nằm mộng thấy một lão bà gọi Ông đến bảo rằng: “Ngươi hãy mau đứng lên”. Ông trả lời: “Tôi là người bị bệnh bại liệt, làm sao đứng dậy được?”. Lúc ấy Ông thấy bà lão đến kéo hai chân Ông thẳng ra, thật lạ lùng là hai chân của Ông không còn bị co quắp như trước nữa. Sáng ngày sau thức dậy thì Ông thấy đôi chân mạnh hẳn lên, chứng bại liệt đã lành hẳn. Ông đi đứng đường hoàng mạnh mẽ, và tự đặt cho mình pháp hiệu là Bán Nhai. Từ ấy trở đi, có nhiều thí chủ phát tâm đến cúng dường và Ông tiếp tục con đường tu hành của mình đến ngày tạ thế. (Trích Đường Nghi Chi kỷ Cầu thơ).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

36. Ở Dương Châu có một người bị bệnh tê bại đã hơn vài chục năm. Một hôm, Ông đang làm ở bên mé ao thì bỗng nhiên nhặt được một bức tượng Quán Thế Âm bằng sành. Ông vô cùng mừng rỡ bèn đem về rửa tắm thật sạch, xông hương tinh khiết và đem đến Am Đồng Ẩn cúng dường. Hàng ngày lúc canh năm, Ông đến Am dóng chuông thành kính trước tượng Quan Âm và đốt hương, lễ bái. Tu hành cần khổ như vậy trong suốt năm năm thì một hôm, Ông nằm mộng thấy có một bà lão đến dùng tay xoa bóp toàn thân, đoạn gọi Ông đứng dậy. Ông trả lời: “Tôi bệnh tê bại làm sao đứng lên được”. Bà cụ bèn nói: “Không sao, Hôm nay ngươi đi được rồi.” Ông giật mình thức giấc, khi bỏ chân xuống giường thử đứng lên thì thật linh nghiệm, hai chân Ông đã mạnh và cứng lên, Ông mang dép vào và đi như người thường. Quá xúc động trước lòng Từ bi vô lượng của Quan Âm Bồ Tát, Ông liền đến Am Đồng Ẩn xin xuất gia làm Tăng. Lúc bấy giờ có huyện lệnh Thái Phó ở Giang Tô, là người rất kính tin sự cứu khổ của Quán Âm Đại Sĩ, nghe chuyện của Ông thành tâm cần khổ tu niệm nên phát tâm kiến tạo một ngôi Tịnh thất rất trang nghiêm đề hiệu là Tồn Tế. Trong Tịnh thất ấy, vị quan có cúng dường tượng của Quán Thế Âm Bồ tát và từ ấy trở đi Ông suốt đời ở đó tinh tấn tu hành. (Trích Giác Thế Kinh thuyết chúng).

37. Triều nhà Minh, niên hiệu Sùng Trinh, năm thứ 11, nhằm năm Mậu Dần, ở tại Dương Châu có một vị Tăng hiệu là Thùy Kế. Từ lâu Thầy đã bị chứng đau lưng rất nặng, ngày đêm bệnh tình hành hạ làm Thầy rên la khổ sở, đến hơn một tháng sau thì bỏ luôn ăn uống. Có một vị đồng tu từ xa đến thăm thấy thế nói với Thầy: “Tôi nghe thường ngày Thầy khuyên mọi người chuyên niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm, hôm nay chính Thầy bị nạn sao không nhất tâm quy mạng Đại Sĩ để cầu xin đức đại từ đại bi của Ngài cứu độ để thoát được chứng bệnh này”. Thầy Thích Thùy Kế nghe lời nói của người bạn đồng tu thì tỉnh ngộ. Thầy lập tức nhờ người sắm hương đăng, hoa quả để cúng dường và chuyên tâm trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát không dứt. Đến lúc canh tư, đại chúng không nghe tiếng trì niệm của Thầy nữa, lấy làm lạ, liền sanh nghi Thầy đã tắt hơi nên mở cửa phòng vào xem thì thấy Thầy đang ngủ ngon giấc nên đồng trở ra để Thầy yên giấc. Đến chiều, bỗng mọi người nghe tiếng Thầy gọi lớn: “Tôi đói quá, xin mau làm cơm cho tôi ăn”. Mọi người đem cơm đến cho Thầy dùng. Sau khi dùng xong, Thầy bước xuống giường đi đứng bình thường và không còn đau đớn nữa. Đại chúng thấy vậy kinh ngạc hỏi Thầy duyên cớ gì mà bệnh lại mau lành nhanh như vậy. Thầy thành thật kể lại: “Lúc đầu khi Tôi mới niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì thấy người đau nhức như bị dao cắt, một lúc sau thì thấy có một vầng mây đỏ hiện ra trong không trung và Quan Âm Bồ Tát đứng trên vầng mây đó, Ngài dùng nước cam lồ trong bình rưới trên đầu Tôi. Trong giây lát, Tôi cảm thấy mát mẻ từ đầu xuống tới chân, ngắm vào tận xương tủy, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Sau đó Tôi ngủ mê mệt, khi thức giấc thì thấy bụng đói cồn cào, bây giờ khi dùng cơm xong thì thấy trong người khỏe khoắn lạ lùng, cảm giác đau ở lưng đã không còn nữa. Thật là sự nhiệm màu không thể tưởng tượng được.” (Trích Quán Âm Trì Niệm Ký).

38. Triều nhà Thanh, Phật tử Bành Xích Mộc có người cháu dâu là Đào Thị, bị chứng bệnh sưng lá lách như bướu, chạy chữa khắp nơi nhưng không hiệu quả. Đào Thị liền phát tâm chí thành cung kính trì niệm Chú Đại Bi. Một đêm nọ, Cô nằm mộng thấy có một bà lão đem đến trao cho Cô một cành hoa thật đẹp. Cô vui mừng nhận lấy, ngay tức khắc Đào Thị liền cảm thấy thân tâm mình nhẹ nhàng như chiếc lá, tưởng chừng có thể bay được. Khi thức dậy, Cô cảm thấy cơn bệnh không còn hoành hành nữa, từ ấy bệnh tự nhiên lành hẳn. (Trích Nhứt Hạnh Cư tập).

39. Triều nhà Thanh có Phật tử Tạ Trọng Hoa là người có tâm sùng kính ngôi Tam bảo. Ông có một đứa con gái còn ở trong nôi nhưng mắc chứng bệnh thời dịch đến mức hôn mê thác loạn, chứng bệnh ngày một trở nên nặng và không có phương pháp gì chữa trị. Đang lúc lo âu bối rối, Trọng Hoa bỗng nhớ đến Quán Thế Âm Bồ tát đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ, phổ độ chúng sanh, nếu có chúng sanh nào chí thành lễ bái, trì niệm danh hiệu Ngài chắc chắn sẽ được linh ứng. Ông liền nhất tâm thành kính lễ bái xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát, lại nguyện ấn tống Kinh Quán Âm nghìn quyển. Đứa con gái bị bệnh, đêm ấy được ngủ yên và đến sáng ngày thì bệnh hoàn toàn lành hết. (Trích Hải Nam Nhứt Chước).

40. Triều nhà Thanh có Phật tử tên là Như Lâm thường kể cho mọi người nghe chuyện lúc bình sinh của thân phụ Ông. Nguyên cụ Ông là một người nhân hậu tánh tình cương trực, thích làm các thiện sự và ưa bố thí. Hằng ngày, thân phụ của Ông thường cúng dường, lễ bái trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm rất kiền thành. Đến khi hơn bốn mươi tuổi thì bỗng mắc chứng bệnh cổ trướng, bụng nổi gân xanh chằng chịt như có người dùng dây quấn quanh cái trống trông rất đáng sợ, người nhà tìm thầy thuốc khắp nơi đều không khỏi. Một ngày nọ, thân phụ Ông nằm mộng thấy có một bà lão tay cầm một cây kim, đến bảo thân phụ Ông rằng: “Bịnh nhà ngươi rất nặng, ngồi cũng khó khăn chứ đừng nói chi đi đứng, tuy nhiên hôm nay Ta sẽ giúp cho ngươi đi lại một cách dễ dàng”. Dứt lời thì Bà dùng kim khều những sợi gân trong bụng Ông ra, khều hết sợi này đến sợi khác, sau đó dùng kéo bén cắt tất cả gân ấy vứt bỏ đi. Thân phụ Ông lúc ấy sợ hãi kêu la rồi giật mình thức dậy. Người nhà chạy đến hỏi nguyên do thì thân phụ Ông bèn kể lại câu chuyện trong mộng, ai nấy đều kinh ngạc. Đến sáng thức dậy thì thấy bụng của thân phụ Ông nhỏ lại như người bình thường, những gân xanh nơi bụng quả nhiên không còn, chứng bệnh cổ trướng lành hẳn, và cụ Ông đi đứng như bình thường. (Trích Miền Giới thuyết Yếu Luận).
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

41. Triều nhà Thanh, Hà Thế Kiệt là người ở huyện Sơn Âm, tỉnh Chiết Giang. Đến niên hiệu Càn Long thứ mười ba, vào tháng 9 thì bỗng nhiên mắc chứng bệnh sâu cổ (đây là chứng bệnh do ăn phải độc chất từ loài độc trùng. Người ta chế thuốc độc này bằng cách nhốt các loại độc trùng như rắn, rít, bò cạp, cùng nhau để chúng tàn sát nhau, con nào còn sống sót thì bị giết chết, sau đó đốt thân tan thành tro tạo thành dạng bột. Chất bột cực độc này nếu bỏ vào đồ ăn, thức uống của người mà kẻ chủ mưu muốn hãm hại thì người ăn trúng độc nếu không chết ngay lập tức thì cũng mắc phải các chứng bệnh không thể chữa trị được). Mẫu thân của Thế Kiệt là Điền Thị ngày đêm chí thành lễ bái ở trước tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và xưng niệm danh hiệu của Ngài, Bà lại phát nguyện tụng kinh Cao Vương(*) một nghìn biến, ấn tống 1,200 quyển Kinh này, đến tháng 3 năm sau, chứng bệnh sâu cổ của Thế Kiệt hoàn toàn hết hẳn. Trích Quán Âm Linh cảm lục).

(*) Cao Vương Kinh còn gọi là Cao Vương Quan Thế Âm Kinh.

Đời Đông Ngụy, niên hiệu Thiên Bình, người ở xứ Cao Vương, cảm được sự linh ứng của đức Quan Âm trong Kinh Quán Âm, nên gọi là Cao Vương Kinh. Trong bộ Cao Tăng Truyện, quyển 29 cùng với bộ Pháp Uyển Châu Lâm quyển 25 đều gọi là Quán Thế Âm Cứu Sanh Kinh hay là Cao Vương Quán Thế Âm Kinh. Trong Bộ Phật tổ thống ký quyển 54 gọi là Thập Cứu Quán Âm Kinh. Trong bộ Kê Cổ Lược quyển 2 thì gọi là Cứu Khổ Quan Âm Kinh. Trong tục Cao Tăng truyện, có chuyện Tôn Đức Kính là một Phật tử, thường ngày rất siêng năng, chí thành lễ bái trì niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm. Về sau, bị người bắt và đem nhốt tại ngục ở Kinh Đô. Ông bị tra khảo đánh đập rất tàn nhẫn để ép phải nhận tội mà bọn chúng gán ghép cho Ông. Tôn Đức Kính do không chịu nổi những cực hình tàn ác ấy nên dù không tội vẫn phải nhận tội. Trong lúc bị cực hình đến ngất đi trong ngục thì mộng thấy có một vị Sa môn đến bảo Ông tụng Quán Thế Âm Cứu Sanh Kinh, trong bộ kinh ấy có danh hiệu Phật. Sa môn dặn kỹ rằng phải tụng cho đủ ngàn biến thì mới thoát khỏi nạn tử hình. Khi thức giấc, Đức Kính vâng lời tụng kinh rõ ràng không sai sót, đến lúc gần sáng đã tụng sắp đủ năm trăm biến thì quan Hữu Ty đến bắt trói để đem đi xử trảm. Trên đường dẫn đi, Đức Kính vẫn thành tâm vừa đi vừa tụng. Đến giờ gia hình thì cùng lúc trì tụng đủ nghìn biến. Khi đao phủ cầm dao lên chém thì dao liền gãy thành ba khúc, ba lần đổi dao đều giống như vậy. Những người chứng kiến tại Pháp trường đều kinh ngạc. Quan Hữu Ty đem sự việc ấy tâu về triều, Quan Thừa Tướng Cao Hoàng cũng dâng biểu lên Hoàng thượng triều Ngụy xin tha tội chết cho Đức Kính. Hoàng thượng chuẩn tấu tha chết cho Đức Kính, lại hạ chiếu truyền cho Đức Kính phải cố gắng viết Kinh để phổ biến khắp mọi nơi để cho toàn dân trong nước đều trì tụng. Hiện nay, Kinh này được gọi là Cao Vương Quan Thế Âm Kinh.

42. Triều nhà Thanh có người tên Diệp Kiến An bị bệnh sốt rét rất nặng. Mỗi khi lên cơn sốt và cơn lạnh hoành hành thì khổ không kể xiết, chứng bệnh ngày càng nặng mà không thầy nào chữa được. Kiến An vô cùng lo luồn, nghĩ rằng chắc không qua khỏi. Một ngày nọ, Ông bỗng nhìn thấy trên giá sách có quyển Đại Bi Chú, trong tâm phát khởi niệm: người ta thường nói trong thế gian không gì linh nghiệm và quý báu bằng Phật Pháp, vậy nếu nay Ta trì tụng chú này, chắc sẽ được giảm bớt bệnh khổ. Sáng hôm sau, Ông đến trước Phật đài, đốt hương thành kính lễ bái cầu nguyện phát thệ chuyên tâm trì tụng Chú Đại Bi. Trong ngày ấy, chứng sốt rét bớt hẳn và dần dần thân thể Ông khỏe mạnh trở lại như xưa. (Trích Khuyến Giới Lục).

43. Triều nhà Thanh, Vương Ngự Đương tự thuật lại như sau: Vương Kính Tổ người ở tại Bảo Đê, quận Kinh Triều, lúc lên mười bảy tuổi thì đôi mắt bị mù. Kính Tổ phát nguyện hàng ngày thành tâm trì tụng Thần Chú Bạch Y và danh hiệu Đức Quán Âm. Đến niên hiệu Khang Hy, vào đêm 26 tháng 4 năm Kỷ tỵ, Kính Tổ nằm mộng thấy một phụ nữ mặc áo lụa trắng, dùng tay vạch mắt trái của Kính tổ, rồi dùng chiếc kềm nhỏ kẹp cho gân lòi ra chừng một tấc, tiếp theo lại vạch mắt phải ra rồi cũng dùng kềm làm như vậy. Sau đó, người phụ nữ bảo Kính Tổ rằng: “Mắt của ngươi đã hết bệnh rồi”. Sáng hôm sau thức dậy, Kính Tổ rất vui mừng vì đã nhìn thấy mọi vật rõ ràng như lúc chưa mù. Từ đó, đức tin của Kính Tổ càng sâu dầy, tụng niệm càng tin tấn hơn. Cả gia đình Anh sau đó đều nguyện trì chú Bạch Y rất tinh tấn, cúng dường Đại Sĩ rất kiền thành. Chiết An Thiền Sư là bậc Cao Tăng ở Bồng Sơn là người biết rõ việc này nên đã trước tác chuyện Vương Kính Tổ, ghi lại sự tích này để rộng khuyến hóa mọi người trì tụng Chú Bạch Y để được nhiều lợi ích. (Trích Cư Dị Lục).

44. Triều nhà Thanh có Phật tử tên là Đinh Triều là người rất tin tưởng Phật pháp. Ông thường kể cho mọi người nghe về chuyện Bà nội của mình. Bà nội của Ông là Khổng Thái Quân, hai mắt bị mù đã hai chục năm. Vào niên hiệu Càn Long nhà Thanh, lúc mùa Xuân năm Nhâm Tý, mọi người trong nhà đang vui vẻ đón mừng năm mới thì bà lão rất buồn khổ, tâm trạng giống như là người bị nhốt trong ngục tối. Quá buồn tủi, Bà nói với đứa cháu nội: “Triều ơi, Nội không thấy gì cả, sống mà như đã chết. Nội chỉ mong sao Trời Phật chỉ cho một con mắt của Nội được sáng thôi để nhìn thấy mọi người xung quanh thì cũng được mãn nguyện trước khi chết rồi.” Triều nghe bà Nội nói thì trong lòng rất xúc động, rưng rưng nước mắt thưa với bà rằng: “Nội đừng quá bi quan! Con nghe rằng Thần Chú Đại Bi rất linh nghiệm, người nào bị bất cứ tai nạn bệnh khổ nào mà thành tâm trì tụng, chắc chắn mọi sự đều được như ý nguyện. Nhưng con nghĩ Thần chú này rất nhiều chữ nên con dạy Nội cũng sẽ lâu thuộc, chi bằng Nội hãy chuyên tâm thành kính trì niệm bảy chữ Thánh hiệu “Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát” thì con chắc rằng mắt Nội sẽ sáng lại.” Bà nghe cháu nội của mình nói xong thì sanh tâm thành kính, ngày đêm kiền thành trì niệm Thánh hiệu Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát không gián đoạn. Chưa được một tháng thì con mắt của Bà quả nhiên sáng lại như xưa, Bà tự nhìn được những đường chỉ tay trên bàn tay rất rõ ràng. Một hôm, Bà bảo tất cả con cháu trong nhà và gia nhân đến đứng dưới lầu, bà đứng trên lầu nhìn xuống nhận diện từng người một rồi vô cùng hoan hỉ khi thấy rõ tất cả. Bà nói: “Hai đứa cháu dâu về nhà này đã lâu mà Già chưa biết mặt, hôm nay luôn cả cháu chắt đều đủ mặt, Ta có thể trông thấy rõ từng mảng tóc vá trên đầu của chúng. Sự việc này nếu không phải sức đại từ đại bi của Quan Âm Bồ Tát thì không ai có thể giúp cho Ta được.” Sau đó, Bà bảo Đinh Triều viết lại câu chuyện của Bà và khắc bản lưu bố các nơi để giúp mọi người tăng thêm lòng tín ngưỡng với Đức Quan Âm Đại Sĩ. (Trích Quán Thế Âm Trì Nghiệm ký).

45. Tại Lâm Giang có Phật tử tên Đinh Triệu Hy thường đi buôn bán ở đất Thục. Mẫu thân của Triệu Hy là Diệp thị ở nhà bị liệt hai chân rất là đau khổ, chạy chữa mãi vẫn không hết. Triệu Hy ở xa nghe tin dù, tâm luôn hướng về Mẹ già ở quê nhà, nhưng không biết phải làm sao nên chỉ biết thành kính xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại sĩ cầu xin cho bệnh của Mẹ mau lành. Ít lâu sau, có người ở trong làng của Ông đến đất Thục, Triệu Hy hỏi thăm mới biết mẫu thân của mình nhờ sức Từ bi của Đại sĩ linh ứng hiển hiện trong điềm mộng nên bệnh được lành. Theo người này kể lại, đúng vào ngày Ông đang trì niệm Thánh hiệu Quan Âm thì Mẹ Ông ở nhà mộng thấy đức Đại Sĩ đến dùng nước cam lộ rưới lên đôi chân Bà. Sáng ngày tỉnh giấc thì Bà cảm thấy đôi chân có cảm giác trở lại, sau đó bà đứng lên đi lại được như bình thường. Thế mói biết nhờ tâm thành cầu khẩn của Triệu Hy, dù đường xa vài nghìn dặm, có cảm liền có ứng nên Mẹ ông được hết bệnh. Qua năm Đinh Dậu, Triệu Hy hồi hương nhằm ngày sinh nhật lục tuần của mẫu thân, Ông tắm gội sạch sẽ, thực hành trai giới, thanh tịnh phát nguyện chí thành cung kính tụng kinh Phổ Môn một trăm biến để cầu nguyện cho mẫu thân được khang kiện. Quả nhiên, về sau mẫu thân của Ông tuy lớn tuổi nhưng thân hình vẫn tráng kiện, tinh thần minh mẫn, hưởng thọ cao niên. Riêng Triệu Hy thì việc làm ăn cũng phát đạt, mọi việc đều như ý. (Trích Khuyến giới thiết yếu lục).
Hình ảnh


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.34 khách