LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Kính mời các bạn tham gia ghi lại kinh nghiệm tu tập và những gì mắt thấy tai nghe về sự cảm ứng nhờ hành trì giáo lý Phật.
dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY, HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Phần hỏi-đáp với hòa thượng Tuyên Hóa



Hỏi: Có một vị pháp sư nói với đồ chúng của ông ấy rằng, không được trì Chú Lăng Nghiêm, Chú Đại Bi, bởi vì trì chú có thể khiến cho thiên ma ngoại đạo sanh tâm sợ hãi, đây là việc trái với tâm từ bi, cho nên vị pháp sư này dạy tín đồ của ông ta là bất kỳ kinh điển nào cũng không được dùng, cũng không được xem, không cần xem, chỉ cần nhất tâm niệm “A Di Đà Phật” là được rồi?

Hòa Thượng Tuyên Hóa: Nếu nói người niệm chú là không có tâm từ bi, thế thì Phật đã không nói Chú Lăng Nghiêm, Chú Đại Bi, để khiến cho các đệ tử giảm thiểu tâm từ bi!

Hỏi: Có vị pháp sư nói, phụ nữ đang mang thai mà tụng Chú Lăng Nghiêm thì có thể bị sẩy thai, có đáng tin hay không?

Hòa Thượng Tuyên Hóa: Chỉ toàn là nhảm nhí, nói năng xằng bậy!

Hỏi: Có người nói, trì tụng Chú Lăng Nghiêm nhất định phải trước năm giờ sáng là tốt nhất, có phải như vậy không?
Hòa Thượng: Bất kỳ thời điểm nào quý vị có thể trì tụng thì lúc đó luôn là năm giờ sáng.

Hỏi: Vì sao lúc trì Chú Đại Bi hoặc Chú Lăng Nghiêm, con thường cảm thấy bị nhức đầu, chóng mặt, hoặc cảm thấy thân thể bị lay động, phát lạnh run?

Hòa Thượng: Trong tâm quý vị có tà ma, cho nên trì Chú Đại Bi không còn linh nữa.

Hỏi: Có người nói, tụng Chú Lăng Nghiêm thì phải tụng trước bảy giờ sáng, xin hỏi sau bảy giờ sáng có thể tụng hay không?
Hòa Thượng: Ở đây bảy giờ là mấy giờ ở Mỹ thì tôi không biết; mà bảy giờ ở Mỹ và bảy giờ ở Đài Loan lại không giống nhau, làm sao bây giờ?

Hỏi: Vì sao một số những học giả học Phật lại nói Kinh Lăng Nghiêm là giả?

Hòa Thượng: Bởi vì trong kinh nói thật quá, nói triệt để về lỗi của người ta quá, khiến cho yêu ma quỷ quái không thể che giấu thân phận, phải lộ nguyên hình, nên họ không thể không nói Kinh Lăng Nghiêm là giả! Nếu nói kinh Lăng Nghiêm là thật, thứ nhất là họ làm không được, họ không thể tuân giữ Bốn Loại Thanh Tịnh Minh Hối, cũng không thể tu 25 viên thông!

Hỏi: Ủng hộ Kinh Lăng Nghiêm, trì Chú Lăng Nghiêm tức là chánh pháp, thế thì mỗi ngày nên trì bao nhiêu biến Chú Lăng Nghiêm là được?

Hòa Thượng: Quý vị muốn trì bao nhiêu biến thì trì bấy nhiêu biến!

Hỏi: Hiệu dụng của Chú Lăng Nghiêm là như thế nào?
Hòa Thượng: Khai mở trí tuệ. Có câu:
“Yếu tưởng Phật Pháp hưng, tiên học Lăng Nghiêm Kinh;
Yếu căn Diêm Vương đấu, tiên trì Lăng Nghiêm Chú.”
Muốn Phật Pháp được hưng thạnh, trường tồn, thì trước hết là phải học Kinh Lăng Nghiêm; còn muốn đấu với Diêm Vương thì phải trì Chú Lăng Nghiêm trước nhất!

Hỏi: Tu như thế nào để được vô lậu?

Hòa Thượng: Hãy trở về đọc Kinh Lăng Nghiêm nhiều hơn!

Hỏi: Nhiều người nói rằng Chú Lăng Nghiêm có lực sát thương rất mạnh, như thế nếu trì Chú Lăng Nghiêm để trị bệnh, chẳng phải là không được từ bi sao?
Hòa Thượng: Chú là dùng để điều giải, không phải để sát sanh. Không có tâm từ bi thì làm sao có thể trì chú được?

Hỏi: Có thể dùng bất kỳ một câu nào đó trong Chú Lăng Nghiêm để trị bệnh không?
Hòa Thượng: Đối với một số người nào đó thì không thể được, trái lại còn rước thêm phiền phức.

Hỏi: Chúng ta có phương pháp gì có thể chuyên tâm trì tụng vỏn vẹn một câu chú mà thôi? Câu chú này phải tụng trì bao nhiêu lần?
Hòa Thượng hỏi lại: Tại sao lại chỉ tụng trì một câu mà thôi?
Đáp: Như là niệm “Đột Tất Phạt…” chẳng hạn; hoặc là ...

Hòa thượng: Đây không chỉ là niệm một câu, mà đây chính là từng đoạn từng đoạn; quý vị chỉ niệm một câu thì không thể được. Mỗi một câu có ý nghĩa của mỗi một câu, nhưng cũng nhất quán với câu trước câu sau, từng đoạn nhỏ từng đoạn nhỏ vậy. Nếu quý vị muốn nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, thì phải hiểu được tầng thứ, từ câu nào đến câu nào là một đoạn, mới thực sự được coi như là đã hiểu rõ vậy.

Hỏi: Sư phụ nói câu “Tát Đát Đa Bát Đát La” này có thể minh tâm kiến tánh, có thể hàng phục thiên ma ngoại đạo, nhưng cần phải hiểu, rốt cuộc thì phải dùng như thế nào?

Hòa Thượng: Ví dụ quý vị học võ thuật, thì trước tiên là phải học công phu cho tốt, mới có thể dùng đao, dùng thương, đối địch với người khác; chứ không thể chỉ xem người ta tập mấy chiêu quyền cước Thiếu Lâm, cho rằng rất hay, tưởng mình là “thiên hạ vô địch,” có thể đánh khắp thiên hạ, không có đối thủ nào địch nổi! Bản thân mình một ngày cũng chưa học qua, quý vị xem mấy chiêu thì đã vội nói rằng tôi biết rồi! Quý vị vốn không có căn bản kìa! Chú Lăng Nghiêm cũng như vậy, quý vị còn chưa niệm mà đã muốn vận dụng, làm sao mà vận dụng cho được?

Hỏi: Làm thế nào để phân biệt tà chánh của đạo lộ, bàng môn tả đạo và yêu ma quỷ quái?

Hòa Thượng: Chúng ta nên học Kinh Lăng Nghiêm, niệm Chú Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm chính là tấm “kính chiếu yêu,” làm cho bàng môn tả đạo, yêu ma quỷ quái soi tới thì không thể che giấu hình dạng. Có thể trì Chú Lăng Nghiêm, thì có thể hàng phục thiên ma ngoại đạo, cho nên có thể gặp được Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm là một việc rất may mắn.

Hỏi: Người bị ma nhập, nếu có thể niệm Chú Lăng Nghiêm, thì ma có chịu bỏ đi hay không?
Hòa Thượng: Nếu quý vị có thể niệm Chú Lăng Nghiêm, thì ma gì cũng phải bỏ đi cả; nhưng quý vị cần phải giữ tâm cho chuyên nhất mà niệm. Nếu quý vị có thể chuyên nhất tâm để niệm, không khởi vọng tưởng, không có tâm tham, thì ma gì cũng sẽ tránh xa quý vị.

Hỏi: Dùng chú như thế nào để đối phó với si mị võng lượng?

Hòa Thượng: Phép thuật của ngoại đạo, yêu ma quỷ quái, có lúc làm cho quý vị bị nhức đầu, đau răng, đau mắt, hoặc có thể khiến cho quý vị không thể cất bước được, bị chóng mặt, phát cuồng, nói năng xằng bậy. Lúc bấy giờ, quý vị tụng chú này thì có thể phá được phép thuật của họ, khiến phép thuật của họ không còn linh nghiệm nữa. Tôi hoàn toàn không phải bảo quý vị vô cớ đi đối phó với si mị võng lượng. Nếu ngày ngày trong tâm quý vị có si mị võng lượng, thì cho dù không có si mị võng lượng đi nữa, thì quý vị cũng sẽ chiêu cảm, vời họ đến. Trong tâm quý vị đã đưa thiệp mời cho họ rồi, nói: “Ồ! Si mị võng lượng, mời quý vị hãy mau đến đây, tôi có chú thuật có thể đối phó với quý vị đây!” Đó là làm việc vô ích!

Hiểu được Chú Lăng Nghiêm, là nói rằng một khi có người gặp phải vấn đề khó khăn gì, thì quý vị có thể dùng chú này để phá phép thuật gây ra vấn đề đó, chứ không phải bảo quý vị ngày ngày đi phá. Làm gì có nhiều si mị võng lượng để cho quý vị ngày ngày đi phá như vậy chứ!? Bất luận là thứ si mị võng lượng gì, phép thuật gì, hễ gặp phải chú này, thì khí của họ đều bị phân tán hết, họ phải bỏ chạy hết, không còn tác dụng nữa. Một khi trong tâm quý vị đã muốn mời si mị võng lượng vào nhà mình trước rồi, thì đương nhiên là thứ gì họ cũng có.

Tâm chú tâm chú, chính là trong tâm quý vị phải có chú, phải sạch sẽ, thanh tịnh, cái gì cũng không có cả, thì đến lúc cần dùng tự nhiên sẽ có linh nghiệm. Thọ trì chú không phải là để hàng phục yêu ma quỷ quái. Điều này giống như trì tụng Chú Đại Bi, chính là niệm, lâu dần như vậy, không niệm mà lại tự niệm, tự nhiên có một năng lực của chú đến hộ trì quý vị. Thậm chí đến lúc, quý vị tụng chú hay không tụng chú thì cũng đều có cảm ứng, bởi vì lúc bình thường quý vị đã tu trì rất tốt, cho nên lúc cảnh giới đến, tự nhiên được giải quyết dễ dàng, mau chóng, vấn đề gì cũng không còn nữa!
Sửa lần cuối bởi dammaythongdong vào ngày 07/07/20 00:02 với 1 lần sửa.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

CHÚ LĂNG NGHIÊM- Liều thuốc thử cho các nhà ngoại cảm


Liều thuốc thử để phân biệt đâu là năng lực thật sự của các nhà ngoại cảm (NNC) đâu là năng lực do thế giới bên ngoài tác động đó chính là Chú Thủ Lăng Nghiêm. Thực tế có một số Chú khác như: Chú Đại bi, Chú Tiêu tai cát tường, Chú Phật mẫu Chẩn Đề ….cũng có công năng gần giống như vậy, nhưng đối với việc phá ma, trừ quỷ thì Chú Thủ Lăng Nghiêm là hữu dụng nhất.

Khi tôi tôi nói điều đó chắc sẽ có nhiều người ngạc nhiên? Tụng trì Chú Thủ Lăng Nghiêm làm sao có thể là liều thuốc thử cho những khả năng ngoại cảm của con người?

Phân biệt được đâu là năng lực thật sự, năng lực từ bên ngoài đưa vào bằng cách nào? Tác giả nói có vẻ hoang đường quá!

Những điều tôi nói trên đều dựa trên cơ sở Phật giáo và được thực nghiệm từ chính kinh nghiệm bản thân. Nếu các bạn hành trì đúng theo những gì các bậc cao tăng nói các bạn sẽ có linh ứng liền.

Như tôi đã đề cập trong phần đầu tiên của bài viết, Kinh Thủ Lăng Nghiêm là bộ kinh rất chân thật, đã nêu ra được các căn bệnh của thế gian, các loài yêu ma quỷ quái phải hiện rõ nguyên hình.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm chỉ rõ chính đạo, tà đạo, phân biệt Phật, ma do đó nó được ví như “liều thuốc thử, kinh chiếu yêu” cho tất cả các hiện tượng khả năng của con người.

Chú Phật đỉnh Như lai tượng trưng cho trí tuệ Phật diệu dụng vô lượng vô biên.

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đoạn 3 – Khai thị xuất sinh chư Phật, Hàng phục tà ma, Rộng ban ơn cho chúng sinh, Đức Phật nói: “Anan, những câu mầu nhiệm, những kệ bí mật “Tát đát đa bát đát ra “ của hoá thân nơi hào quang đỉnh Phật sinh ra tất cả các chư Phập thập phương. Thập phương Như lai nhân chú tâm này thành được Vô thượng chính biến tri giác. Thập phương Như lai nắm chú tâm này uốn dẹp các ma, chế phục các ngoại đạo…”

Đoạn 5 – Khai thị sức của thần chú: Nếu sau khi tôi diệt độ rồi, chúng sinh trong đời mạt pháp, có người biết tự mình tụng hoặc dạy người khác tụng chú này, nên biết những chúng sinh trì tụng như vậy….cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ, ma, mị có những chú dữ ấy đều không làm gì được. Tâm người ấy được chính thụ….Tất cả ác tinh với các quỷ thần, lòng dữ hại người, đối với người ấy cũng không thể khởi ra ác niệm.

Theo HT.Tuyên Hóa, “Mỗi câu trong thần chú Lăng Nghiêm đều có vô lượng ý nghĩa. Mỗi nghĩa đều có vô lượng công năng. Nên biết rằng thần chú Lăng Nghiêm là Linh Văn (ngôn ngữ nhiệm mầu) trong trời đất, là pháp bảo vô thượng, là châu báu cứu mạng tất cả chúng sainh. Là linh văn giữa các linh văn, và bí mật trong các sự bí mật. Thần chú này bao trùm muôn vật, trên thì đến mười phương chư Phật, dưới thì tới địa ngục A Tỳ; tất cả bốn hàng thánh vị (Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác) và sáu loài phàm phu (trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A Tu La) đều tôn kính thần chú này.

Mọi sự thâm sâu, áo diệu và những sự không thể nghĩ bàn trong trời đất, tất cả đều nằm trong thần chú này… Đây là pháp tam muội căn bản và bí mật rốt ráo nhất mà không ai cũng có thể hiểu rõ và nhận ra pháp bí mật này….

Chú Lăng Nghiêm toàn là những câu thần chú dùng để hàng phục thiên ma, chế ngự ngoại đạo. Từ câu chú đầu tiên đến câu chú cuối cùng, mỗi câu đều có một sự diệu dụng và uy lực bất khả tư nghì của nó. Cho nên, Phật vì Chú Lăng Nghiêm mà thuyết Kinh Lăng Nghiêm…

Ma vương, yêu quái, lỵ mị sợ nhất là Chú Thủ Lăng nghiêm”.

Sự diệu dụng của Chú Thủ Lăng nghiêm (vua của các loại chú) là không thể nghĩ bàn. Kinh Lăng Nghiêm thuyết: Nếu thường tụng trì thần chú Lăng Nghiêm cho đến khi có công phu và đạt diệu dụng, thì 84.000 Bồ Tát Kim Cang Tạng và quyến thuộc của các ngài sẽ thường đi theo và bảo hộ quý vị, khiến tất cả sở cầu đều được như ý nguyện. Nếu chúng ta coi kinh Phật là những bài thuốc chữa bệnh thì các Chú được cho là những viên thuốc vi diệu, bất khả tư nghì.

Đối với người hành thiền đi vào cửa Không thì Chú Thủ Lăng Nghiêm là phương thuốc hiệu nghiệm để tránh các ma chướng. Trong thời mạt pháp, thiên ma, ngoại đạo, lị mỵ vọng lượng sơn yêu thuỷ quái sợ nhất là chú Thủ Lăng Nghiêm vì chú Lăng nghiêm có công năng phá tà, hiển chính.

Vì vậy mà người bình thường cũng có thể dùng Chú Lăng Nghiêm để tiêu trừ nghiệp chướng, làm trong sạch thân tâm, giảm bớt tham sân si và đuổi yêu trừ tà.

Theo HT. Tuyên Hoá thì khi tụng Chú Lăng Nghiêm thấy trong người nóng bức, rung lắc mạnh, người bứt dứt khó chịu, thân nghiêng ngả, người mệt mỏi là trong bạn có hiện tượng ma quỷ nhập. Nhiều thì quỷ thần, ít thì loại ma tham sân si của các loại ngạ quỷ nghèo đói.

Đối với những người đang có khả năng ngoại cảm, nhất là những người tự nhiên có được. Hoặc lúc được, lúc mất thì càng phải nên tụng trì Chú. Khi tụng phải thành khẩn, liên tục cho đến khi nào trong người thấy thanh nhẹ, tâm an ổn hướng thiện.

Thần chú là những lời mầu nhiệm chứa đựng năng lực đặc biệt đưa đến kết quả siêu việt, áo nghĩa trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức cho thân, khẩu, ý. Nếu chưa biết tụng thì có thể vào chùa nhờ các thấy có kinh nghiệm hướng dẫn.

Nếu trì tụng một cách thành khẩn, nghiêm túc, sau 6 tháng khả năng ngoại cảm vẫn còn, tâm trong sáng, càng hướng tới điều thiện thì đó là khả năng tự thân. Còn nếu khả năng này mất hẳn sau một thời kỳ rung lắc, có nghĩa là bạn đã bị quỷ thần nhập.

Khi bị quỷ thần nhập cũng như quỷ thần xuất ra khỏi người, cơ thể bạn sẽ bị chấn động về mặt tinh thần lẫn thể xác. Có nhiều hiện tượng đến cả các bậc cao tăng cũng không làm thoát được khi ma quỷ nhập vào người.

Đối với những hành giả đang tu thiền, nếu tụng trì Chú Lăng Nghiêm trong vòng khoảng 6 tháng với vọng niệm dứt bặt, lòng tin tuyệt đối thì sẽ có linh ứng. Tôi nói điều này không phải chỉ là nhắc lại lời các bậc đại sư nói mà bằng chính sự thực hành của mình. Nếu các bạn thấy khó tin thì thử đi nhé.

Nếu các nhà ngoại cảm có được khả năng thần thông do thế giới khác thâm nhập vào thì phải lập tức thoát ra ngay. Vì ma quỷ ở lâu trong thân xác người sẽ dẫn đến nhiều tình trạng vô cùng tai hại.

– Thứ nhất, làm sai lệch quy luật nhân quả của con người, dẫn đến việc nghiêng lệch về nghiệp quả của chúng sinh nhập.

Người bị nhập do tự nhiên có được khả năng thần thông (khác người) nên thường được mọi người trọng vọng. Từ đó nẩy sinh tính ngã mạn, đây cũng là sự khác biệt giữa Phật với ma.

Người tu hành hướng về cửa Phật, khi đạt tới mức chứng có được thần thông thì càng từ bi, nhân ái, hỷ xả … Người không do nhân tu hành mà đạt được thì cổng cao, ngã mạn, thị phi…

– Thứ hai, nếu sức thần thông càng lớn có thể tạo ra uy lực khiến người khác phải kính nể, dẫn đến sự lôi kéo nhiều người đi theo mình. Thần thông do quỷ thần nhập thường đi vào tà đạo.

Một người theo con đường tà đạo thì tội một. Nếu kéo nhiều người vào con đường tà đạo thì tội mười. Địa ngục vô gián là cửa mở cho cả thầy lẫn trò trong kiếp tái sinh sắp tới.

– Thứ ba, khi ma quỷ đã nhập tức là huyệt đạo bị mở, mở ra mở vào nhiều lần rất dễ tạo điều kiện cho các cõi giới vô hình khác nhập vào. Con người sống ở thế giới nào đều do nghiệp báo dẫn dắt.

Nếu không vì một lý do nhân đạo như đưa các hài cố của những người đã chiến đấu vì tổ quốc về quê hương, điều tra hình sự kẻ giết người…thì chúng ta cũng không nên khuấy động cõi giới khác để tạo ra những xáo trộc trong cuộc sống cõi người.

Qua đây ta cũng thấy việc áp vong, gọi hồn hay lên đồng đều không có lợi cho người sống và cả người chết. Chỉ gây sự luyến ái, bám chấp cao làm cho cho người ra đi không siêu thoát được.

Kết luận

Mỗi một con người có một nghiệp riêng. Mỗi một cõi giới cũng có nghiệp báo riêng. Một khi đã chuyển sang cõi giới khác thì nên để cho chúng sinh sống ở thế giới nào nằm yên ở thế giới đó. Trừ những trường hợp cần thiết còn chúng ta không nên khuấy động làm thay đổi quy luật nhân quả.

Cũng giống như người sống, nều có cầu thì có sự đáp ứng. Nếu chúng sinh cõi người không mong cầu thì làm sao quỷ, thần, linh đến. Vì 90% con người lên chùa chỉ là để cầu nguyện.

Lên đồng hay hầu đồng cũng là mời thần thánh về phù hộ. Sự cầu cúng quá mức đã dẫn đến tình trạng các cõi giới khác tác động đến cõi giới con người ngày càng nhiều. Không phải ngẫu nhiên mà số lượng các nhà ngoại cảm tăng nhanh ở Việt Nam.

Có thể chính sự khát khao của những người chết xa quê hương trong chiến tranh là cái nhân để tạo quả cho sự ra đời của các NNC – Những người nhìn được, giao tiếp được với thế giới thân trung ấm.

Chúng ta hãy coi những NNC có năng lực thực sự như là một nghiệp báo tốt cho cuộc chiến tranh kéo dài quá lâu trong lịch sử dân tộc Việt Nam hơn là tự cho mình là nước có trình độ tâm linh bậc nhất.

Việt Nam với diện tích 320.000 km2 có trên 3 triệu người chết trong chiến tranh. Như vậy, riêng thế giới thân trung ấm cũng đã là một sự chi phối quá lớn chưa kể đến các cõi giới khác. Sự cầu cúng quá mức sẽ không giúp được người âm bao nhiêu mà lại khơi dậy sự tham lam, sân hận trong thế giới quỷ thần, làm cho thế giới này tác động mạnh hơn vào cõi giới con người.

Qua loạt bài phân tích trên ta thấy, thế giới mà ta sống đang chịu ảnh hưởng rất nhiều sự tác động của các cõi giới vô hình khác khác.

Vì con người nằm trong thân ngũ uẩn nên luôn thiên về chiều hướng vui chơi hưởng thụ thoả mãn những nhu cầu của thân xác. Khuynh hướng đó rất gần gũi với cuộc sống của cõi giới ngạ quỷ.

Nếu chúng ta không tự làm trong sạch con người mình, suy nghĩa mình chúng ta sẽ bị tác động của thế giới này mà không hề hay biết.

Để tránh được điều đó, Đức Phật đã dậy: Làm việc thiện – Không làm việc ác – Làm trong sạch ý nghĩ của mình

Câu nói tuy rất đơn giản, nhưng hàm ý lại rất sâu sa không dễ ai có thể thực hiện được. Nhưng đây chính là một bảo bối để chúng ta có thể làm kim chỉ nam cho cuộc sống hiện nay.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật ! Nam mô Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm !
nguồn: Hồng Vân – phattuvietnam.net


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

THÀNH TÂM CHÉP THẦN CHÚ PHẬT ĐỈNH THỦ LĂNG NGHIÊM, LINH ỨNG DIỆU DỤNG LIỀN HIỆN TIỀN.

Thời mạt pháp này, người tu chắc chắn sẽ gặp ma sự. Mà ma sự này rất khó đỡ nổi. Tôi đã từng thất bại với nhiều ma sự rồi.

Rồi nhớ tới Chú Lăng Nghiêm và bài pháp của Ấn Quang Đại Sư (Cung kính sẽ linh)

Tôi viết Tâm Chú Lăng Nghiêm ra giấy (2 tâm chú , một tâm chú dài một tâm chú ngắn)
Tất nhiên mọi người chép chú dài sẽ tốt hơn. Thực tế là bài chú lăng nghiêm- surangama mantra- đầy đủ bao gồm 5 đệ, tức năm phần, khá dài, nhưng đọc thì rồi cũng xong.

-Câu tâm chú lăng nghiêm – dài:

"OM ANALE VISADE VIRA VAJRA-DHARE BANDHA BANDHANI VAJRA-PANI PHAT HUM BHRUM PHAT SVAHA."
- Câu tâm chú lăng nghiêm – ngắn gọn:
"OM MAHA SITATA PATRA SVAHA"

Tôi chép ra và quả là thấy linh nghiệm đúng như lời phật nói.

Chướng duyên nhẹ hơn, sau khi đi ra ngoài gặp chuyện lạ là trời rất trong sáng, đẹp nhưng lại có một cơn mưa rất nhẹ rãi xuống.

Tu phật là phải có chướng duyên, mới thành tựu trên đạo bồ đề được.

Người chép chú này mang theo chú bên mình, nếu gặp chướng duyên, nên cảm ân các vị bồ tát vì đã thử thách mình.

Mà thật, từ khi tui chép chú này tui thấy chướng duyên từ từ và bình thường chứ không ồ ạt và mạnh mẽ làm tui đỡ không nổi như trước lúc chép.

Sau khi chép chú này, tôi còn thấy cuộc đời hạnh phúc hơn, dường như không còn tịnh trạng bị sầu bi khổ não vô cớ.
Chắc là do nghiệp chướng tiêu, nên mọi người đột nhiên chuyển ghét thành thương.

Công việc thuận lợi hơn.

Mong mọi người chép chú này để đề phòng ma sự và tiêu nghiệp chướng.

CÔNG CỤ, CÁCH CHÉP:

Tôi lấy một cặp giấy, do tôi ko có điều kiện nên dùng cặp giấy tập, mọi người nên chọn giấy nào tốt nhất ấy!

Mở cặp giấy ra, dùng bút chép chú ở giữa trang giấy (chép từ từ, cho đẹp từng câu, từng chữ) ,
Khi chép nín thở, nếu có thở thì quay qua bên không có bài chú mà hít vào thở ra.

Rồi tiếp tục nín thở khi đang chép chú (vì sợ hơi từ lỗ mũi bay sang bài chú), bởi vậy khi mọi người chép chớ làm dơ bài chú, chớ nói chuyện, chớ đánh rắm :D.

Khi chép gò chữ như vậy: Không được để vọng tưởng xen vào, phải thành tâm ,chân thật, chuyên nhất, không có vọng niệm mà chép từng chữ một. (tôi khi chép từng chữ một thì cố gắng giữ cho tâm không sinh vọng tưởng , chép xong 1 chữ rồi khi quay ra ngoài thở ra thì hình như tôi cũng có vài vọng tưởng lăng xăng thiệt )

Chép xong hai câu chú, lấy phấn thơm (tôi ko có điều kiện cần thiết nên....dùng phấn em bé (johnson's baby), mà thôi kệ miễn là nó thơm và tâm mình thành kính là được.

Nếu chấp Phấn em bé không được xịt vào pháp bảo thì là sinh tâm phân biệt rồi ? miễn là nó thơm , hương thơm cũng trang nghiêm là được.

Mọi người phải nên lấy phấn, nước thêm nào thơm nhất,trang nghiêm nhất và phù hợp nhất mà xịt vào,tránh để ướt giấy.

Sau khi xịt phấn thơm ,tôi nhẹ nhàng hất tờ giấy cho phấn bay ra, chỉ để lại mùi thơm.

Sau đó nhẹ nhàng gấp hai đầu giấy trang giấy lại để cho giấy nó ngắn hơn và dày hơn, nhớ đừng gấp phạm vào phần chú để ở trong trang giấy.

Sau đó lấy giấy mềm, thơm (thật ra là hộp giấy chùi miệng còn mới chưa khui ) gấp tờ giấy vừa viết thần chú lăng nghiêm lại. Gói cho nhiều lớp ấy để bảo đảm.

Thế là xong , phần này tôi chỉ trình bày cách mình chép chú, mọi người phải làm hơn mình .Tức là dùng dụng cụ nào tốt hơn, không nhất thiết phải làm theo cách này.

Phải sáng tạo hơn.

Cơ bản là phải:

+ Cung Kính
+ Chí Thành( không vọng tưởng mà chép.)

Nguồn từ : http://thegioivohinh.com/


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

CÔNG NĂNG CỦA THẦN CHÚ
THỦ LĂNG NGHIÊM
(Trích trong Kinh Lăng Nghiêm, quyển 7)




Như hàng Hữu Học chưa thoát khỏi Luân Hồi, có Tâm chí thành cầu tu chứng quả vị A La Hán. Nếu ở trong Đạo Trường, không trì bài Chú này thì thân tâm của Hành Giả khó có thể tránh thoát khỏi được sự quấy nhiễu của Tà Ma.

Nếu có chúng sinh tùy theo vật dụng có được trong nước mình cư ngụ như: Vỏ cây hoa, lá cây Bối, giấy trắng, nhung trắng… đem viết bài Chú này vào rồi đựng trong một cái túi thơm. Như người ấy ngu muội chẳng thể tụng nhớ được thì ở trên thân mình hoặc để trong nhà thì trọn đời người ấy chẳng bị các thứ độc làm hại.

Bài chú Lăng Nghiêm hay cứu chúng sinh thoát khỏi mọi sự sợ hãi và giúp cho chúng sinh tu thành Trí Tuệ xuất Thế Gian.

Trong thời Mạt Pháp. Nếu có người trì tụng hoặc dạy người khác trì tụng Thần Chú Lăng Nghiêm thì kẻ ấy không bị các nạn: Lửa đốt, nước cuốn trôi, độc hại… cho đến tất cả Chú Ngữ độc ác của các hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Yêu Tinh, Ma, Mỵ… đều chẳng thể hại được. Khi trì tụng bài Chú này mà Tâm được chính định rồi thì hết thảy mọi thứ bùa chú, nọc độc, thuốc độc, các hơi độc ở vàng, bạc, cỏ cây, rắn, rết, sâu bọ và các loài khác… nếu lọt vào trong miệng người ấy cũng đều hóa thành vị Cam Lộ. Tất cả các vị Hung Tinh, Ác Quỷ, Ác Thần dù có Tâm ác hãm hại người cũng không dám khởi Tâm làm hại Người Trì Chú ấy. Các loài Tần Na Dạ Ca và chúa Quỷ ác cùng với quyến thuộc đã thọ ân sâu của Phật Pháp thường đến ủng hộ những người trì tụng Chú ấy.

Bài Chú Lăng Nghiêm thường có tám vạn bốn ngàn vô số Chủng Tộc Bồ Tát Kim Cương Tạng Vương, mỗi mỗi vị đều có quyến thuộc ngày đêm hộ vệ. Nếu có chúng sinh, Tâm còn tán loạn chẳng thể vào Tam Ma Địa được mà kẻ ấy: Tâm trì, miệng tụng bài Chú Lăng Nghiêm thì các vị Kim Cương thường theo ủng hộ kẻ ấy huống chi là người có Tâm quyết định vào Đạo Bồ Đề. Các vị Kim Cương này thường đem sức thần ủng hộ khiến cho người ấy tinh tiến thân tâm, phát khởi Thần Thức, ngay đó nhớ lại những việc từ tám vạn bốn ngàn hằng hà sa số kiếp cho đến nay, mỗi mỗi đều rõ ràng, chẳng có nghi hoặc. Kể từ lúc mới tu học là Kiếp thứ nhất cho đến khi thành Phật là Kiếp cuối cùng, dù phải trải qua bao nhiêu Kiếp nữa thì chẳng khi nào phải sinh làm Quỷ Dạ Xoa, Quỷ La Sát, Quỷ bệnh tật, Quỷ ung thối, Quỷ Yểm Mỵ, Quỷ hút tinh khí, cùng các loài Ngạ Quỷ có hình vô hình, có tưởng vô tưởng và những xứ ác độc.

Bậc Thiện Tri Thức ấy hoặc đọc tụng hoặc đeo giữ và cúng dường Tâm Chú này thì kiếp kiếp chẳng sinh vào những chốn nghèo nàn hèn hạ và những nơi chẳng an lành. Các chúng sinh này dù cho tự thân chẳng làm Phước Nghiệp thì mười phương Như Lai cũng ban công đức cho họ, do đó trong vô số kiếp thường sinh đồng một chỗ với chư Phật, liên kết chặt chẽ vô lượng vô số công đức để cùng tu tập tại một nơi với nhau.

Cho nên Tâm chú này khiến cho người đã Phá Giới lại được Giới Căn trong sạch, người chưa đắc Giới khiến cho đắc Giới, người chưa tinh tiến khiến cho tinh tiến, người không có Trí Tuệ khiến cho được Trí Tuệ, người chẳng thanh tịnh khiến cho mau chóng thanh tịnh, người chưa giữ được Trai Giới khiến cho giữ được Trai Giới.

Kẻ Thiện Nam Tử ấy. Giả sử trước kia có phạm Giới Cấm thì sau khi trì Chú, các tội Phá Giới chẳng kể nặng nhẹ đều được tiêu diệt. Dù cho đã uống rượu, ăn ngũ tân và các thứ Bất Tịnh thì tất cả chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, Thiên Tiên, Quỷ Thần cũng chẳng cho là có lỗi mà bắt tội nữa. Dù cho có mặc quần áo rách rưới bẩn thỉu, khi đi đứng trì niệm Thần Chú cũng vẫn được coi như người thanh tịnh. Dù chẳng lập Đàn, chẳng vào Đạo Trường cũng chẳng hành Đạo mà trì tụng Chú này thì cũng được công đức đầy đủ như là người lập Đạo Trường hành Đạo.

Nếu những kẻ trước kia đã tạo ra năm tội Nghịch và cái tội nặng đáng đọa vào Địa Ngục Vô Gián, hoặc các Tăng Ni đã phạm tội Tứ Khí, Bát Khí, tuy trong các đời trước chưa kịp sám hối. Nay biết đọc tụng, biên chép bài Chú này, đeo giữ trên mình hoặc để ở nơi cư ngụ thì những Nghiệp tích chứa từ trước đều tiêu tan hết, chẳng bao lâu sẽ được Vô Sinh Nhẫn.

Như người phụ nữ chưa có con. Nếu muốn cầu con mà hay chí Tâm tưởng niệm hoặc đeo Chú này thì sẽ sinh được những đứa con trai, con gái có phước đức Trí Tuệ. Kẻ nào cầu sống lâu được sống lâu, cầu Phước Báo được Phước Báo, cho đến cầu thân thể xinh đẹp khỏe mạnh sẽ đều được như thế. Sau khi chết, tùy Nguyện vãng sinh trong mười phương Quốc Độ, chắc chắn chẳng sinh vào nơi biên địa, giòng tộc hạ tiện và không phải mang những thân hình uế tạp.

Nếu có các Quốc Độ, châu huyện, làng xóm bị nạn đói kém, ôn dịch hoặc những nơi bị binh loạn, giặc cướp đánh nhau và tất cả những nơi có tai nạn khác… thì cứ viết bài Chú này dán ở bốn cửa thành, các Tháp Miếu hoặc viết lên ngọn cờ, cây phướng và khiến chúng sinh nơi ấy thừa phụng bài Chú này, cung kính lễ bái, nhất tâm cúng dường đồng thời khiến mỗi người dân đeo bài Chú trên mình hoặc để ở nơi cư ngụ thì tất cả tai nạn thảy đều tiêu diệt.

Nếu có chúng ở các Quốc Độ. Hễ chỗ nào có bài Chú này thì Trời Rồng vui mừng, mưa gió thuận hòa, ngũ cốc được mùa, dân chúng an vui. Những tai chướng do tất cả Ác Tinh biến quái ở mọi nơi đều chẳng thể khởi sinh, người chẳng chết yểu, gông cùm xiềng xích chẳng dính vào thân, ngày đêm ngủ yên thường chẳng gặp mộng ác.

Cõi Ta Bà này có tám vạn bốn ngàn tai biến do Ác Tinh, do 28 Ác Tinh làm Thượng Thủ. Lại có 8 Đại Ác Tinh làm chủ hay xuất hiện trên đời với nhiều hình dạng hay gây các tai họa kỳ lạ cho chúng sinh, hễ có bài Chú này thì hết thảy đều bị tiêu diệt. Trong phạm vi 12 Do Tuần, các tai biến hung dữ trọng chẳng thể xâm phạm.

Đức Như Lai nói bài Chú này để bảo hộ cho người tu hành mới vào Đạo trong khi tu Thiền Định, thân tâm được như thái an ổn không bị những Tà Ma, Quỷ Thần, Tiền Oan Nghiệp Chướng, nợ nần tích lũy từ đời vô thủy đến quấy phá hãm hại.

Nếu người tu hành y theo Pháp, Trì Giới trong Đạo Trường lại được vị Thầy Truyền Giới trong sạch. Đối với Tâm Chú này chẳng sinh nghi hoặc thì ngay tại thân máu thịt do cha mẹ sinh này sẽ được Tâm sáng suốt. Nếu chẳng được như vậy thì mười phương Như Lai đều nói lời hư vọng.


Dòng Mật Pháp Vajrapani

Nhóm Kim Cang Tử Đời Chữ Nhật


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

https://langnghiem.com/de-ngu/ xem giảng giải về chú lăng nghiêm


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

ĐẠI Ý CỦA KINH LĂNG NGHIÊM ( trong này có bài chú Lăng nghiêm ở phẩm 7)

Đại sư Thái Hư giảng tại chùa Lăng Nghiêm, Gia Hưng (tháng 7, năm Dân Quốc 24) - Đồng Tiến & Chân Hiền Tâm Việt dịch.
Gồm 5 chương

1. Phật pháp và ý dục của nhân sinh
2. Phật pháp và sự biến hiện của vũ trụ
3. Hạnh môn và vấn đề Thiền Mật nói trong kinh Lăng Nghiêm
4. Quả vị và vấn đề đốn tiệm nói trong kinh Lăng Nghiêm
5. Trừ chướng trong kinh Lăng Nghiêm
6. Biện hoặc trong kinh Lăng Nghiêm

I. PHẬT PHÁP VÀ Ý DỤC CỦA NHÂN SINH


Với các dục, không buông lung, không kiềm chế, không dứt tuyệt. Đoạn trừ cáí dục thấp hèn mà phát cho được cái dục thù thắng (cao thượng). Do đó mà có phần duyên khởi của kinh Lăng Nghiêm.


Pháp, nghĩa của nó rất rộng, ngày nay người đời dùng để gọi vạn vật vạn hữu trong vũ trụ, nhưng vậy vẫn chưa bắt kịp được nghĩa rộng của chữ pháp. Pháp của pháp giới, thông khắp tất cả pháp mà gọi tên. Gần, thì như bản thân mỗi người. Xa, thì như pháp giới ở mười phương. Nhỏ, thì như một vi trần. Lớn, thì như toàn quả địa cầu.


Pháp, tuy phủ khắp tất cả, nhưng tướng chân thật của pháp, tất cả chúng sinh do mê mà không biết, chẳng thể nhận được thực tướng của pháp thanh tịnh. Nhân đó mà tâm khởi điên đảo chấp trước.


Người có thể tỉnh biết như thật, gọi là Phật, cũng gọi là Phật đà hay Phù đồ, tức là giác vậy.
Giác, là A-nậu-đa-la-tam miệu-tam Bồ-đề, đây gọi là Biến chánh giác vô thượng.
Giác nhân, là người tương ưng với thật tướng như như của vạn pháp. Nhơn nơi pháp đó mà như thật tỉnh biết các pháp. Cho nên, chỉ có Phật cùng Phật mới được chỗ rốt ráo.


Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập. Tại thế giới này, hiện thân ứng hóa, vì khai thị cho chúng sinh mà phương tiện thuyết tam tạng và mười hai bộ kinh, gọi là Phật pháp. Kinh Lăng Nghiêm cũng là một bộ kinh, do Phật tùy thuận chúng sinh, ứng cơ thuyết pháp mà khai thị cho họ. Phật đã hiện thân ở nhân gian mà thuyết pháp. Nhân loại là một loại chúng sinh. Nay lấy nhân loại đại diện cho tất cả chúng sinh.


Động lực căn bản của chúng sinh là ý dục. Ý dục, là một loại tác dụng tinh thần mang khuynh hướng mong muốn hòa hợp. Nguyên nhân khiến nhân loại cùng với tất cả chúng sinh của họ tương tục chẳng dứt, sinh trưởng, phát triển, là do ý dục phát động. Kinh Pháp Hoa nói: “Ba cõi xuất hiện, tham dục là gốc”. Kinh A-hàm nói: “Hữu tình trong ba cõi đều nhờ thực mà trụ”. Trụ, là nghĩa sinh tồn tương tục. Thực, phân thành bốn loại là đoàn thực, xúc thực, tư thực và thức thực. Đoàn thực và xúc thực thì thu nạp sáu trần, cấp dưỡng thân mạng. Đoạn thực, là như mỗi ngày thu nạp thức ăn. Xúc thực, chỉ cho áo quần để mặc, phòng ốc để ở, những gì được thấy, được nghe v.v… Vì thế, y phục, thức ăn, chỗ ở v.v… đều bao gồm trong một chữ thực. Tư thực, là có hy vọng ở tương lai, hướng tới trước mà tiến, như trong lúc tuyệt vọng, vẫn một mực kiên trì, can đảm tiến lên. Đó là nghĩa “duy trì sinh mạng”. Thức thực, chỉ cho thức thứ tám thu nạp bảy thức ngoài, huân thành các chủng tử nghiệp. Đó là nghĩa “duy trì thân mạng tương tục chẳng dứt”. Chúng sinh ở cõi Dục không lìa đoàn thực. Phi phi tưởng thiên, một loại thiền định rất sâu của cõi Vô sắc, thân mạng tương tục, chẳng lìa thức thực. Cho nên, chúng sinh trong ba cõi đều y nơi thực mà tồn tại. Kinh Viên Giác nói: “Chúng sinh cõi Dục đồng lấy dâm dục mà chỉnh tính mệnh”. Dục, bao gồm ngũ dục. Do “sắc, thanh, hương, vị, xúc” hoặc “tài, sắc, danh, thực, thùy” mà khởi dục.

Chúng sinh hữu tình và khí giới vô tình trong cõi Dục đều do hai tánh âm dương kết hợp mà sinh tồn. Như vật chất, theo khoa học mà nói thì điện tử là do điện âm xoay quanh hạch dương mà thành nguyên tử. Với chúng sinh hữu tình thì càng thêm sáng tỏ. Do cha mẹ hòa hợp mà thành thân mệnh, sinh mệnh tương tục. Phải do hai tánh hòa hợp mà thành tánh âm hoặc dương, rồi sau lại tìm cầu hòa hợp. Từ trái nghịch đến cộng hợp. Từ cộng hợp đến trái nghịch. Cho nên đặc tính của cõi Dục là nương nơi dâm dục. Dâm dục cũng là một loại ý dục, là một loại dục của nhân loại. Nhân loại khi vừa sinh ra, đã có ý dục nam nữ, ăn uống. Chúng sinh ở cõi Dục nhờ vào thức ăn và sắc mà sinh mạng được tương tục, chẳng dứt tạo tác cùng hưởng thụ.


Cõi Dục này, đối với việc phát triển hay ngăn dứt ý dục của người đời, thánh hiền hào kiệt trong và ngoài nước chủ trương chẳng đồng.


1/ Thuyết Túng dục: Đối với ý dục, văn hóa Tây phương thời cận đại tha hồ phổ biến, càng không cấm chỉ. Phát triển và thỏa mãn ý dục đến mức có thể. Nên rồi chinh phục tự nhiên, sáng tạo và sản xuất vật chất, văn minh.


2/ Thuyết Tiết dục: Nho gia của Trung Quốc và hiền triết ở các nước, đa phần đều không chủ trương buông lung các dục, cần đặt nó trong hạn mức nhất định, thực hiện tiết chế, không để quá mức.


3/ Thuyết Tuyệt dục: Đạo gia và một bộ phận thuộc Tông giáo của Trung Quốc cùng một số luận phái Ấn độ v.v… tu thiền định, cầu giải thoát, nhận ra ý dục của nhân sinh là căn bản khiến con người không thể an ổn, nên đối với ý dục, chủ trương dứt hẳn, vượt thoát. Cơ bản là không thu nạp ngũ dục như sắc, thực v.v… siêu vượt cõi Dục. Tu cái định của cõi trời Sắc và Vô sắc, đạt cái định Vô tưởng hay Phi phi tưởng định. Trong Phật giáo, pháp của hai thừa Thanh văn và Duyên giác siêu xuất ba cõi, dứt hẳn ý dục, chứng vô sinh, nhập Niết-bàn, cũng thuộc về thuyết Tuyệt dục này.


Theo Phật pháp Đại thừa, với các dục thấp hèn mang tính ô nhiễm thì cần phải hàng phục và trừ diệt. Buông lung theo các dục thấp hèn, ắt là tai họa chẳng nhỏ, nên trừ ác cốt phải tận. Cái dục vô lậu thanh tịnh thù thắng cũng đồng là ý dục, nhưng nếu tiết chế cái dục thù thắng đó thì lại gây trở ngại cho sự phát triển hướng thượng, nên cần hướng dẫn mở rộng. Chỉ có Phật pháp Đại thừa mới hàng phục trừ diệt cái dục thấp hèn, phát khởi được cái dục thù thắng. Vì là bát-nhã, đại bi và đại nguyện của pháp thân.


Kẻ tu hành, phát loại tín gì, thú hướng thế nào, chỗ hành, chỗ đến, ở địa vị nào mà thứ lớp hàng phục trừ diệt cái dục thấp hèn để phát được cái dục thù thắng? Từ Bồ-tát hạnh đến khi thành Phật, có đoạn đức, trí đức, nhân đức. Đoạn đức, là do hàng phục trừ diệt cái dục thấp hèn mà được. Trí và nhân đức là do phát được cái dục thù thắng mà thành. Do đây mà có phần duyên khởi của kinh Lăng Nghiêm.


Người đương cơ của kinh Lăng Nghiêm là tôn giả A-nan-đà, một đệ tử của Phật, đa văn bậc nhất, phát tâm xuất gia, giữ giới Tỷ-kheo, cầu quả A-la-hán trong tứ quả Sa-môn, hạng vị đó chưa phát tâm Bồ-đề và bi nguyện to lớn của Đại thừa.


Kinh nói: “Một mình trên đường về, hôm ấy không có người cúng dường, A-nan bưng bình bát vào thành theo thứ tự khất thực”. Lúc ấy, vì A-nan chưa chứng thánh quả, đi khất thực nuôi thân, do có túc duyên mà gặp Ma-đăng-già. Kinh nói: “Đi qua nhà thổ, gặp đại ảo thuật Ma-đăng-già dùng chú Ta-tì-ca-la tiên phạm thiên bắt vào nhà thổ, thân dâm được vuốt ve sắp hoại giới thể”. Mẹ của Ma-đăng-già có chú thuật làm mê hoặc tính người. Lúc A-nan gặp khổ nạn chẳng thể tự cứu, nương lực đọc chú của Phật, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến cứu thoát, đồng thời dẫn Ma-đăng-già về xuất gia tu hành.


Chúng sinh sinh tử luân hồi, duyên với thực dục và sắc dục, nên người mới tu dễ rơi vào các nạn đó. Cần nương uy lực không thể nghĩ bàn của Phật pháp Đại thừa mà cứu hộ. Chính chỗ này mà có phần duyên khởi của kinh Lăng Nghiêm. Để rõ Tiểu thừa không lực, tự cứu chẳng xong, nếu chẳng y theo uy đức của Đại thừa, lấy đó cứu hộ thì chẳng thể được. Để hàng phục chướng nạn của thực dục và sắc dục thấp hèn mà nương tâm Bồ-đề và Tứ hoằng thệ, phát triển đại nguyện, đại dục. Cho nên, khi A-nan thoát khổ nạn, liền khóc lóc, cầu xin công đức tu hành thiền định của pháp Đại thừa. A-nan nghe pháp khai ngộ, liền nói:


Nguyện nay đắc quả thành Bảo vương

Độ lại hằng sa chúng như vậy

Mang thâm tâm hầu vô số cõi

Đó gọi là đền báo Phật ân


Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho

Ngũ trược ác thế thề vào trước

Nếu một chúng sinh chưa thành Phật

Quyết chẳng ở đây nhập Niết-bàn


Đại hùng đại lực đại từ bi

Nguyện trừ kỹ các hoặc vi tế

Khiến con sớm chứng Vô thượng giác

Ở mười phương giới ngồi đạo tràng


Y theo pháp sinh tử tương tục của cõi Dục, thân tâm đều không trong sạch. Nhất niệm trí tuệ tương ưng với sinh không và pháp không của Đại thừa, tất cả các dục thấp hèn đều được hàng phục. Pháp thân chân như hiện tiền, liền phát cái gọi là Đại thừa thắng dục.

Lấy việc “hàng phục trừ diệt các dục thấp hèn mà phát cho được cái dục thù thắng” nói trên làm duyên khởi cho toàn kinh, mới có phần diễn giải văn kinh, trước sau là 7 cuốn.


II. PHẬT PHÁP VÀ SỰ BIẾN HIỆN CỦA VŨ TRỤ


Chẳng phải do sắc tập, chẳng phải do thần tạo, chẳng phải từ không ra.

Tâm mê thì nghiệp buộc. Tâm ngộ, vượt suy lường.

Do đây mà hiển thực tướng của Lăng Nghiêm.


1/ Sắc tập:

Sắc, nếu cho đó là vật chất, thì nghĩa chưa rõ bằng nói tứ đại, ngũ căn, ngũ trần. Các thứ này theo Phật điển gọi là sắc pháp. Các học gia Ấn Độ và Hy Lạp thời cổ đại thì nói vạn vật do gió, tức do không khí mà thành. Hoặc nói vạn vật do nước mà thành, do lửa mà thành, do đất mà thành. Hoặc nói do tứ đại hợp thành. Trung Quốc thì nói do ngũ hành mà thành. Các nhà khoa học hiện đại thì nói hiện tượng tinh thần thuộc về tâm lý, thể hữu cơ phát sinh từ sinh lý. Thể hữu cơ thuộc sinh lý. Vật chất do nguyên tố hợp thành là từ thể vô cơ. Theo khía cạnh hóa học mà phân tích thì vạn vật chẳng qua là do 89 loại nguyên tố vật chất mà thành. Từ nguyên tố vật chất phân thành phân tử, từ phân tử phân thành nguyên tử, nguyên tử lại phân thành điện tử. Nên vạn vật vũ trụ là do sắc pháp tập hợp mà thành.


2/ Thần tạo: Bà-la-môn giáo chấp nhận thế giới vạn vật là do Đại Phạm Thiên hoặc Đại Tự Tại Thiên sáng tạo và làm chủ tể. Nghĩa là, tất cả đều do thần chi phối.


3/ Từ không ra: Vạn vật xuất hiện từ “hữu”. “Hữu” xuất hiện từ “vô”. Hư vô là gốc của Đạo. Hư vô là căn nguyên xuất sinh vạn hữu. Như các Đạo gia ở Trung Quốc, tại Ấn Độ cũng có ngoại đạo hư vô. Gốc của vạn vật quy về không.


Trên đã liệt kê các loại học thuyết (ly, hợp, lẫn, tổng, phi thường, phức tạp) được cho là đại yếu, tạm phân thành ba loại trên mà nói.


Như đã nói trên, vũ trụ biến hiện dường như có thể tướng nhất định với giới hạn không thể vượt qua. Kỳ thật, chúng sinh trong ba cõi sinh tử lưu chuyển vô thủy, vô minh, mê hoặc, đảo điên, khởi nghiệp phiền não, được báo phần đoạn, mà có tất cả các sai biệt như lớn, nhỏ, mình, người v.v… Kinh nói: “Tất cả chúng sinh, từ vô thủy đến nay mê mình làm vật, lạc mất bản tâm, bị vật xoay chuyển, nên ở trong đó thấy lớn, thấy nhỏ. Nếu hay chuyển vật thì đồng Như Lai, thân tâm tròn sáng, chẳng động đạo tràng, trên đầu mảy lông thâu tóm mười phương quốc độ”. Nhân vì tâm mê nên chân tánh mà Phật cùng chúng sinh vốn bình đẳng không hai bị mê mất, nghiệp quả tương tục, khởi mọi thứ điên đảo phiền não, tạo mọi thứ nghiệp. Tâm mê nghiệp buộc mà thành thế giới và các loại chúng sinh. Tâm ngộ thì tất cả thế giới, chúng sinh, nghiệp quả, hạn lượng ngay đó vượt thoát. Tất cả chúng sinh đồng với pháp thân chư Phật. Thế giới và chúng sinh hiện có là tịnh độ của chư Phật. Vũ trụ biến hiện đại khái cũng như vậy. Kinh nói: “Chân tâm bảo giác thảy đều đầy đủ, nhưng ta ấn ngón tay thì hải ấn phát quang, ông vừa móng tâm, trần lao liền hiện khởi”. Chân tâm bảo giác đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh trang nghiêm, mê hoặc điên đảo chưa hết thì không thể tự tại, nên kinh nói: “Nghi hoặc tiêu trừ, tâm ngộ thật tướng”.


III. HẠNH MÔN VÀ VẤN ĐỀ THIỀN&MẬT NÓI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM




Ngay các pháp mà thấu thông pháp tánh

Ngay gai định mà thành tựu tánh định

Lấy luật nghi thanh tịnh làm cơ sở

Lấy việc tụng trì mật chú làm sự phù trợ


Đích yếu chủ chốt nhất của kinh Lăng Nghiêm chính là hạnh môn được đề cập trong kinh. A-nan gặp nạn Ma-đăng-già được Phật đọc chú độ thoát. Đến cuốn thượng quyển thứ 7 của bản kinh, A-nan lại thỉnh Phật thuyết chú. Khi Phật thuyết chú, trên đỉnh đầu phóng quang, nơi hào quang hiện Phật. Vì công đức tụng chú như vậy mà từ xưa đến nay không ít người cho Lăng Nghiêm thuộc Mật tông. Thế nhưng quán sát toàn bộ nghĩa lý mạch lạc của kinh Lăng Nghiêm, tứ chỗ làm rõ lý cho đến việc tu hành và chứng quả, thì phải đưa kinh trở về Thiền tông mới tương đối chính xác. Hơn một ngàn năm trở lại đây, Lăng Nghiêm rất phổ biến trong Thiền tông. Chưa kể trong kinh còn lấy luật nghi thanh tịnh làm nền tảng, lấy việc trì tụng chú làm phụ trợ, còn hạnh chính là Phản văn tam muội. Nếu chỉ thuần lấy chú nghi làm chính thì chẳng tương ưng. Thực ra, chỉ có pháp môn tu hành của Thiền tông là gần gũi nhất. Theo ý nghĩa của kinh mà quán xét, do việc cứu nạn Ma-đăng-già mà phát khởi việc chế phục cái dục thấp hèn, phát được cái dục thù thắng vượt khỏi ba cõi của Nhị thừa, từ chỗ làm rõ lý đến hạnh tu chính đều hợp với Thiền tông. Nếu cho đó là phương tiên tu đại bi của Mật tông, sử dụng tham, sân, si để hành Tứ nhiếp pháp thì chẳng tương ưng. Đây là quán xét hạnh môn của Lăng Nghiêm ở mặt tổng tướng.


Từ năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới cho đến bảy đại rõ ràng đều là diệu tánh chân như. Y chân tánh này, do mê hoặc điên đảo mà thành sáu phàm lưu chuyển, do giác ngộ thấu rõ mà thành bốn thánh giải thoát. Tất cả pháp thế gian và xuất thế gian đều y nơi diệu tánh chân như, hoặc mê, hoặc ngộ mà có. Mê thì phiền não sinh tử. Ngộ thì Niết-bàn giải thoát. Vì thế, tất cả pháp từ xưa đến nay đều là diệu tánh chân như. Ngay nơi các pháp mà thông đạt pháp tánh. Nếu một niệm trí tuệ tương ưng thì vô minh, phiền não, phân biệt ngay đó sạch hết. Phàm phu chúng sinh chẳng lìa pháp năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại. Mỗi mỗi pháp tức là pháp thân Như Lai. Quán xét như thế, y nơi từng pháp, từng môn mà nhập đạo, mà giải thoát tất cả.


Tôn giả A-nan đa văn, tập quán còn năng lực, dễ khởi phân biệt. Quyển thứ 4 của bản kinh, A-nan đã nhận được sự chỉ dạy của Như Lai, vẫn còn tự thấy mình như kẻ lang thang, hốt nhiên được Thiên Vương ban cho ngôi nhà đẹp, nhưng chẳng thể thấy cửa để vào. Như Lai vì người mà dạy hai loại nghĩa quyết định: Chúng sinh tứ đại ngũ trược trong thế giới này, muốn phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, để cái tâm ở nhân địa đồng với cái giác ở quả địa thì cần y nơi 'tâm không sinh diệt' mà tạo tâm nhân địa. Cái tâm thánh phàm bình đẳng không hai này mới có thể cho quả địa giác bình đẳng không hai. Y đó mà phát khởi và thú hướng Bồ-đề, kiên cố chẳng hoại. Trước, nói rõ lý thật tướng của các pháp. Về sau, tăng tu thiền định, chứng được định ích, đối trị định bệnh. Tất cả đều y đó làm nền tảng.


Từ sáu căn mà thuyết minh sáu trần, sáu thức và mười tám giới. Hiển rõ công đức sâu, cạn, rộng hẹp của sáu căn. Căn tai, căn lưỡi, căn ý thì công đức đầy đủ. Căn mắt, căn mũi, căn thân thì công đức kém khuyết. Nhờ đó mới biết chọn lựa, nương vào một loại pháp nào để tu. Thánh phàm trong pháp giới y nơi sáu căn, lấy đó làm căn bản. Y nơi căn đầy đủ tu hạnh viên thông so với việc y nơi căn không đầy đủ, một ngày ngang với một kiếp. Muốn y nơi sáu căn, tìm một thứ tối viên thông để tu, thì lựa ra căn tai. Ngay nơi tứ đại và ngũ trược mà thấy cái tánh không sinh diệt. Nương cái tánh không sinh diệt đó làm tâm nhân địa. Đó là căn bản thứ nhất. Kế, phải rõ căn bản của tất cả sinh tử phiền não cũng ở tại sáu căn. Muốn nắm được chỗ tu hành thì lựa ra căn tai lấy đó làm môn tu hành viên thông. Mười phương Như Lai y một môn này mà thâm nhập, chứng Vô sinh nhẫn, được đại giải thoát. Kinh nói: “Ông nay muốn khiến cái thấy, nghe, hiểu, biết của mình về lâu xa khế hợp với bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai thì trước cần phải lọc ra cội gốc của sinh tử, y nơi 'tánh không sinh diệt' vắng lặng trùm khắp mà thành tựu”. Cũng nói: “Ông đối với mười hai tướng hữu vi động-tĩnh, hợp-ly, định-chuyển [1], thông-bít, sinh-diệt, sáng-tối, chỉ cần không theo. Tùy chọn một căn, hàng phục và giải thoát sự chấp dính bên trong, thuận chân về nguồn, phát tánh sáng diệu sẵn có. Diệu tánh phát sáng thì năm chấp dính còn lại theo đó mà mất, giải thoát viên mãn. Chẳng do tiền trần mà khởi thấy biết thì cái sáng chẳng theo căn, chỉ gá nơi căn mà phát sáng, do đây sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau”. Phật và Bồ-tát ở mười phương, y nơi pháp mười tám giới này đều có thể lấy đó làm pháp môn ngộ nhập.


Trên đại điện chùa tôi, có chưng bày chư thánh được căn viên thông trong kinh Lăng Nghiêm, hai bên là 24 vị, tính cả Quán Âm ở giữa là 25 vị. Từ Kiều Trần Như, theo âm thanh ngộ nhập được thành A-la-hán, cho đến Đại Thế Chí, Di-lặc, theo căn đại, thức đại mà thấu đạt pháp tánh, nhập Vô sanh nhẫn. Để tu thiền định, Văn-thù-sư-lợi bèn chọn môn Nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Âm, là hợp cơ nhất. Từ nhĩ căn thấu đạt tánh vô sinh của pháp. Tuy chúng sinh tâm mê nghiệp buộc mà nhĩ căn khi ngủ vẫn chẳng mù mờ. Kinh nói: “Người ấy khi đang chiêm bao, đâu nhớ các thứ động, tĩnh, đóng, mở, thông, bít. Tuy ngủ say mà tánh nghe không mù mờ. Dù cho hình hài ông có tiêu tan, mệnh quang dời đổi, tánh nghe này làm sao vì ông mà tiêu mất?” Cho nên, nghĩa thông thường của viên thông là 'tối đầy đủ'.


Tam-ma-địa, đây gọi là “định”, cũng gọi là “tam muội”, dịch thẳng là “đẳng trì”. Bình đẳng nhậm trì nhiếp phục tâm phan duyên sáu trần để đạt định tâm. Dựa vào pháp “phản văn” mà tu thiền định thì dễ lìa tán loạn. Định tâm thành tựu thì chẳng nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, chẳng duyên năm trần, chẳng khởi năm thức, định tâm tương ưng tại ý thức, chuyên chú chẳng loạn. Nếu đạt được chân thì tâm chánh định thành tựu. Đi, đứng, nằm, ngồi thường trong thiền định. Song tu thiền định mà nắm được công phu trong tay là nằm ở việc tĩnh tọa. Ngồi thì có thể an ổn điều hòa. Nhãn quang đóng, cắt cảnh trước mắt. Tai, lưỡi dừng phân tích hương, vị. Thân tâm điều hòa thì các xúc giác như lạnh, nóng, nặng, nhẹ, đói, no cũng chẳng khởi. Lúc đó thứ khó lìa nhất là âm thanh, đối tượng của tai. Kinh luận nói: Âm thanh là cái gai cứng, nếu chích vào thịt của thân sẽ khiến đau đớn, bất an. Âm thanh cũng là cái gai chích vào định tâm, khiến tâm chẳng an ổn, định chẳng thành tương tục lâu dài. Cho nên, khi chỉ tịnh thì đánh bản để âm thanh dừng yên, muốn rời khỏi tịnh cũng dùng tiếng khánh hay tiếng bản.


Xưa, ở tỉnh Tứ Xuyên, gió thổi ngã một cây đại thụ, trong có một Tăng nhân đang nhập định, tợ như chết mà chẳng phải chết, vì chưa dứt hơi ấm. Quan địa phương đưa Tăng nhân về kinh đô, mời đại đức Phật giáo đến cho một pháp xuất định, đại đức bèn kề tai Tăng nhân đánh khánh, Tăng từ từ xuất định. Có thể thấy, định tâm chẳng được kiên trụ, chẳng dễ tương tục mà nghe tiếng là then chốt rất lớn, rất sâu. Nghe tiếng khiến từ định tâm khởi tán loạn phân biệt. Cho nên, tu thiền định, sau khi thân tâm điều hòa, nương nơi “nhĩ căn phản văn”, lấy đó làm phương tiện tối thắng dừng tán loạn.


Kinh nói: “Đầu tiên ở nơi cái nghe, nhập lưu vong sở, sở nhập đã tịch, hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sinh. Như vậy dần dần tăng tiến, nghe và sở nghe đều dứt, chỗ dứt cái nghe cũng chẳng trụ, giác và sở giác đều không, không và giác cực viên mãn, không và sở không đều diệt. Sinh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền, hốt nhiên siêu việt thế gian và xuất thế gian”. Tu trì thế nào? Là ngay nơi cái nghe, nhập dòng quên sở, ngược dòng nghe để quay lại cái nghe. Sở nghe mất thì năng nghe cũng chẳng thể. Phản văn, là xoay cái nghe lại để nghe diệu tánh chân như của Như Lai tạng, thì căn nghe dung biến vào cảnh giới nhân không. Thấy, nghe, hiểu, biết của sáu căn dung biến thành một thể diệu giác viên minh, chứng Niết-bàn, là sinh không chân như. Tiến đến giác và sở giác đều không, ngộ nhập pháp không, tất cả đều không. Không và sở không đều diệt thì “cùng với không” chẳng sinh. Tất cả sinh diệt đối đãi đã có đều vượt thoát, tịch diệt hiện tiền, siêu việt thế gian và xuất thế gian, pháp pháp đều thành giải thoát, trần trần đều chứng Bồ-đề. Đây là từ 'Nhĩ căn phản văn' mà vào tam-ma-địa. Nên kinh nói: “Xoay lại, nghe và tiếng đều giải thoát thì năng thoát dục gọi là gì? Một căn đã về nguồn, sáu căn thành giải thoát”.


Lại nữa, kinh nói: “Muốn nhiếp tâm vào tam-ma-địa, vậy làm thế nào để an lập đạo tràng, xa lìa ma sự?”. Muốn vậy, trước phải lấy việc thanh tịnh bốn thứ căn bản (dâm, sát, trộm và dối) làm cơ sở quyết định cho việc tu nhĩ căn viên thông. Kinh nói: “Trước cần phải trì bốn loại luật nghi trong như băng tuyết thì chẳng thể tự sinh tất cả cành lá. Ba thứ thuộc tâm, bốn thứ thuộc khẩu nhất định không có nhân để sinh”.


Nếu có người thọ giới chưa đầy đủ, trì giới chưa đủ thanh tịnh, nhân có túc tập chưa thể trừ diệt thì nên lấy việc trì tụng mật chú làm phụ trợ. Kinh nói: “Nếu có túc tập chẳng thể diệt trừ thì ông dạy người đó nhất tâm tụng chú 'Phật đảnh quanh minh ma-ha-tát đát-đa-bàn đát-la vô thượng' của ta”. A-nan nếu không có túc tập, chẳng rơi vào cái nạn Ma-đăng-già, ắt việc trì giới tu định của ông chẳng cần đến chú cứu hộ của Phật.


Từ trên đến đây, làm sáng tỏ môn “Ngộ diệu tánh chân như mà tu hạnh viên thông”.


IV. QUẢ VỊ VÀ VẤN ĐỀ ĐỐN TIỆM NÓI TRONG KINH LĂNG NGHIÊM


Từ điên đảo loạn tưởng, chỉ ra 12 loại sinh

Y theo định Thủ Lăng Nghiêm mà hiển bày 57 vị

Do hạnh tăng tiến mà trải dần qua các vị

Được tâm kim cang mà đốn khởi các vị


Nếu chẳng rõ quả vị của Lăng Nghiêm thì khởi tăng thượng mạn, chẳng những không được lợi ích, trái lại còn dễ bị đọa. Kiến tánh thành Phật là pháp môn đốn ngộ, nên không có tiệm thứ (thứ lớp), ngay nơi sự mà tỏ lý, không gì là không đốn. Nếu ngay nơi lý mà tỏ sự thì có thứ lớp (tiệm thứ): Trong đốn có tiệm, là trong đốn ngộ có tu chứng tiệm thứ. Trong tiệm có đốn, là trong tiệm tu có giác ngộ đốn phát.


Chúng sinh điên đảo loạn tưởng, từ vô thủy đến nay mê vọng chẳng tỉnh nên có noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, có 12 loại sinh như thế. Kinh nói: “Trong mỗi một loại chúng sinh như thế, đều đủ 12 thứ điên đảo. Giống như dụi mắt thì hoa đốm phát sinh. Điên đảo thì minh tâm diệu viên chân tịnh đầy đủ loạn tưởng hư vọng như vậy”. Vì muốn vượt thoát thế giới chúng sinh, chứng được Niết-bàn, thành tựu Bồ-đề mà mở bày 57 giai vị: Càn huệ địa, Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác.


Vì sao gọi là ba loại tiệm thứ? Kinh nói: “Một, là tu tập trừ trợ nhân. Hai, là chân tu hiển chánh tánh. Ba, là tăng tiến không theo hiện nghiệp”.


1/ Tu tập trừ trợ nhân: là đoạn trừ ngũ tân. Nay thì thuốc lá, rượu bia, cờ bạc cũng thuộc trợ nhân, đều cần phải trừ.

2/ Chân tu hiển chánh tánh: là nghiêm trì giới luật thanh tịnh.

3/ Tăng tiến không theo hiện nghiệp: là xoay cái thấy thấy tự tánh, xoay cái nghe nghe tự tánh, thủ hộ căn môn, không để sáu căn phóng dật theo sáu trần. Nhân giới sanh định, là ngược dòng sáu căn, thuận một thể giác. Trì giới tánh của sáu căn, thì ba thứ thuộc thân, bốn thứ thuộc khẩu tự nhiên thanh tịnh. Kinh nói: “Diệu viên bình đẳng được đại an ổn, tất cả mật viên tịnh diệu của Như Lai đều hiện trong đó, người này liền được Vô sinh pháp nhẫn. Từ việc tiệm tu này, tùy chỗ phát hạnh mà an lập thánh vị”.


Tâm kim cang, là Vô gián đạo trước khi thành Phật. Nếu một vị nhiếp tất cả vị thì trên đường Bồ-đề chân thật, mỗi một vị đầy đủ 55 vị. Nơi tâm kim cang ấy, trải qua trở lại 55 vị, đều là an lập vị thứ trong Thủ Lăng Nghiêm định, là pháp môn ngay tiệm mà đốn. Kinh nói: “Từ Càn huệ địa đến Đẳng giác rồi, giác đó mới được sơ Càn huệ địa trong tâm kim cang, như thế mà đơn kép trùng trùng mười hai vị [2] mới được Diệu giác, thành đạo vô thượng”.



V. TRỪ CHƯỚNG TRONG KINH LĂNG NGHIÊM




Si, ái cùng bảy đường chuyển

Mạn, kiến cùng ngũ ấm ma

Nói nghiệp báo trừ giới chướng

Luận tâm cảnh trừ định chướng


Người mới học thiền định khi được định cảnh, như bất chợt đến vùng sa mạc, một khối sa mạc rộng lớn không có giới hạn, trước nay chưa từng trải qua, tuyệt chẳng phải là đất cảnh nhân gian tầm thường. Tới chỗ này thời dễ khởi mê hoặc. Theo ngũ ấm mà thứ lớp hiện phát cảnh của nó. Từ sắc ấm cảnh giới hiện, đến thức ấm cảnh giới dừng, đều là tác dụng phụ do định tâm hiện khởi. Mê lầm mà cho là cảnh giới thánh thì đó là tà ma. Cho nên trừ cái chướng của định là thiết yếu, chẳng thể coi thường. Chẳng sinh tà kiến thì tự hay trừ khử ma chướng. Phải quán tất cả pháp vốn là Như Lai tạng diệu tánh chân như, thì tất cả chướng không từ đâu phát sinh, không cần phải đối trị. Nếu tâm mê điên đảo thì thành căn bản của chướng. Si ái là tham si. Kinh nói: “Như vậy địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, cùng với thần tiên, trời cho đến A-tu-la, bảy đường đó xét cho kỹ đều là các tướng hữu vi mê tối”. Do si ái mà có bảy đường lưu chuyển là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, tiên, trời, A-tu-la. Muốn thoát khỏi bảy đường lưu chuyển, cần phải trì tịnh giới, ngăn trừ tham si, và quán trở lại tự tánh thanh tịnh.

Ngũ ấm ma là do khinh mạn mà hiện khởi. Tăng thượng mạn được ít cho là đủ, tự cho là chứng thánh quả mới chiêu cảm ma sự. Nơi định tâm khởi cái thấy bất chính như đoạn, thường v.v… mà gia nhập ngoại đạo. Kinh nói: “Ma cảnh hiện tiền, ông chẳng thể biết, tẩy tâm không chánh, lạc vào tà kiến. Lại ở trong đó được ít cho là đủ, như Tỷ-kheo Vô Văn được đệ tứ thiền, vọng nói chứng thánh, liền đọa vào ngục A-tỳ”. Muốn trừ ngũ ấm ma thì nên tiêu trừ cái thấy bất chánh và tăng thượng mạn. Tu định tâm là chủ nhân. Chủ nhân nếu mê, khách tà ma liền được dịp. Tâm có không thì cảnh có không [3], giác ngộ không lầm, thường không trở ngại. Kinh nói: “Do nơi tâm ông, ngũ ấm là chủ nhân, chủ nhân mê thì khách được thuận tiện. Ngay trong thiền na, giác ngộ không lầm thì ma sự kia không làm gì được ông”.


Muốn thoát khỏi nghiệp báo luân hồi của bảy đường, cần trừ ba hoặc là sát, đạo, dâm. Kinh nói: “Muốn được Bồ-đề, cần phải trừ ba hoặc. Ba hoặc không hết mà được thần thông, đều là công dụng hữu vi của thế gian”. Muốn thành tựu Định Tuệ, chủ yếu là phải có Chỉ Quán và chẳng khởi tăng thượng mạn. Kinh nói: “Ma cảnh hiện tiền, ông hay am tường, cấu tâm tẩy trừ, chẳng lạc tà kiến”.


VI. BIỆN HOẶC TRONG KINH LĂNG NGHIÊM



A. CÁC BỘ GIÁO LÝ

1/ Luận về chân tâm cùng hai thứ căn bản.

2/ Luận về duy căn cùng bảy đại.

3/ Luận về pháp thân cùng mười hai loại sinh.


1/ Luận về chân tâm cùng hai thứ hai căn bản

Kinh nói: “Một là căn bản sinh tử từ vô thủy, đó là tâm phan duyên mà hiện nay ông cùng các chúng sinh lấy đó làm tự tánh. Hai là cái thể Bồ-đề Niết-bàn vốn thanh tịnh từ vô thủy, chính là thức tinh nguyên minh của ông hiện nay hay sinh các duyên mà bị các duyên bỏ quên”. Bị các duyên bỏ quên, là hiểu biết không thể đến. Kinh cũng nói: “Từ vô thủy đến nay sinh tử tương tục đều do không biết chân tâm thường trụ, thể tánh sáng tịnh, mà dùng các vọng tưởng, tưởng này chẳng chân, nên có luân chuyển”. Đây đều là luận về chân tâm, nói vọng để tỏ chân.

Trong toàn bộ kinh, có một tư tưởng trung tâm nhất quán, đó là chân tâm thường trụ. Cho nên, bản kinh lấy chân tâm thường trụ làm nền tảng. Tín giải, là rõ được lý chân tâm thường trụ. Tu hành, là trừ chướng của chân tâm thường trụ. Chứng quả, là chứng cái đức của chân tâm thường trụ.


2/ Luận về duy căn cùng bảy đại

Đất, nước, lửa, gió gọi là bốn đại. Cùng với không đại và thức đại là sáu đại. Đây kinh đặc biệt thêm căn đại, thành bảy đại. Vì cái thành đó mà có phần triển khai là luận về duy căn. Kinh nói: “Như một căn thấy, thấy khắp pháp giới. Nghe, ngửi, nếm, giác xúc, giác tri, diệu đức trong suốt trùm khắp pháp giới, đầy hết mười phương hư không, không có chỗ nơi”. Cũng nói: “Ông muốn biết cái câu sanh vô minh [4] khiến ông có các căn, luân chuyển sinh tử, chính là sáu căn của ông, hoàn toàn không có vật nào khác. Ông nếu muốn biết Bồ-đề vô thượng khiến ông chóng chứng tâm diệu thường tịch tĩnh giải thoát an lạc cũng là sáu căn của ông, hoàn toàn không có vật nào khác”.


Căn đại cùng với việc tu nhĩ căn viên thông có quan hệ khá mật thiết. Kinh này nói đến căn và thức, so với những gì luận Duy thức nói thì giới hạn của chúng không đồng. Phạm vi của thức nói trong luận Duy thức, sâu và rộng. Còn Lăng Nghiêm nói phạm vi của căn, sâu và rộng. Cho nên luận về duy căn và duy thức có đối lập, là dùng căn nhiếp tất cả pháp.


Tôi, khoảng 10 năm về trước, từng làm ra ba loại duy luận là duy thức, duy căn và duy cảnh. Luận duy căn là chỗ đặc dị của kinh Lăng Nghiêm, dùng căn không dùng thức, vì sáu thức hiện lượng đều nhiếp tại sáu căn.


3/ Luận về pháp thân cùng với 12 loại sinh

Kinh nói: “Nếu diệu tâm chân tịnh diệu minh xưa nay tròn khắp, vậy thì hết thảy cây, cỏ, đất đai, các loài hàm linh máy động vốn nguyên là chân như, đó là chân thể thành Phật của Như Lai. Phật thể chân thật, vì sao lại có các đường địa ngục, ngạ qủi, súc sinh, A-tu-la, người và trời?”. 12 loại sinh bao gồm các vật vô tình như kim, thổ, mộc, thạch, núi, sông, đất đai v.v... Theo đó thì chúng sinh hữu tình luân chuyển trong sinh tử có thể biến thành vô tình. Đây không đồng giáo nghĩa được nói ở các kinh luận khác. Nhưng kinh Lăng Nghiêm đúng là Phật thuyết, chỉ là vì điểm căn cứ có khác mà thôi. Chúng sinh thế giới tức [5] là chân thể thành Phật của Như Lai, ví như toàn biển mà thành sóng, sóng thì khắp tất cả biển. Pháp thân thành hữu tình vô tình thì hữu tình vô tình đều là pháp thân. Kinh nói: "Tình cùng vô tình đều thành Phật đạo”.


B. KHẢO CỨU CÁC BỘ Y CỨ

1/ Xét việc giải thích tên Thủ Lăng Nghiêm cùng các kinh chú.

2/ Kinh nữ Ma-đăng-già và bản kinh

3/ Phiên dịch và lưu truyền bản kinh


1/ Xét việc giải thích tên Thủ Lăng Nghiêm cùng với các kinh chú:

Thủ Lăng Nghiêm, Trung Hoa dịch là “kiện hạnh”. Xưa nay các nhà chú giải kinh này thường dịch là “Kiên cố rốt ráo tất cả sự”. Tất cả sự, là hạnh. Kiên cố rốt ráo, là kiện. Kinh này, nói giản lược là Lăng Nghiêm, nói đầy đủ là Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm.


Một tên tiếng Trung khác là Ấn Độ Na-lan-đà Đại Đạo Tràng Kinh, từ bộ Quán Đảnh ghi chép ra biệt hạnh. Nghĩa là, kinh này được ghi ra từ bộ Quán Đảnh trong tạng kinh của chùa Na-lan-đà.

Ngoài ra còn có một quyển Phật Thuyết Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh, do Cưu-ma-la-thập dịch, so với kinh này thì không đồng bản, chỉ chuyên thuyết về thần dụng và công đức của Phật cùng Bồ-tát khi được tam muội này.


Chú Lăng Nghiêm, đặt cho Tăng chúng tụng vào sáng sớm, thật ra chỉ 10 câu từ sau mấy từ “Đát-điệt-đá” trở đi mới là tâm chú. Còn trước là nghi thức cúng lễ tán tụng, gồm 5 hội: Một, là Tì-lô chân pháp hội. Hai, là Thích tôn ứng hoá hội. Ba, là Quán âm hợp đồng hội. Bốn, là Cương tàng chiết nhiếp hội. Năm, là Văn-thù hoằng truyền hội. Những giải thích tường tận này được ghi ra từ chương 'Chú, trích và giải' của sớ Quán Đảnh.


Một kinh gần đồng với danh nghĩa của kinh chú này, là Đại Phật Đảnh Như Lai Phóng Quang Tất-đát-đa Bát-đát-la Đà-la-ni, do ngài Bất Không dịch, thuộc Tục tạng tập một, trọn bộ bốn quyển. Ngoài ra, còn có kinh Phật Đảnh Đại Bạch Tản Cái Đà-la-ni, do Sa-la-ba dịch; kinh Phật Thuyết Đại Bạch Tản Cái Đà-la-ni, do Nguyên và Chân Trí v.v… dịch. Hai bản kinh có luôn phần nghi thức tụng chú này ở trong Tần-già tạng, bộ đầy đủ sáu cuốn.


Ngoài ra còn Bạch Tản Cái Đại Phật Đảnh Vương Tối Thắng Vô Tỷ Đại Uy Đức Kim Cang Vô Ngại Đại Đạo Tràng Đà-la-ni Niệm Tụng Pháp Yếu. Cuốn này, trong Tần-già tạng thấy còn bộ một quyển, trong Tục tạng tập một thì ba bộ một quyển. Chỉ thấy Đông Mật ghi ra nghi thức tụng niệm, không rõ người dịch.


2/ Kinh Nữ Ma-đăng-già và bản kinh

Kinh Nữ Ma-đăng-già, hai quyển, do Trúc Luật Đàm và Chi Khiêm người Thiên Trúc đời Ngô dịch. Kinh Xá-đầu Thái Tử Thập Nhị Bát Túc, một quyển, do Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch. Hai kinh này đồng bản mà khác phần dịch, nêu rõ túc duyên giữa A-nan và Ma-đăng-già. Ngoài ra, còn có Phật Thuyết Nữ Ma Đặng Kinh, một trang, đời Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao ở An Tức dịch; Phật thuyết Ma Đặng Nữ Giải Hình Trung Lục Tự Kinh, một trang, thấy ghi vào đời Đông Tấn, không rõ người dịch. Hai kinh này đồng bản mà khác phần dịch, chỉ thuyết A-nan bị khốn được chú của Phật cứu độ.


3/ Phiên dịch và lưu truyền bản kinh:

Kinh này, dịch xong ngày 23, tháng 5, năm Ất Tỵ, niên hiệu Trung Tông Thần Long đời Đại Đường, do Tam tạng sa môn Bát Thích Mật Đế người Trung Thiên Trúc dịch tại đạo tràng Chế Chỉ ở Quảng Châu. Theo Khai Nguyên Lục thì sa môn Hoài Địch đời Đại Đường ở Quảng Châu dịch lại lần nữa. Bản lưu hành hiện nay, còn phải nói thêm bản của sa-môn Di-già Thích-ca nước Ô Trành dịch ngữ, Phòng Dung ở Thanh Hà chép truyền.


Kinh này được truyền rộng, tương truyền là do Phòng Dung chép kinh dâng lên vua, đang lúc Trung Tông mới lên ngôi, chưa rảnh mà ban hành, thì thiền sư Đại Thông Thần Tú [6], lúc đó đang ở trong đạo tràng, thấy bản tấu, chép ra cho lưu hành ở đất bắc, đồng thời sao lại một bộ mang về chùa Độ Môn ở Kinh Môn. Sa-môn Tuệ Chấn ở Quán Đào, được khoa giải, là người đầu tiên truyền rộng ra. Đến năm thứ 10 Thiên Bảo (Năm 751) có pháp sư Duy, nơi nhà của Phòng Dung, được bản viết tay của ngài, bắt đầu tạo chú sớ. Cũng tương truyền, Mật Đế trước đã từng đến Trung Quốc [7], thấy môn Chỉ Quán của đại sư Trí Giả, cho là hao hao giống Lăng Nghiêm. Trí Giả nhân đó thỉnh dịch để truyền đến Trung Quốc.


Lăng Nghiêm được truyền rộng với bốn nhà có nguồn gốc sâu xa là Thiền, Thiên Thai, Hiền và Nho.
Sau đời Đường thì đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh, không thiếu người hoằng dương Lăng Nghiêm.


. Thiền gia thì có thiền sư Đạo Hiến ở Trường Khánh, thiền sư Trí Giác Vĩnh Minh [8], thiền sư Lặc Đàm Hiểu Nguyệt, Thiền sư Thạch Môn Viên Minh, Thiền sư Ôn Lăng Bảo Thắng, Thiền sư Trung Phong Minh Bản, cùng với Thiên Như và Tử Bá v.v…


. Hiền gia thì có pháp sư Tắc Tư Trung Hoằng Trầm, pháp sư Trưởng Thủy Tử Tuyền, pháp sư Lỗ Sơn Phổ Thái, pháp sư Giao Quang Chân Giám, pháp sư Từ Vân Tục Pháp, pháp sư Đạt Thiên Thông Lý v.v…


. Thiên Thai gia thì có pháp sư Tắc Cô Sơn Trí Viên, pháp sư Đồng Châu Hoài Thản, pháp sư Thiên Thai U Hoát, pháp sư Linh Phong Ngẫu Ích v.v…


. Nho gia thì có Tắc Vương Giới Phủ giải thích, Trương Vô Tận chú thêm, Tằng Phượng Nghi thông tông, Tiền Khiêm Ích Mông [9] sao chép v.v…

Pháp sư Không Ấn ở Ngũ Đài Sơn cùng với pháp sư Ngẫu Ích thì dần dà dùng nghĩa của pháp tướng mà nói kinh Lăng Nghiêm.


Cuối đời Đường trở lại đây, Tam luận thì biến mất mà Duy thức cũng chẳng thịnh, nên ít ai hiểu thấu được kinh này. Có khi cũng dùng nghĩa của các tông đó sớ giải nhưng sơ sài khái lược. Kẻ nông cạn cứ y vào nghĩa của tam luận hoặc Duy thức đó mà sinh ngăn cách, phỉ báng và chống đối.

nguồn:http://chanhientam.net/


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

https://www.youtube.com/watch?v=pCLV2FaqD4E câu tâm chú lăng nghiêm có nhạc dễ nghe


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

(Trích: TAM BẢO TÔN KINH, THÍCH CA PHẬT VIỆN xuất bản và phát hành, Phật lịch: 2512, trang 31-50).
LĂNG NGHIÊM CHÚ
Nam Mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát.

Diệu trạm tổng trì bất động tôn, Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu, tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng.

Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân, nguyện kim đắc quả thành bảo vương, hườn độ như thị hằng sa chúng, tướng thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân. Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh, ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê hoàn, đại hùng, đại lực, đại từ bi, hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc, linh ngã tảo đăng vô thượng giác, ư thập phương giới tọa đạo tràng; thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong, thước ca ra tâm vô động chuyển.
  • Nam mô thường trụ thập phương Phật.
    Nam mô thường trụ thập phương Pháp.
    Nam mô thường trụ thập phương Tăng.
    Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    Nam mô Phật Ðảnh Thủ Lăng Nghiêm.
    Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
    Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát.
Nhĩ thời Thế Tôn tùng nhục kế trung dõng bá bảo quang, quang trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung, đảnh phóng thập đạo, bá bảo quang minh, nhứt nhứt quang minh, giai biến thị hiện, thập hằng hà sa, Kim Cang mật tích, kình sơn trì xử, biến hư không giới, đại chúng ngưởng quang, úy ái kim bảo, cầu Phật ai hựu; nhứt tâm thính Phật, vô biến đảnh tướng phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú:
ÐỆ NHẤT
Nam mô tát đát tha tô dà đa da a la ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa.

Nam mô tát đát tha Phật đà cu tri sắc ni sam.

Nam mô tát bà bột đà bột địa ta đa bệ tệ.

Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đà cu nẩm. Ta xá ra bà ca tăng dà nẩm.
Nam mô lô kê A la hán đa nẩm.

Nam mô tô tô đa ba na nẩm.

Nam mô ta yết rị đà dà di nẩm.

Nam mô lô kê tam miệu da đa nẩm.

Nam mô tam miệu dà ba ra để ba na nẩm.

Nam mô đề bà ly sắc nỏa.

Nam mô tát đà da tỳ địa da đà ra ly sắc nỏa.

Nam mô Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm.

Nam mô bạt ra ha ma ni.

Ma mô nhơn đà ra da.

Nam mô bà dà bà đế. Lô đà ra da. Ô mô bác đế. Ta ha dạ da.

Nam mô bà dà bà đế. Na ra dả noa ra. Bàn dà ma ha tam mộ đà ra.
Nam mô tất yết rị đa da.

Nam mô bà dà bà đế. Ma ha ca ra da. Ðịa rị bác lặc na dà ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị dà noa.

Nam mô tất yết rị đa da.

Nam mô bà già bà đế. Ða tha dà đa cu ra da.

Nam mô bác đầu ma cu ra da.

Nam mô bạc xà ra cu ra da.

Nam mô ma ni cu ra da.

Nam mô dà xà cu ra da.

Nam mô bà dà bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà da, đa tha già đa ra.

Nam mô bà dà bà đế.

Nam mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

Nam mô bà dà bà đế, a sô bệ da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

Nam mô bà dà bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bác ra bà ra xà da, đa tha dà đa da.

Nam mô bà dà bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

Nam mô bà dà bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

Nam mô bà dà bà đế, lặc đác na kê đô ra xa da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da, đế biều nam mô tát yết rị đa, ế đàm bà dà bà đa, tát đác tha dà đà sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.

Nam mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra bí địa da sất đa nể, a ca ra mật rị trụ, bác rị đác ra da nảnh yết rị, tát ra ba bàn đà ra mục xoa ni, giả đô ra thất đế nẩm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẩm, na xoa sác đát ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẩm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể ba ra nhã xà, hô lam đột tất phạt nan giá na xá ni, bí sa xa tấc đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bác ra thị đa cu ra ma ha bác ra chiến trì ma ha điệp đa, ma ha đế xa, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra ba tất nể, a rị da đà ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạt xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắc na a giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thi đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra a bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá tỳ địa da kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ lô giá na cu rị da, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra sát thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám quậc phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ NHỊ
Ô hồng, rị sắc yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha dà đô sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung, chim bà na. Hổ hồng, đô lô ung, tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung, ba ra sắc địa da tam bác xóa na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẩm, yết ra ha ta ha tát ra nẩm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà dà phạm tát đát tha dà đô sắc ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà ri đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ đà na, man trà ra, ô hồng, ta tất đa bạc bà đô, mạ mạ, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TAM
Ra xá bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xà nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm, ba dà ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà dạ, na dà bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tát kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha xả đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mế đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xa da ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du dá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đa da xà sân đà dạ di, kê ra dạ ni, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà điển ni bất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bác du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa bất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa dà lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dại di, kê ra dạ di, ma ha ca ra ma đát rị dà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà da yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha tá đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, dả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sạn đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị đương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xá ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, A la hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân dà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nể, cu hô dạ, cu hê dạ, ca địa bác hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a xa võng, bà dà phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ TỨ
Bà dà phạm, tát đát đa bác đát ra.

Nam mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra, thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra, tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đon nă tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn, tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kê nể rệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tà đà ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa kê rị tệ phấn, bạt xà ra thượng yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ha ca ra dạ, ma ha mạt đát ri ca noa.

Nam mô ta yết rị đa dạ phấn, bí sắc noa tỳ duyệ phấn, bột ra ha mau ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, miệt đát ri duệ phấn, lạo đát ri duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết lạ ra đát rị duệ phấn, ca bác rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diển kiết chất, tát đỏa bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
ÐỆ NGŨ
Ðột sắc trà chất đa, a mạt đát ri chất đa, ô xà ha ra, dà bà ha ra, lô địa ra ha ra ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị bí ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bổ sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắc chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bệ lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tát ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, mụ đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha, thập phạt ra yên ca hê ca, tri đế được ca, đát lê đế dược ca, giả đột thác ca ni để thập phạt ra bí sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca, thất lê sắc mật ca, ta nể bác đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết noa du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, bí lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường dà du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, bộ đa bí đa tra, tra kỳ ni thập bà ra, đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri ba lộ đa tỳ, tát bác lô ha lăng già, du sa đát ra ta na yết ra tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạ tra bệ ra kiến đa ra, a ca ra một rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, bí rị sắc chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn dà tệ yết ra rị dược xoa đác ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra, ma ha bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàn ca lô di, bác ra tỳ đà bàn đàm ca lô di, đát điệc tha, án, a na lệ, ta xá đề, bệ ra bạc xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha.
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

CHÚ LĂNG NGHIÊM TRỊ BỆNH.

Mình là sinh viên, đã ăn chay và giữ giới, không ăn trứng và ngũ vị tân, đồng thời trì chú Kim Cang Thượng Sư được khoảng gần một năm.

Sau được người bạn nhắc nhở, mình liền quay qua tu pháp chú Lăng Nghiêm.

Mình trì Tâm Chú Lăng Nghiêm được khoảng 1-2 tháng gì đó, không rõ lắm.

Cũng bởi mình học về Đông Y nên mẹ ở nhà thỉnh thoảng đau nhức người hay đau mỏi lưng là nhờ mình lên day xoa bóp cho mẹ.

Một hôm, mẹ mình nhờ nhưng mình lười quá, thành ra mình giả vờ xoa xoa rồi âm thầm trì Tâm Chú Lăng Nghiêm ( Om Anale Anale Visada Visada Bandha Bandha Bandhani Bandhani Vaira Vajrapani Phat Hum Bhrum Phat Svaha)

Trì một lúc rồi thổi vô chỗ mẹ mình đau, thì mẹ mình bỗng dưng khỏi....
sau đợt đó, mình chỉ thấy kỳ lạ thôi, không nghĩ gì nhiều.
Qua kỳ nghỉ hè mình rời nhà đi học nơi xa, ở ký túc đôi khi bạn bè cũng nhờ day bấm huyệt hộ.
Nên hôm ấy mình mới trực tiếp thử xem có đúng là mình có thể dùng Tâm Chú trị bệnh không?
Mình liền áp tay vô lưng người cậu bạn, rồi nhắm mắt trì tâm chú Lăng Nghiêm. Sau được khoảng 3 phút, mình bỏ tay ra thử hỏi có thấy gì không?

Cậu bạn nói: Lúc tay mày đặt lên lưng anh thì cảm giác như có luồng điện hay gì đó tê tê chạy vào trong người, cảm thấy người nhẹ nhàng và dễ chịu hơn hẳn.

Mình và cậu bạn cũng thí nghiệm nhiều lần mỗi tối.
Có hôm, nó bị cảm lạnh, lạnh bụng và phổi, mình cũng áp tay sau lưng rồi ngồi tập trung trì chú thì nó kêu có một luồng hơi ấm ở bụng bỗng nổi lên rồi không lạnh bụng nữa, hơi ấm lan lên ngực như thúc đẩy hàn tà ra ngoài.

Cũng có nhiều biểu hiện khác nhau tuỳ từng bệnh trạng, lúc thì có biểu hiện thúc đẩy Bệnh tà theo đường kinh lạc ra ngoài từ lòng bàn tay và bàn chân.

Lúc thì trực tiếp từ nơi mình đặt tay tiếp xúc với lưng cậu bạn, âm trọc, tà hoả như kiểu hơi nước bốc hơi bốc ra ngoài.

Tác giả: DŨNG KIỀU

Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=6UGThrC ... iIqRjMVP1c


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Thực sự thì một số nhà sư cao tuổi , có tuổi hạ nhiều và có tâm thường hay giúp các phật tử chữa bệnh thần kinh, hay nói nôm na là bệnh điên bằng cách đọc chú Lăng Nghiêm nhiều lần và hồi hướng cho tên tuổi, địa chỉ, pháp danh của người bị bệnh điên.

Và đa số các trường hợp đều hết bệnh. Sau này một số phật tử thuần thành khi thấy trong cộng đồng có những người bị mắc bệnh loạn thần, thần kinh… cũng đều khuyên những người này trì chú Lăng Nghiêm để có trí óc lành mạnh, sáng suốt. Một số phật tử thì có lòng nên đọc chú giùm và hồi hướng cho người bệnh


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

NHỜ ĐỌC THẦN CHÚ LĂNG NGHIÊM MÀ HẾT BỆNH ĐIÊN

Cô Muổi có bà mẹ tên Sâm tự nhiên bỗng phát bịnh điên, bà rất nhỏ con, gầy gò, nhưng mỗi khi bà ấy lên cơn điên thì sức mạnh không thể tưởng nổi, bà có thể nhấc bỗng chiếc tủ gỗ đựng chén bát rất nặng, chiếc xe ba gác của ông hàng xóm dựng sát hàng rào, bà Sâm cũng có thể nhấc bổng lên.

Hàng xóm đoán là bà Sâm đã bị vong nhập, nên có mời 1 số thầy cúng tới làm lễ cúng cho bà nhưng cũng không khỏi, thậm chí bà Sâm ngày càng bị bệnh nặng hơn.

Vào ngày hè bà Sâm thường la hét, nói lảm nhảm một mình và tự xé quần áo của mình, bỏ nhà đi lang thang, tóc tai rũ rượi, người thân phải trói bà lại trong nhà.

Hàng xóm khuyên nên đưa bà Sâm vào bệnh viện tâm thần của thành phố để chữa bệnh.

Cô Muổi cũng nghỉ việc, mang bà Sâm đến bệnh viện tâm thần của thành phố để khám. Bác sỹ kê đơn cho gia đình đi mua thuốc, nhưng gần hai năm rồi, bệnh của bà Sâm cũng không thuyên giảm. Gia đình cô Muổi rất sầu não, đau khổ. Ai chỉ cho cách gì thì họ cũng ráng thực hiện, hy vọng mẹ sẽ hết bệnh điên.

Rồi một người trong xóm chỉ cho cô Muổi là có một ông thầy chùa nay đã lớn tuổi, tên là Tịnh Thông, ở 1 ngôi chùa thôn quê, tại miền Nam, sư có thể chữa được những căn bệnh điên, thần kinh, vong nhập, quỷ dựa…

Cô Muổi xin nghỉ việc, thu xếp hành lí mang mẹ tới ngôi chùa này.

Sau một hành trình cam go, đường sá xa xôi thì hai mẹ con cô Muổi cũng tìm được tới chùa. Gặp được vị sư Tịnh Thông như người ta đã chỉ, sau khi nghe cô Muổi trình bày bệnh tình của mẹ cô thì sư Tịnh Thông trầm ngâm, sư nói sư không có bùa phép hoặc quyền năng gì cả, sư chỉ có thể hướng dẫn cho cô Muổi và gia đình đọc chú Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa và các kinh khác hàng ngày, đọc Sám hối và hồi hướng tên họ, tuổi, địa chỉ, quê quán của bà Sâm mà thôi. Cô Muổi đồng ý theo chỉ dẫn của sư, vì cô cũng không biết làm gì khác nữa.

Sư Tịnh Thông sắp xếp cho hai mẹ con của cô Muổi ở 1 căn phòng nhỏ trong chùa, phía sau vườn trúc.

Hàng ngày, sư Tịnh Thông và 1 chú đệ tử còn trẻ, hướng dẫn mẹ con cô Muổi lên chánh điện, cung kính thắp nhang trước bàn thờ tượng Địa Tạng bằng đá sa thạch rất đẹp và nhìn tượng rất hoan hỷ, sáng sớm mỗi ngày đều đọc chú Lăng Nghiêm, mỗi ngày đọc 1 phẩm kinh Pháp Hoa vào buổi sáng và chiều thì đọc Từ Bi Thủy Sám, cúi lạy các hồng danh của các Đức Phật, đọc kinh Vạn Phật, thêm một lượt đọc chú Lăng Nghiêm vào buổi chiều và một lượt trì chú này vào buổi tối nữa. Tức là 1 ngày sẽ đọc chú Lăng Nghiêm 3 lần.
Hầu như cô Muổi rất thành tâm làm theo hướng dẫn của sư, còn bà Sâm thì mặt đờ đẫn, vô hồn.
Ngày nào hai mẹ con cũng dùng cơm chay trong chùa.

Tới ngày thứ 9, tự nhiên bà Sâm khóc to vật vã, kể rằng :” Ta chính là bà Y, đã mất cách đây 7 năm, có ngôi mộ chôn gần con đường làng.

Hàng ngày, bà Sâm đi chợ ngang qua mộ, đều chỉ hình ảnh của ta trên mộ và chọc ghẹo với mấy bà trong xóm cùng đi chợ về là:” Bà này nhìn cũng đẹp mà chết uổng”.

Rồi thỉnh thoảng, bà Sâm mỏi chân trên đường đi chợ về, còn ngồi nghỉ trên mộ của ta nữa, mà thái độ không cung kính, có vẻ giỡn mặt, đôi khi ăn quà bánh vừa mua ở chợ về thì bà Sâm còn giục rác xung quanh mộ của ta. Nên ta ( bà Y) mới nhập vào bà Sâm làm cho bà phát bệnh điên.”

Sư Tịnh Thông ôn tồn, nhẹ nhàng nói với vong của bà Y rằng :” Thôi con cũng đừng giận và quở phạt bà Sâm nữa mà tội nghiệp bà ấy, còn con cũng bị mang thêm tội. Nay bà Sâm đã biết lỗi và thành tâm sám hối rồi, con cũng nhờ được nghe kinh Phật, thần chú của Phật nói, được học Phật mà siêu thoát, những kiếp sau lại làm đệ tử Phật”.

Sư Tịnh Thông vừa dứt lời thì bà Sâm ngã xuống sàn của chánh điện, một hồi bà Sâm tỉnh dậy thì than mệt rồi chắp tay lạy sư thầy và xin làm đệ tử của sư.

Hai mẹ con cô Muổi cảm ơn sư Tịnh Thông đã giúp gia đình họ vượt qua khổ nạn và hứa sẽ dâng cúng 1 tượng Phật cho ngôi chùa này, cùng các kinh sách mà chùa cần.

Hai mẹ con cô Muổi cũng phát tâm ăn chay trường và phát nguyện trì chú Lăng Nghiêm, đọc kinh Pháp Hoa, lạy hồng danh Phật mỗi ngày tại nhà, còn sư Tịnh Thông thì tặng 2 mẹ con Muổi 1 tượng Địa Tạng bằng gỗ bách xanh rất đẹp và bóng láng, cao khoảng 25 cm, để hàng ngày gia đình có thể bái lạy tôn tượng.

Từ đó cô Muổi về kể cho bà con trong xóm nghe và rủ họ siêng đọc kinh, trì thần chú, niệm Phật, đọc sám hối để thoát khổ.

(Sưu tầm từ trang Nhân quả và phật pháp)


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: LINH ỨNG của CHÚ LĂNG NGHIÊM GIÚP HẾT UNG THƯ, GIA ĐÌNH ĐOÀN TỤ, DỨT NGHIỆN MA TÚY,HẾT BỆNH TRẦM CẢM

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

NHỮNG CẢNH CHẤN ĐỘNG BÉ GÁI NHÌN THẤY KHI NGHE TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM.

Tác giả :Hạnh Đoan tuyển dịch

Trì chú Lăng Nghiêm mấy năm, cơ thể tôi đã trải qua rất nhiều thay đổi không thể nghĩ lường, sức khỏe cũng được cải thiện đáng kể. Sự thanh tịnh của tâm khiến tôi được hưởng trạng thái pháp hỉ sung mãn, tạp niệm được tịnh hóa, định lực tăng cao có nhiều điều hay không sao tả hết.

Vài năm trước Tôi sống và làm việc tại quốc gia Ả Rập Saudi, nước này theo Hồi giáo và rất kỳ thị các tôn giáo khác. Nhưng ở đây hằng ngày tôi vẫn tinh tấn trì chú Lăng Nghiêm.

Có lần tôi bất cẩn bị mấy tên lưu manh bắt nhốt trong phòng, ép tôi phải nộp tiền cho chúng, còn đe doạ sẽ giết tôi.

Trong Khoảnh khắc tuyệt vọng đó, tôi khóc và niệm danh Bồ tát Quán Thế Âm không ngừng, nhờ vậy đối phương đã buông tha, chúng chịu thả và để cho tôi sống. Việc này khiến tôi càng tin tưởng tôn kính Tam bảo.

Một lần nọ vào buổi tối trên đường đi làm về, tôi đi qua khu phố vắng ở Trung Đông thì bị một chiếc ô tô đâm vào, nhưng thật kỳ diệu là tôi không bị thương, vì lúc đó tôi vừa đi vừa tụng chú Lăng Nghiêm. Lúc tai nạn xảy ra, tôi chỉ mới tụng xong Đệ Tam Hội.

Mùa hè năm ngoái, khi ở trong nước, nơi quê tôi đã gặp phải một cơn mưa lớn nửa đêm, mưa kinh khủng đến mức mọi người sợ hãi không dám ngủ, vì e rằng trận mưa khủng khiếp này sẽ mang đến thảm họa cho cư dân địa phương.

Tôi rời giường thành tâm cung kính trì mười biến chú Lăng Nghiêm, cầu chư Phật, Bồ tát thiên long hộ pháp che chở hộ trì, hy vọng cơn mưa bão sẽ giảm nhẹ và đình chỉ. Tôi trì chú Lăng Nghiêm đến biến thứ bảy, thì tiếng mưa bắt đầu yếu dần. Sau khi đọc xong 10 biến, thì mưa tạnh. Nhờ vậy mà tôi thầm cảm nhận sự linh diệu bất khả tư nghị của chú Lăng Nghiêm.

Ngày nào tôi cũng siêng năng trì chú Lăng Nghiêm, và mọi sự việc xung quanh lặng lẽ thay đổi theo hướng tốt.

Hằng ngày tuy thường đọc chú Lăng Nghiêm, nhưng tôi không biết ý nghĩa hàm ẩn chứa trong các câu thần chú này. Đối với nhiều hành giả trì chú Lăng Nghiêm nếu không thấy rõ cảm ứng của chú, họ cũng rất dễ mất niềm tin và thối tâm.

Thế nhưng, đúng như những gì Ân sư Phổ Quang đã dạy chúng tôi, khi tụng chú Lăng Nghiêm bạn chỉ cần nhiếp niệm, do mỗi câu mỗi từ trong chú Lăng Nghiêm đều dạy chúng ta thành Phật và chú Lăng Nghiêm có khả năng xóa sạch mọi thảm họa.

Giờ tôi xin chia sẻ chuyện một cô bé 8 tuổi nhìn thấy cảnh tượng khi trì chú Lăng Nghiêm. Thực ra đối với những cảnh bé nhìn thấy cũng chỉ là hoa trong gương, trăng trong nước ...

Nhưng tôi hy vọng những người mới bắt đầu trì chú Lăng Nghiêm khi xem bài văn này, nghe những gì tôi tường thuật, sẽ tăng thêm niềm tin và siêng năng trì chú Lăng Nghiêm. Tuy nhiên, xin bạn đừng chấp trước vào cảnh lạ, vì kinh kim Cang nói: "Những gì có hình tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng phi tướng, tức thấy Như Lai”…
Vào tháng 7 năm ngoái, tôi vừa tham dự đả thất ở Chung Nam Sơn xong và quay trở về nhà. Do lúc đó, mỗi khi sắp ra nước ngoài thì tôi thường hay đi thăm các bậc trưởng bối, quyến thân.

Khi tôi đến thăm mẹ nuôi, tôi đã kể cho bà nghe những điều hay và lợi ích của việc học Phật ăn chay của mình dạo gần đây, tôi tán thán công đức trì tụng thần chú Lăng Nghiêm, và vui miệng kể cho mẹ nuôi nghe những điều hay tôi đã chứng kiến và nghe thấy ở Quan Âm Cổ Động Chung Nam Sơn. Tôi còn đưa hình Sư phụ Phổ Quang cho bà xem.

Lúc đó, mẹ nuôi nhìn vào bức ảnh của Sư phụ và nghi ngờ hỏi: Có thực là vị Sư phụ này đã 115 tuổi không vậy? Trông ông trẻ quá!

Tôi nói rằng Sư phụ mới xuất quan, cả đời ngài chuyên trì chú Lăng Nghiêm, vậy mới biết chú Lăng Nghiêm linh diệu không thể nghĩ lường.

Mẹ nuôi tôi nghe xong liền phát biểu bà cũng muốn học trì chú Lăng Nghiêm, bà rành chú Đại Bi. Nhưng chú Lăng Nghiêm quả thực quá dài, có rất nhiều từ bà không biết. Do bà đã 60 tuổi rồi nên cũng lo việc học chú sẽ vất vả khó khăn.

Tôi nói chuyện với bà một hồi, sau đó bà xin tôi hãy tụng vài biến chú Đại Bi và chú Lăng Nghiêm giúp tạo khí lành cho gia đình bà.

Ngay sau đó, tôi ngồi xếp bằng trên ghế sofa trong phòng khách. Lúc này, hai đứa cháu của bà: Bé gái khoảng 8 tuổi học lớp Hai, và bé trai khoảng 5 tuổi đang học mẫu giáo.

Thấy tôi ngồi xếp bằng trên ghế sofa trong nhà chúng, bản tính hiếu kỳ của trẻ con trỗi dậy khiến chúng đến bên cạnh tôi đặt câu hỏi liên tục cả buổi.

Hai cháu hỏi tôi:

- Ba út đang làm gì vậy?
Tôi nói Ba út chuẩn bị tụng chú Lăng Nghiêm. Nghe vậy cháu gái liền khoe:- Con biết chú Đại Bi vì thường nghe bà tụng. Bà còn dạy con hằng ngày mỗi sáng phải nhớ niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát” như vậy con sẽ được thông minh và học giỏi.

Tôi nghe cháu nói trong lòng rất vui. Hóa ra mẹ nuôi tôi cũng biết dạy cháu niệm Phật. Chúng còn bé nhỏ như thế, mà sớm biết niệm Phật thì cũng là trồng thiện căn sâu dày.

Để đảm bảo lúc mình trì chú Lăng Nghiêm không bị hai đứa trẻ đùa nghịch gây ồn nên tôi khuyến khích, bảo chúng hãy ngồi xếp bằng trên ghế sofa, chắp tay lại, im lặng lắng nghe tôi trì kinh. Hai đứa bé tuy chưa hiểu biết nhiều nhưng cũng ngoan ngoãn làm theo lời tôi.

Đầu tiên tôi tụng bảy biến chú Đại Bi, tụng xong tôi hỏi hai bé có cảm nhận gì?

Cháu trai nói: Con nghe không hiểu gì Ba út ạ, nhưng chị nó phát biểu:

- Ba út! Ngay khi ba vừa đọc Thần chú Đại Bi, con thấy một vị Bồ tát xuất hiện, hễ ba niệm một câu thì hiện một vị, ba niệm nhanh Bồ tát cũng hiện nhanh, biến hóa rất mau, con còn nhìn thấy Bồ tát ngồi trên đóa hoa lớn, tay cầm tịnh bình và nhành dương chi.

Đứa trẻ không nói là hoa gì, do nó chẳng biết tên hoa, nhưng nó có vẻ xúc động và đưa tay chỉ vào hoa sen được trang trí trên cửa kính nhà nó, rồi bảo là: Hoa giống như vầy nè.

Tôi liền giải thích: Đó là hoa sen.

Con bé liền phát biểu: Con thấy hoa giống như vầy, nhưng màu hồng, rất lớn và xinh đẹp. Tôi nghe bé gái mô tả trong lòng âm thầm chấn động, té ra trẻ con có thể nhìn thấy những cảnh mà chúng ta không thể thấy.

Đồng thời, cũng chứng minh lòng từ bi của Phật và Bồ tát là chân thật, trước đây tôi có đọc những bài viết trên Internet kể về Thần chú Đại bi: Tụng một câu hiện một vị Bồ tát… nhưng bé gái này chưa từng đọc qua bài viết đó, vậy mà nó mô tả y hệt như thế.

Nghe cháu nói tôi cũng rất hiếu kỳ, lòng thầm muốn biết khi tôi tụng chú Lăng Nghiêm, bé có thể nhìn thấy những gì?
Do vậy khi tụng chú Lăng Nghiêm, tôi rất nhiếp tâm và hoàn toàn đọc theo bản của Sư phụ Phổ Quang.
Ví như chỗ nào trong Đệ Nhất Hội nói là báo đáp ân tình bảy đời mẫu thân, phụ thân… và các chỗ trong Ngũ Đại Tâm Chú… tôi đều trang trọng đọc lặp đi lặp lại ba lần. Khi tôi tụng xong thì hỏi Cháu gái: Con đã thấy những gì?

Con bé thưa: Ba út ạ, khi ba vừa tụng chú này, con thấy xuất hiện rất nhiều vị Phật hình dáng như trong chùa thờ vậy. Có rất nhiều, nhiều lắm, con kể không hết, chung quanh các ngài bốn phía đều phóng kim quang. Toàn là hào quang màu vàng ạ.

Khi Ba út đọc chú này, có vô số vị Phật xuất hiện hàng hàng lớp lớp chỉnh tề, ba niệm một câu thì xuất hiện rất nhiều Phật, ba càng niệm thì Phật xuất hiện càng nhiều, các Ngài hiện bao quanh nhìn giống như một đội ngũ hình vuông, đứng trang nghiêm tề chỉnh.

Có nhiều vị Phật ngồi trên những hoa sen lớn. Những bông hoa này có màu trắng, đỏ, tía, hồng, xanh, v.v. một số các vị Phật khác thì cưỡi trên con rồng.

Ngoài ra còn có rất nhiều rồng, rồng vàng, rồng trắng và nhiều người ngự trên những bông hoa.
Vừa nghe cháu gái nói, tôi rất phấn khích, hóa ra thần chú Lăng Nghiêm vi diệu không thể lường.

Sau đó, tôi đặc biệt đọc câu Ngũ Đại Tâm Chú “SẤT ĐÀ NỄ, A CA RA, MẬT RỊ TRỤ, BÁT RỊ ĐÁT RA DA, NÃNH YẾT RỊ” 21 lần.

Tôi niệm Ngũ Đại Tâm Chú xong, thì con bé mô tả:

Khi Ba út đọc câu này, con thấy một vị Phật lớn ngự ở giữa và bốn vị Phật vây quanh . Dần dần, có rất nhiều Phật vây quanh những vị Phật kia, các Ngài lần lượt đi quanh tạo thành vòng tròn bao bọc mỗi lúc càng trải rộng ra tới bên ngoài, chư Phật nhiều vô số, hiện ra rất chỉnh tề ngay ngắn, con không thể nào đếm xuể.

Sau đó, tôi cũng đọc riêng vài biến chú Lăng Nghiêm Bạch Tán Cái: “ TẤT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT LA”

Tôi niệm xong, thì hỏi con bé thấy gì?
Cháu thưa: Con thấy có một luồng hào quang màu trắng, sáng rực rỡ, tạo thành một vòng tròn lớn rất đẹp, rất lớn, lớn lắm!

Bên trong có rất nhiều hình dáng nhìn giống như rồng, còn toả hương rất thơm.
Những gì cháu mô tả làm tôi chấn động vô cùng. Đồng thời, tôi thầm cảm nhận được uy lực đáng kinh ngạc của chú Lăng Nghiêm.

Trước đây, Sư phụ Phổ Quang từng khai thị nói về thần chú Lăng Nghiêm, có nhắc đến 3000 vị Phật giờ chẳng phải đã rất minh bạch rồi sao?

Sau này trải qua nhiều lần được nghe Sư phụ khai thị, tôi tưởng là mình đã hiểu rõ lắm rồi, nhưng té ra ba ngàn vị Phật mà Sư phụ Phổ Quang thường nhắc đến, chính là do chư Phật vì tôn trọng chú Lăng Nghiêm, mà ba ngàn tôn Phật làm đại diện, phân ra năm phương, nên khi ta niệm chú Lăng Nghiêm thì chẳng khác nào niệm chư Phật.

Khi cháu gái mô tả cảnh hiện ra lúc tôi trì Ngũ Đại Tâm Chú, tôi càng hiểu rõ những lời mà ngày thường Sư phụ Phổ Quang luôn nhấn mạnh:

Trì Ngũ Đại Tâm Chú đặc biệt rất quan trọng, ngài nói rằng Ngũ Đại Tâm Chú là vua của 54 vị thần vĩ đại, là thần chú lớn trong Phật giáo, là tâm tạng Như Lai, là câu thần chú linh ứng quan trọng và hiệu quả nhất.

Do đó, mà Hòa thượng Tuyên Hóa và Sư phụ Phổ Quang đã nhiều lần lặp đi lặp lại, không ngừng nói với chúng ta rằng:
- Các con phải biết trân trọng tôn kính, hết lòng quý chú Lăng Nghiêm.

Dưới đây là khai thị quan trọng của Sư phụ Phổ Quang về chú Lăng Nghiêm:

Chú Lăng Nghiêm là chân ngữ, thật ngữ, được thuyết từ đại Phật đỉnh của Như Lai.

Câu chú này không có chút gì là giả dối – mà chính là chân ngữ, thật ngữ, tuyệt không hề vọng ngữ, không hề cuồng ngôn, có thể giúp chánh pháp trụ lâu nơi đời, là đại thần chú giúp thế giới sống hài hòa quốc thái dân an. Là linh văn giữa trời đất, là cứu tinh cho tất cả chúng sinh.

Chú Lăng Nghiêm là duyên khởi của chư Phật, là con đường giúp thành Phật. Câu thần chú này khi thuộc được thì nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo, lúc tâm không có chút niệm ô nhiễm sẽ đạt đến cảnh giới tối cao.

Lúc này đỉnh đầu bạn có thể phát quang, miệng tỏa ánh sáng. Toàn thân phóng quang minh, có thể làm tiêu mọi tai nạn, trừ tất cả thống khổ, có thể tiêu diệt tất cả tội, và bạn sẽ trở thành Phật.

Ngày 6 tháng 6 năm 2016 tại Quan Âm Cổ Động Chung Nam Sơn
Nguồn: sưu tầm internet


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.14 khách