SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Kính mời các bạn tham gia ghi lại kinh nghiệm tu tập và những gì mắt thấy tai nghe về sự cảm ứng nhờ hành trì giáo lý Phật.
dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

LÀNH BỊNH:

1.- NGƯỜI BỊNH HỦI

Đời Đường ở Bồ-Châu ông Thích Pháp Triệt tuổi trẻ mà tánh siêng năng chịu khó tụng kinh Pháp-Hoa, thường đem kinh này dẫn dắt giáo hóa mọi người.

Trong ấp có ngài Cô-Sơn, ông Pháp Triệt đến y chỉ với ngài mà tu hành, sáng lập cảnh Lang-Nhã.
Ông từng đi các nơi đương gặp một người bịnh hủi, dẫn về trong núi, đục một cái hang cho ở và nuôi dưỡng.
Bảo tụng kinh Pháp-Hoa, nhưng người bịnh hủi ấy không biết chữ, lại thêm đần độn.
Ông Pháp Triệt dạy học từng câu, không nệ mệt mỏi.
Học đến quyển thứ sáu, bịnh hủi lần lành, học rồi thì bộ lông mày và tóc mọc lại, và da cũng lành như xưa.
(Trích trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- BÀ PHÍ THỊ
Đời nhà Tống, bà họ Phí, vợ của ông La-Dự, người ở đất Thục-Ninh, cha tên Duyệt làm quan Thứ Sử châu Ninh.
Bà Phí thuở nhỏ kính tin Tam Bảo.

Bà tụng kinh Pháp-Hoa được vài năm siêng năng không biết mỏi mệt.
Sau bỗng mắc bịnh đau tim.
Bà đóng cửa buồn rầu lo sợ dặn dò người nhà sắm sửa đồ tẩn liệm để đợi thời. Bà Phí tâm nghĩ rằng: “Mình tụng kinh siêng năng chắc là có phước lành họa may khỏi chết”.

Nghĩ thế rồi an tâm nằm ngủ chốc lát thức dậy nhưng còn mơ màng thấy Phật bên song cửa đưa tay rờ chỗ trái tim mình, bịnh liền lành ngay lúc ấy.

Cả nhà trai gái tôi tớ đều thấy hào quang sắc vàng chói sáng khắp nhà, lại cũng có mùi hương sực nức.
Em gái ông Dự đến thăm bịnh đương ở trước giường cũng thấy rõ hết.
Từ bấy giờ, bà Phí càng sanh tín tâm, tự răn gắng trọn đời, thường đem điều đó để dạy dỗ con cháu.
(Rút trong bộ Dị Ký)
____________
TRỪ TÀ MA :
1.- THÍCH TĂNG LÃNG
Ngài Thích Tăng Lãng họ Hứa, người huyện Nam-Dương, có nuôi một con khỉ và một con chó.
Cuối nhà Trần, bắt đầu nhà Tùy, thầy đi du ngoạn các miền giang lãnh, nay sông này, mai núi kia, chỉ mặc y phục sơ sài, song oai nghi rất nghiêm chỉnh, theo phép khất thực nuôi mình.

Thầy thường đọc tụng các kinh, nhưng chỉ thích riêng về kinh Pháp-Hoa hơn.
Bình thường tiếng giọng ồ ề không rõ, thầy chí nguyện tụng kinh cho tiếng được thanh tao, nên một phen ngồi tụng suốt đến bảy biến mới thôi. Như vậy, chẳng bao lâu tiếng nói như sấm vang, biết rằng đã có phước lực rồi.

Thầy tụng kinh lấy số bảy làm chừng, tụng đến bảy mươi, bảy trăm, bảy nghìn, đến bảy muôn biến thời tiếng giọng rất thanh thao trong suốt, tự nhiên thốt ra rõ ràng trong trẻo như tiếng đờn tranh ống sáo.

Vì thế, nên khi thầy tụng kinh, môi mép không động, chỉ chuyển hơi trong cổ mà tiếng giọng phát phù trầm lãnh lót, người đến xem nghe sửng sốt quên thôi. Từ đó thầy được nổi danh.

Đương thời, có một vị ni cô bị quỷ ám nhập, quỷ làm cho cô thông suốt kinh văn thấu rõ nghĩa mầu, chuyên sự giảng kinh giáo hóa; thính giả đến nghe rất đông, nhưng không ai lường được sức thần tài kia, thảy đều khen ngợi là bực thông ngộ.

Thầy Tăng Lãng nghe việc ấy, nói rằng:
“Đó là tà quỷ ám nhập gia hộ chớ có gì là chánh lý, ta phải qua xét nghiệm”.

Rạng ngày sáng sớm, con khỉ và con chó đi trước thẳng đến chùa ni cô. Thầy đi theo sau, vừa đến, vào lạy Phật, nhiễu tháp rồi, mới tới trước giảng đường,
lúc ấy ni cô còn đương giảng thuyết trên pháp tòa. Thầy bèn nạt lớn quở rằng: “Tiểu tỳ! ta đã đến đây, sao chẳng chịu xuống pháp tòa, còn đợi gì nữa?”

Ni cô nhơn nghe tiếng quở liền ngã té xuống đất, chạy đến trước giảng đường, quì gối trước mặt thầy từ giờ Mẹo cho đến giờ Thân, không dám nhúc nhích, mồ hôi chảy dầm mình ngậm thinh không nói được lời chi.

Thầy gạn hỏi chỗ kiến giải, cô vẫn im nhiên như ngây như điếc. Qua trăm ngày sau, tâm tánh cô mới hoàn phục lại như cũ.

(Rút trong bộ Cao Tăng Truyện)
* * *
2.- THÍCH ĐẠO LÂM
Đời nhà Lương, Thích Đạo Lâm người huyện Sơn Âm, có giới hạnh nghiêm khiết, giỏi về kinh Pháp-Hoa và kinh Niết-Bàn. Ông Trương Tự ở nước Ngô rất mực kính thờ thầy.

Niên hiệu Thiên Giám, chùa Tuyền Lâm ở huyện Phú Dương có quỷ quái nổi lộng quấy nhiễu người. Khi thầy đến, quỷ đều tiêu hết.

Ông Huệ Thiều là đệ tử của thầy bị nhà sập đè, đầu quẹo cúp vào ngực. Thầy bèn tụng kinh Pháp-Hoa cầu nguyện cho.
Ông Thiều nằm chiêm bao thấy có hai vị đạo nhơn người Tây Vứt kéo cái đầu ông thẳng ra, sáng ngày mạnh như thường. Ai nấy cũng đều khâm phục sự linh cảm thần dị của thầy.

(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)


CUỐNG LƯỠI KHÔNG RÃ:


1.- ĐỒNG TỬ
Về thời nhà Tống, khi ông Thích Đạo sanh ở xứ Bán Đường tụng kinh Pháp-Hoa, có gã đồng tử theo ông xuất gia, cũng tụng kinh Pháp-Hoa, không bịnh hoạn chi, bỗng chết đi, mới đem chôn trong cạnh rừng.

Ít lâu sau, một đêm kia xảy nghe có tiếng tụng kinh cạnh rừng ấy, người trong làng lấy làm lạ, đào lên xem coi, bèn gặp một cái lưỡi mọc hoa sen xanh. Nhơn đó người làng mới dựng tháp phụng thờ, đến sau sửa sang lại thành một ngôi chùa đồ sộ.

( Trích trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- ĐẦU LÂU TỤNG KINH

Nhà Đường, niên hiệu Trinh Quán có ông thầy ở chùa Ngộ Chơn trên núi Vương Thuận. Ban đêm đi qua đất Lam Khê, bỗng nghe tiếng người tụng kinh Pháp-Hoa văng vẳng ở đàng xa. Lúc ấy trăng sao tỏ rạng, thầy mới ngó trông bốn phía xa xa vài mươi dậm, vẫn im lìm vắng vẻ, không thấy ai cả. Trong tâm thầy rất nao nao run sợ.

Về đến chùa rồi, thầy tường thuật lại với chúng tăng. Qua đêm sau, chúng tăng đồng đến Lam-Khê để nghe. Bèn nghe tiếng tụng kinh từ dưới đất phát lên, mới lấy cây cắm nêu làm dấu chỗ ấy.

Rạng ngày, qua đào chỗ ấy gặp đặng một bộ xương sọ (đầu lâu) trong gò đất. Xương ấy đã khô, duy còn cái môi trên, môi dưới và cuống lưỡi hồng đỏ tươi thắm, bèn đem về chùa đựng trong hộp đá để dưới hiên phía Tây điện Thiên Phật.

Từ đó về sau mỗi đêm thường có tiếng tụng kinh Pháp-Hoa ở trong hộp đá. Kẻ nam nữ ở Trường An đến xem rất đông có đến số nghìn.

Sau đó ông thầy ở nước Tân-La đến ngụ trong chùa vừa hơn một năm. Ngày kia, chúng tăng trong chùa có việc xuống núi hết, chỉ còn ông thầy nước Tân-La ở lại, ông bèn trộm lấy hộp đá mà đi. Chúng tăng theo tìm thời đã đem về miền Hải-Đông rồi.
(Trích trong bộ Tuyên Thất Chí)
* * *
3.- THÍCH ĐẠO TỤC
Nhà Đường, ông Thích Đạo Tục, không biết do lai ở đâu, ở trên núi Lệ Tuyền chuyên ròng tụng kinh Pháp-Hoa đến vài nghìn biến.
Trong niên hiệu Trinh Quán, nhơn bịnh sắp chết, dặn người bạn là ông Huệ Khoách Thiền Sư rằng: “Tôi ở đây, dù rằng tụng kinh, nhưng ý trông mong có sự hiệu nghiệm.
Vậy sau khi tôi chết rồi, sẽ hẹn chừng mười năm sẽ đào mả lên xem coi, nếu cuống lưỡi tiêu rã, biết rằng tụng kinh không công hiệu, nếu cuống lưỡi còn nguyên, xin dựng một cái tháp để cho người đời sinh lòng kính tin”. Nói rồi viên tịch.

Đến mười một năm sau, Thiền sư y lời đào mả lên coi thấy thân thịt đều tiêu hết, chỉ còn cuống lưỡi không mục rã, mà lại tươi thắm như của người sống.
Bấy giờ cả huyện ấy kẻ nam người nữ đều khen ngợi, mới đem cuống lưỡi đựng vào hộp đá, dựng tháp thờ ở trên gò Cam-Đốc.
(Rút trong bộ Pháp-Uyển Châu-Lâm)
____________
VÃNG SANH:


1.- THÍCH HUỆ TẤN
Niên hiệu Vĩnh Minh, xứ Dương Đô, chùa Cao Tòa, ông Thích Huệ Tấn lúc niên thiếu rất mạnh mẻ, thích giao du, có chí hào hiệp, đến tuổi bốn mươi bỗng ngộ lý vô thường, bèn đi xuất gia học Đạo.

Chỉ dùng tương rau, mặc bô vải, thệ nguyện trì tụng kinh Pháp-Hoa mà thôi.

Do ông dụng tâm quá lao khổ nên phát bịnh. Ông mới phát nguyện ấn tống trăm bộ kinh để sám hối nghiệp chướng đời trước.
Ông vừa quyên tiền được một nghìn sáu trăm đồng thì có bọn giặc cướp đến tra hỏi tài vật, ông bèn chỉ tiền và nói cho họ biết đó là tiền in kinh. Bọn cướp hổ thẹn bỏ đi.

Về sau, ông in được trăm bộ kinh rồi bịnh cũ cũng lành mạnh. Ông tụng kinh đã nhiều, tâm niệm hoàn mãn hồi hướng công đức tụng kinh cầu sanh về nước Cực Lạc.

Một ngày nọ bỗng nghe trên hư không có tiếng bảo rằng: “Pháp nguyện đã đủ, tất đặng vãng sanh”. Ông không bịnh hoạn chi mà chết, hưởng thọ được hơn tám mươi tuổi.
(Rút trong bộ Tường Di Ký)
* * *
2.- VƯƠNG YÊM

Đời Đường, quan Huỳnh-môn thị-lang tên Vương Yêm, bình sanh căn tánh tối dốt chậm lụt, chỉ có một bộ kinh Pháp-Hoa mà ông học lâu ngày mới tụng thông được.

Sau ông phải bịnh từ trần, về mách mộng cho người em làm quan Thái-Thú ở đất Tân An rằng: “Ta nhờ tụng kinh được sanh về Tây Phương, song vì tôi dốt nên còn ở trong thai bào hoa sen.

Nay về nói cho các người biết, từ nay phải chuyên siêng trì tụng kinh điển chớ nên biếng nhác trễ nải”. Nói rồi liền từ biệt.

(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì Nghiệm)
____________
KHỎI NẠN


1.- THÍCH HUỆ KHÁNH
Đời Tống, ông Thích Huệ Khánh là người xứ Quảng Lăng, đi xuất gia ở chùa Lô Sơn, học thông kinh luật, giới hạnh tinh nghiêm thanh khiết.

Ông thường trì tụng kinh Pháp-Hoa, kinh Thập Địa, kinh Tư Ích, kinh Duy Ma. Hằng đêm tụng kinh, thường nghe trên hư không có tiếng khảy móng tay khen ngợi.

Một ngày nọ ông đi thuyền bỗng gặp trận giông to mưa lớn, sấm sét dữ dội, sóng dậy ba đào, chiếc thuyền lắc đảo gần chìm úp, mà ông Khánh cứ tụng kinh mãi không thôi. Xảy nghe thuyền ở giữa giòng sông dường như có người kéo dắt nưng đỡ, phút chốc liền đến bờ.

Từ đó về sau ông Khánh lại càng gắng tinh cần hơn nữa.
(Rút trong bộ Pháp-Uyển Châu-Lâm)
* * *
2.- THÍCH PHÁP LÂM

Đời Lương, thầy Thích Pháp Lâm họ Nghiêm, người huyện Chi Giang, xuất gia ở chùa Ngọc Tuyền, thường tụng kinh Pháp-Hoa, hằng ngày chỉ dùng một ngọ trai, ngồi luôn, không nằm.
Thầy thích đi du phương, thường quải gậy dạo khắp các miền núi non như Lô-Sơn, Thai-Đảnh, Hoành-Lãnh, La-Phù v.v... không chỗ xa nào mà thầy không rảo bước đến; chỉ nương đổ nơi hang cùng gộp thẩm, một bề chuyên tu thiền định.

Thầy lại thường đến non Đại, phải đi ngang qua Châu Từ, có quan huyện xét hỏi để nghiệm coi chơn giả, thấy thầy chỉ đem theo có một bộ kinh Pháp-Hoa.
Quan Huyện không tin, nổi giận bắt thầy giam lại. Bảy ngày thầy không ăn, tụng kinh không ngớt. Quan Huyện ngủ thấy ác mộng, bèn đảnh lễ xin thầy cầu sám hối.

Sau rồi, thầy về ở ẩn nơi chốn u tịch, chuyên bề thiền tụng làm nghiệp. Đến khi chết, có mùi hương lạ ngào ngạt phưởng phất cả mười ngày mới tan.

(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- SẦM VĂN BỔN

Đời nhà Đường có ông Sầm Văn Bổn tự Cảnh Nhơn, người ở đất Lạc Dương. Thuở nhỏ tin Phật, tụng phẩm Phổ-Môn trong kinh Pháp-Hoa.

Có một lúc ông đi ghe tới sông Ngô, giữa sông ghe úp, mọi người đều bị chết chìm, ông Văn Bổn cũng đắm trong nước, bỗng nghe có tiếng nói rằng:

“Người tụng kinh Pháp-Hoa được khỏi chết”.

Nói như thế ba lần, ông liền nổi lên mặt nước, giây phút tấp vào bờ.
____________
SIÊU ĐỘ:
1.- CON NGỰA CỦA THẦY TÂY LÂM

Triều Minh, niên hiệu Gia Tịnh, thầy trụ trì chùa Bảo Ấn tên là Vĩnh Ninh biệt hiệu Tây Lâm có nuôi một con ngựa. Mỗi khi thầy đi phó trai nơi dinh quan Lễ Bộ đều cỡi con ngựa ấy. Từ chùa, bắt đầu lên lưng ngựa, thầy thường tụng kinh Pháp-Hoa cho đến khi tới dinh xuống ngựa thời vừa rồi một quyển, lần nào đi cũng thường tụng như thế.

Ít lâu sau có một người đàn bà chửa ở ngang cửa chùa ban đêm nằm mộng thấy con ngựa ấy vào nhà bèn sanh được một đứa con trai. Sáng ngày, tới chùa hỏi thăm, thời té ra con ngựa chết cũng đúng giờ đó.

Đến sau, nhà ấy cho con theo làm đệ tử thầy Tây Lâm. Tính nó rất đần độn, thầy dạy nó học, một chữ cũng không thông, duy truyền miệng cho nó một quyển kinh Pháp-Hoa nó bèn thuộc lòng. Do đó thầy tin rằng: Ngựa nghe kinh được thoát thân thú vậy.

(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- THÔI QUỶ
Đời Đường, ông Vương Hoằng Chi trong niên hiệu Trung Quán, làm quan Lịnh ở huyện Hòa Xuyên, châu Thấm, có con gái gả cho ông Thôi-Quỷ ở đất Bác Lăng.

Ông Quỷ đi qua huyện Hòa-Xuyên (bên vợ) xảy lâm bịnh chết. Trải qua vài mươi ngày, trong nhà ông Vương bỗng nửa đêm nghe tiếng nói của ông Thôi-Quỷ.
Ban đầu cả nhà đều sợ hãi, sau lần quen coi là sự thường.

Ông Quỷ nói rằng: “Tôi là bổn phận con rể, dầu rằng không phải cách lập bàn linh ở bên nhà vợ, song vì khổ không có chỗ nương tựa, xin vì tôi mà lập vậy”.

Vợ ông bèn theo lời lập bàn linh, mai chiều đều cúng kiến, ông về không cho cúng thịt, duy phải cúng đồ chay thôi.
Ông thường khuyên niệm Phật, lại nói việc trong ngục rằng:

“Người ta một đời thường khó khỏi tội, sát sanh và bất hiếu là nặng hơn hết, ngoài ra các tội khác thời nhẹ hơn”.
Lại nói rằng:

“Tôi tuy không tội chi, song phải cần nhờ phước lực giúp trợ, vậy xin vì tôi thiết trai cúng dường Tam Bảo và tả kinh Pháp-Hoa, kinh Kim-Cang, kinh Quán-Âm, mỗi thứ 2, 3 bộ, thời từ đây về sau tôi không còn trở lại nữa”.

Nhà họ Vương đều y lời yêu cầu, mướn tả kinh, thiết trai cúng dường.

Bỗng một hôm, ông Quỷ lại đến có vẻ thẹn thuồng tạ ơn và nói rằng:
“Từ nay xin từ biệt”. Cả nhà đều buồn khóc mà đưa đi.

Ông Quỷ lúc chết có để lại một đứa con năm, sáu tuổi.
Ông Quỷ lại dặn rằng: “Đứa con tôi đó, sau tất có danh trong trường quan, xin khéo nuôi nấng giùm”.
Từ đó bặt luôn không còn trở lại nữa.

(Trích trong bộ Pháp-Uyển Châu-Lâm)
* * *
3.- BÀ LÝ THỊ

Đời Đường, châu Kỳ, huyện Phong Khưu có bà lão mẫu họ Lý, tuổi đã bảy mươi, không con cái chi, một thân già cô quạnh, chỉ có một tớ trai và một tớ gái.

Bà làm nghề bán rượu ở thành phố rất lanh xảo, rượu thời pha thêm vôi nước và đong thiếu lường hụt.
Đến niên hiệu Trinh Quán, bà nhơn bịnh chết trải qua hai ngày, đồ an táng đã sắm đủ, nhưng chưa tẩn liệm vì trên ngực bà còn hơi ấm.

Bỗng bà sống lại nói rằng: “Ban đầu có hai người toàn mặc áo đỏ, đứng ngoài cửa kêu tôi ra, nói rằng: có lịnh trên đòi.
Tôi lật đật đi theo, đến một thành kia giống như cái thành ngoài của châu này.

Sứ giả dẫn tôi đến dinh bên cạnh, thấy một ông quan đội mão mặc áo tay rộng ngồi ghế dựa, hai bên tả hữu hầu hạ rất đông, dưới thềm lại có người mang gông xiềng, lính canh giữ như chốn quan trên này.

Ông quan ấy hỏi tôi rằng: “Tại sao bán rượu làm những việc gian lận để tham lấy của người cho nhiều, còn việc tính in kinh Pháp-Hoa đã mười năm rồi sao không làm?”

Tôi thưa rằng: “Rượu thời tôi bảo tớ gái làm, đong cũng đứa tớ tôi đong. Còn kinh kia tôi đã đưa tiền một ngàn đồng cho ngài Ẩn-Sư rồi”.

Quan liền sai sứ đến bắt đứa tớ, giây lát đứa tớ đến, liền đánh bốn chục trượng rồi thả về. Lại sai người đến hỏi ngài Ẩn-Sư, trả lời là có thật.

Quan bèn bảo tôi rằng: “Nay thả cho ngươi về bảy ngày, tạo kinh xong, sẽ đến đây sanh về cõi lành”.
Nhơn đó đặng sống lại.”

Xét khi bà lão mẫu mới chết, đứa tớ gái bỗng mắc bịnh ác nghịch chết ngang, giây lâu tỉnh lại nơi lưng sưng bầm, đó là lằn vết bị đòn bốn chục trượng vậy.

Còn ngài Ẩn-Sư là vị khách tăng, tuổi đã sáu mươi bảy, từ khi xuất gia tu hạnh đầu đà đi khất thực, thường ngày dùng một bữa chay chưa từng gián đoạn, các vị đại đức xa gần đều kỉnh mộ.

Đêm bà lão mẫu bịnh chết, ngài Ẩn-Sư nằm mộng thấy có người mặc áo đỏ đến hỏi. Trong mộng đáp rằng: “Việc tả kinh có thiệt”.

Lúc ấy, bà lão mẫu mời cả bà con chòm xóm và ngài Ẩn-Sư đến làm Phật sự, lại mướn nhiều người tả kinh, nhờ đông tay nên đúng trong bảy ngày kinh tả đã xong.
Bà lại thấy hai người sứ trước kia đến nữa.

Bà nói rằng: “Sứ nhơn đã đến rồi, xin bà con ở lại mạnh giỏi”. Vừa dứt tiếng liền chết.

Ngài Ẩn-Sư hiện còn, kẻ đạo người tục đều khâm kính.
(Rút trong bộ Minh Tường Ký)
* * *
4.- TIÊU THỊ
Đời Đường, quan Thiếu-Thường-Bá Thôi-Nghĩa-Khởi, cha vợ là ông Tiêu Văn Khanh bình sanh chuyên trì kinh Pháp-Hoa được vài nghìn biến, bỏ hẳn rượu thịt, chỉ dùng trai tố.

Vợ của ông Khởi là họ Tiêu đến niên hiệu Long-Sóc năm thứ ba, tháng năm phải bịnh chết. Trong nhà luôn ba tuần thất làm Phật sự, tu trai cúng dường, bỗng cô tớ gái tên Tố Ngọc nói tiếng của phu nhơn rằng:

“Ta hồi còn sống không tin Tam Bảo, nay thọ khổ không thế nói được, do nhờ các ông vì ta tụng kinh, tu trai thiết cúng mới đặng thả về.

Đến ngày thứ hai mươi sẽ trở lại đem Tố Ngọc đi xem ta thọ tội”. Đúng kỳ hẹn, Tố Ngọc thiệt quả chết. Ba ngày sau sống lại nói rằng:

“Thấy cung phủ trong thành lớn kia, phu nhơn vào cái nhà riêng, giây lát có vạc lửa, giường sắt tự nhiên đem đến hành tội, chịu đủ sự khổ sở thảm độc.

Chợt thấy ông Khanh ngồi trên đài hoa sen nói với tôi (Tố Ngọc) rằng:

“Con ta hồi còn sống tánh hay sân hận tật đố, không tin nhơn quả, nay phải chịu nỗi khổ đó, ta cũng không thể cứu được.
Ngươi về nói lại với người nhà bảo phải gắng tu công đức, họa may mới thoát khỏi”.

Lại thấy ông Phạm-Tăng từ trên hư không bay xuống, dạy tôi tụng kinh Pháp-Hoa, bảo rằng:
“Ngươi phải ghi nhớ kinh này vì người trong cõi Diêm-Phù-Đề mà truyền tụng, sẽ có người tin”.

Niên hiệu Lân-Đức năm đầu, tháng giêng, nhà quan Tiết Tướng Quân thiết lập trai đàn, rước nàng Tố Ngọc đến thử tụng minh kinh, có ông Phạm Tăng nghe, rồi chấp tay khen rằng:

“Thật đúng như bổn bên Tây quốc, không khác chút nào”. Ai nấy đều kính phục.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
____________
CẢM ĐỘNG THÁNH LINH


1.- ĐỨC PHỔ-HIỀN GIẢI BỊNH

Trong bộ Trí-Độ Luận quyển chín của ngài Long-Thọ Bồ-Tát có nói:

Có một người bịnh hủi đến trước tượng Đức Phổ-Hiền Bồ-Tát chí tâm quy y chiêm lễ, xưng niệm công đức Đức Phổ-Hiền Bồ-Tát cầu nguyện cho hết bịnh.

Lúc ấy tượng Phổ-Hiền Bồ-Tát liền dũi tay bên hữu hào quang sáng chói rờ xoa trên thân người kia, bịnh liền trừ hết.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- ĐỨC PHỔ-HIỀN HIỆN THÂN

Trong nước kia có thầy tỳ khưu ở A-Lan-Nhả chuyên đọc tụng kinh Đại thừa, ông vua trong nước thường trải tóc cho thầy đi qua.

Có thầy tỳ khưu khác bạch với vua rằng: “Ông ấy ngu dốt, đọc tụng kinh điển không bao nhiêu, sao Đại vương lại cúng dường long trọng như thế?”

Vua đáp rằng: “Ta một ngày kia vừa lúc nửa đêm muốn yết kiến thầy tỳ khưu ấy, liền đi đến chỗ của thầy ở, thấy thầy ở trong hang đá tụng kinh Pháp-Hoa, có một người thân ánh hào quang sắc vàng chói cỡi con bạch tượng chấp tay cúng dường, ta đi lần tới liền biến mất. Ta mới hỏi vị đại đức:

“Tại sao tôi vừa đến, người thân có hào quang sắc vàng kia biến mất đi?”
Thầy tỳ khưu đáp rằng: “Đó là ngài Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Ngài Phổ-Hiền Bồ-Tát tự nói rằng: “Nếu có người nào đọc tụng kinh Pháp-Hoa, ta sẽ cỡi voi trắng sáu ngà đến dạy bảo nhắc nhở cho. Do tôi tụng kinh Pháp-Hoa nên ngài Phổ-Hiền Bồ-Tát hiện thân đến vậy”.

(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- THẦN THỈNH GIẢNG KINH

Đời Tấn, thầy Thích Đàm Thúy, không rõ người quê quán ở đâu, thuở nhỏ đi xuất gia, tu ở chùa Bạch Mã, huyện Hà Âm, tương rau qua bữa, bô vải che thân, thường mỗi ngày đều tụng một bộ kinh Pháp-Hoa, lại tinh thông kinh giáo, cũng hằng giải nói cho người nghe.

Ban đêm, bỗng nghe có tiếng gõ cửa nói rằng: “Muốn thỉnh Pháp-sư thuyết pháp trong chín tuần”.

Thầy Thúy không hứa, nhưng củng cố cầu thỉnh, thầy bèn chịu đi, lúc đó vẫn còn mơ màng trong giấc ngủ, chừng thức dậy, thân thầy đã ở trong miễu Thần nơi đảo Bạch Mã và một người đệ tử của thầy.
Từ đó, hằng ngày âm thầm đi qua không ai hay biết.

Sau, các thầy trong chùa có việc đi ngang qua miễu ấy, thấy có hai cái pháp-tòa rất cao, ông Thúy ở tòa phía Bắc, đệ tử ở tòa phía Nam, dường như có tiếng giảng kinh thuyết pháp, lại nghe có mùi hương lạ ngào ngạt.
Bây giờ kẻ đạo người tục truyền nhau cho là việc thần dị.

Đến mãn Hạ, vị Thần trong miếu cúng dường cho ông một con ngựa bạch, năm con dê trắng và chín mươi xấp lụa.
Thầy chú nguyện xong, cùng nhau từ biệt không còn qua lại nữa.

(Rút trong bộ Lương Cao Tăng Truyện)
____________
CẢM CÁCH DỊ LOẠI


1.- THÍCH TRÍ THÔNG
Đời Đường, thầy Thích Trí Thông ở chùa Thê Hà, non Nhiếp, đất Thuận Châu, từng qua ở chùa An Lạc xứ Dương Châu.
Đến niên hiệu Đại Nghiệp, trong nước loạn ly, thầy nghĩ muốn về xứ nhưng không có cách chi đi được, mới ở ẩn trong đám lau rậm dựa bờ sông tụng kinh Pháp-Hoa, bảy ngày không ăn, thường thấy có cọp đi nhiễu xung quanh.

Thầy nói rằng: “Mạng ta chỉ còn trong giây phút, vậy các ngươi hãy ăn đi”.
Cọp bỗng phát tiếng nói rằng: “Từ tạo Thiên lập Địa đến nay, chưa từng có lẽ đó”.

Xảy có một ông già chèo ghe đến nói rằng: “Thầy muốn qua sông về chùa Thê Hà, hãy mau lên thuyền đây”.
Lúc ấy con cọp đồng sa nước mắt.
Thầy hỏi rằng: “Các ngươi cùng ta có duyên chăng?”, liền dắt bốn con cọp đồng xuống thuyền, qua sông rất nhanh.
Đến bờ phía Nam, trông lại chiếc thuyền và ông già đâu mất. Thầy mới dẫn bốn con cọp về chùa Thê Hà, ở phía Tây tháp Xá Lợi mà đi kinh hành và thiền tọa.

Đồ chúng trong chùa có đến tám mươi vị không ai dám ra tháp cả. Khi có việc cần, thời một vị cọp vào chùa gầm kêu, lấy đó để làm thường lệ.

Thầy đến niên hiệu Trịnh-Quán thời tịch, hưởng thọ được chín mươi chín tuổi.
(Trong bộ Tống Cao Tăng Truyện)
____________
LINH CẢM


1.- PHÁP-TÍN NI

Đời Đường, niên hiệu Võ-Đức, có ni cô hiệu là Pháp-Tín, thường tụng kinh Pháp-Hoa.

Cô cất một gian tịnh thất, mướn một người viết chữ tốt để tả kinh Pháp-Hoa, trả tiền công rất mắc, bội hơn giá thường.
Phàm mỗi khi vào tịnh thất tả kinh, phải mỗi lần tắm gội sạch sẽ, thay đổi y phục, xông ướp hương trầm.

Lại nơi vách tịnh thất xoi trống một lỗ đặt ống trúc thông ra phía ngoài để cho người tả kinh mỗi khi muốn thở ra thời kê vào ống trúc mà thở, vì khi tả kinh cần phải nín hơi mà viết mới thanh khiết tinh nghiêm.

Như vậy tám năm tả mới xong bảy quyển. Cô hết lòng cung kính, cúng dường rất long trọng.

Ngày kia, có ông thầy ở chùa Long-Môn hiệu là Pháp-Đoan thường nhóm chúng giảng kinh Pháp-Hoa, cho bộ kinh của ni cô đó là đúng hơn hết, không bộ nào bằng. Thầy mới sai người qua mượn.

Ni cô cố chối từ không cho, vì e mất sự thanh khiết. Thầy Pháp-Đoan phiền trách. Cô không biết làm sao, bất đắc dĩ phải đưa cho mượn.

Đem về, thầy Pháp-Đoan và các đồ chúng giở ra đọc, chỉ thấy toàn là giấy vàng, không có chữ nào hết, lại giở quyển khác coi, cũng đều như vậy cả. Thầy và đồ chúng hổ thẹn và lo sợ, liền đem trả lại cho ni cô.

Cô buồn bã khóc lóc mà lãnh lấy, dùng nước hương thơm rửa kỹ hộp đựng kinh.

Rồi cô tắm gội sạch sẽ, lễ bái, nhiễu Phật cầu nguyện đến bảy ngày đêm không nghỉ. Bấy giờ mở quyển kinh ra xem, thời nét chữ lộ bày như cũ.

Nên biết rằng sao tả kinh pháp cần phải hết sức chí thành cho tinh khiết nghiêm tịnh mới có sự linh cảm hiện tiền. Đời này, không có linh nghiệm, chỉ vì không chuyên lòng cung kính đó thôi.

(Rút trong bộ Minh Báo Ký)
* * *
2.- TRỜI RƯỚI HOA HƯƠNG

Đời Tùy, châu Ích, nơi chùa Chiêu-Đề có thầy Thích Huệ Cung cùng bạn đồng học là ông Huệ Viễn kết bạn tâm đầu ý hiệp.

Lúc sau, ông Viễn qua xứ Dương Châu tầm sư học đạo xong trở về. Thời gian ba mươi năm xa cách, một đêm cùng nhau trò chuyện, ông Viễn thời bàn bàn luận luận, ngôn ngữ lưu loát, còn thầy Huệ Cung thời lặng thinh không đối đáp chi.

Ông Viễn hỏi rằng: “Ngài mấy mươi năm không đặng chi sao?” Thầy đáp rằng: “Tôi vì tánh tối dốt nên không biết chi nhiều”.

Ông Viễn nói: “Sao chẳng chuyên tụng một bộ kinh ư?”
Thầy nói: “Thường ngày tôi chỉ có tụng một quyển Phổ-Môn trong kinh Pháp-Hoa, nay tôi xin tụng, nhưng ngài phải chí thành lòng nghe”.

Bèn kiết lập đàn tràng, thầy lên tòa cao vừa cất tiếng xướng đề kinh, liền nghe có mùi hương thơm bát ngát, giây lâu lại nghe trên hư không nhạc trời reo trổi, mưa hoa tướp nượp rơi xuống, đến khi tụng kinh xong mới hết.

Ông Viễn thấy sự linh cảm như vậy biết mình không có đạo lực bằng thầy, trong lòng hổ thẹn, mới cung kính đảnh lễ mà tạ lỗi.

(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- CHÍCH MÁU TẢ KINH

Cuối đời nhà Đường, châu Hoành, ngài Thích Sở Vân đi xuất gia ở non Hoành Nhạc, từng chích thân lấy máu tả một bộ kinh Pháp-Hoa, bề dài bảy tấc, bề rộng bốn tấc, bề dày hai tấc (tấc Tàu), làm hộp chiên đàn đựng cất ở tạng Tam Sanh chùa Phước Nghiêm. Lại trên hộp có khắc tám chữ: “Nhược kha thử, kinh thệ đồng Từ-Thị”.

Niên hiệu Hoàng-Hựu, có vị quới nhơn đi du lịch trên núi, thấy đó nghi cho là dối không thiệt, mới bảo người lấy kềm mở ra coi, thấy có một lằn máu chảy ra.

Bỗng chốc, sấm nổi gió dậy rúng động hang núi, khói mây xông tỏa vào nhà ấy mù mịt, ngửa bàn tay không thấy, đến suốt ngày không thôi. Quới nhơn kinh khủng bèn chí thành đảnh lễ cầu sám hối.

Đến đời Tống, thầy Giác Phạm chùa Thạch Môn ở đất Huân Khê từng du lịch qua đó, cung kính đảnh lễ, nhìn coi kỹ lằn máu ấy vẫn còn y nhiên. Đồng thời ấy, thầy Thiền-Nguyệt Quán-Hưu có làm bài thi tặng việc tả kinh đó rằng:

Rạch da lấy máu khó khôn ngần,
Vì tả Linh-Sơn chín hội văn,
Mười ngón chảy khô xong bảy quyển,
Đời nay cầu pháp mấy ai bằng.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
4.- TRẦN TẾ SANH

Đời nhà Minh, huyện Ngô-Môn, Trần Tế Sanh hiệu Hoằng Sĩ con trưởng nam của ông Trang Công, bình sanh dốc chí làm lành, phàm tất cả hạnh lành lời hay Trần Sanh đều tự tay sưu tập biên chép chất để đầy nhà.

Ông rất ưa thích kinh điển nhà Phật, thường kết liên xã trì tụng kinh Pháp-Hoa, nhiều năm vẫn không bê trễ.

Bỗng một đêm nằm mộng thấy ông già diện mạo phi thường, phong nghi thần dị, tay cầm kinh Pháp-Hoa chữ vàng và những bộ sự tích nhơn quả trao cho, Trần Sanh vụt dậy đảnh lễ lãnh lấy.

Sáng ngày quả có người chở bộ Pháp-Hoa Cảm-Thông-Lục của họ Cát ở Lộc Thành khắc bản đưa đến nhà Viễn-Diệu-Đường của Trần Sanh để lưu thông.

Lại một người bạn đem một bộ kinh Pháp-Hoa thếp vàng đến cầm cho ông cũng đồng trong ngày ấy.

Chưa bao lâu, Trần Sanh đi đường lại gặp bộ kinh Pháp-Hoa thếp vàng của ông Lý-Chánh-Khanh ở Tân An tả ra, ông mua đem về cúng dường để thành hiệp bích (chiếu đối), thờ phượng trang nghiêm cực kỳ rực rỡ, người xem ai cũng khen là việc hy hữu.

(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
____________

GIẢI OAN NGHIỆT:


1.- LỤC ÔNG
Đời nhà Tống, ở Hồ Châu, đất Thành Nam có người hàng thịt tên Lục Ông. Khi Lục Ông được 63 tuổi, một hôm có một vị tăng du phương đến trước cửa nói rằng: “Ta đến đây để giáo hóa người có duyên”.

Lục Ông nghe nói không hiểu chi cả.

Vị tăng nói rằng: “Ông giết trâu bò dê vô số, tại sao không bỏ nghiệp ấy đi?”
Lục Ông thưa rằng: “Tôi vì theo nghiệp của ông cha để lại rất khó bỏ quá!”
Vị tăng nói rằng:

“Nếu ông không bỏ, đời sau quyết phải đọa làm loài ấy, đọa rồi thì luôn luôn bị oan báo chẳng biết lúc nào thoát khỏi! Tôi xem ông đời trước có căn lành, thế nên bỏ nghiệp ác đi, mà chuyên tâm thọ trì kinh PHÁP-HOA và kinh KIM-CANG thì nghiệp ác tiêu trừ, phước lành thêm lớn”.

Nói xong vị tăng biến mất.

Lục Ông trơ người ra đứng một mình, tâm rất hổ thẹn vì những việc làm trước mà tỉnh ngộ lại, liền bỏ mặn ăn chay và phát nguyện thề từ đây về sau không tạo nghiệp sát hại nữa.

Vẽ một bức tượng đủ cả Tây-Phương Tam Thánh: Phật Di-Đà, Quán-Âm và Thế-Chí hết lòng thành kính cúng dường, lại đến thầy học tụng cả hai bộ kinh ấy chưa được năm năm thì đã thuộc làu.

Hằng ngày ở trước bàn Phật dâng hương lễ bái, tụng một quyển Pháp-Hoa và một quyển KIM-CANG cầu sám hối, nguyện những chúng sanh bị mình giết mau sanh về Tịnh-Độ.

Năm ông được 81 tuổi lúc sắp từ trần, trước nửa tháng đến các bạn thân hẹn rằng:
“Đến mùng chín tháng mười một tôi có sắm tiệc chay để từ biệt nhau, đến chừng đó xin mời mấy anh đến dự chay với tôi”.
Tới kỳ, các ông bạn y theo lời đến dự chay.

Khi mãn tiệc ông liền xin đi tắm gội, thay y phục chỉnh tề, ngồi ngay thẳng viết một bài tụng mà tịch.
Tụng rằng:
Sáu mươi dư tuổi mới hồi đầu,
Rời hẳn con dao sát nghiệp sâu,
Nẻo lộ Bồ-đề nay được đến,
Hoa sen trong lửa trổ thêm mầu.

(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- PHAN QUẢ
Đời nhà Đường, đất Kinh Sư, có ông Phan Quả, tuổi vừa hai mươi, nhậm chức Tiểu-lại ở Đô-Thủy, huyện Phú-Bình.
Khi về nhà cùng với vài gã thiếu niên, đi dạo chơi ngoài đồng trống, thấy một con dê ăn cỏ. Quả cùng hai gã thiếu niên bắt đem về.
Vừa về mới nửa đường con dê kêu lớn quá, Quả sợ chủ dê nghe được thì khó, liền móc lưỡi dê, đem dê về nhà làm thịt ăn.
Qua năm sau, lưỡi ông Quả lần lần teo thụt vào, không nói năng được, bèn dâng đơn xin thôi chức quan.
Quan huyện Trịnh-Du-Khánh nghi ông nói dối, bảo ông hả miệng ra coi, quả nhiên thấy lưỡi chỉ còn như hột đậu. Quan Huyện hỏi tại sao như thế?

Quả lấy bút giấy trả lời những việc của mình đã làm. Quan Huyện bảo rằng: “Ông muốn khỏi, phải tả kinh Pháp-Hoa để cầu siêu cho vong hồn con dê ấy”.

Phan Quả y theo lời quan Huyện phát tâm tả kinh và thọ trì trai giới không hề biếng trễ. Năm sau, lưỡi ông Quả lần lần dài ra y như cũ.

Khi lành bịnh liền đến quan Huyện dâng đơn trần tố, quan Huyện bổ cho làm chức Lý-Chánh.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- THÍCH MINH HUÂN
Đời nhà Minh, thầy Thích Minh Huân nguyên danh là Hồ Văn Trụ, người ở xứ Huy.

Thời Thiên-Khải thầy làm quan Trung-Thơ-Xả, vì không tuân theo mệnh lệnh của ông Ngụy-Đang nên bị lột chức.
Đến năm Bính-Tuất, bỗng bị ghẻ mặt người đau nhức không thể chịu nổi.

Mùa Đông Tân-Mão, nhức quá xỉu ngất, trong khi hoảng hốt nghe mụt ghẻ thốt ra tiếng người rằng:

“Tôi là Lô-Chiêu-Dung đời Lương đây. Lúc ở trong cung Lạc-Vương bị giặc giết, nay đã 600 năm rồi mà còn mắc ở trong loài quỷ.
Mà ông chính là người giết tôi trong lúc ấy. Nay đã chuyển được thân nam tử, phải tả kinh Pháp-Hoa và các kinh khác để tự cứu ông và cứu tôi”.

Ông Trụ khẩn cầu cho bớt đau sẽ tả kinh.
Lúc ấy đương triều Nghi-Chơn, ông sắm đủ giấy bút, tả kinh Pháp-Hoa, Hoa-Nghiêm, Kim-Cang, Lăng-Nghiêm và Thủy-Sám.
Mỗi khi tả kinh thì hết đau nhức, hễ dừng bút thì đau nhức lại.

Như vậy hơn một năm tả mới hết các bộ kinh thời bệnh cũng được lành mạnh.

(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
____________
THIÊN THẦN GIA HỘ

1.- THÍCH PHÁP THÀNH
Đời Tùy, non Chung-Nam, chùa Ngộ-Chơn, ngài Thích Pháp Thành là người họ Phàn ở châu Ung, chuyên tụng kinh Pháp-Hoa, và ngày thường mang tráp kinh đi du lịch khắp nơi danh sơn thắng cảnh.

Ngài lập nguyện chuyên tu về phép “Pháp-Hoa Tam-Muội”, cảm đến đức Phổ-Hiền Bồ-Tát ứng mộng cỡi bạch tượng sáu ngà đến khuyên ngài tả các kinh đại thừa.
Ngài bèn mướn người tả kinh Bát-Nhã tám bộ, lại tạo một cái nhà “Hoa-Nghiêm Đường”, hết lòng chuyên tinh về việc thơ tả thọ trì.
Lúc bấy giờ có ông Hoằng-Văn Học-Sĩ là Trương-Tịnh trước kia rất giỏi về văn chương. Ngài thỉnh ông ấy về am trên núi để viết kinh, khi viết thì ngậm các thứ hương.

Vừa tả xong hết bộ, lại cảm đến một con chim lạ bay đến bàn kinh, coi bộ nó tự nhiên quen dạn dường như đã nuôi lâu rồi.
Niên hiệu Trinh-Quán năm đầu, chính tay ngài Pháp-Thành có tả kinh Pháp-Hoa mà ngồi ở ngoài trời trống trải.
Nhơn có việc đi qua chỗ khác chưa kịp dẹp cất, kế gặp trận mưa to lai láng.
Khi về tới xem lại, cả bàn chỗ tả kinh đều khô ráo, mà nơi khác đều bị trôi ngập hết.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
2.- THÍCH PHÁP THÁI
Đời Tùy, ngài Thích-Pháp-Thái, người ở Long-Sơn, châu My, thường thường trì tụng kinh Pháp-Hoa.
Chính tay ngài có tả một bộ kinh, có nhiều điềm linh ứng hiện.

Khi tả xong bộ, đem đến châu Ích để sơn thếp, đi ngang qua cầu Xạ-Kiều bỗng xảy tay rớt đãy xuống sông, tìm kiếm mãi không được.
Ngài quá buồn bã nghẹn ngào khóc không ra tiếng, cứ quanh quẩn mãi trên bờ rồi dưới mé sông cũng chẳng thấy gì.
Bỗng trông thẳng xuống bãi bùn, thấy có một cái đãy, liền bảo người tới lấy coi thử té ra đãy kinh của ngài nhờ để cỏ bên trong nưng đỡ nên không thấm ướt.
Ngài vui mừng chẳng xiết, lập tức đến thành đô sơn thếp rồi dùng cây đản-hương làm bìa và trang nghiêm rất đẹp.
Sau ngài đem về cúng vào chùa. Mỗi đêm mùi hương lạ bay khắp chùa. Ngài chuyên cần trì tụng cứ hằng đêm một bộ kinh Pháp-Hoa.

Lúc bấy giờ có ngài Bưu Pháp-sư giảng kinh ở đó, tối lại đến chỗ ngài tụng kinh, thấy có nhiều người âm thầm hiện đến, đều quì gối chấp tay trước bàn.
Ngài Bưu Pháp-sư thấy thế liền toát mồ hôi mà lui ra.
(Rút trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *
3.- THÍCH ĐÀM VẬN
Ngài Thích Đàm Vận người ở Định-Châu, xuất gia thuở còn nhỏ, thường tụng kinh Pháp-Hoa. Ngài từng dạo khắp non Ngũ-Đài thấy đủ các tướng linh dị.

Ngài dừng chân ở lại đài phía Bắc nơi chùa Mọc-Quai trải qua thời gian hơn hai mươi năm, chuyên tu thiền quán niệm tụng không dứt.
Cuối đời Tùy, quốc gia rối loạn. Lúc đó ngài đã bảy mươi tuổi, ở ẩn trong non Tỳ-Can, luôn ngày đêm tinh tấn nhiếp tâm, chuyên tu không hề trễ nải. Ngài thường có chí nguyện tả kinh Pháp-Hoa, mãi tới mấy năm chưa được như ý muốn.

Bỗng đâu có chàng thư sinh đến bạch rằng: “Bạch thầy, con rất giỏi về việc tả kinh, vậy con xin ở đây làm việc để mãn chí nguyện của thầy”.

Bèn dọn một gian tịnh thất tinh nghiêm, chàng thư sinh vào thất ngậm hương ngồi yên lặng mà tả kinh.

Khi ra ngoài thì dè giữ ba nghiệp, lúc vào thất thời tắm gội sạch sẽ. Chưa đầy một tuần đã tả xong bộ kinh, liền đem cúng dường cho ngài Đàm Vận, rồi không thấy chàng thư sinh đâu nữa.

Sau nhơn giặc Hồ nổi loạn xâm nhiễu, ngài bèn đem kinh giấu trong hang núi, rồi chạy loạn đến mấy năm.
Khi giặc đã yên, trở về kiếm kinh, bèn thấy trong lùm cỏ dưới ven núi. Rương tráp đều hư nát, mà quyển kinh màu sơn còn tốt như xưa.

Chuyện này chính mắt ngài Tuyên-Luật-Sư thấy, vào khoảng niên hiệu Trinh-Quán năm thứ mười một.
(Rút trong bộ Pháp-Uyển Châu-Lâm)
* * *
4.- NGƯỜI VỢ HẦU ÔNG TÔ TRƯỜNG
Trong niên hiệu Võ-Đức, có quan Thứ-Sử tên Tô-Trường. Lúc đi trấn nhậm, đến sông Gia Lâm bỗng gặp trận sóng to gió lớn nên thuyền bị úp.

Người nhà của ông bị chết chìm hơn sáu mươi, chỉ có một người vợ hầu của ông vì thường chuyên tụng kinh Pháp-Hoa, nên khi nước tràn vào thuyền, nàng liền đội tráp kinh phát thệ rằng: “Thà chịu chết chìm với kinh nầy, chớ quyết định không rời”.
Trong cơn bấp bênh theo làn sóng hãi hùng, không ngờ có thần lực gia hộ, phút chốc nàng được tấp vào bờ, vì nương theo kinh được thoát nạn chết chìm.

Nàng vội vàng mở tráp ra xem, kinh vẫn khô như trước không bị ướt tờ nào.
(Trích trong bộ Pháp-Hoa Trì-Nghiệm)
* * *


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

NIỆM PHẬT KẾT HỢP THAM THIỀN, ĐỌC KINH ĐẠI THỪA

Hòa thượng Tuyên Hóa


Vì sao lúc bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Lúc bình thường chúng ta thường niệm Phật là để chuẩn bị cho lúc lâm chung.

Thế thì tại sao không đợi đến lúc lâm chung rồi hãy niệm Phật? Tập quán là thói quen được huân tập qua nhiều ngày, nhiều tháng.

Cho nên, nếu bình thường các bạn không có tập quán niệm Phật thì đến lúc lâm chung các bạn sẽ không nhớ ra là mình cần phải niệm Phật.

Do đó, lúc bình thường mình cần phải học niệm Phật, tu Pháp-môn Tịnh Ðộ, đến lúc lâm chung mới không hoảng hốt, luống cuống, mà trái lại, sẽ an nhiên vãng sanh Thế Giới Cực-lạc!

Vì sao chúng ta cần phải vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc? Là vì khi Ðức Phật A Di Ðà ở nhân địa tu hành làm thầy tỳ kheo, Ngài đã từng phát bốn mươi tám đại nguyện mà trong đó có nói rằng:

“Sau khi tôi thành Phật, nếu trong mười phương có chúng sanh nào niệm ‘A-Di-Ðà Phật,’ danh hiệu của tôi, thì tôi nhất định sẽ tiếp dẫn người đó tới thế giới của tôi, và trong tương lai, vị ấy sẽ được thành Phật. Ở thế giới của tôi, ai ai cũng đều hóa sanh từ hoa sen, nên thân thể của họ hoàn toàn thanh tịnh vô nhiễm.”

Bởi Ðức Phật A Di Ðà đã phát nguyện lớn như vậy, nên tất cả chúng sanh đều nên tu Pháp-môn Niệm Phật, một pháp-môn rất hợp với căn cơ của mọi người và cũng rất dễ tu. Trong Kinh còn dạy:

Ðời Mạt Pháp, một ức người tu hành hiếm khi có được một người đắc Ðạo; duy có tu Pháp-môn Niệm Phật là ai cũng được độ thoát.

Ý nói rằng trong số một ức người tu hành, hiếm hoi lắm mới có một người đắc Ðạo; chỉ có Pháp-môn Niệm Phật là có thể giúp mọi người vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và do đó được độ thoát.

Ðặc biệt là trong thời Mạt Pháp hiện tại, niệm Phật chính là pháp môn hợp với căn cơ của mọi người nhất.
Song, Âu Mỹ hiện nay không phải đang ở vào thời đại Mạt Pháp mà có thể nói là đang ở vào thời đại Chánh Pháp.

Vì sao nói Âu Mỹ đang ở vào thời đại Chánh Pháp?

Vì Phật Pháp vừa mới được truyền tới các nước ở phương Tây và hiện đang vào lúc hưng thịnh.

Do đó, hiện tại ở Mỹ quốc có rất nhiều người rất thích tham Thiền, tịnh tọa; đó cũng là biểu hiện của Chánh Pháp.
Thời Chánh Pháp, ai cũng có thể tu Pháp-môn Niệm Phật.

Thời Mạt Pháp mọi người cũng có thể tu Pháp-môn Niệm Phật, ở bất cứ thời đại nào mình cũng có thể tu pháp môn này.

Nếu như có người đối với các pháp môn khác không thể dụng công được, thì nên tu Pháp Niệm Phật.

Thiền-sư Vĩnh Minh Diên Thọ có nói rằng:
Hữu Thiền, hữu Tịnh Ðộ,
Do như đái giác hổ.
(Có Thiền, có Tịnh-Ðộ,
Như hổ mọc thêm sừng.)

Những người vừa THAM THIỀN VÀ VỪA NIỆM PHẬT thì giống như cọp mà mọc thêm sừng, oai thế vô cùng.
Họ có thể:

Hiện thế vi nhân sư,
Tương lai tác Phật Tổ.
(Ðời này làm Thầy mọi người,
Tương lai thành Phật, làm Tổ.)

Do đó, người CHÂN CHÁNH THAM THIỀN TỨC là người CHÂN CHÁNH NIỆM PHẬT, người CHÂN CHÁNH NIỆM PHẬT cũng chính là người CHÂN CHÁNH THAM THIỀN.

Nói sâu một chút nữa, người chân chánh trì Giới chính là người chân chánh tham Thiền, và người chân chánh tham Thiền cũng là người chân chánh trì Giới.

Thế thì, người CHÂN CHÁNH GIẢNG KINH THUYẾT PHÁP, tức là người thật sự vì giảng Kinh mà giảng Kinh, thì cũng là người CHÂN CHÁNH THAM THIỀN !

Trong Chứng Ðạo Ca, Ðại-sư Vĩnh Gia có nói rằng:
Tông diệc thông, Thuyết diệc thông,
Ðịnh, Huệ viên minh bất trệ không.
(Tông cũng thông, Thuyết cũng thông,
Ðịnh, Huệ sáng tròn chẳng trệ không.)

Vậy, người vừa biết tham Thiền lại vừa biết giảng Kinh là người thông suốt cả tông lẫn thuyết. Nói sâu một chút nữa, thì người chân chánh trì Chú, chân chánh tu Mật Tông, cũng là người chân chánh tham Thiền.

Vì lẽ đó, tuy nói Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnhnăm pháp môn, nhưng nếu xét đến ngọn nguồn thì tất cả chỉ là một chứ không phải là sai khác.

Nếu giảng sâu thêm chút nữa thì ngay cả “một” cũng chẳng còn, thì làm gì mà có “năm” được chứ? Người chân chánh học Phật Pháp cần phải hiểu điểm này cho rõ ràng.

Những kẻ có khuynh hướng phân chia tông phái thì cho rằng Pháp-môn Niệm Phật cao nhất, còn Tham Thiền là không đúng;
cũng có người nói Tham Thiền là pháp cao nhất, còn Niệm Phật là sai lầm.

NHỮNG AI CÓ QUAN NIỆM NHƯ THẾ ĐỀU LÀ NHỮNG NGƯỜI CHƯA HIỂU RÕ PHẬT PHÁP. Phải biết rằng:

Nhất thiết giai thị Phật Pháp, giai bất khả đắc.
(Tất cả đều là Phật Pháp, đều không thể chứng đắc.)

Ðã “không có pháp gì có thể chứng đắc được,” hà tất phải chấp trước thêm những thứ không nên chấp trước, đương không có chuyện lại tìm thêm chuyện, hoặc gây ra chuyện.

HT. TUYÊN HÓA


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

NIỆM PHẬT, ĐỌC KINH, TRÌ CHÚ LÀM ĐỠ CƠN ĐAU ĐỚN KHI CAI NGHIỆN MA TÚY.
Phật tử M.H, TP.HCM


Ngày trước, Nhà tôi kinh doanh nhà hàng nên cũng có của ăn của để. Trong những lần đi nhậu với mấy đứa bạn, tụi nó lợi dụng lúc tôi say xỉn đã cho tôi sử dụng ma túy.

Những lần đầu khi sử dụng ma túy thì tôi cảm thấy lâng lâng, bay bổng, sảng khoái, có động lực hơn. Cho nên sau đó tôi lén lấy tiền của gia đình để ngày nào cũng được xài hàng. Mỗi ngày tôi xài khoảng tiền triệu để có thể phê ma túy.

Rồi gia đình bị mất tiền nhiều lần và phát hiện ra tôi lấy cắp, gia đình cũng choáng váng khi phát hiện ra tôi bị nghiện hút. Mọi người trong gia đình bàn bạc, quyết định cùng cai nghiện cho tôi, dùng phương pháp Cai Khô hay còn gọi là Cai Chay.
Lúc này, tôi đã bị ảo giác nặng nề do xài hàng lâu năm, thậm chí răng tôi đã bị yếu, sắp mục đến nơi.

Chị gái tôi khóc hết nước mắt khi thấy tôi cứ ngồi co ro trong phòng, chị kể ánh mắt tôi như người bị dại, tôi la hét, gào thét, xua tay như một người điên vì thấy đâu cũng dòi bọ bò lúc nhúc khắp người. Tôi bị hoang tưởng, ảo giác nặng và loạn thần trầm trọng, ngủ lịm, hôn mê, nói lắp bắp.

Những ngày đầu cai nghiện là lúc tôi muốn chết đi, lên cơn vật vã, buồn nôn, đau cơ, toát mồ hôi, tiêu chảy, mắt Giãn đồng tử, ngáp liên tục, cảm giác sốt, cảm giác dòi bò trong xương… mẹ tôi thì khóc lóc.

Những lúc đó, tôi muốn buông xuông, dùng lại ma túy cho đỡ khổ sở và chị gái tôi căn dặn là nên niệm tên của các vị Phật như A DI ĐÀ PHẬT, QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, PHỔ HIỀN BỒ TÁT, ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT, ĐỊA TẠNG BỒ TÁT… niệm liên tục những lúc bị ảo giác nặng, phải nhất tâm niệm Phật , niệm không ngừng nghỉ.

Chị gái và mẹ tôi thì đọc chú đại bi, Chú Chuẩn Đề và kinh Địa Tạng, Kinh PHỔ MÔN CỨU KHỔ, cầu an, sám hối… mỗi ngày 2 lần : Sáng và tối để hồi hướng cho họ tên của tôi qua được cơn vật vã khi cai nghiện, mà không bị tái nghiện. Và sau này đúng là niệm Phật liên tục như vậy thì tôi không còn cảm giác bị đau vật vã như những ngày đầu tiên mới bắt đầu cai nữa.

Ơn Trời Phật là cuối cùng thì tôi cũng đã cai nghiện thành công ma túy, sau đó tôi về quê ở Đồng Tháp để tĩnh trí một thời gian rồi lên thành phố đi làm lại, đánh dấu những ngày tháng tôi không còn dính líu với ma túy, đoạn tuyệt sạch sẽ với ma túy.

Phật pháp nhiệm màu đã cứu đời tôi, những tưởng đời tôi đã bỏ đi rồi, chỉ còn chờ chết và gia đình đã không bỏ rơi tôi những lúc tôi khó khăn, sai lầm.

Bây giờ tôi vẫn hay lên chùa làm công quả cho sư, đọc kinh sám hối, kinh Pháp Hoa với đại chúng mỗi tháng. Ở nhà thì tôi vẫn chăm chỉ thắp đèn bàn thờ Phật Di Đà và cùng mẹ, chị gái đọc kinh, trì chú, niệm Phật.

Phật tử M.H, TP.HCM
Sưu tầm internet
Sửa lần cuối bởi dammaythongdong vào ngày 09/05/20 03:21 với 2 lần sửa.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

THOÁT NẠN TRÊN BIỂN CẢ
Trích từ quyển “LINH ỨNG QUÁN THẾ ÂM”
của HT.Thích Tịnh Từ


Gia đình tôi gồm có bảy người, hai vợ chồng và năm đứa con nhỏ cùng vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ đánh cá với năm mươi hai người cùng xóm. Chổ khởi hành là cửa biển Thuận An, Huế vào tối hai mươi tháng tư âm lịch năm1979.

Ðó là một đêm tối trời và đầy kinh hãi, vì chúng tôi vừa cho tàu khởi hành vừa được bốn mươi phút thì bị tàu biên phòng Bình Trị Thiên phát giác và đuổi bắt. Chúng tôi ai cũng

hoảng sợ, không còn đủ bình tĩnh để tính toán và nghĩ rằng, phen này tất cả đều bị bỏ tù, vì đây là lần vượt biên thứ ba bị phát giác của chúng tôi.

Trong khi nhiều người đang bối rối thì bác Tư Hiền, chủ bán tiệm vải ngày trước ở chợ Ðông Ba, hô to như ra lệnh cho mọi người trong tàu yên lặng, và bác bảo mọi người chắp tay thành kính niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Không ai bảo ai, mọi người răm rắp niệm Nam Mô Cứu Khỏ Cứu Nạn Linh Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát râm lên cả một góc trời, theo sự hướng dẫn của bác Tư Hiền giữa sóng nước mênh mông.

Lạ thay, thình lình một cơn mưa nặng hạt đổ xuống tầm tã trên biển cả. Trong màn đêm dày đặc, sấm chớp nổi lên giữ dội, thét gào như cơn thịnh nộ của những vị hung thần. Kỳ diệu thay, trong lúc đó con tàu nhỏ của chúng tôi chạy vi vút như tên bay, hướng ra khơi bởi một sức mạnh phi thường nào đó, ngoài sự kiểm soát tay lái của tài công.

Tài công hôm đó là anh Thông và tôi là người phụ tá cùng chấm địa bàn tay lái của anh. Cùng trong lúc ấy anh cảm thấy như đang rơi vào trong giấc ngủ, nằm kê đầu trên một thác nước chảy róc rách trên một sườn núi.

Ở đây có nhiều khóm trúc và trên các cây cổ thụ xinh đẹp, treo sà xuống nhiều giò phong lan đủ màu, tỏa hương thơm ngát.

Trong khi đó, tiếng mọi người trên tàu vẫn tiếp tục niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ước độ mười phút sau, thì tàu chúng tôi vượt ra khỏi hải phận của công an kiểm soát biên phòng mà chúng tôi không hề hay biết.

Thoát nạn, con tàu nhỏ của chúng tôi chạy thẳng vào đảo Hải Nam chỉ hơn bốn ngày sau. Thức ăn nước uống trên tàu còn hơn một nữa, vì vật thực chúng tôi chuẩn bị cho mọi người có thể sống đến ba tuần lễ trên đường lánh nạn.

Khi tàu ra khỏi hải phận, chúng tôi những người cùng đi hôm đó tôn bác Tư Hiền là mẹ đỡ đầu tinh thần. Bác Tư Hiền khiêm tốn không chịu, nhưng vì chúng tôi năn nỉ và trình bày chi tiết về sự quan trọng của đời sống tâm linh, nên bác Tư Hiền vui vẻ nhận lời.

Mà bác Tư Hiền làm mẹ đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi là xứng lắm, vì bác đã trên sáu mươi tuổi, vóc dáng phương phi, nụ cười hoan hỷ, lời nói lúc nào cũng từ tốn, sắc sảo và đầy trìu mến. Hơn nữa, bác Tư Hiền đã quy y Tam Bảo năm giới, và thọ thập thiện, và thọ Bồ Tát Giới với hòa thượng Quy Thiện từ lúc bác mới ba mươi mốt tuổi.

Hòa thượng đặt cho bác cái pháp danh là Thiện Yên. Vị bổn sư không phải đặt pháp danh cho bác theo dòng kệ mà đặt theo tâm địa hiền lành và bình yên của bác. Về sau chúng tôi thường gọi bác là cụ Thiện.

Cụ Thiện Yên đã ăn chay trường trên ba mươi năm kể từ ngày thọ Bồ Tát giới. Hằng ngày cụ thường trì tụng kinh Pháp Hoa, mà phẩm Phổ Môn cụ nằm lòng như kinh tụng mỗi ngày. Cụ không những tự mình tu hành tinh tấn, mà lúc nào cũng vui vẻ khuyên bảo con cháu, người xa kẻ gần, làm lành lánh dữ.

Vì cụ Thiện Yên là người đỡ đầu tinh thần cho chúng tôi nên chúng tôi đều lắng nghe lời dạy của cụ là phải ăn chay mỗi tháng sáu ngày và cách tu tập hàng ngày là lấy yếu chỉ kinh Phổ Môn làm đề mục trì tụng, sống theo hạnh từ bi, lợi người, cứu khổ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Cụ Thiện Yên sống với đứa cháu nội làm nha sĩ ở bên Thụy Sĩ. Chúng tôi cả nhà may mắn được tàu Cao Ủy đưa về Hồng Kông tạm trú sáu tháng, và sau đó được chú em bảo trợ qua Mỹ, đã có nhà ở tại một thành phố nhỏ cận Monterey, tiểu bang California.
-------
GIẢI TRỪ VONG NHẬP


Trích từ quyển “LINH ỨNG QUÁN THẾ ÂM”
của HT.Thích Tịnh Từ


Bà Trần Thị Tuyết Hạnh, năm mươi bảy tuổi, bị lâm bệnh ngay khi vừa nhập trại tỵ nạn ở đảo Phi Luật Tân.

Bác sĩ chiếu khám cho bà nhiều lần và đưa bà ra khỏi trại để chụp hình nữa mà vẫn không tìm ra căn nguyên bịnh lý. Bà Hạnh đau rất kỳ cục, bà không chịu ăn uống và không ngủ trên cả tháng mà sức vóc không hề hấn gì.

Mặt bà đỏ gay, con mắt láo liên và về chiều thì mí mắt sụp xuống, buồn rầu khóc thảm, làm nhảm kể lể những chuyện đau buồn.

Vì lý do mắc bệnh kỳ dị nên ban điều hành trại thương lượng cơ quan lo hồ sơ định cư cấp tốc cho gia đình bà Hạnh nhập cảnh Hoa Kỳ sớm để có thể đủ điều kiện thuốc thang trị liệu bệnh tình cho bà.

Khi đến vùng San Francisco, người nhà cấp đưa bà Hạnh đến nhà thương trị liệu, song các bác sĩ giỏi đều bó tay chứng bệnh “không chịu ăn, không chịu uống”, mà vẫn sống như thường của bà Hạnh.

Hai tháng trôi qua, bệnh tình không thuyên giảm, người nhà vẫn tiếp tục đưa bà Hạnh đi khám bác sĩ cho có lệ và để ai nấy yên lòng.

Một hôm có cụ Lành đưa đường, chồng bà Hạnh đem vợ đến chùa Từ Quang gặp tôi để nhờ giúp đỡ.

Mới nhìn qua nét mặt, khí sắc của bà Hạnh là tôi biết ngay bà bị âm khí ám nhập. Tôi đưa ngay bà lên chánh điện để “tra vấn” cái vong linh đang nhập trong người bà.

Bà Hạnh nhìn tôi với vẻ sợ hãi và run cầm cập như đang ở giữa băng tuyết. Bà cúi đầu khóc thút thít, nghẹn ngào và biểu lộ sự tức tối, uất ức.

Tôi gạn hỏi hoài mà vong nhập kia không chịu “khai báo” một chút tung tích gì.

Tôi bèn gọi các chú trong chùa trợ niệm và lấy chiếc mõ nhỏ đặt ngay trên đầu bà Hạnh tụng CHÚ ÐẠI BI thì bà Hạnh nhắm nghiền hai mắt, tóc trên đầu bà bay ngược như một cơn bão thổi mạnh, hai tay bà chấp lại như một búp sen và miệng the thé nói một giọng con gái độ mười chin, hai mươi tuổi.

Tiếng người con gái này nói mình đã chết trên biển cùng mẹ ruột và nhiều người vì gặp bão, nên tàu chìm.

Tôi hỏi các chi tiết khác thì vong linh nói mà phát âm không rõ, chỉ thốt lên the thé kêu đói, than lạnh rồi vật lăn giữa điện Phật bất tỉnh.

Tôi và những người có mặt thấy thế xúc động quá, liền khai kinh Phổ Môn tụng cầu an cho bà Hạnh và liên tục niệm danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát; đồng lúc tụng niệm tôi lấy nước thờ trên bàn Phật và đọc Thần Chú Quán Âm, TÂM KINH BÁT NHÃ rồi đem cho bà Hạnh uống.

Khi bà Hạnh vừa uống xong ly nước thì liền tỉnh dậy và bà vội vàng nhảy tới bàn thờ vong, đưa tay bốc thức ăn bỏ vào miệng ngồm ngoàm như kẻ bị đói lâu ngày.

Ăn đã đời, bà quơ tất cả đồ cúng nào là chuối, bánh, trái cây, khoai, bắp… trên bàn thờ cô hồn bỏ vào trong túi áo, lận trong lưng quần và trải tà áo tràng mà bà đang mặc gói tất cả thức ăn, chui vào trong góc bàn thờ linh và tiếp tục ăn như ma quỷ.

Bà còn khóc và la lên là có nhiều người đang dành ăn và đánh tháo bà.

Thấy hình ảnh kỳ quái của bà Hạnh, ai cũng sợ và nhiều người bỏ chạy xuống lầu.

Tôi bình tĩnh niệm THẦN CHÚ CHUẨN ÐỀ và dùng lời nhỏ nhẹ, ngọt ngào kêu bà Hạnh ra ngoài và quỳ giữa chánh điện.

Tôi lại tiếp tục “vấn cung” vong linh đang nhập vào trong bà Hạnh một lần nữa.

Lúc này, vong linh mới nói rõ tên tuổi, ngày chết là nhu cầu muốn được nghe kinh siêu độ.

Tôi liền viết bài vị thờ ngay lúc ấy, kêu các vị dưới bếp nấu cơm chay cúng vong và tôi khai kinh Di Ðà cầu siêu hôm đó, có gần một trăm Tăng Ni và Phật tử.

vì hôm đó là nhằm lễ sám hối Bố tát gần đến mùa Vu Ln Rằm tháng bảy.

Sau khi tụng KINH DI ÐÀ, niệm DANH HIỆU PHẬT, đến chổ quy y linh ký tự, thì bà Hạnh ngã xuống đất bất tỉnh.

Ðộ chừng mười phút sau, bà Hạnh tỉnh dậy và trở lại người bình thường như mình đã ngủ một giấc thật dài.

Gia đình bà Hạnh và mọi người hôm đó đều cảm kích và vô cùng mừng rỡ khi thấy bà Hạnh bình phục.

Tôi bảo cụ Ðức Hạnh, cô Thanh Tịnh nấu cháo trắng để bà Hạnh ăn kẻo nhịn đói lâu ngày ăn cơm vào nặng bao tử, và đưa bà vào phòng nghỉ.

Ngay tối hôm đó, bà Hạnh đòi về nhà vì thấy đã khỏe hoàn toàn.

Sáng hôm sau, tự bà Hạnh và cả nhà đến chùa lễ tạ và xin quy y.

Hôm chứng kiến lễ đưa vong linh cô gái Việt Nam chết trên biển ra khỏi người bà Hạnh và ký tự vong linh bất hạnh ấy tại chùa Từ Quang, cụ Tâm Huy chép miệng thành thơ rằng:

PHÁP PHẬT NHIỆM MẦU

CỨU NGƯỜI KHỔ ĐAU

QUAN ÂM LINH HIỂN

HẠNH NGUYỆN THÂM SÂU.

----------------
CHỮA LÀNH BỆNH BÀI BẠC


Bệnh bài bạc khảo đảo

Chuyên trì chú Ðại Bi

Niệm Quán Âm danh hiệu

Thoát khỏi khổ tai ương.

Dì Ẩn một nữ tu tại gia và phát nguyện lui tới ngôi chùa nhỏ, không có thầy trú trì để lau bàn Phật, quét tước và làm công quả.

Quê của Dì ở Huế, nhưng vào trú ngụ với người cháu họ tại Ðà Nẵng, thuộc tỉnh Quảng Nam.

Tôi quen Dì vì có thời gian tôi xin thầy giáo thọ rời Phật học viện Phổ Ðà về khuôn hội Vĩnh An tạm trú để học bài thi và được Dì Ẩn lui tới nấu cơm, làm bánh nậm, bánh bèo cho ăn.

Ăn hoài nên “mắc nợ” của Dì quá nhiều, tôi nghĩ tới chuyện đền đáp nên tìm cách hướng dẫn cho Dì Ẩn học thuộc mười hai lời nguyện của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi khuyên dì nên niệm danh hiệu Quán Thế Âm, cùng lễ lạy Bồ Tát mỗi sáng sau khi thức dậy và mỗi tối trước khi đi ngủ.

Dì rất vui, tha thiết tin theo và thực tập rất tin cần. Khoảng hai tháng sau, một hôm Dì tới chùa gặp tôi với nét mặt buồn rầu, mỏi mệt, chán nản, đau khổ. Hỏi ra tôi mới biết về chuyện “xấu” đã xảy đến cho Dì.

Dì Ẩn nói cách đây bốn tuần lễ, có một bà bạn cũ ghiền cờ bạc tới chơi nhà rủ rì rủ rê Dì nhập song bài “cầu tài”. Không dè tiền chẳng tới mà nhà cửa sa sút. Bao nhiêu vốn liếng làm việc cực khổ dành dụm bấy lâu bây giờ Dì đã đem tế sống cho “cô hồn ác đảng” lại còn phải mắc nợ mấy bà bạn “giàu lòng” thiện cảm nữa.

Nói xong rồi Dì khóc nức nở và cho là Phật Bà Quán Âm không thương tưởng, không cứu khổ, không linh thiêng phò trì cho vụ nhập sòng đen đỏ của Dì.

Tôi nghe Dì kể xong mà phát giận. Giận vì Dì không tới chùa làm bánh cho ăn.

Giận vì Dì để lòng tham xui khiến sa vào thói đỏ đen bài bạc rồi lại trách Phật Thánh, Bồ tát Quán Âm không cứu độ, phù hộ cho việc đánh bạc của Dì.

Trong khi tôi bực bội quá đỗi, Dì lại năn nỉ tôi cứu Dì bằng cách cho Dì mượn mấy chục ngàn để trả nợ, nếu không tiền lời của chủ nợ sẽ làm lên ngập đầu. Tôi chịu hết nổi sự khóc lóc, kêu nài vô lý của Dì. Tôi bèn làm dữ với Dì và thay vì nói tới tiền bạc, tôi khuyên Dì Ần nên tiếp tục niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, đọc kinh Ðại Bi mỗi ngày hai mươi mốt biến và phát nguyện tụng kinh Pháp Hoa với tôi mỗi buổi tối tại chùa.

Dì Ần ở chùa làm công quả và tu tập được một tuần sau thì có hai bà to mập, phì nộn tới chùa tìm Dì Ẩn đòi tiền lời và tiền vốn cho Dì vay để đánh bạc.

Tôi đã tiếp họ thay vì để Dì Ẩn chường mặt với hai bà phụ tá chủ sòng bạc kín tại thành phố Ðà Nẵng. Trong khi tiếp xúc với hai bà, tôi đã khéo lời khuyên hai bà ấy về “tội dụ dỗ” người hiền đánh bạc.

Nhân đó tôi đọc một bài thơ cho hai bà nghe và Dì Ẩn ngồi trốn trong liêu cũng nghe nữa. Bà thơ ấy tôi không nhớ rõ là của ai, nhưng khi nó tuôn ra từ miệng của tôi thì có một năng lực kỳ diệu. Bởi vì tôi đọc xong và giải thích thêm về ý nghĩa, chi tiết của bài thơ thì hai bà rơi nước mắt.

Sau đó, xin vào điện Phật lạy sám hối. Trước khi hai bà ra về, họ hứa với tôi là sẽ tìm thầy quy y học đạo không tham gia vào nghề đen đỏ và họ hứa không đòi tiền nợ do Dì Ẩn mượn nữa.

Bài thơ ấy có nhan đề là đồng tiền phi nghĩa:

Bạc ác chi mi lắm rứa tiền

Mi làm nhân loại hóa ra điên

Mi tô mặt nạ đên thành trắng

Mi khiến nhân tình thẳng hóa xiên.

Mi đạp luân thường vô một xó

Mi xô trí tín dẹp đôi bên

Mi xua thế giới đâm nhau mãi

Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền.

Sau khi “cứu” được Dì Ẩn ra khỏi bệnh bài bạc, tôi rất có niềm tin nơi Ðức Quán Thế Âm Bồ tát.

Vì tôi không ngờ chuyện khó “tầy trời” của Dì Ẩn và chuyện đòi tiền của hai bà nghề bài bạc mà có thể vượt qua được.

Người tin tưởng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát sâu sắc, chân thành hơn tôi nữa, đó là Dì Ẩn.

Vì từ khi có biến cố khó khăn cùng cực xảy ra và vượt qua khỏi, thì Dì Ẩn mới phát tâm tin hạnh cứu khổ của Ðức Quán Thế Âm nhiều hơn.

Mừng chuyện tiến tu của Dì Ẩn tôi có làm bài thơ trào phúng tặng Dì như sau:

Dì Ẩn trong phòng trốn nợ kêu

Tim run muốn rớt nhịp không đều

Quán Âm thầm niệm thôi lia lịa

Ðể chú trọc đầu phải chịu

Trích từ quyển “LINH ỨNG QUÁN THẾ ÂM”
của HT.Thích Tịnh Từ


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

CẦU NGUYỆN NHƯ Ý
Trích từ quyển “LINH ỨNG QUÁN THẾ ÂM”
của HT.Thích Tịnh Từ


Tôi tên là Tống Ngọc Lê, pháp danh Thanh Nhẫn hiện ở tại San Jose.

Tôi nghe lời mẹ dạy nên thường đi chùa lễ Phật, nghe quý thầy giảng đạo và biết ăn chay kỳ từ thuở còn bé.

Mẹ tôi cũng bày cho tôi cách ngồi thiền, tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi rầy la, vì tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh và niệm Phật thì tôi thích hơn.

Mẹ tôi biết ý nên khuyên tôi tụng kinh Phổ Môn để làm yếu chỉ tu học . Sau một thời gian tụng kinh, tôi có đọc 108 danh hiệu Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát. Hồi còn trẻ, tôi tụng kinh niệm Phật không đều, bữa siêng, bữa nhác; nhưng bây giờ thì đã thuần thục rồi. Tôi thường tụng kinh, niệm Phật hang ngày không hề bỏ sót.

Ngược dòng thời gian, năm tôi hai mươi tuổi bị bệnh nặng, người nhà đưa tôi vào nhà thương Phúc Kiến ở chợ Lớn cấp cứu. Tôi bị bệnh thường hàn nhập lý và lên cơn sốt dữ dội. Tôi bị mê man suốt hai ngày đêm.

Các bác sĩ cho người nhà tôi biết là bệnh khó chữa trị, kinh mạch xáo trộn, độc tố đã nhiễm vào tim. cả nhà tôi ai cũng khóc, song mẹ tôi rất bình tĩnh và khuyên mọi người đem tâm thành niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Tiếp niệm danh hiệu Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát luôn trọn ngày và trọn đêm dậy cả một góc nhà thương.

Ngay đêm đó, khoảng hai giờ sáng, tôi đang trong cơn mê mà cảm nghe như có dòng suối nước chảy, có tiếng chim hót và tiếng chuông chùa. Tôi thấy mình bước chân lên từng cấp của một cảnh nguy nga, hùng vĩ trên một ngọn núi cao.

Trước cổng lên núi và chùa có đề ba chữ Phổ Ðà Sơn, bên bờ biển Nam Hải, nơi mà Ðức Quán Thế Âm thường cư ngụ. Trong chùa có khoảng vài trăm người đang ngồi thiền, xây mặt ra hướng biển Ðông. Người nào cũng có tóc và mặc áo nhiều mà rất đẹp nên tôi không nhận biết họ là đàn ông hay đàn bà.

Riêng tôi thì được một người đàn bà mặc áo trắng dẫn vào trong một ngôi nhà tranh nhỏ, nằm giữa khóm trúc nên thơ. Trong cái thất ấy có đến hai co thanh nữ mặc áo xanh; nét mặt cô nào cũng rất đoan trang và vui vẻ. hai vị này cho tôi biết người mặc áo trắng là thầy của họ mà người xưng là Bạch Y Quán Thế Âm.

Tôi mừng quá liền cúi xụp lạy, nhưng Ðức Bạch Y đưa tay cản lại không cho lạy. Ngài bảo một cô Thanh y rót nước trong bình tịnh thủy cho tôi uống.

Uống xong, tôi cảm thấy khỏe khoắn vô cùng, tâm thần nhẹ nhàng và đầy sung sướng. Tôi bèn ngỏ lời Bạch Y Quán Âm đại sĩ và hai tiểu đồng rối rít. Kế đó, tôi đột nhiên mở mắt và thấy nhiều người đang đứng chung quanh giường và niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm.

Hai hôm sau thì tôi xuất viện, vì bệnh tình của tôi khỏi hẳn. Ðiều này khiến cho các bác sĩ trong bệnh viện vô cùng kinh ngạc về bệnh trạng của tôi.

Mẹ tôi bảo cho họ hay rằng, tôi được cứu thoát căn bệnh ngặt nghèo là nhờ sự mầu nhiệm của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi cũng tin như vậy, và câu chuyện này đã gây tín tâm rất nhiều cho tôi và mọi người trong gia đình thân nhân của tôi

Tôi là con dâu trưởng sinh sống với chồng tôi nhiều năm mà không có con.

Chồng tôi thì thương tôi hết mực, song những người thân phía chồng tôi nói vào nói ra làm cho tôi rất buồn tủi. Họ bảo tôi rằng: “Ðàn bà chi mà không biết sanh đẻ”.

Thay vì giận, đau buồn, khóc lóc, tủi hổ thân phận thì tôi lại vui và âm thầm trì tụng kinh Pháp Hoa, niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm và mong có được một đứa con gái ra đời cho vui nhà.

Ðiều mơ ước lại đến, sau suốt nhiều năm tu tập và cầu nguyện, một đêm tôi thấy mình trở lại núi Phổ Ðà vào viếng thăm chổ sơ sài của Ðại Sĩ Bạch Y Quán Thế Âm ở.

Tôi mới bước chân nửa thềm đá cao, thì thấy hai thanh nữ hầu Ðức Quán Thế Âm bước lại gần tôi và trao cho một bé gái nhỏ xinh xinh. Tôi tỉnh dậy và bắt đầu có thai từ đó.

Con tôi ra đời đã đem lại cho tôi và chồng tôi một niềm vui rất lớn. Bé Hiền năm nay đã tám tuổi. Cháu rất ngoan hiền, học giỏi và chí mực hiếu thảo. Cả nhà, các bác, các chú, bà ngoại, bà nội hai bên ai cũng thương cháu.

Trong kinh cứu khổ có bài kệ mà tôi thấy rất hợp với hoàn cảnh của tôi:

Người vô tự quạnh hiu sau trước

Sửa tất lòng tác phước khẩn cầu

Từ bi linh hiển pháp mầu

Cho trai hiển đạt gái cầu hiền lương.

Cuối năm 1979, gia đình tôi rời khỏi Việt Nam vượt biên ra nước ngoài.

Khi tàu rời bến được độ hai ngày đêm thì máy bị chết. Mọi người trên tàu đều bối rối, lo âu. Nước biển, sóng gợn ì ầm át cả tiếng khóc của trẻ con, tiếng cãi vả của nhiều người với chủ tàu là “ lấy tiền người ta mà làm ăn bê bối”.

Riêng tôi ngồi nhìn đứa con đang ngủ trên tay và định tâm niệm NAM MÔ ÐẠI TỪ ÐẠI BI LINH CẢM ỨNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.

Kỳ lạ thay, vài tiếng đồng hồ sau thì con tàu chúng tôi nổ máy và chạy khoảng bốn tiếng đồng hồ thì gặp tàu tuần tiễu của hải quân Trung Hoa Quốc Gia giúp đưa chúng tôi vào địa phận Hồng Kông.

Nếu không có chiếc tàu cứu khổ này thì chúng tôi đã đắm xuống biển 150 mạng vì con tàu bị chết máy, vừa bị sóng đánh mạnh nên thân tàu bị bể và nước tràn vào ầm ầm không sao tát ra kịp.

Khi được đến Mỹ, gia đình tôi ở một ngôi nhà không đủ phòng rộng rãi, nhưng tôi quyết sắp xếp để nguyên một căn phòng có nhiều ánh sáng, đẹp làm nơi tĩnh tâm và thờ phượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Tôi có làm bài thơ tám câu để tạ thâm ân cứu khổ của mẹ hiền Ðức Quán Thế Âm như sau:

Quán Âm Bồ Tát Ðấng Mẹ Hiền

Cứu khổ muôn loài hạnh vô biên

Ứng thân diệu dụng vô cùng tận

Ðại nguyện từ bi rải mọi miền.


Con xin sám hối những sai lầm

Tinh tấn tu học để thanh tâm

Ngày đêm thiền tịnh không lơ đễnh

Giác ngộ chân tâm đẹp sáng ngời.

--------------

MẮT MÙ LẠI SÁNG

Trích từ quyển “LINH ỨNG QUÁN THẾ ÂM”
của HT.Thích Tịnh Từ


Lúc 53 tuổi, mắt của Dì Mão tự nhiên bị đỏ lói rồi sưng to. Sau đó không bao lâu thì hai mắt của Dì bị mù. Các thầy thuốc đông y, tây y đều tìm đến chữa trị, song không có hiệu quả. Tình trạng này kéo dài rất nhiều năm, khiến Dì rất đau khổ và khó khăn cho đời sống vô cùng. Có một lần Dì mò ra bờ ao hái rau muống, không may bị trượt chân té xuống hồ sâu ngập nước, suýt chết. May có người hàng xóm đi qua nhanh tay cứu Dì qua cơn tai nạn.

Gặp lúc bệnh khổ ụp tới, cùng đường bí lối, Dì Mão mới quay về Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm danh hiệu của Ngài cầu cứu Ngài cứu khổ, cứu nạn. Cộng thêm sự huy động tinh thần và lời khuyên dạy của Hòa Thượng Phổ Phổ Thiên, Trụ trì chùa Phổ Ðà tại Ðà Nẵng. Dì Mão tăng phần tín nhiệm, tin tưởng vào thần lực của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát. Từ đó, Dì Mão bắt đầu chuyên niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và lễ bái chuyên cần sớm tối, tha thiết mong cầu được sớm lành mắt, tai qua nạn khỏi. Cứ sau mỗi lần lễ bái, niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm được 108 LẦN, dì Mão lại đọc lời tác bạch trước tượng Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát:

Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Dì cứ lặp đi lặp lại 21 lần rồi nói:

“con là người mê muội, chữ nghĩa không rành, lý đạo chẳng thông, nghiệp chướng sâu dày, mang nhiều nổi khổ. Nay hai mắt bị mù lòa, tâm thần rối loạn, sống mà cũng như chết. Lòng con không an, khổ lắm.
Mong Ðức Phật Bà Quan Âm cứu giúp, chữa trị cho hai con mắt của con sáng lại. Con nguyện sau khi hai mắt của con được sáng, con xin trọn đời vào chùa làm công quả, chuyên làm việc lành, phụng sự Tam Bảo, không hề luống phí thời gian, chuốc thêm nghiệp xấu, phiền não.

Xin Ðức Phật mười phương soi sáng, xin Ðức Bồ Tát Quán Âm chứng giám cho lời phát nguyện chân thật của con”.

Kỳ diệu và linh nghiệm thay, sau gần BA THÁNG chuyên tâm trì NIỆM HỒNG DANH, lễ bái và cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, đôi mắt của Dì Mão được sáng lại như xưa.

Trước khi lành bệnh có chuyện xảy ra là một buổi sáng Dì Mão đang ngồi lần chuỗi, miệng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát tại góc chuông chùa Vĩnh An, thuộc khuôn hội Phật Giáo tỉnh quảng Nam Ðà Nẵng thì bỗng có một người “khách lạ” nói giọng người con gái nhỏ nhẹ và tự xưng là học trò của Ðức Quán Thế Âm mang tới biếu người có lòng tin cậy, lễ niệm thuốc Phật Bà.

Nói xong tự tay cô gái bỏ thuốc vào miệng cho Dì Mão và bảo là uống thuốc rồi chắc chắn sáng mai mắt sáng.

Thì ra đó là giấc mơ của Dì Mão đã xảy ra đêm qua trước khi mắt dì được sáng lại. Dì nói giấc mơ rõ ràng như chuyện xảy ra ban ngày vậy.

Chuyện Dì Mão lành đôi mắt nhờ lễ niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát đã lan tràn khắp tỉnh và xóm làng.

Khiến nhiều người chưa quy y, chưa biết gì về đạo Phật cũng đều phát tâm tín cẩn Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát và đi thỉnh tôn tượng của Bồ Tát về thờ phượng, lễ bái.

Mắt mù khó sáng lại

Thuốc Ðông tây khó lành

Niệm Quán Âm lễ nguyện

Cảm ứng bất tư nghì.

Dì Mão là một thành viên rất thuần thành và hết sức tích cực trong việc hộ trì Tăng, Ni trẻ tu học thiếu điều kiện vật chất trong số đó có tôi. Từ khi Dì được Bồ Tát Quán Âm cứu khổ và điểm hóa,

Dì Mão đã trở thành bà mẹ tình thương của rất nhiều trẻ thơ mồ côi, xấu số. Dì đã trải dài cuộc đời còn lại của mình để phụng sự Phật pháp và tình thương với nụ cười, đôi tay khoẻ trong trái tim giản dị, tươi mát, mộc mạc, hiền lành của Dì.

Dì sống gần đến chin mươi mới qua đời.

Nhà thơ Nguyễn Duy An đã từng thọ ơn của Dì Mão rất nhiều và có đọc tặng Dì bài thơ Bà Mẹ Tình Thương khi tiễn Dì lần cuối:

“Dì không sinh con đẻ cháu

Mà con cháu đầy đàn

Tâm Dì hiền như Phật

Lòng Dì rộng thái không

Tình nào bằng tình mẹ “


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Trích từ quyển “LINH ỨNG QUÁN THẾ ÂM”
của HT.Thích Tịnh Từ


NƯỚC CAM LỒ CHỮA NGƯỜI CÂM


Cam lồ trừ não nhiệt
Chữa lành người bị câm
Xuất gia cầu chí đạo
Ân nghĩa xin đền bồi.

Tỉnh Quy Nhơn, xã Phú Cát có anh Nguyên Lợi làm nghề thợ hồ. Sau khi xây mộ cho một gia đình ở Tu Bông gần Vạn Giả, tự nhiên hai hôm sau anh lên cơn sốt nói mê sảng và sau một tuần lễ chữa trị đủ thuốc mà không thuyên giảm.
Thế rồi bị câm, thỉnh thoảng anh Nguyên Lợi lên cơn, cởi áo quần chạy khắp làng xóm.

Có khi anh đến ngôi mộ anh xây ngồi yên lặng nhiều giờ, chốc chốc lại khóc và hú lên những tràn âm thanh dài ghê rợn, ai nghe cũng khiếp sợ, không dám lại gần.

Ngày lại ngày, tay của anh mọc lông dài như lông heo rừng. Bà con anh cho đây là chuyện oan hồn,ma quái, âm linh trừng phạt anh vì có lẽ anh xây mộ cho người chết mà tâm anh bất chánh, hoặc có làm điều gì lầm lỗi với gia chủ và với vong thức người đã qua đời.

Họ tin như thế, vì người nhà của anh Nguyên Lợi mỗi khi mua cau trầu, xôi, chuối đến khấn vái trước ngôi mộ anh ấy xây, cầu cho anh ta lành bệnh thì quả nhiên anh lành bệnh được ba hôm, sau đó tái phát trở lại và bệnh câm của anh kéo dài gần cả năm mà chưa chấm dứt.

Một hôm vợ anh Nguyên Lợi được người mach bảo là sư ông chùa Giác Hải, núi Ông Sư có điện Quán Âm Nam Hải, ngài chữa bệnh ma nhập, quỷ ám rất thần diệu, nên cả nhà gồm có hai người anh trai, một em gái và vợ anh Nguyên Lợi đưa anh vào chùa Giác Hải trình với sư ông tất cả tự sự.

Sư ông sau khi hỏi tên tuổi người bệnh và tên tuổi người chết mà anh Nguyên Lợi đã xây mộ.

Hỏi xong, sư ông hướng dẫn anh Nguyên Lợi và cả gia đình của anh lên điện Quán Âm cầu nguyện.

Hồi đó, tôi còn là chú sa di nhỏ theo hầu sư ông, nhưng tôi rất để ý những chuyện sư ông cầu đức Quán Thế Âm để chữa các bệnh lạ, nhất là các bệnh có ảnh hưởng từ cõi âm, cõi của người đã qua đời.


Hôm ấy sư ông bảo tôi gõ mõ để đọc THẦN CHÚ ĐẠI BI với sư ông. Tay sư ông cầm chén nước trong, bắt ấn cam lồ búng vào trong chén nước.

Ðọc ba lần, rồi sư ông tiếp niệm danh hiệu ÐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT khoảng trên một trăm lần.
Kế đến sư ông đem cho anh Nguyên Lợi uống.

Kỳ diệu thay, anh Lợi uống xong ly nước trong vừa được sư ông chú nguyện là anh Lợi khai khẩu được ngay, câu nói đầu tiên của anh Lợi là Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát.

Anh tự một mình niệm ba lần như thế, sau đó sư ông ra hiệu cho mọi người cùng niệm danh hiệu bồ tát Quán Thế Âm để trợ hóa cho anh Nguyên Lợi.

Trong tiếng niệm Quán Âm, tôi nghe xen lẫn tiếng khóc của người nhà anh Nguyên Lợi, vì họ quá xúc động về sự linh nghiệm và phép cứu khổ nhiệm mầu của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Tôi thấy nhiều người khóc tự nhiên tôi cũng khóc. Tôi khóc vì không những xúc động khi thấy anh Nguyên Lợi bị câm cả năm bây giờ nói lại được, mà tôi khóc vì tôi thấy thầy tôi giao cảm được với Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát nên tôi rất bội phục, rất kính nể người.

Tôi tự hỏi, tại sao Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát rất linh hiển, thầy tôi cầu nguyện cho ai cũng đều có linh nghiệm, mà tôi đứng ra cầu cho người có tai nạn thì không thấy có kết quả?

Tôi nhớ ít nhất là có hai người bị bệnh bởi vong thức người chết nhập vào, gia đình dẫn người bệnh đến chùa Giác Hải nhờ cứu chữa.

Vì sư ông đi vắng, tôi rất mừng là có cơ hội để thay thế sư ông cứu người cùng thử nghiệm "tài đức" cầu nguyện của mình, nhưng cả hai lần đều thất vọng nên tôi cảm thấy bị "mất mặt bầu cua" và phải đợi sư ông về mới trị được bệnh tình cho hai người kia.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

ANH BẠN TÔI VÀ CÂU CHÚ ĐẠI BI, KINH PHÁP HOA

Theo Giác Ngộ online


Anh bạn tôi chắc chắn không phải là một nhà văn dù hơn 15 năm trước đây, anh đạt được giải cao nhất trong một cuộc thi văn toàn quốc do báo Thanh Niên tổ chức; anh không xin thẻ báo chí dù anh điều hành và biên tập trang web của một hiệp hội trong 10 năm;

anh không được biết như là một tác giả thơ vì chưa bao giờ anh đưa thơ lên báo. Vài năm gần đây anh tham gia một nhóm biên kịch nhưng rất ít bạn bè biết bút hiệu của anh.

Anh thường sử dụng nhân xưng đại danh từ ngôi thứ ba để viết những mẩu chuyện ngắn. Như vậy để rộng đường cho sự chuyển tải nội dung, để thỉnh thoảng có một chút tinh nghịch khi chuyền nhảy giữa ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất trong những câu chuyện đời thường, thỉnh thoảng đượm chút mùi đạo làm duyên; và nhất là để thoải mái nhìn ngắm suy nghĩ của chính mình với cặp mắt của người bên ngoài nhân vật, anh nghĩ thế.

Chín năm trước (2003), anh có hạnh duyên thọ nhận chú Đại Bi tại đạo tràng chùa Phước Hòa (Q.Gò Vấp, TP.HCM). Đạo tràng tổ chức hàng tháng trong 10 buổi tối - từ ngày 19 đến ngày 28 âm lịch - trì tụng mỗi tối 108 biến chú Đại Bi âm tiếng Phạn. Mới đầu anh chỉ tính đi một khóa 10 tối để hồi hướng cầu an cho người anh vợ bị xuất huyết não lần hai đang nằm liệt giường, mũi truyền ống.

Nhưng đến khi thôi không tham gia, tính ra anh đã theo đuổi đạo tràng này được khoảng hai năm rưỡi (cuối 2003 - giữa năm 2006). Trong thời gian này, đạo tràng đã trì tụng được khoảng trên 30.000 biến chú Đại Bi.

Từ nhân duyên đó, anh thường xuyên trì tụng chú Đại Bi cho đến bây giờ.

Anh đã tập thành thói quen trì chú Đại Bi mỗi khi ra đường (trì âm Phạn ở đạo tràng và tại nhà, khi ra đường trì âm Hán Việt). Bắt đầu anh niệm 3 lần danh hiệu “Nam mô Đại Bi Hội thượng Phật Bồ Tát” để chư Phật, Bồ tát trong chúng hội Đại Bi chứng minh và cũng để tạo duyên tham gia hội chúng này mai sau.

Trước khi đến đạo tràng Đại Bi chùa Phước Hòa thì ngôi chùa chính mà anh bước vào thềm đạo là chùa Vạn Đức (Thủ Đức).

Có lẽ Vạn Đức là một trong số ít ngôi chùa của thành phố tổ chức sớm nhất khóa lễ KINH PHÁP HOA hàng tháng, ngay từ năm 1975 và kéo dài cho đến bây giờ, đã 36 năm.

Khóa lễ được tổ chức vào mỗi ngày chủ nhật đầu tháng âm lịch, bắt đầu từ 6 giờ và chấm dứt lúc 16 giờ 30, tụng trọn bộ 7 quyển kinh PHÁP HOA.

Anh dự thời khóa tụng kịnh Pháp Hoa đầu tiên trong đời tập tu vào ngày Chủ nhật, 3-9 Quý Mùi (2003).
Hồi đó, Vạn Đức còn là một ngôi chùa nhỏ, cổ kính, vườn đất rộng, có chút hoang sơ.

Sau này, khoảng tháng 2-2004, chùa được trùng tu trong 2 năm (2004 – 2005) để trở thành ngôi chùa - tháp uy nghi hiện nay.

Trong khóa Pháp Hoa lần thứ hai vào ngày Chủ nhật, 2-10 Quý Mùi, vào lúc nghỉ giải lao buổi sáng, anh ngồi cùng một số bạn trong khoảng sân bên hông chánh điện.

Một anh nói về tình trạng bệnh thấp khớp của vợ mình, do dùng thuốc không đúng nên xương chân có triệu chứng bị mụt.

Một anh bạn khác nghe nói liền giới thiệu đạo tràng Đại Bi chùa Phước Hòa và khuyên anh này nên đến trì tụng để hồi hướng cho người bệnh.

Nghe như vậy, tự nhiên anh nghĩ đến người anh vợ bất hạnh đã nằm liệt giường hai năm nay, anh tự nhủ trong lòng sẽ đến đạo tràng Đại Bi vào ngày 19 ÂL tới để trì tụng hồi hướng cho anh ấy.

Người anh vợ của anh ở Xã lộ 25, Dầu Giây - Đồng Nai, cách Sài gòn khoảng 70 cây số, là vùng kinh tế mới sau năm 75.

Các em ở Sài gòn lên thăm, anh ấy cử động cánh tay trái một cách khó khăn để ra dấu chào hỏi. Cả người bất động, miệng ngọng nghịu, chỉ có đôi mắt là biết nói.

Đứng trước một người mà mình biết là đang đi vào ngõ cụt sầu thảm của cuộc đời, mỗi ngày một đến gần hơn điểm kết thúc, lại là người thân của mình, ai mà không đau lòng.

Chủ nhật kế, vợ chồng anh cùng mấy người em về thăm anh ấy. Các con của anh kể cho biết trong buổi sáng chủ nhật tuần rồi, đã xảy ra một sự cố: anh ấy bị ho làm sút ống dây dùng để truyền cháo và nước .

Ống này được thọc sâu từ mũi vào thực quản. Khoảng mỗi nửa tháng, cô y tá trong thôn đến làm vệ sinh ống. Mỗi lần như vậy không tránh khỏi đau đớn và trầy xước phần niêm mạc bên trong mũi và miệng, rất dễ bị nhiễm trùng.

Lần này, cô y tá có lẽ vì bối rối thấy khó thể nhét ống vào mũi trở lại nên nói với người nhà thử bỏ không dùng ống nữa xem sao. Người nhà nghe theo. Vợ anh ấy thử đút vài muỗng nhỏ cháo, hóa ra anh ấy nuốt được.

Cả gia đình rất mừng vì không những anh ấy thoát được cái ống truyền đã làm khổ anh cả hai năm trời mà anh còn có thể hưởng được ít nhiều mùi thơm và vị ngon của thức ăn (dù chỉ là cháo xay) và thức uống (phần lớn là nước chín).

Anh bàng hoàng khi nghe kể vì thời gian xảy ra sự kiện đặc biệt này cũng chính là buổi sáng Chủ nhật ở Vạn Đức khi anh khởi tâm sẽ đi đến chùa Phước Hòa trì tụng chú Đại Bi. Chỉ mới là khởi tâm chứ chưa thực hiện vì còn đến hơn nửa tháng nữa mới đến khóa lễ (2-10 – 19-10 ÂL Quý Mùi). Phải chăng khi mình chỉ mới khởi lên một niệm tâm tha thiết là đã tức thời có cảm ứng nhiệm mầu?

Từ đó, anh kiên trì theo các thời khóa Đại Bi chùa Phước Hòa, dù mùa nắng hay mưa. Đạo tràng Đại Bi hành lễ từ 18 giờ đến 20 giờ tại đài Quán Âm trên sân thượng lộ thiên của chùa, vào mùa khô hứng đủ loại gió tứ phương và vào mùa mưa là những đợt mưa tầm tã. Khó nhất là làm sao giữ cho đèn nến không bị tắt cả vì gió và vì mưa.


Một điều có thể nói là rất may mắn trong nỗi bất hạnh phải trả nghiệp của người anh vợ của anh là anh ấy có một người vợ hết lòng chăm sóc cho chồng.

Người bệnh nằm lâu ngày bất động trên giường dễ bị hoại tử những vùng da thịt ở lưng hay mông hoặc bất cứ nơi nào bị trầy xước. Vợ anh luôn luôn xoa bóp và quan sát những dấu hiệu khác thường trên người chồng. Việc vệ sinh thân thể và chỗ nằm được chị chăm sóc hàng ngày.

Các con của anh, nhất là đứa con trai út còn ở chung nhà, được phân công mỗi giờ lại nâng anh lên để thay đổi thế nằm. Nhờ vậy, trong tám năm nằm bệnh, anh chỉ có những vết thương nhỏ, được chữa trị kịp thời. Chỉ trong giai đoạn vài tháng sau cùng, vào khoảng cuối năm 2005, khi cơ thể không còn sức đề kháng; có một vết lở nhỏ ở lưng, tuy được khống chế ở bên ngoài miệng nhưng bên trong một phần thịt đã bị tiêu hủy, không thể nào hồi phục.


Chắc là vợ của anh ấy cũng có những lúc khóc một mình nhưng khi ở trước chồng, bao giờ chị cũng có những câu nói đùa chơi với anh về thời trai trẻ đào hoa, về những cô gái muốn thay chị làm mẹ những đứa con của anh…

Lúc đó anh nghe mà miệng như muốn cười, cánh tay trái còn cử động được một chút thì giơ nhẹ lên mà chỉ vào chị.
Nhưng mỗi ngày trôi qua niềm vui càng ít dần.

Không còn vẻ như cười ở miệng, không còn chút ánh linh hoạt nào ở mắt, những ngón tay ngày càng co quắp và bắt đầu ấn sâu vào lòng bàn tay; hai cánh tay và hai ống chân chỉ còn là những que xương khô cứng.

Và nhất là nước mắt, anh ấy không còn đủ nước mắt để lăn thành giọt mà chỉ còn đủ làm thấm ướt hốc mắt ngày càng sâu cùng với cái nhìn tuyệt vọng dõi theo khi các em ra về. Anh ấy khóc không thành tiếng. Thật là đau đớn trước những nỗi khổ không nói được nên lời.

Lên thăm anh ấy mà lòng anh thấy quặn đau. Anh cũng như những người thân khác trong gia đình, hết sức muốn chia xẻ sự đau đớn của anh ấy nhưng đâu thể làm được gì khi mỗi thân mỗi nghiệp.

Tháng 12-2005, anh có cơ duyên được đi thăm đất Phật trong một chuyến đi tự tổ chức lấy của một nhóm Phật tử nhân lễ lạc thành Việt Nam Phật Quốc Tự tại Lâm Tỳ Ni (Lumbini - Nepal). Đây là ngôi chùa thứ hai sau ngôi chùa cùng tên tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhagaya - Ấn độ) được thầy Thích Huyền Diệu xây dựng.

Đoàn gồm 43 người trong đó có 6 vị xuất gia và 37 cư sĩ. Tổ chức đoàn đi là vợ chồng một nhà ngoại cảm. Người ta gọi anh ấy như vậy, nhưng anh ấy cho rằng việc tự nhiên có khả năng tìm mộ là một nhân duyên để đưa anh đến với một khả năng tuyệt vời hơn nhiều, đó là khả năng tìm được đến Phật pháp.

Chuyến đi kéo dài 14 ngày, từ ngày 10 đến 23-12-2005. Ngoài mục đích đảnh lễ và tụng kinh tại một số Phật tích ở Ấn Độ và Nepal, đoàn còn tự nguyện làm nhiệm vụ giúp chùa tổ chức lễ lạc thành.

Ngày 19-12-2005 - ngày cuối cùng ở Việt Nam Phật Quốc Tự cũng là ngày khởi đàn hàng tháng của đạo tràng Đại Bi chùa Phước Hòa (19-11 ÂL Quý Mùi). Trong ngôi chánh điện đã được làm lễ an vị Phật, buổi tối hôm ấy, anh thành tâm trì tụng 108 biến chú Đại Bi vào lúc 18 giờ - cùng thời điểm người bạn của anh ở VN bắt đầu thời khóa Đại Bi.

Anh trì tụng một mình trong ánh nến cùng với ba điểm cháy đỏ của ba cây nhang lớn mà anh cắm tại bàn thờ Phật (ở giữa), bệ thờ Đức Bồ tát Địa Tạng (bên trái) và bệ thờ Đức Bồ tát Quán Thế Âm (bên phải). Anh ngồi phía trước bệ thờ của Bồ tát Quán Thế Âm.

Gian chánh điện dường như rộng lớn và thâm nghiêm hơn, anh cảm nhận có một nguồn sức mạnh từ bên trong làm cho tinh thần anh trở nên phấn chấn, oai lực của âm thanh trì chú trong không gian tĩnh mịch dường như cũng được tăng thêm.

Thực ra, anh đã không trì tụng một mình: anh đã cùng trì với những người thân và bạn bè của anh - những người đã không trực tiếp đến xứ Phật nhưng đã gởi tâm của mình cùng những lời nguyện ước theo anh: trước khi đi, số người thân và bạn bè này đã gởi cho anh những phong bì được dán kín, trong đó có ghi những ước nguyện riêng cùng với một ít tóc của mỗi người.

Anh đã đưa những phong bì này cho anh trưởng đoàn để anh ấy hóa tại khu vườn Lâm Tỳ Ni - nơi đức Phật đản sanh - cùng với những ước nguyện của người thân của các thành viên khác.

Một người thân mà anh quan tâm nhất lại không làm được điều này. Đó là người anh vợ của anh. Không có tờ giấy nào ghi ước nguyện, cũng không có một lời nào được nhắn gởi. Nhưng anh đã mang ánh mắt nhìn tuyệt vọng của anh ấy vào tâm của mình trong thời khóa lễ nơi đất Phật.

Phần hồi hướng, anh thành tâm khấn nguyện Bồ tát Quán Thế Âm gia hộ cho anh ấy: “Nếu nghiệp hết xin cho anh ấy được tiêu trừ tật bệnh; nếu còn nghiệp xin cho anh ấy được ra đi nhẹ nhàng, không đau đớn”.

Từ chỗ anh ngồi, anh thấy tàn của hai cây nhang ở bàn thờ Phật và ở bệ thờ của ĐỨC ĐỊA TẠNG uốn cong queo, còn cây nhang ở bệ thờ Đức Quán Thế Âm - ngay trước mặt anh vẫn thẳng.

Anh nghĩ dù sao công phu trì tụng của mình cũng đã có một phần cảm ứng.

Tuy nhiên, khi anh đứng dậy đi đến bệ thờ Đức Quán Thế Âm để tắt nến thì thật là bất ngờ, anh thấy tàn cây nhang trên bệ thờ Đức Quán Thế Âm cong tròn nửa vòng, gần như cùng trên một mặt phẳng hướng ra phía trước.

Sở dĩ khi ngồi anh không nhận ra vì tàn nhang cong cùng với hướng ngồi của anh, nên dưới ánh nến không đủ sáng anh đã thấy tàn nhang vẫn thẳng.

Anh đứng lặng người, một lúc sau mới trấn tĩnh được nỗi xúc động: tàn của cả ba cây nhang đều cong, anh nghĩ rằng tâm thành của anh đã được Chư Phật, Bồ tát chứng minh.

Đặc biệt là Đức Quán Thế Âm còn như muốn nhắn gởi anh điều gì.

Ngày 21-12-2005 (21-11 ÂL Quý Mùi), ở Kathmandu - Nepal, tại một khu du lịch, anh gọi được điện thoại internet về nhà. Tình hình ở nhà bình thường.

Ngày hôm sau (22-12-2005), anh gọi về lần nữa thì người nhà cho hay đã nhận được tin anh vợ của anh mất ngay sau khi nói chuyện với anh hôm qua. Ngày 23-12-2005, đoàn trở về VN. Ngày hôm sau, anh vừa kịp lên Dầu Giây đưa đám của anh ấy.

Như vậy người anh vợ của anh mất vào ngày 21-12-2005 (21/11 Quý Mùi), hai ngày sau khi anh khấn nguyện.

Anh ấy mất hầu như không đau đớn nhiều: trong lúc ăn cháo, anh ho vài tiếng và rướn người lên như bị ngộp thở.

Vợ anh ấy chưa kịp chạy đến nhà cô y tá ở ngay thổ cư phía trước mặt thì anh đã ra đi. Còn trong lúc chộn rộn lau người thay quần áo cho anh ấy, một người nào đó trong hàng xóm đã mặc cho anh chiếc áo lam - một người mấy chục năm qua chưa hề bước chân đến cửa chùa.

Từ đó, anh cảm nhận sâu sắc lòng từ bi của Đức Quán Thế Âm, người nghiêng mình lắng nghe nỗi thống khổ của muôn loài ngập tràn trên những đợt sóng dồn dập của sinh tử, người dùng vô vàn phương cách để tạo ra những cơ duyên nhằm cứu vớt chúng sinh vượt thoát luân hồi.

Hạnh duyên đến với câu chú Đại Bi, với anh bây giờ, chính là thực tập hạnh của Đức Quán Thế Âm: hạnh lắng nghe và hạnh cứu độ.

Con đường tập tu chắc chắn còn dài. Anh vẫn còn đang học. Anh vẫn còn đang học.
HOẰNG CHƠN
chuaphogiac


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

CHỮA HIẾM MUỘN NHỜ ĐỌC KINH, NIỆM PHẬT, TRÌ THẦN CHÚ



LƯỢC GHI LẠI, THEO NGUỒN TỪ WEBSITE NHANQUA.COM.VN,
TÁC GIẢ : QUANG TỬ

Em có pháp danh là Diệu Thảo, em sinh năm 1988, hiện em ở dưới Tiền Giang.
Vợ chồng em cưới nhau năm 2015, nhưng mãi đến nay chưa có em bé.
Cách đây 2 năm, vợ chồng em có đi khám ở bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM) và sau đó theo khám một bác sĩ cũng làm trong bệnh viện.
Lần một bác sĩ cho thuốc uống canh theo phương pháp tự nhiên cũng không có thai. Lần hai theo phương pháp bơm tinh trùng vào tử cung, đến ngày thứ 14 sau khi bơm thì em thử beta nhưng thấp hơn 25, cũng đậu thai nhưng chỉ vài ngày là bị sảy thai.
Lần ba, lặp lại như thế xong cũng thất bại.
Em không biết em phải đọc kinh gì, sám hối thế nào để con mau về với em, xin nói thêm là chồng em rất mong con.
Nhiều lúc vì chuyện em không có thai được mà vợ chồng cứ hay giận hờn nhau, em buồn lắm.

Chồng em rất cộc cằn, nóng tính. Em làm gì không vừa ý là la mắng, em nói lại thì sinh chuyện, có lần còn đánh em, đuổi em đi.
Lâu lâu lại nói em biết ăn mà không biết đẻ, nói lấy vợ thua cái giẻ rách của xã hội, không ra cái gì hết … Em chỉ biết khóc thôi. Em đâu muốn vậy đâu?
Em tủi thân lắm, thấy người ta ẵm con mà lòng em buồn vô hạn, chồng nói thấy người ta có con thấy ham còn em thì … ?

Xin anh chỉ em bây giờ phải làm sao?

Bên ngoài tuy em cười nói nhưng em khổ tâm lắm, gặp mọi người ai cũng hỏi sao không đẻ đi, chừng nào đẻ, coi tuổi hạp mới đẻ hả?
Người thì nói sao chưa thấy gì hết, sao ham ăn quá không đẻ đi, tất những câu hỏi em chỉ cười trừ thôi!

Em thèm lắm cái cảm giác được mang thai mà cảm nhận con lớn lên từng ngày, nhưng chưa bao giờ có được?

Mỗi lần nghe mẹ chồng nói người ta cưới sau mà người ta có bầu hết rồi, con của người này, người kia nhìn thấy mà cưng, em im lặng mà lòng buồn lắm.

Xin nói thêm là gia đình chồng em chăn nuôi rất nhiều, nuôi bò để bán, nuôi gà vịt để giết thịt ăn, cha chồng em thì nuôi chim, cuốc … rồi đi bẫy cuốc, bẫy bìm bịp về ăn, sát sinh rất nhiều.

Quang Tử nghe cô gái này kể xong bèn khuyên :” Nếu gia đình bên chồng nghiệp nặng như vậy, kể cũng khó cho em, vì việc sinh được con, còn liên quan đến nghiệp chung của toàn gia đình. Nhưng thôi, em cứ cố gắng hết sức nhé.

Nguyên lí là em cần tạo thật nhiều công đức, sau đó hồi hướng những công đức ấy để cầu sinh được em bé.

Cách tạo công đức trong đạo Phật rất nhiều, NIỆM PHẬT, TỤNG KINH, TRÌ CHÚ, SÁM HỐI, PHÁT NGUYỆN, phóng sinh, ấn tống, làm phước, bố thí, cứu người, xây chùa, đúc tượng .v.v… Dù sai khác như vậy xong tất cả đều là Phật dạy, đều tạo ra những công đức, đều có thể làm tiêu trừ nghiệp chướng. Vì rằng hoàn cảnh mỗi người khác nhau, căn cơ khác nhau, sở thích khác nhau, nên chia ra nhiều cách thức khác nhau, để mỗi người tự lựa chọn lấy cách thức phù hợp nhất với em mà áp dụng.

Em xem những việc kể trên, em có thể làm được những việc nào, đều tận lực làm hết, càng nhiều càng tốt. Sau mỗi lần làm được việc nào, em đều hồi hướng như sau :

” Con xin hồi hướng công đức này, cầu cho nghiệp chướng của con cũng như gia đình chồng con được tiêu trừ, sớm sinh được quý tử, có thiện căn sâu dày trong Phật Pháp, lớn lên làm được nhiều lợi ích cho chúng sinh.”

Việc tiếp theo, là mỗi ngày em cần trì THẦN CHÚ ĐẠI BI, ít nhất là 21 biến, nhiều hơn càng tốt.

Trước khi trì chú, em đọc nghi thức Khai kinh kệ đầy đủ. Sau khi đọc xong, cũng hồi hướng như câu đã hướng dẫn ở trên.
Còn lại những lúc rảnh rỗi trong ngày, em không nên bỏ phí, mà thường xuyên niệm “NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT” cầu Ngài ban cho em một đứa con. Xưa đến nay vô số người xin Ngài đã được như ý, sinh con quý tử.

Ngoài ra có thể trì tụng KINH PHỔ MÔN và KINH ĐỊA TẠNG nếu có thể nhé.”
______
Hơn 1 tháng sau, khoảng ngày 16 tháng 4-2019,

Diệu Thảo nhắn cho Quang Tử: “ Anh Quang Tử ơi, em cảm ơn anh nhiều lắm nhé ! Em làm theo lời anh chỉ dạy, giờ em đã có thai rồi. Giờ hàng ngày em nên đọc kinh gì cho bé bình an ? Xin chỉ cho em với “.

Quang Tử trả lời:

– Chúc mừng em ! Cuối cùng điều em mong mỏi 4 năm qua đã thành hiện thực! Em tiếp tục đọc chú Đại Bi & làm các công đức như cũ nhé, chỉ thay đổi câu hồi hướng:

“ Con xin hồi hướng công đức … này, cầu cho thai nhi trong bụng con được tiêu trừ nghiệp chướng, thân tâm an lạc, sức khỏe dồi dào, trí tuệ, đức hạnh cùng Bồ Đề Tâm không ngừng tăng trưởng, mau viên thành Phật Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, quảng độ chúng sinh.”

– Dạ, em tìm hiểu đọc Kinh Địa Tạng cũng tiêu trừ tội cho bé đúng ko ạ?

– Đúng vậy em. Tùy thời, em có thể tụng thêm KINH ĐỊA TẠNG hay những kinh, thần chú khác, mọi loại công đức đều tốt cho bé. Mà em có dùng thêm biện pháp nào của bệnh viện không hay một tháng qua chỉ nhờ tụng kinh, trì chú ?

– Dạ không ạ, vợ chồng em định đi bệnh viện lần nữa, xong chưa kịp đi thì phát hiện đã có thai.Mỗi tối, em đọc chú Đại Bi như anh Quang Tử hướng dẫn. Rồi sáng trên đường chồng chở đi làm, em cũng đọc chú Đại Bi.

Khi rảnh, em đọc thêm phẩm Phổ Môn (KINH PHÁP HOA) và còn đọc thêm KINH ĐỊA TẠNG nữa.

Xin nói thêm là em chỉ ở phòng riêng hai vợ chồng đọc thôi, vì ở chỗ bàn thờ Bồ Tát cha chồng xem tivi suốt, không tụng kinh được.

Khoảng một tháng trước, khi em đọc kinh Địa Tạng xong, em nằm xuống ngủ, miệng vẫn luôn niệm thầm “NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT”.

Em nguyện xin Bồ Tát Địa Tạng cho con gặp Ngài một lần rồi từ tử chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết.

Điều kỳ diệu đã hiện ra, em cảm giác em vẫn nằm căn phòng đó, em thấy Ngài Địa Tạng rất cao lớn, toàn thân ngài phát ra ánh sáng màu vàng kem, em đảnh lễ Ngài rồi hỏi Ngài Địa Tạng sao em không có thai được. Ngài trả lời vì em có tội chướng nên như vậy, giờ muốn có con hàng ngày em phải TRÌ KINH PHẬT.

Ngài nói xong, sau đó em có cảm giác có ai đó ấn vào bụng và ngực em.

Trong lúc thấy Ngài Địa Tạng, em có thấy cả Đức Phật nữa, thân Phật phát ra ánh sáng màu vàng rất đẹp … Đến khi tỉnh dậy em còn nhớ rất rõ.

Sau đó không lâu, em phát hiện có thai, em không bị nghén gì hết, người khỏe lắm ạ.

Chồng em và gia đình chồng ai cũng vui mừng hết.”

Quang Tử trả lời:

– “Chúc mừng em, em có duyên với ĐỊA TẠNG BỒ TÁT, với Phật nên được các Ngài gia hộ mà em có được em bé. Hi vọng qua chuyện này mà cả gia đình em bắt đầu cùng tu tập dần. Cầu cho ánh sáng của chư Phật luôn soi sáng gia đình em !”
LƯỢC GHI LẠI, THEO NGUỒN TỪ website NHANQUA.COM.VN,
TÁC GIẢ : QUANG TỬ


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: SỰ TÍCH ĐỌC KINH PHÁP-HOA ĐƯỢC LINH NGHIỆM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

THẦN CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM PHÁ MA, TRỪ QUỶ



Liều thuốc thử để phân biệt đâu là năng lực thật sự của các nhà ngoại cảm (NNC) đâu là năng lực do thế giới bên ngoài tác động đó chính là Chú Thủ Lăng Nghiêm.

Thực tế có một số Chú khác như: Chú Đại bi, Chú Tiêu tai cát tường, Chú Phật mẫu Chẩn Đề ….cũng có công năng gần giống như vậy, nhưng đối với việc phá ma, trừ quỷ thì Chú Thủ Lăng Nghiêm là hữu dụng nhất.

Khi tôi tôi nói điều đó chắc sẽ có nhiều người ngạc nhiên? Tụng trì Chú Thủ Lăng Nghiêm làm sao có thể là liều thuốc thử cho những khả năng ngoại cảm của con người?

Phân biệt được đâu là năng lực thật sự, năng lực từ bên ngoài đưa vào bằng cách nào? Tác giả nói có vẻ hoang đường quá!
Những điều tôi nói trên đều dựa trên cơ sở Phật giáo và được thực nghiệm từ chính kinh nghiệm bản thân. Nếu các bạn hành trì đúng theo những gì các bậc cao tăng nói các bạn sẽ có linh ứng liền.

Như tôi đã đề cập trong phần đầu tiên của bài viết, Kinh Thủ Lăng Nghiêm là bộ kinh rất chân thật, đã nêu ra được các căn bệnh của thế gian, các loài yêu ma quỷ quái phải hiện rõ nguyên hình.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm chỉ rõ chính đạo, tà đạo, phân biệt Phật, ma do đó nó được ví như “liều thuốc thử, kinh chiếu yêu” cho tất cả các hiện tượng khả năng của con người.
Chú Phật đỉnh Như lai tượng trưng cho trí tuệ Phật diệu dụng vô lượng vô biên.

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đoạn 3 – Khai thị xuất sinh chư Phật, Hàng phục tà ma, Rộng ban ơn cho chúng sinh, Đức Phật nói: “Anan, những câu mầu nhiệm, những kệ bí mật “Tát đát đa bát đát ra “ của hoá thân nơi hào quang đỉnh Phật sinh ra tất cả các chư Phập thập phương.

Thập phương Như lai nhân chú tâm này thành được Vô thượng chính biến tri giác. Thập phương Như lai nắm chú tâm này uốn dẹp các ma, chế phục các ngoại đạo…”

Đoạn 5 – Khai thị sức của thần chú: Nếu sau khi tôi diệt độ rồi, chúng sinh trong đời mạt pháp, có người biết tự mình tụng hoặc dạy người khác tụng chú này, nên biết những chúng sinh trì tụng như vậy….cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ, ma, mị có những chú dữ ấy đều không làm gì được.

Tâm người ấy được chính thụ….Tất cả ác tinh với các quỷ thần, lòng dữ hại người, đối với người ấy cũng không thể khởi ra ác niệm.

Theo HT.Tuyên Hóa, “Mỗi câu trong thần chú Lăng Nghiêm đều có vô lượng ý nghĩa. Mỗi nghĩa đều có vô lượng công năng. Nên biết rằng thần chú Lăng Nghiêm là Linh Văn (ngôn ngữ nhiệm mầu) trong trời đất, là pháp bảo vô thượng, là châu báu cứu mạng tất cả chúng sainh. Là linh văn giữa các linh văn, và bí mật trong các sự bí mật.

Thần chú này bao trùm muôn vật, trên thì đến mười phương chư Phật, dưới thì tới địa ngục A Tỳ; tất cả bốn hàng thánh vị (Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác) và sáu loài phàm phu (trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A Tu La) đều tôn kính thần chú này.

Mọi sự thâm sâu, áo diệu và những sự không thể nghĩ bàn trong trời đất, tất cả đều nằm trong thần chú này… Đây là pháp tam muội căn bản và bí mật rốt ráo nhất mà không ai cũng có thể hiểu rõ và nhận ra pháp bí mật này….

Chú Lăng Nghiêm toàn là những câu thần chú dùng để hàng phục thiên ma, chế ngự ngoại đạo. Từ câu chú đầu tiên đến câu chú cuối cùng, mỗi câu đều có một sự diệu dụng và uy lực bất khả tư nghì của nó. Cho nên, Phật vì Chú Lăng Nghiêm mà thuyết Kinh Lăng Nghiêm…

Ma vương, yêu quái, lỵ mị sợ nhất là Chú Thủ Lăng nghiêm”.

Sự diệu dụng của Chú Thủ Lăng nghiêm (vua của các loại chú) là không thể nghĩ bàn. Kinh Lăng Nghiêm thuyết: Nếu thường tụng trì thần chú Lăng Nghiêm cho đến khi có công phu và đạt diệu dụng, thì 84.000 Bồ Tát Kim Cang Tạng và quyến thuộc của các ngài sẽ thường đi theo và bảo hộ quý vị, khiến tất cả sở cầu đều được như ý nguyện. Nếu chúng ta coi kinh Phật là những bài thuốc chữa bệnh thì các Chú được cho là những viên thuốc vi diệu, bất khả tư nghì.

Đối với người hành thiền đi vào cửa Không thì Chú Thủ Lăng Nghiêm là phương thuốc hiệu nghiệm để tránh các ma chướng. Trong thời mạt pháp, thiên ma, ngoại đạo, lị mỵ vọng lượng sơn yêu thuỷ quái sợ nhất là chú Thủ Lăng Nghiêm vì chú Lăng nghiêm có công năng phá tà, hiển chính.
Vì vậy mà người bình thường cũng có thể dùng Chú Lăng Nghiêm để tiêu trừ nghiệp chướng, làm trong sạch thân tâm, giảm bớt tham sân si và đuổi yêu trừ tà.

Theo HT. Tuyên Hoá thì khi tụng Chú Lăng Nghiêm thấy trong người nóng bức, rung lắc mạnh, người bứt dứt khó chịu, thân nghiêng ngả, người mệt mỏi là trong bạn có hiện tượng ma quỷ nhập. Nhiều thì quỷ thần, ít thì loại ma tham sân si của các loại ngạ quỷ nghèo đói.

Đối với những người đang có khả năng ngoại cảm, nhất là những người tự nhiên có được. Hoặc lúc được, lúc mất thì càng phải nên tụng trì Chú. Khi tụng phải thành khẩn, liên tục cho đến khi nào trong người thấy thanh nhẹ, tâm an ổn hướng thiện.

Thần chú là những lời mầu nhiệm chứa đựng năng lực đặc biệt đưa đến kết quả siêu việt, áo nghĩa trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức cho thân, khẩu, ý. Nếu chưa biết tụng thì có thể vào chùa nhờ các thấy có kinh nghiệm hướng dẫn.
Nếu trì tụng một cách thành khẩn, nghiêm túc, sau 6 tháng khả năng ngoại cảm vẫn còn, tâm trong sáng, càng hướng tới điều thiện thì đó là khả năng tự thân. Còn nếu khả năng này mất hẳn sau một thời kỳ rung lắc, có nghĩa là bạn đã bị quỷ thần nhập.

Khi bị quỷ thần nhập cũng như quỷ thần xuất ra khỏi người, cơ thể bạn sẽ bị chấn động về mặt tinh thần lẫn thể xác. Có nhiều hiện tượng đến cả các bậc cao tăng cũng không làm thoát được khi ma quỷ nhập vào người.

Đối với những hành giả đang tu thiền, nếu tụng trì Chú Lăng Nghiêm trong vòng khoảng 6 tháng với vọng niệm dứt bặt, lòng tin tuyệt đối thì sẽ có linh ứng. Tôi nói điều này không phải chỉ là nhắc lại lời các bậc đại sư nói mà bằng chính sự thực hành của mình. Nếu các bạn thấy khó tin thì thử đi nhé.

Nếu các nhà ngoại cảm có được khả năng thần thông do thế giới khác thâm nhập vào thì phải lập tức thoát ra ngay. Vì ma quỷ ở lâu trong thân xác người sẽ dẫn đến nhiều tình trạng vô cùng tai hại.

– Thứ nhất, làm sai lệch quy luật nhân quả của con người, dẫn đến việc nghiêng lệch về nghiệp quả của chúng sinh nhập.
Người bị nhập do tự nhiên có được khả năng thần thông (khác người) nên thường được mọi người trọng vọng. Từ đó nẩy sinh tính ngã mạn, đây cũng là sự khác biệt giữa Phật với ma.

Người tu hành hướng về cửa Phật, khi đạt tới mức chứng có được thần thông thì càng từ bi, nhân ái, hỷ xả … Người không do nhân tu hành mà đạt được thì cổng cao, ngã mạn, thị phi…
– Thứ hai, nếu sức thần thông càng lớn có thể tạo ra uy lực khiến người khác phải kính nể, dẫn đến sự lôi kéo nhiều người đi theo mình. Thần thông do quỷ thần nhập thường đi vào tà đạo.

Một người theo con đường tà đạo thì tội một. Nếu kéo nhiều người vào con đường tà đạo thì tội mười. Địa ngục vô gián là cửa mở cho cả thầy lẫn trò trong kiếp tái sinh sắp tới.
– Thứ ba, khi ma quỷ đã nhập tức là huyệt đạo bị mở, mở ra mở vào nhiều lần rất dễ tạo điều kiện cho các cõi giới vô hình khác nhập vào. Con người sống ở thế giới nào đều do nghiệp báo dẫn dắt.

Nếu không vì một lý do nhân đạo như đưa các hài cố của những người đã chiến đấu vì tổ quốc về quê hương, điều tra hình sự kẻ giết người…thì chúng ta cũng không nên khuấy động cõi giới khác để tạo ra những xáo trộc trong cuộc sống cõi người.

Qua đây ta cũng thấy việc áp vong, gọi hồn hay lên đồng đều không có lợi cho người sống và cả người chết. Chỉ gây sự luyến ái, bám chấp cao làm cho cho người ra đi không siêu thoát được.
Kết luận
Mỗi một con người có một nghiệp riêng. Mỗi một cõi giới cũng có nghiệp báo riêng. Một khi đã chuyển sang cõi giới khác thì nên để cho chúng sinh sống ở thế giới nào nằm yên ở thế giới đó. Trừ những trường hợp cần thiết còn chúng ta không nên khuấy động làm thay đổi quy luật nhân quả.

Cũng giống như người sống, nều có cầu thì có sự đáp ứng. Nếu chúng sinh cõi người không mong cầu thì làm sao quỷ, thần, linh đến. Vì 90% con người lên chùa chỉ là để cầu nguyện.

Lên đồng hay hầu đồng cũng là mời thần thánh về phù hộ. Sự cầu cúng quá mức đã dẫn đến tình trạng các cõi giới khác tác động đến cõi giới con người ngày càng nhiều. Không phải ngẫu nhiên mà số lượng các nhà ngoại cảm tăng nhanh ở Việt Nam.
Có thể chính sự khát khao của những người chết xa quê hương trong chiến tranh là cái nhân để tạo quả cho sự ra đời của các NNC – Những người nhìn được, giao tiếp được với thế giới thân trung ấm.

Chúng ta hãy coi những NNC có năng lực thực sự như là một nghiệp báo tốt cho cuộc chiến tranh kéo dài quá lâu trong lịch sử dân tộc Việt Nam hơn là tự cho mình là nước có trình độ tâm linh bậc nhất.

Việt Nam với diện tích 320.000 km2 có trên 3 triệu người chết trong chiến tranh. Như vậy, riêng thế giới thân trung ấm cũng đã là một sự chi phối quá lớn chưa kể đến các cõi giới khác. Sự cầu cúng quá mức sẽ không giúp được người âm bao nhiêu mà lại khơi dậy sự tham lam, sân hận trong thế giới quỷ thần, làm cho thế giới này tác động mạnh hơn vào cõi giới con người.

Qua loạt bài phân tích trên ta thấy, thế giới mà ta sống đang chịu ảnh hưởng rất nhiều sự tác động của các cõi giới vô hình khác khác.
Vì con người nằm trong thân ngũ uẩn nên luôn thiên về chiều hướng vui chơi hưởng thụ thoả mãn những nhu cầu của thân xác. Khuynh hướng đó rất gần gũi với cuộc sống của cõi giới ngạ quỷ.

Nếu chúng ta không tự làm trong sạch con người mình, suy nghĩa mình chúng ta sẽ bị tác động của thế giới này mà không hề hay biết.

Để tránh được điều đó, Đức Phật đã dậy: Làm việc thiện – Không làm việc ác – Làm trong sạch ý nghĩ của mình.

Câu nói tuy rất đơn giản, nhưng hàm ý lại rất sâu sa không dễ ai có thể thực hiện được. Nhưng đây chính là một bảo bối để chúng ta có thể làm kim chỉ nam cho cuộc sống hiện nay.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật ! Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm !

Hồng Vân
Nguồn :phattuvietnam.net


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.29 khách