Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Kính mời các bạn tham gia ghi lại kinh nghiệm tu tập và những gì mắt thấy tai nghe về sự cảm ứng nhờ hành trì giáo lý Phật.
dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

NIÊN BIỂU TỪNG NĂM ĐẾN KHI NHẬP DIỆT

*Năm 1970, Ngài giảng luận Đại Thừa Trăm Pháp Môn. Ngài thành lập chùa Kim Sơn, tại vùng Cựu Kim Sơn. Từ ngày mười lăm tháng mười một đến ngày hai mươi tháng hai năm tới, Ngài cử hành thiền thất trong một trăm ngày.
Khi ấy, Ngài giảng truyện Cao Tăng và cho ra tờ nguyệt san Phật Giáo chánh pháp, tức là Kim Cang Bồ Đề Hải.

*Năm 1971 Ngài giảng luận Đại Thừa Khởi Tín, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Sơ Tự kinh Hoa Nghiêm, Sớ Sao kinh Hoa Nghiêm.

*Năm 1972 Ngài giảng Mười pháp giới, không ngoài một tâm niệm, kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Phật Tổ Đạo Ảnh.
Ngày hai mươi tháng chín, kỳ Truyền Thiên Phật Tam Đàn Đại Giới được tổ chức lần thứ nhất tại chùa Kim Sơn.

*Năm 1973 Ngài thành lập viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế. Tại chùa Kim Sơn, Ngài thành lập trường tiểu học Dục Lương.
Hai đệ tử xuất gia, Hằng Cụ và Hằng Do, phát tâm hành trì ba bước một lạy, từ thành phố Cựu Kim Sơn, California đến thành phố Seattle, Washington vì cầu thế giới hòa bình.
Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo quốc tế, có người xuất gia hành ba bước một lạy.

(Phụ chú:

1970, San Francisco

Hội Phật Giáo Trung MỸ (sau này trở thành Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới), tổ chức ngày lễ Phật đản lần đầu tiên.
Hơn sáu trăm tín chúng đến làm lễ tắm Phật tại công viên quảng trường Liên Hợp. Chư tăng hướng dẫn tín chúng vào chánh điện ở nhà thờ Công Lý.

Ngài ngồi trong lễ đường nhà thờ Thiên Chúa giáo, và xem các đệ tử xuất gia trẻ đang hướng dẫn lễ tắm Phật, tượng trưng cho sự thanh tịnh hóa thân tâm.

Giảng Đường Phật Giáo, San Francisco

Có lần, Ngài bảo các học sinh đang học lớp viết chữ Tàu: Các con có thể phát triển công phu của mình trong mọi lúc. Các con có thể không cảm nhận được điều này.
Nhưng đối với Thầy, trong lúc viết chữ Tàu, luôn tự khống chế hơi thở của mình. Thật vậy, các con có thể học rất nhiều việc trong cuộc sống hằng ngày.

Ngài dạy chư đệ tử người MỸ cách thức vừa đi nhiễu, vừa tụng niệm. Khi đã thành một vòng tròn thì mất đi ý nghĩa của vị trí người đi trước và người đi sau cùng.

Người đi trước biến thành người đi sau cùng. Người đi sau cùng biến thành người đi trước. Mỗi người đều trở thành người đi sau cùng, và mỗi người đều biến thành người đi trước. Thật vậy, lý của vòng tròn là không có trước và sau. Ngài dùng ví dụ này để dạy về lý đấu tranh tham vọng, tham cầu lợi danh địa vị.

Trai Đường (nhà ăn), chùa Kim Sơn

Cây gỗ để sửa chữa chùa Kim Sơn có được là do sự cảm ứng của Bồ Tát Quán Âm. Ngày nọ, vợ chồng Quả Đồng, Lao Đốn, đệ tử của Ngài, biết một cơ sở thương mãi ở vùng Cựu Kim Sơn đang được kiến thiết, nên phải bỏ đi những gỗ cây cũ.

Ai ai cũng có thể lấy được mà không tốn tiền. Vợ chồng Lao Thốn báo tin này cho chùa. Sau đó một nhóm đệ tử trẻ được phái đi lấy củi đem về chùa. Những gỗ cây này là nguyên liệu chính để sửa chữa lại chùa Kim Sơn.

Những mãnh gỗ nhỏ còn dư lại được làm bàn ghế để trong nhà ăn. Ngài dạy những đệ tử người Tây Phương, không nên lãng phí vật dụng. Những nguyên liệu này được dùng tới dùng lui trong việc sửa chữa chùa Kim Sơn.

Đầu năm 1970, tại San Francisco

Kim Sơn Thiền Tự, Nghi Thức Truyền Cúng. Ngài hướng dẫn nghi thức Truyền Cúng lần đầu tiên. Khi ấy, một vị tỳ kheo đệ tử làm Pháp Chủ.

Từ lúc bắt đầu, Ngài huấn luyện các đệ tử bằng cách đặt họ vào vị trí lãnh đạo, còn chính Ngài thì luôn giữ thái độ khiêm cung; chỉ ban lời huấn dụ khi cần thiết.

Trì Giới thanh tịnh vô hà vết,

Trí tuệ quang chiếu biến đại thiên

dịch:

Trì giới thanh tịnh không tỳ vết,

Trí huệ chiếu sáng khắp đại thiên

1973, San Francisco

Lễ Khai Mở Viện Phiên Dịch Quốc Tế. Đây là nơi xuất bản những bản kinh tiếng Anh, được phiên dịch đầu tiên, đã hoàn thành. Trường tiểu học Dục Lương cũng được thành lập ở đây vào năm 1976.

1973, Viện Dịch Kinh Quốc Tế, San Francisco

Ngài khai quang điểm nhãn thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, bốn mươi hai thủ nhãn, để trang nghiêm và hộ trì viện Dịch Kinh Quốc Tế. Ngài dạy tụng câu chú: Thập Phật ra, thập Phật ra. Tần đà ra, tần đà ra. Chân đà, chân đà. Hổ tín, hổ tín, tức đoạn đầu, phần thứ tư, trong chú Lăng Nghiêm. Ngài viết kệ, giải thích câu: Thập Phật ra, thập Phật ra, là:

Phật bảo phóng ánh sáng khắp nơi

Chiếu cùng pháp giới, tạng hư không

Chỉ rõ nhập vào chánh tri kiến

Vô thượng Bồ Đề, vua đại giác.

1973, San Francisco

Lễ xuống tóc, xuất gia tại chùa Kim Sơn vào tháng mười một.

1/ Hằng Phước, vốn là vị thí chủ của Giảng Đường Phật Giáo tại Hồng Kông.

2/ Hằng Phủ, khi chưa xuất gia, lần nọ, Thầy đến phỏng vấn Ngài. Tay Thầy cầm bao giấy, trong đó có một cây búa, mà vị đệ tử theo hầu Ngài chẳng biết. Đến khi Ngài hỏi ra, thì mới biết là trong bao giấy có cái búa.

3/ Hằng Trân, đã phiên dịch Sự Tích của ngài Tuyên Hóa, và Chú Giải Kinh A Di Đà của Ngài ra tiếng Tây Ban Nha.

4/ Hằng Không, thầy đã từng nhịn ăn trong bảy mươi hai ngày, trì chú Lăng Nghiêm tám giờ một ngày trong một khoảng thời gian, mỗi lần ngồi thiền trong tư thế kiết già khoảng mười hai giờ.

5/ Hằng Lộc, con trai độc nhất của một thương gia tại vùng San Francisco.

6/ Hằng Trầm, một phụ nữ đến từ Nam Phi.

Kim Sơn Thiền Tự, San Francisco

Giáo sư Edward Conze là một học giả Phật giáo nổi tiếng. Khi đang dạy tại đại học University of Washington, Seattle, một học sinh của ông ta là Ronald Epstein (hiện là giáo sư trường đại học San Francisco State University) viết bài luận án cho bản dịch của ông ta về bài kệ chú giải Tâm Kinh của ngài Tuyên Hóa.

Một học sinh khác của ông, sau khi tham dự pháp hội giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm trong mùa hè 1968, liền phát tâm xuất gia, pháp danh là Hằng Tĩnh.

Giáo sư Lewis Lancaster, khoa trưởng phân khoa Phật học tại đại học University of Berkeley, cũng là ủy viên chủ khảo luận án tiến sĩ của ông Ronald Epstein (tức giáo sư Ronald Epstein, hiện tại) về bài dịch Bảy Chỗ Hỏi Tâm của Ngài A Nan.

Thật rất kỳ lạ, trong hình chụp, hiện ra điềm lành, một bảo cái ba cạnh tám góc, màu trắng.

Redwood City, California

Giáo sư Lewis Lancaster thỉnh mời Ngài diễn giảng cho sinh viên đại học University of Berkeley nơi khu tu học tại Redwood City.

Nơi đó, Ngài giải thích cho thanh niên sinh viên về nguồn gốc của chữ Buddha. Chữ Buddha này được phiên dịch ra tiếng Tàu là Phật Đà Da.

Sau này được gọi tắt là Phật. Ngài bảo rằng nếu như sống vào thời phiên dịch chữ Buddha, thì Ngài sẽ đề nghị phiên dịch chữ Buddha ra tiếng Tàu là Bất Đại, nghĩa là không lớn.

Do vì Phật không lớn, không nhỏ, không đến không đi.

San Francisco

Sau cái chết đột ngột của Sơn Mỗ (Sufi Sam), vài thành viên của nhóm Huyễn Mộng Ca Ly, đồng mơ thấy Sơn Mỗ hiện về, ba lần trong một đêm.

Sơn Mỗ bảo: Nay mới hiểu rõ rằng tôi thật không đủ tư cách dạy các vị, vì tôi không thật chứng đắc.

Nay tôi rất lấy làm hối tiếc là tuy gặp ngài Tuyên Hóa mà không học được gì cả. Các vị phải nên đến chùa, quy y ngài Tuyên Hóa. Ngài Tuyên Hóa có đủ tư cách để dạy các vị. Ngài thật là vị đã chứng đắc.

Ngày kế, sau khi luận bàn về giấc mộng, nhóm người Huyễn Mộng Ca Ly, gọi điện thoại đến chùa Kim Sơn, hỏi thăm khi nào có lễ truyền tam quy y.

Quy y xong, họ thường đến chùa Kim Sơn để tu học, nghiên cứu Phật pháp. Sau khi trường tiểu học Dục Lương được thành lập vào năm 1976, họ cũng gởi con cái đến học.

*Năm 1974 Ngài thành lập trung tâm Bồ Đề Đạt Ma tại Seattle. Ngài giảng kinh Bốn Mươi Hai Chương, Sa Di Luật Nghi Yếu Giải.

Chư đệ tử hộ pháp cúng dường khu đất rộng gần năm trăm mẫu đất tại vùng bắc California.

Từ ngày hai mươi tháng mười một đến ngày mười hai tháng giêng năm kế, Ngài huớng dẫn chư đệ tử qua hoằng pháp tại Hồng Kông, Ấn Độ, Tân Gia Ba, Việt Nam, Đài Loan, v.v...

*Năm 1975 Ngài thành lập chùa Kim Luân tại Los Angeles. Ngài giảng chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông.

*Năm 1976, ngày ba mươi tháng tám, tại Vạn Phật Thánh Thành Ngài cử hành kỳ Truyền Thiên Phật Tam Đàn Đại Giới lần thứ hai. Ngài thành lập trường nam nữ trung học Bồi Đức và đại học Phật Giáo Pháp Giới.

(Phụ chú:

1974, Berkeley

Nhân ngày vía Quán Âm Bồ Tát Thành Đạo, Ngài chủ trì pháp hội phóng sanh tại Berkeley Marina, năm 1974.

Ý nghĩa phóng sanh: Nếu chúng ta tôn trọng quyền lợi tự do, việc sanh tồn của mọi loài chúng sanh, và thường phóng sanh thì áp bức, chiến tranh, và giết chóc có thể tận trừ mà không dùng võ lực. Chuyển tâm hận thù, ghen ghét, xâm lược, thành tâm từ bi, hòa bình.

Phóng sanh những chúng sanh xấu số, chúng ta có thể tự giải thoát chính mình và thế giới vượt ngoài nghiệp giết hại.

Berkeley, Pháp hội phóng sanh tại Berkeley Marina

Trong những năm Ngài vừa đến MỸ, đa số tín chúng là người Tây Phương, gồm nhiều sắc tộc, văn hóa khác nhau.

Đối với truyền thống, nghi thức Phật giáo, không ai biết đến cả.

Do đó, Ngài phải lập đi lập lại, giải thích, hướng dẫn về phương thức làm lễ, hoạt động v.v..., cho đến khi nhóm đệ tử thuần thành, hiểu rõ, hòa đồng sự hiểu biết và nhận thức. Trong hình, Ngài hướng dẫn các đệ tử đặt những hộp củi thành hình chữ Phật, trước khi làm lễ phóng sanh.

Vì số người xuất gia ngày càng đông, Ngài cần phải tìm một đạo tràng tương xứng.

Ngài cũng bỏ ra một phần thời gian, sức lực, mồ hôi, mệt mỏi tìm kiếm đạo tràng tương xứng để xây dựng tu viện, chánh điện, viện dịch kinh, trường học, trung tâm huấn luyện, viện dưỡng lão, nhà cư sĩ v.v...

Trong những ngày tìm kiếm chỗ, Ngài là người đầu tiên leo lên núi non, và cũng là người đi sau cùng.

1974, Seattle.

Ngài chủ trì pháp hội Hòa Bình Thế Giới. Hơn năm trăm người tham gia hoạt động trong ngày đó với tâm chân thành, một lòng cầu nguyện thế giới hòa bình.

Pháp hội Hòa Bình Thế Giới trùng hợp với ngày hai thầy Hằng Cụ và Hằng Do hoàn thành nguyện hạnh Đi ba bước, lễ một lạy, từ thành phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Hai vị tỳ kheo khác, thầy Hằng Quán và Hằng Không, cũng tham dự pháp hội đó vào lúc đang nhịn ăn trong bảy mươi hai ngày.

Hai tỳ kheo, Hằng Cụ và Hằng Do, vì cầu thế giới hòa bình, nên hành nguyện Ba Bước Một Lạy, từ thành phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Cuộc hành trình bắt đầu vào tháng mười năm 1973 và hoàn thành vào tháng tám năm 1974. Đây là cuộc hành trình kỳ đặc trong lịch sử Phật giáo thế giới.

Thầy Hằng Quán và Hằng Không tuyệt thực trong bảy mươi hai ngày, không ăn uống chi cả, chỉ uống một ly nước lạnh vào mỗi ngày. Hình Ngài chụp với hai thầy Hằng Quán và Hằng Không (đang đứng), và Quả Hồi (cũng nhịn ăn trong ba mươi lăm ngày).

Kim Sơn Thiền Tự, San Francisco

Ngài cho thầy Hằng Cụ bánh pie, chúc mừng thầy hoàn thành nguyện hạnh Ba Bước Một Lạy từ thành phố San Francisco đến thành phố Marblemount, Washington. Câu chuyện xảy ra như sau:

Thầy Hằng Cụ, khi còn làm cư sĩ, học hạnh ăn một ngày một buổi, nhưng rất khó. Ngày nọ, trên đường đi làm về, chàng mua một hộp bánh pie, rồi bỏ vào túi áo choàng. Trong lúc nghe giảng kinh thuyết pháp vào buổi tối, chàng không nhớ nghĩ chi hết ngoại trừ hộp bánh pie. Thế nên, chàng nóng lòng, mong đợi buổi giảng kinh sớm kết thúc để được ăn bánh pie.

Nghe giảng kinh xong, không nói lời nào với ai, chàng lẳng lặng trèo lên cầu thang ống khói để leo lên trên nóc nhà.

Chàng bắt đầu đi vòng vòng, rồi mở hộp bánh pie ra ăn; cắn một miếng bánh to tướng. Đang khi đi vòng vòng ống khói trên nóc nhà, đột nhiên chàng thấy Ngài, cũng vừa leo lên cầu thang. Ngài bắt đầu đi rảo, ngược vòng và đối diện với chàng.

Lúc đó, miệng chàng đang ngậm một miếng bánh pie to tướng, nên không thể nói năng chi được. Chàng chỉ cuối đầu lễ bái và tiếp tục đi vòng vòng. Như thế, họ đi ngược và đối diện với nhau cả thảy ba vòng. Lần thứ ba, Ngài hỏi chàng: Con cảm thấy thế nào?.

Sau đó, Ngài bước xuống cầu thang.

THÁNG MƯỜI 1974, SÀI GÒN, VIỆT NAM

Phương Quả Ngộ, đệ tử của Ngài, là người thường đi du lịch khắp thế giới.
Bà cùng chồng sống ở Sài Gòn.
Nơi đây, họ có rất nhiều cơ sở và đất đai.
Trước khi tình hình chính trị biến đổi ở Sài Gòn, Ngài Tuyên Hóa đột nhiên gọi điện thoại cho vợ chồng bà.

Khi đó, cả hai vợ chồng đều ở nhà. Bà Phương Quả Ngộ rất ngạc nhiên về cú điện thoại đó, nên nhanh nhẩu hỏi Ngài rằng có việc gì quan trọng không.
Được trả lời là không có việc gì quan trọng hết, nhưng trong lúc điện đàm, Ngài khuyên hai vợ chồng là nếu không có gì đặc biệt, nên thu xếp công việc làm ăn gọn gàng, để qua MỸ sớm.
Tuy thế, họ không nghe lời khuyên của Ngài mà qua MỸ sớm. Kết quả, sau khi tình thế chính trị thay đổi, họ bị mất mát hơn nửa gia tài.

1975, Oregon:

Ngài hướng dẫn bốn chúng đệ tử đến tu hành tại một khu rừng ở tiểu bang Oregon. Nơi đó, Ngài cử hành pháp hội niệm danh hiệu Phật A Di Đà ngoài trời.
Ngài cũng giải thích về pháp môn Tịnh Độ, tức luôn niệm danh hiệu Phật A Di Đà.
Đang lúc giải thích về phương pháp niệm Phật trong cuộc sống hằng ngày, ánh đèn dầu đột nhiên phực lên một luồn hào quang tỏa sáng, bao trùm xung quanh đầu Ngài.

Oregon

Trong hình, Ngài đang chủ trì lễ phóng sanh tại bờ biển Oregon, vào lúc cực điểm của kỳ Phật thất tại Phật Căn Địa, tức vùng đất có căn tánh Phật. Ngài dùng nhiều phương tiện thiện xảo để dẫn dắt thanh niên người MỸ, bước vào cửa Phật. Sau kỳ Phật thất kết thúc, Ngài dời toàn bộ hội tràng từ trong khu rừng ra đến ngoài bãi biển. Khi hoàng hôn vừa xuống, mọi người đều hướng về phía tây, phát nguyện cầu vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc, và hồi hướng công đức lành tu tập, cho tất cả chúng sanh.

Trong hình, Ngài và pháp sư Huệ Sanh, cùng các đệ tử xuất gia, giảng pháp cho sinh viên đại học. Có những năm, Ngài thường đến các trung tâm giáo dục, để giảng kinh thuyết pháp, như đại học University of California at Berkeley và Davis; the University of Southern California, Los Angeles; Stanford University; the University of Wisconsin; the University of Minnesota; Humbolt State University; the University of Oregon; the University of Washington; the University of Hawaii; the University of British Columbia.

1976, SANTA CLARA

Tại Công Viên Trung Ương, Ngài thuyết giảng cho thanh niên MỸ nghe về đề mục: Tinh Thần Hòa Bình. Trong hình này, chứng minh rõ ràng rằng Ngài có nhiều nhân duyên với thanh niên người MỸ. Đến bất cứ chỗ nào, thanh niên người MỸ luôn bị thu hút bởi lòng từ bi ấm áp, lời ngay thẳng, siêu vượt chướng ngại của ngôn ngữ và văn hóa, năng lực tương thông thần kỳ của Ngài.

Do đức hạnh tu hành, Ngài cảm hóa được những thanh niên người MỸ, khiến họ từ từ dẹp bỏ tâm niệm Sống phóng túng và tự do cá nhân, và lần lần nghiên cứu, học Phật pháp, như trì thánh hiệu Phật A Di Đà. Hình chụp những thanh niên người MỸ, đi nhiễu và niệm Phật theo các vị tăng ni.

1976, San Francisco

Ngài chủ trì buổi lễ cạo tóc xuất gia. Trong năm, có thêm bốn vị thanh niên nam nữ, phát tâm tu đạo, gia nhập tăng đoàn, như thầy Hằng Thật, Hằng Thuận, sư cô Hằng Cư, và một vị tăng người Á Châu (đây là vị đệ tử xuất gia người Á Châu đầu tiên, kể từ khi Ngài qua MỸ).

Thập niên 70, tại Kim Sơn Thánh Tự

Các đệ tử đang nghe Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm Sao Tự của kinh Hoa Nghiêm, Sớ Sao kinh Hoa Nghiêm.

Trong những buổi giảng kinh, Ngài thường khuyến khích các đệ tử chuẩn bị, tập giảng kinh. Các vị đệ tử thường không bao giờ biết được là Ngài sẽ gọi tên ai lên tập thuyết pháp.

Các đệ tử thường dùng máy nghe để lắng nghe tiếng Tàu, trong lúc tiếng Anh đang được phiên dịch. Đồng thời, có các đệ tử, vừa lắng nghe tiếng Tàu vừa đánh máy và phiên dịch kinh ra tiếng Anh trong phòng cách âm.

Ngài luôn tùy duyên lành mà hóa độ chúng sanh. Làm bất cứ phương tiện thiện xảo gì, Ngài đều nhắm vào việc giáo hóa chúng sanh. Ví như những việc mà Ngài cho phép các đệ tử làm cho mình, không nhất định là do ý muốn.

Ví như, trong lúc giảng kinh, các đệ tử thường thích đem nước uống cho Ngài dùng. Thời gian sau, một trong những người đệ tử, vì lo chuẩn bị nước uống cho Ngài, nên bỏ buổi tụng kinh chiều. Ngài không thích việc này, nhưng không nói điều chi. Sau này, Ngài bắt đầu than phiền là tách nước mà người đệ tử mang nước uống cho Ngài, rất là dơ. Việc than phiền này không kết quả, nên cuối cùng, Ngài dùng phương pháp khác. Tối hôm nọ, Ngài uống gần cạn hết nước trong tách, rồi bắt đầu cố ý nhìn chăm chú vào tách nước đó. Chẳng bao lâu mọi người đều để ý đến sự chăm chú nhìn tách nước của Ngài. Khi đó, trong lúc xem xét tách nước, Ngài gọi thầy Hằng Tĩnh lên nơi tòa giảng kinh, rồi tuyên bố rằng có một con trùng trong tách nước. Thế nên, Ngài bảo thầy Hằng Tĩnh hãy nhìn vào tách nước và nói với đại chúng những gì mà thầy thấy. Thầy Hằng Tĩnh ngó vào tách nước rồi nói:

- Những gì con thấy chỉ là trong nước có cặn cáu.

Ngài bảo:

- Không phải là cặn cáu, mà là con trùng. Hãy đưa chuyền tách nước này cho mọi người xem.

Thầy Hằng Tĩnh làm theo lời dạy của Ngài. Những đệ tử nhìn xem xét rõ ràng, thì chỉ thấy một lớp cặn cáu bên dưới đáy tách nước. Chuyền vòng vòng giảng đường xong, cuối cùng tách nước được mang về và đặt trên bàn giảng kinh của Ngài.

Ngài tiếp tục giảng kinh Hoa Nghiêm. Nhưng trong những lúc các đệ tử phiên dịch lời giảng giải ra tiếng Anh thì Ngài đều nâng tách nước lên và nhìn chăm chú vào đó. Cuối cùng, Ngài lại gọi thầy Hằng Tĩnh lên trên bục giảng, bảo:

- Hãy nhìn kỸ vào đó, rồi nói cho thầy nghe những gì con đã thấy.

Thầy Hằng Tĩnh ngó vào tách nước, rồi kinh hoàng phản ứng:

- Sao lạ kỳ vậy! Một con trùng hiện rõ trong tách nước.

- Hãy chuyền vòng vòng.

Lần này các đệ tử thật sự thấy rõ một con trùng tám chân, sắc thân năm màu, không giống như những con trùng trên thế giới này. Tối đó, mọi người đều thấy được những gì mà họ chưa từng thấy, còn thầy dâng nước lên cho Ngài cũng học được một bài học.

Sau việc này, Ngài dạy:

- Thầy không muốn là người mà khiến cho con phải bỏ mất buổi tụng kinh chiều. Thầy không có đủ phước đức, nên không muốn chịu trách nhiệm về nhân quả này.

Tháng tám, năm 1976, Vạn Phật Thánh Thành.

Lần thứ nhất tại Vạn Phật Thánh Thành tổ chức Tam Đàn Đại Giới. Khi đó, Ngài làm vị Đắc Giới Hòa Thượng. Đặc biệt, trong lần truyền giới này, có sự chứng minh của nhị vị hòa thượng người Việt Nam là hòa thượng Đức Niệm và cố hòa thượng Thiện Thanh.)

Vạn Phật Thánh Thành

Do đức hạnh của Ngài chiêu cảm, càng ngày có thêm nhiều thiện nam tín nữ, phát tâm xuống tóc tu hành, gia nhập tăng đoàn.

BAN PHƯỚC LÀNH CHO RÙA

Sau khi được thả xuống nước, những con rùa trong hình, không nở rời xa ân nhân của chúng, nên quay đầu lại nhìn, trước nguyên do được thả kỳ lạ. Việc xoay đầu lại nhìn, biểu thị sự cảm ân của chúng, khiến Ngài nhoẽn miệng cười, âm thầm ngửa tay ra để ban phước lành cho chúng.

1977, Vạn Phật Thánh Thành

Khi phái đoàn tôn giáo đến thăm Vạn Phật Thánh Thành, ngài bảo hồng y Vu Bình:

Ngài là Phật Tử giữa những người thiên chúa giáo, còn tôi sẽ là người Thiên Chúa giáo giữa những người Phật Tử.

Hồng y Vu Bình đồng ý.

1977, Tại công viên cầu Kim Môn.

Tín chúng đang trên đường đến công viên cầu Kim Môn, để tham gia pháp hội Cầu Mưa, hy vọng giải trừ hai năm hạn hán đã khiến vùng California, trở nên khô cằn.

1977, Tại công viên cầu Kim Môn.

Mọi người đều luân phiên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và chú Cầu Mưa. Cộng thêm, có những bài pháp, giảng về lý nhân quả căn bản: Tại sao trời không mưa? Chỉ vì chúng ta quá tham lam ích kỶ, tiêu xài nước hoang phí. Nếu biết tự nhận ra lỗi lầm này mà thành tâm sám hối, thì sẽ được cảm ứng.

Người tham gia pháp hội Cầu Mưa, lần lần tăng thêm. Đại chúng vừa xướng tụng, vừa lễ bái. Trong lúc mọi người tụng niệm chú ngữ Cầu Mưa thì nền trời bắt đầu hiện lên những áng mây trắng, và gió cũng thổi đến.

Có mưa không? Vâng, đã có mưa. Sáng ngày hôm sau, tại huyện Mendocino, phía bắc thành phố Cựu Kim Sơn (Vạn Phật Thánh Thành nằm trong huyện này), báo chí đăng tải là đã có mưa. Đến 11:30 giờ trưa cùng ngày, mưa xuống khắp thành phố Cựu Kim Sơn. Những phóng viên nhà báo, trở lại Max Meadow, nơi mà họ đã đến và viết tin tức về pháp hội Cầu Mưa vào ngày hôm trước, để tường thuật sự việc, ngay tại nơi đây. Cô phóng viên tường thuật: Nơi đây, một bàn thờ do các Phật tử thiết lập để cầu mưa. Trời vừa đổ mưa thuận theo lời cầu nguyện của họ. Hôm nay, một vũng nước lớn đọng nơi bàn thờ được thiết lập.

Ngài ở lại chùa, không đến tham gia pháp hội Cầu Mưa tại công viên cầu Kim Môn, nhưng trực tiếp chỉ đạo toàn pháp hội.

Mùa xuân năm 1978, Vạn Phật Thánh Thành

Hội thảo về đề tài Tử vong và lâm chung. Một phần của hai gốc cây Ái Kiết, là chủ đề trong cuộc hội thảo về Tử vong và lâm chung.

Gốc cây này được tìm thấy trong chùa trong dịp hội thảo, và được mang đến cho Ngài. Ngài giải thích rằng gốc cây này chính là một cặp vợ chồng. Trong đời tiền kiếp, họ đã cùng nhau thề nguyền rằng đời đời kiếp kiếp sẽ không mãi rời nhau. Do vì cộng nghiệp, đời này họ trở thành hai gốc cây, vĩnh viễn ôm bọc lấy nhau. Ngài bảo: Ái tình vốn là cội gốc của dòng sanh tử luân hồi.

Ngài thuyết pháp trong kỳ thiền thất vào mùa đông. Mỗi năm, Vạn Phật Thánh Thành luôn tổ chức thiền thất vào mùa đông. Thiền thất chiếm khoảng vài tuần. Mỗi ngày, thiền sinh ngồi thiền từ ba giờ sáng đến mười hai giờ tối. Giữa mỗi lần ngồi, thiền sinh có hai mươi phút nghỉ ngơi. Vào buổi chiều, được nghỉ khoảng một giờ. Dưới sự dạy dỗ kiên nhẫn của Ngài, các đệ tử dần dần học những phương cách ngồi thiền. Khi đó, mọi người đều ngưng mọi công việc hằng ngày để tham gia vào kỳ thiền thất hiếm hoi này.

Tiểu trai đường (nhà ăn nhỏ) tại Vạn Phật Thánh Thành. Lúc đầu, tại Vạn Phật Thánh Thành, tất cả mọi vật đều rất đơn giản. Ngài thường cùng với các đệ tử tỳ kheo, tỳ kheo ni thọ trai. Củi đốt trong nhà sưởi là nguồn nhiên liệu chính để sưởi ấm đại chúng trong lúc ăn cơm.

Phòng Vô Ngôn.

Ngài hiển thị Tam Muội Du Hý, trong lúc đang dạy về thần chú Thủ Lăng Nghiêm tại phòng Vô Ngôn. Mỗi câu chú, Ngài đều làm một bài kệ, bao hàm những nghĩa lý nhà Phật thâm thúy.

Ái nhân bất thân cố kỳ nhân

Lễ bỉ phất đáp kính vị chân

Hồi quang phản chiếu cầu chư kỶ

Cảm ứng đạo giao mạt mê thần

dịch:

Thương người, người chẳng gần, hãy nhìn lại lòng nhân từ của mình.

Lễ người, người chẳng đáp, lòng cung kính của mình chưa chân thật.

Xoay ánh sáng lại vào mình, tìm giải đáp từ bên trong.

Cảm ứng đạo giao, chớ bị mê muội vì thần.)

*Năm 1977, mồng bảy tháng giêng, hai đệ tử xuất gia người MỸ, Hằng Thật và Hằng Triều, vì cầu nguyện hòa bình thế giới, phát nguyện hành ba bước một lạy, từ chùa Kim Luân, Los Angeles, đến Vạn Phật Thánh Thành, bắc California. Tháng mười một, ông Vu Bình, hồng y Thiên Chúa giáo, hướng dẫn phái đoàn các tôn giáo đến viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành.

(Phụ chú:

Vùng biển phía tây, MỸ quốc.

Hai thầy Hằng Thật và Hằng Triều phát tâm cuộc hành hạnh ba bước một lạy. Trong thời gian này, Ngài lập ra năm tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi. Sau này, tại Vancouver, Ngài cộng thêm một tông chỉ nữa là không nói láo.)

*Năm 1978, từ ngày ba mươi tháng bảy đến ngày hai mươi bảy tháng chín, thể theo lời thỉnh mời của các hội Phật Giáo vùng Đông Nam Á, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp Á Châu, thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Đại Học Phật Giáo Pháp Giới qua Mã Lai Á, Tân Gia Ba, Thái Lan, Hồng Kông. Trong mười hai ngày hoằng pháp tại Mã Lai Á, có hơn sáu ngàn người thọ giới quy y Tam Bảo. Từ mồng mười đến ngày mười bảy tháng chạp, Vạn Phật Thánh Thành cử hành lễ truy niệm và cầu siêu độ trong bảy ngày liền cho hồng y Vu Bình, thị trưởng thành phố Cựu Kim Sơn George Moscone, cùng bao linh hồn tử nạn trong pháp giới. Vào lúc ấy, Ngài giảng kinh Địa Tạng.

(Phụ chú:

1978 Mã Lai Á.

Khi Ngài qua Đông Nam Á hoằng pháp,trên đường ghé lại Mã Lai Á, thầy Hằng Triều và sa di Quả Đồng đều bị bịnh, nên đồng tịnh dưỡng tại một căn phòng.
Vì bịnh tình thầy Hằng Triều rất nghiêm trọng, nên Ngài bảo thầy Hằng Thật trông coi ngày đêm. Trưa hôm nọ, đang lúc tụng chú Đại Bi, sa di Quả Đồng chợt ngủ gục, đột nhiên thấy quỶ vô thường cỡi gió lạnh đến. Việc này cả hai thầy kia đều cảm giác được. Thân ốm gầy, đội nón cao, quỶ vô thường tuyên bố là thời gian đã đến, Quả Đồng nên đi theo nó.

Giữa ranh giới sống chết, Quả Đồng run rẩy, lập tức vội vã niệm chú Đại Bi. Khi đó, thầy Hằng Triều đang nửa mê nửa tỉnh.

Mặc dầu bận rộn mệt mỏi vì thuyết pháp cả ngày, nhưng Ngài vẫn từ bi đến thăm, nâng tay thầy Hằng Triều lên, khiến cho thầy từ từ mở mắt, tỉnh giác được hoàn cảnh xung quanh. Diêm Vương muốn thầy Hằng Triều chết.
Vì vậy, Ngài bắt ấn viết chú đến cho Diêm Vương. Ngài nói rằng vị đệ tử này, rất thành tâm phụng đạo. Do đó, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Ngài cũng không cho phép Diêm Vương bắt đi. Sau đó Diêm Vương được thuyết phục và thầy Hằng Triều từ từ bình phục trở lại.

Từ đó, cả hai thầy, Hằng Triều và Quả Đồng, nghiệm được bài học là khởi nhiều vọng tưởng rất nguy hiểm, phải nên dụng công tu hành trong đất tâm, tránh khởi tâm niệm ô trược. Sau khi lành bịnh, Ngài từ bi bảo thầy Hằng Triều:

Thầy tận lực thuyết phục Diêm Vương để cho con tiếp tục sống. Công đức tu hành tích tụ sau bao năm, nay đã hết trọn. Tuy vậy, đừng lo lắng, con vẫn có thể tích công bồi đức, vì Phật pháp mà nỗ lực tinh tấn tu hành.

Đi đứng nằm ngồi

Chớ rời vật này.

Rời xa vật này

Sẽ là sai lầm.

Phòng Vô Ngôn, Vạn Phật Thánh Thành.

Ngài giải thích cho các đệ tử về quyển Phật Tổ Đạo Ảnh. Mỗi vị tổ, Ngài viết tám câu kệ. Trong lớp, Ngài dùng những chủ đề: Động lực thôi thúc phát triển trí năng chủ quan, làm phương thức dạy. Các đệ tử, theo sự chỉ dẫn, thay phiên nhau, lên bảng viết, giải thích những câu kệ này bằng tiếng Anh và tiếng Tàu. Sau khi các đệ tử thực tập giảng giải xong, Ngài mới bắt đầu giải thích những câu kệ đó. Những lớp học như vầy, kéo dài khoảng bốn năm tiếng, bao gồm rất nhiều đề tài. Phụng sự giáo dục của Ngài là điều căn bản mà các đệ tử phải nhớ đến.

Ngài dạy học rất sớm (khoảng sáu giờ hay sáu giờ rưởi), với nhiều lý do:

1/ Những người lo việc nấu nướng có thể tham dự lớp học trước khi đến nhà bếp làm việc.

2/ Thầy cô giáo và học sinh có thể tham dự trước khi đến trường học.

3/ Ngài có thể đi xuống thành phố Cựu Kim Sơn sớm.

Thỉnh thoảng, vừa lúc từ thành phố Cựu Kim Sơn trở về Vạn Phật Thánh Thành, Ngài liền dạy học, không nghỉ ngơi chút nào.)

*Năm 1979, trường tiểu học Dục Lương được dời về Vạn Phật Thánh Thành. Ngày mười bốn tháng ba, trong cuộc đàm luận với Quentin Kopp, ủy viên đoàn Tổng Quản thành phố Cựu Kim Sơn, Ngài tiên đoán rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ tan rã trong vòng mười năm.
Tháng mười, ngày hai mươi tháng tám, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ ba tại Vạn Phật Thánh Thành được viên mãn. Mồng bốn tháng mười một:

1/ Lễ khai quang thánh tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát.

2/ Khai mở đại học Phật Giáo Pháp Giới.

3/ Ngài hoàn tất giảng toàn bộ kinh Hoa Nghiêm trong chín năm.

4/ Đệ tử xuất gia người MỸ, Hằng Thật và Hằng Triều, hoàn tất hành trình ba bộ một lạy.

Ngài giảng Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm, sớ kệ chú giải về chú Thủ Lăng Nghiêm, kinh Di Giáo.

*TỪ NĂM 1980 ĐẾN NĂM 1986, NGÀI THÀNH LẬP TRUNG TÂM CỨU TRỢ NGƯỜI TỊ NẠN ĐÔNG NAM Á (VIỆT NAM, LÀO, CAM BỐT).

*Năm 1981, vào tháng chạp, Ngài tham dự đại hội Tăng Già Phật Giáo Quốc Tế lần thứ ba tại Đài Loan.
Từ Ngày hai mươi chín tháng mười một đến ngày hai mươi chín tháng chạp, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp Á Châu thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và Đại Học Phật Giáo Pháp Giới, lần thứ hai qua Đài Loan, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Mã Lai Á.

Ngài thuyết pháp tại các trường đại học như Berkeley, Davis, Oregon, San Francisco State.
Ngài giảng phẩm Tịnh Hạnh. Ngày hai mươi bốn tháng mười, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới tại Vạn Phật Thánh Thành lần thứ tư viên mãn.

Tháng mười một , Vạn Phật Thánh Thành tổ chức đại lễ khánh thành ba cổng sơn môn, Vạn Phật Bảo Điện, Ngũ Quán Đường.

Hàng ngàn người trong và ngoài nước như Đài Loan, Hồng Kông, Mã Lai Á, Tân Gia Ba, v.v... đến tham dự đại lễ. Ngài khai mở chương trình huấn luyện Tăng Ni và Cư Sĩ.

(Phụ chú:

1979, Vạn Phật Thánh Thành.

Tam Đàn Đại Giới lần thứ ba. Lần truyền giới này, được sự tham gia của các vị giới sư người Tàu, người Việt (hòa thượng Đức Niệm), người Tích Lan, người MỸ.

Đây là biểu tượng đoàn kết thống nhất giữa những quốc gia Phật giáo, và nhất là hai truyền thống Bắc Tông và Nam Tông.

Tháng mười một, tại chánh điện Vạn Phật Thánh Thành, Ngài làm lễ khai quang thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, ngàn tay ngàn mắt.

Bao quanh Ngài là các đệ tử tỳ kheo trẻ tuổi người MỸ và người Á Châu. Từ trái sang phải: Thầy Hằng Tá, Hàng Triều, Hằng Vô, Hằng Thật, Hằng Cống, và sa di Quả Nhi.

Các đệ tử của vị Lạt ma Karmapa gọi điện thoại đến chùa Kim Sơn Rất nhiều lần để mong tiếp chuyện với Ngài, nhưng Ngài không nhận. Sau đó, tự thân họ đến gặp, nhưng Ngài cũng không tiếp đón. Cuối cùng họ nhắn tin lại là Lạt ma Karmapa đang bị bịnh ung thư trầm trọng. Sau khi Ngài biết được tin này, bịnh tình của Lạt ma Karmapa bớt được phần nào. Sau này, tự thân Lạt ma Karmapa đến thăm Ngài tại Vạn Phật Thánh Thành.

Tuy không nói rõ, nhưng lần thăm viếng này là biểu thị sự cảm ân của Lạt ma Karmapa đối với Ngài. Bất cứ Lạt ma Karmapa đi đến đâu, các đệ tử đều bày biện tràng phan bảo cái. Thế nên, lần thăm viếng Vạn Phật Thánh Thành này không vượt ngoài ngoại lệ. Vì vậy, một chiếc xe chở đầy đệ tử của Lạt ma Karmapa đi sớm một giờ, để họ có thể đến Vạn Phật Thánh Thành trước, hầu mong chuẩn bị cờ xướng, trống kèn Tây Tạng, v.v...

Ai ngờ được xe của họ bị hư giữa đường. Hơn một giờ sau mới chạy được. Họ rất nóng lòng, lo lắng vì biết rằng không thể tới Vạn Phật Thánh Thành trước khi Lạt ma Karmapa đến. Vì thế, Vạn Phật Thánh Thành rất an tĩnh khi Lạt ma Karmapa đến. Lúc đó, Ngài cùng đại chúng đang thọ trai. Lạt ma Karmapa cùng với thị giả tự thân đến tìm Ngài tại nhà ăn.

Ngài mời họ ngồi vào hàng ghế bên cạnh cho đến khi thọ trai xong. Sau khi thọ trai, Ngài cùng Lạt ma Karmapa đi đến phòng phương trượng.

Vừa đến phòng khách, đệ tử của Lạt ma Karmapa liền trải một mảnh lụa rất đẹp và trang hoàng những vật quý giá khác. Lạt ma Karmapa ngăn họ lại, bảo: Không! Không! Không phải chỗ này. Hãy dẹp hết đi!

Sau đó, Lạt ma Karmapa kéo một cái ghế, ngồi bên cạnh Ngài. Hai vị đàm luận thân mật. Khi đó, Ngài khuyên Lạt ma Karmapa nên xả bỏ tất cả, chánh thức xuống tóc xuất gia làm tăng. Ý của Ngài là khuyên Lạt ma Karmapa nên xả bỏ hết tất cả thanh danh, lợi dưỡng, thì thọ mạng mới được dài lâu. Nếu tiếp tục làm những lễ Quán Đảnh, phung phí hết tinh lực quý báu, thì không có cách nào để bảo tồn sanh mạng. Lạt ma Karmapa không thể tiếp thọ lời khuyên của Ngài, nên sau lần thăm viếng đó, chẳng bao lâu qua đời.)

*1983, mồng hai tháng giêng, chùa Kim Luân cử hành lễ khai quang. Tượng Ngọc Phật phóng hào quang, tỏa điềm lành.

Ngài giảng kinh Dược Sư, Niết Bàn, Luận Ngữ. Vạn Phật Thánh Thành bắt đầu lập truyền thống lễ bái Vạn Phật Bảo Sám hằng năm, trước ngày đại lễ Phật Đản.

Từ tháng mười một đến tháng giêng năm kế, Ngài phái các đệ tử thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới, lần thứ nhất qua Ấn Độ, Tân Gia Ba, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ Dương, Đức quốc, Úc Châu, Pháp quốc, và Anh quốc hoằng pháp.

*Năm 1984, Ngài thành lập chùa Kim Phong ở Seattle, chùa Kim Phật ở Vancouver, Gia Nã Đại. Ngày hai mươi bảy tháng năm, đại học Phật Giáo Pháp Giới cử hành lễ tốt nghiệp đầu tiên. Ngài giảng chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông.

*Năm 1985, Ngài giảng Chứng Đạo Ca của đại sư Huyền Giác, Thủy Kính Hồi Thiên Lục, Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm.

(Phụ chú:

Tháng mười hai năm 1985.

Lúc pháp sư Hải Đăng qua MỸ thăm viếng Ngài, cùng đi có các viên chức chánh phủ cao cấp. Họ quay một cuốn phim về võ thuật của pháp sư Hải Đăng. Pháp sư Hải Đăng cũng truyền môn Đồng Tử Công căn bản cho các đệ tử của Ngài với điều kiện là không thể truyền công phu này ra ngoài. Ngài cũng thỉnh pháp sư Hải Đăng giảng kinh Lăng Nghiêm phần Tứ chủng thanh tịnh minh hối (lời dạy của Phật về bốn loại thanh tịnh). Ngài tán thán ca ngợi pháp sư Hải Đăng và nói rằng chỉ có những vị giữ giới thanh tịnh và tâm chánh trực mới có khí chất dũng mãnh giảng giải về đoạn kinh văn này. Để biểu hiện sự cung kính đối với pháp sư Hải Đăng, Ngài cùng các đệ tử cùng nhau quỳ xuống nghe giảng kinh.

Vào những năm cuối của thập niên tám mươi.

Dầu Ngài đi đến nơi nào, chúng sanh trong chín pháp giới đều tôn trọng cung kính. Những ai mở mắt thần (thiên nhãn thông) thỉnh thoảng có thể thấy họ, còn những người thường thì không thể thấy. Tuy chỉ có mắt thịt, nhưng đối với người có tâm thâm tín thì cũng có thể cảm nhận được. Với đức hạnh cao vời, Ngài cảm hóa được những chúng sanh hữu hình lẫn vô hình.

Lần nọ, khi thăm viếng một đạo tràng chi nhánh tại Gia Nã Đại, có một con rồng, ở nơi đây, đợi Ngài đã hơn hai ngàn năm, đến thọ giới quy y với Ngài.)

*Năm 1986, chùa Kim Sơn dời về địa điểm mới ở khu phố Tàu vùng Cựu Kim Sơn. Ngài thành lập hội in kinh Phật Giáo Pháp Giới tại Đài Loan.

Từ mồng bốn đến mồng sáu tháng bảy, Vạn Phật Thánh Thành tổ chức lễ kỶ niệm mười năm thành lập.

Mồng sáu tháng bảy, lễ tốt nghiệp chương trình huấn luyện Tăng Ni và Cư Sĩ lần đầu tiên được cử hành.

Ngài thành lập chùa Hoa Nghiêm ở Calgary, Gia Nã Đại.

*Năm 1987, ngày hai mươi chín tháng giêng, chùa Kim Sơn cử hành lễ khai quang ba tôn tượng đức Như Lai.

Ngày hai mươi hai tháng ba, nhân dịp vía Bồ Tát Phổ Hiền. Chùa Kim Phong cử hành lễ khai quang thánh tượng chư Bồ Tát Phổ Hiền, Văn Thù, Vi Đà, Già Lam.

*1987, mồng mười tháng năm, nhân dịp lễ vía Bồ Tát Văn Thù, chùa Kim Sơn cử hành lễ khai quang thánh tượng Văn Thù và Phổ Hiền.

Tháng bảy, Ngài tham dự và diễn giảng tại các hội nghị ở NewYork, Texas, vùng tây ngạn nước MỸ.

Từ ngày mười tám đến ngày hai mươi bốn tháng bảy, Ngài chủ trì lễ Thủy Lục Không, thỉnh gần một trăm vị tăng từ Trung Quốc đại lục qua dự. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Trung Quốc, có nhiều người Tàu từ nội địa lẫn hải ngoại đến tham dự đại lễ.

Tháng tám, Ngài khai mở hội nghị Liên Kết Các Tôn Giáo Trên Thế Giới. Ngài mời đại diện các đoàn thể Phật Giáo, Nho Giáo, Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo, và Đạo Giáo đến bàn thảo về những vấn đề nghiêm trọng trong xã hội hiện thời như luân lý, gia đình, khoa học, kỸ thuật, tôn giáo, giáo dục, v.v...

Cũng trong tháng tám, Ngài được mời đến trường đại học Berkeley tham dự đại hội liên tôn giữa Phật Giáo và Gia Tô Giáo, và thuyết giảng về đề tài: Thiền và cầu nguyện.

(Phụ chú:

1987, Vạn Phật Thánh Thành.

Đáp ứng lời mời của Ngài, phái đoàn tăng sĩ Phật giáo từ Trung Hoa lục Địa do pháp sư Minh Dương (phó chủ tịch hội Phật Giáo toàn Trung Quốc), pháp sư Chân Thiền, pháp sư Diệu Thiện, hướng dẫn, đến thăm viếng và làm lễ Thủy Lục Không tại Vạn Phật Thánh Thành.

Trong kỳ pháp hội Thủy Lục Không này, toàn thể tăng chúng ở tại nội đàn, ngoại đàn (mỗi đàn phân làm sáu đàn nhỏ), mỗi ngày đồng tụng kinh, niệm Phật, lễ sám. Tối đến, làm lễ Diệm Khẩu Từ Bi để siêu độ tất cả chúng sanh vô hình đang bị khổ nạn. Tất cả công đức trong kỳ pháp hội này đều hồi hướng về tất cả chúng sanh ở trên mặt đất, dưới nước hay trên không.)

*Năm 1988, mồng sáu tháng tư, thư ký tiểu bang California, bà Giang Nguyệt Trụ, đến viếng thăm chùa Kim Sơn. Ngài đến đại học British Columbia ở Gia Nã Đại, thuyết giảng về đề tài: Đại Học Yếu Chỉ, Nho Giáo, Căn Bổn Làm Người, Làm Thế Nào Để Phát Huy Truyền Thống MỸ Đức Trung Quốc Trong Xã Hội Hiện Tại, Truy Tầm Trí Huệ và Hòa Hợp.

Ngày hai mươi tám tháng tám, Ngài chủ tọa hội nghị tôn giáo, luân lý, khoa học, giáo dục, triết học, học thuật, và thuyết giảng đề tài: Chân nghĩa của sự đào sâu tiềm năng trí huệ của nhân loại.

Mồng mười tháng chín, Vạn Phật Thánh Thành cử hành đại lễ khai quang thánh tượng Bồ Tát Địa Tạng cùng pháp hội Địa Tạng. Tháng chạp, Ngài hướng dẫn phái đoàn thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới qua Đài Loan, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, và Hồng Kông hoằng pháp lần thứ ba, thể theo lời thỉnh mời của các đạo tràng lớn ở những nơi đó. Ngài cử hành pháp hội Hộ Quốc Tiêu Tai Hoạn Nạn và các hoạt động hoằng pháp khác. Ngài cũng thành lập Phật Học Viện Chánh Pháp tại Đài Loan.

*Năm 1989, Ngài thuyết giảng về đề tài: Những biến chuyển lớn ở Trung Quốc trong thế kỶ vừa quatại các đại học ở MỸ quốc và hải ngoại.

Tháng giêng, Ngài là quý khách của cựu tổng thống Bush trong đại lễ nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ. Ngài là đại biểu người đông phương duy nhất trong buổi lễ cầu nguyện Quốc Gia.

Tháng ba, Ngài thuyết giảng tại trung tâm hội Quaker ở Philadelphia về đề tài: Phục hưng luân lý, Đạo đức thực tiển, và những điểm tương đồng giữa Phật giáo, Gia Tô giáo, Nho giáo. Ngài cũng diễn giảng cho hội Phật Giáo tại vùng Hoa Thịnh Đốn.

Mồng một tháng tư, linh mục John Rogers, giảng viên tôn giáo tại đại học Humboldt State, hướng dẫn vài chục nam nữ sinh viên đến tham quan Vạn Phật Thánh Thành. Ngài thuyết giảng đề tài: Quan điểm trí huệ của Phật giáo, tại đại học Oregon. Ngài đến đại học British Columbia, Gia Nã Đại, thuyết giảng về đề tài: Trách nhiệm căn bản làm người. Phật giáo và luân lý. Hiếu thảo là cội gốc làm người. Yếu chỉ lập mạng. Làm thế nào để xây dựng một gia đình hạnh phúc.

Tháng bảy, Ngài thuyết giảng về đề tài: Làm thế nào để cải đổi nền giáo dục. Những chuyển biến lịch sử ở Trung Quốc trong thế kỶ vừa qua. Trung Quốc đạo đức quán, tại đại học Hạ Uy Di.

Từ ngày mười lăm tháng bảy, đến mồng năm tháng tám, đại học Phật Giáo Pháp Giới chủ tọa hội thảo và thực hành luân lý.

Mồng mười tháng tám, Ngài đàm luận với một giáo sư đại học Humboldt State về đề tài: Đối thoại giữa Phật giáo và Gia Tô giáo.

Mồng hai tháng chín, kỳ truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ năm viên mãn. Mồng chín tháng chín, Ngài thuyết giảng tại đại học Minnesota ở thành phố Minneapolis về đề tài: Làm thế nào để cải thiện nền giáo dục hiện thời.

Những chuyển biến ở Trung Quốc trong vòng thế kỶ vừa qua. Từ mồng mười đến ngày mười một tháng chín, Ngài thuyết giảng tại đại học Wisconsin (Madison) về đề tài: Những vấn đề căn bản giữa Phật giáo và con người. Sự quan hệ giữa các tôn giáo trên thế giới.

Từ ngày mười bảy đến ngày mười chín tháng chín, Ngài tới đại học British Columbia, Gia Nã Đại thuyết giảng về đề tài: Trách nhiệm của chúng ta đối với xã hội, quốc gia, và thế giới. Khoa học căn bản. Quan điểm Phật giáo về cải đổi vận mệnh con người. Mục đích và sự phát triển chánh yếu cho thanh thiếu niên hiện tại. Luận về nhân quả trong Phật Giáo.

Từ mồng chín tháng mười đến mồng ba tháng mười một, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới đến Đài Loan chủ trì pháp hội Quán Âm Đại Bi, Hộ Quốc Tiêu Tai Diệt nạn.

Khi ấy, tại thành phố Cựu Kim Sơn, MỸ quốc, xảy ra trận động đất lớn, Ngài tuyên bố rằng nếu còn ở tại thành phố Cựu Kim Sơn ngày nào thì Ngài không cho phép có thêm một trận động đất nào xảy ra nữa. Mồng bốn tháng mười một, Vạn Phật Thánh Thành cử hành lễ khai quang thánh tượng Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Như Lai.

Từ mồng chín đến ngày mười một tháng mười một, Ngài giảng thuyết về đề tài: Căn bản giáo dục là gì, và chủ tọa hội nghị Nghiên Cứu Phật Học cùng Cách Thức Tu Trì.

Từ ngày ba mươi tháng mười một đến mồng ba tháng chạp, Ngài thuyết giảng tại đại học Austin, Texas. Ngài thành lập Pháp Giới Thánh Tự tại Cao Hùng Đài Loan.

(Phụ chú:

1989, Đài Loan.

Ngài hướng dẫn đoàn hoằng pháp đến Đài Loan, để cử hành pháp hội Từ Bi Tiêu Tai Hộ Quốc. Vì chúng sanh ở Đài Loan, Ngài tuyệt thực trong ba mươi ngày liền. Đang khi tổ chức pháp hội này tại Đài Loan, thì ở vùng Cựu Kim Sơn, MỸ Quốc, xảy ra một trận động đất lớn. Do đó, Ngài lập tức trở về MỸ để cứu nạn, rồi bay trở qua Đài Loan, chủ trì pháp hội diễn giảng kinh điển tại vùng bắc bộ, trung bộ, nam bộ của Đài Loan (sau lần động đất tại vùng Cựu Kim Sơn, Ngài tuyên bố là nếu còn ở nơi đó một ngày, Ngài không bao giờ cho phép có một trận động đất nữa.)

*Năm 1990, mồng hai tháng hai, Ngài thuyết giảng tại đại học Berkeley về đề tài: Đạo lý giữa đạo Phật và con người.

Mồng bảy tháng hai, Ngài chủ tọa đại hội Phật giáo Quốc Tế, với chủ đề: Phật giáo trong thế kỶ thứ hai mươi mốt, do hội Dhammakaya ở Thái Lan tổ chức.

Ngày mười chín tháng hai, Ngài thuyết giảng tại University of California at Los Angeles về đề tài: Làm thế nào để dẹp khổ đau, đạt được an lạc, và chủ tọa hội thảo tham thiền.

Tháng ba, báo Kim Cang Bồ Đề Hải được phát hành lần đầu tiên tại Đài Loan. Từ ngày hai mươi đến ngày hai mươi ba tháng tư, Ngài thuyết giảng tại thành phố Atlanta, Georgia.

Tháng năm, năm đệ tử xuất gia người MỸ qua truyền giới tại chùa Long Hoa, Thượng Hải, Trung Quốc. Cựu tổng thống Bush đánh điện tín đến Vạn Phật Thánh Thành chúc mừng Ngài cùng các đệ tử. Mồng tám tháng năm, Ngài chánh thức nhậm chức Chủ Lễ Tôn Giáotrước cảnh sát trưởng thành phố Cựu Kim Sơn, ông Frank Jodan.

Từ ngày hai mươi sáu đến ngày hai mươi bảy tháng năm, Ngài thuyết giảng tại đại học University of Washington in Seattle.

Ngày mười sáu tháng sáu, cảnh sát trưởng thành phố Cựu Kim Sơn, ông Frank Jodan, đến viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành và trao đổi ý kiến với Ngài về xã hội cùng giáo dục. Từ ngày hai mươi mốt đến ngày hai mươi bảy tháng sáu, Ngài thuyết pháp tại vùng Hoa Thịnh Đốn.

Từ ngày mười ba tháng bảy đến mồng bốn tháng tám, Vạn Phật Thánh Thành, chủ tọa hội thảo về: Đạo Phật và con người trong hiện tại.Trong thời gian đó, Ngài thuyết về Mạnh Tử.

Từ ngày ba mươi mốt tháng tám đến ngày hai mươi mốt tháng chín, thể theo lời thỉnh mời của tín chúng Đài Loan, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, đại học Phật Giáo Pháp Giới qua Đài Loan, chủ trì pháp hội kỶ niệm 150 năm ngày sinh của đại lão hòa thượng Hư Vân, cùng đại lễ Toàn dân niệm Phật cầu phước, tiêu tai hoạn nạn, tại tòa nhà kỶ niệm Trung Chánh, Đài Bắc. Có hàng chục ngàn người tham gia. Trên hư không, hiện muôn ngàn ánh sáng, báo hiệu điềm lành.

Tháng mười, thể theo lời thỉnh mời của các hội đoàn Phật giáo tại nước Anh, Pháp, Bỉ, và Ba Lan, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp quốc tế thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới, qua Âu Châu thuyết pháp. Chủ đề: Giáo lý đức Phật vượt thời gian và không gian. Trí huệ chân thật vĩnh hằng bất biến, trong đó nhấn mạnh đề tài: Phật giáo và triển vọng hòa bình thế giới. Giáo dục trong Phật giáo và phương pháp ứng dụng. Dung hợp truyền thống Nam tông và Bắc tông trong Phật giáo, và hợp quần các tôn giáo trên thế giới.

Mồng bảy tháng mười, Vạn Phật thánh Thành tổ chức chương trình Trưởng Thanh Đại Học, trong hai tuần lễ, với đề tài: Hoạt động tinh tấn tu hành của người già. Kể từ đó, Vạn Phật Thánh Thành thường tổ chức chương trình này cho người già.

Mồng sáu tháng mười một, Ngài phái đệ tử qua Bắc Kinh cung thỉnh Long Tạng (đại tạng kinh)về Vạn Phật Thánh Thành, biểu tượng sự quan hệ giữa Phật giáo Trung-MỸ trên đà phát triển và Phật giáo truyền sang Tây Phương. Chùa Kim Luân dời về địa điểm mới.

(Phụ chú:

Lãnh đạo phái đoàn hoằng pháp sang Anh Quốc thăm viếng tăng đoàn Nam Tông, 1990

Đốn tiệm tuy thù,

Thành công tắc nhất

Hà phân Nam Bắc

Thánh phàm tạm dị,

Căn tánh khước đồng

Mạc luận Đông Tây.

Dịch:

Đốn tiệm tuy khác,

Thành công tức một

Sao phân Nam Bắc

Thánh phàm tạm khác,

Căn tánh đều đồng

Chớ luận Đông Tây.

Ngài là Thượng Khách tại hội nghị Quốc Tế về đề tài: Phật giáo bước vào năm 2000, do Tổng hội Pháp Thân ở Thái Lan tổ chức.

1990, Anh Quốc.

Pháp sư AJAHN SUMEDHO rất tôn sùng, cung kính và tin tưởng Ngài. Pháp sư thường đến Vạn Phật Thánh Thành và các đạo tràng chi nhánh, để gần gũi, thân cận và tiếp thọ những lời giáo huấn của Ngài. )

*Năm 1991, viện PHIÊN DỊCH KINH QUỐC TẾ VÀ TRUNG TÂM HÀNH CHÁNH CỦA TỔNG HỘI PHẬT GIÁO PHÁP GIỚI được dời về thành phố Burlingame, California.

Từ mồng tám đến hai mươi tháng giêng, do sự thỉnh mời của chùa Minh Nhật, tỉnh Kiết Lâm, Trung uốc, Ngài phái các đệ tử qua đó thăm viếng và hội thảo về Phật Pháp.

Bắt đầu từ ngày mười sáu tháng hai, công phu khuya tại Vạn Phật Thành được kết hợp theo hai truyền thống Bắc tông và Nam tông.
Tụng chú Lăng Nghiêm và kinh tiếng Pali. (ghi chú: Năm 1992, sửa lại là cách mỗi ngày thay đổi tụng kinh bằng tiếng Anh và tiếng Tàu.)

Mồng ba tháng năm, thượng tọa Ajahn Amaro, đại diện tăng đoàn tại trung tâm Phật giáo Amaravatti, cúng dường y bát Nam tông cho tăng đoàn Vạn Phật Thánh Thành. Đây là biểu tượng sự hợp nhất giữa Nam tông và Bắc tông, lật trang sử mới trong lịch sử Phật giáo.

Từ ngày hai mươi mốt tháng sáu đến ngày mồng sáu tháng bảy, pháp sư Ajahn Sumedho ở trung tâm Phật giáo Amaravati, hướng dẫn thiền thất theo truyền thống Nam tông tại Vạn Phật Thánh Thành.

Ngày mười bốn tháng bảy, kỳ Truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ sáu được tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành.

Ngày hai mươi tám tháng chín, nhân kỶ niệm mười năm thành lập Nhật Báo Quốc Tế, Ngài được mời đến thuyết giảng về chủ đề: Phóng nhãn quan, nhìn thế giới.

Từ mồng bốn đến mười lăm tháng mười, Ngài phái các đệ tử thuộc phái đoàn hoằng pháp đến Seattle, Vancouver, Calgary, Edmonton, và Toronto thuyết pháp với đề tài: Phật giáo là tôn giáo đang trên đà phát triển mạnh mẽ tại vùng Bắc MỸ.

Lại có những chủ đề khác như: Không giết hại. Tâm an lạc của con người ảnh hưởng đến hòa bình thế giới. Ăn chay, sự chọn lựa của lòng từ bi và lý trí. Quan điểm Phật giáo về cộng nghiệp của một quốc gia và biệt nghiệp của mỗi con người. Yếu tố quan trọng của nền giáo dục, luân lý.

Ngài thành lập chùa A Di Đà tại Hoa Liên, Đài Loan.

(Phụ chú:

Tam Đàn Đại Giới năm 1991.

Ba vị Tôn Chứng Sư: Hòa Thượng Tuyên Hóa, Hòa thượng Trung Quán, Pháp Sư Sumedho.)

*Năm 1992, Ngài chủ trì lễ sám hối cho bốn tỳ kheo (Hằng Trường, Hằng Triều, Hằng Tả, Hằng Thuận).

Từ mồng bảy tháng hai đến mồng ba tháng tư, thể theo lời thỉnh mời của các đoàn thể Phật giáo vùng Đông Nam Á, Ngài phái các đệ tử thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và đại học Phật Giáo Pháp Giới, đoàn hoằng pháp Á Châu, qua Đài Loan, Hồng Kông, Ấn Độ Dương, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, lần thứ năm. Phái đoàn hoằng pháp chủ trì lễ Vạn Phật Bảo Sám trong ba tuần liên tiếp ở Mã Lai Á.

Ngày mười sáu tháng ba, đại học Humboldt State University thỉnh mời chư vị pháp sư tại Vạn Phật Thánh Thành làm lễ khai quang đại hội triển lãm văn hóa nghệ thuật Á Châu tại trường.

Ngày hai mươi tháng tư, thể theo lời thỉnh mời của cựu tổng thống Bush, Ngài hướng dẫn mười tám vị hội viên Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đến phủ Tổng Thống dự buổi tiệc tối do cựu tổng thống tiếp đãi.

T.H.P.G. P.G (Tổng hội Phật Giáo Pháp Giới) viếng thăm tòa Bạch-ốc: Mười tám thành viên của T.H.P.G.P.G nhận lời mời của cựu tổng thống Bush, đến dự buổi yến tiệc vào buổi tối do cựu tổng thống thiết đãi vào ngày 20 tháng tư năm 1992 tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Thư mời dự tiệc của cựu tổng thống nhằm tỏ lòng tri ân Ngài đã từng đón tiếp cựu tổng thống tại quảng trường Portsmouth Square ở thành phố Cựu Kim Sơn vào bốn năm về trước, khi ông ta đang làm phó tổng thống của chính quyền Reagan và ra tranh cử tổng thống.
Lúc ấy, vào ngày 14 tháng 9 năm 1988, trước quần chúng tại quảng trường Portsmouth Square, vốn là nhà lãnh đạo và phát ngôn viên của cộng đồng người Tàu, Ngài phát biểu:

Sống trên nước MỸ, chúng ta phải tuyển chọn một vị tổng thống thông minh nhất, có trí huệ sáng suốt, chí công vô tư, không thiên vị. Vị tổng thống phải làm gương mẫu, không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo. Phù hợp với những tiêu chuẩn này thì mới xứng đáng làm tổng thống.

Cựu tổng thống Bush vì nhớ cuộc họp mặt đó, nên thỉnh mời Ngài đến dự buổi yến tiệc tại tòa Bạch-ốc. Ngài nhận lời mời và hướng dẫn các thành viên đại biểu T.H.P.G.P.G, bao gồm tăng, ni, cư sĩ từ Mã Lai Á, Hương Cảng, Đài Loan, Việt Nam, Trung Quốc, Gia Nã Đại cùng các thành viên từ thành phố Cựu Kim Sơn, viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế, và chùa Vạn Phật Thành.

Khi được hỏi tại sao nhiều nhân sĩ Phật giáo tham gia vào đảng Cộng Hòa, các thành viên của đoàn trả lời: Thứ nhất, chúng tôi vì đáp ứng lời thỉnh mời của quý vị. Thứ hai, Phật tử chúng tôi quan tâm đến mối phúc lợi của quốc gia.

Một quốc gia thanh bình an lạc hỗ trợ cho tôn giáo. Đặc biệt, chúng tôi quan tâm về việc cải cách nền giáo dục, nhằm phát huy truyền thống đạo đức thiện mỸ trong tâm thanh thiếu niên. Thêm nữa, đạo Phật là tôn giáo chính thống.

Khi chánh quyền vững mạnh, tôn giáo mới hưng thịnh. Chánh quyền phải luôn vì phúc lợi của dân chúng mà phục vụ. Chúng tôi cảm thấy có trách nhiệm hỗ trợ chánh phủ được ổn định, hầu mong dân chúng đồng hưởng lợi ích.

Có vị tại phủ tổng thống bảo: Tôi không ngờ rằng quý vị Phật tử theo đảng Cộng Hòa.

Đáp: Chúng tôi không theo đảng phái nào cả, mà chỉ muốn góp sức để mang ích lợi đến cho mọi đảng phái như đảng Cộng Hòa, Dân Chủ, Độc Lập, và mọi người Uống nước phải nhớ nguồn. Được hưởng thể chế tự do, nên chúng tôi phải nỗ lực phụng sự nước MỸ.

Dùng chánh kiến chánh tri, người Phật tử chúng tôi nỗ lực cống hiến công sức cho quốc gia và thế giới. Việc tham dự yến hội này, chứng minh sự tham gia của chúng tôi, nhưng không giới hạn việc tham chính và làm việc cho một chính đảng nào cả.

Chúng tôi muốn vận dụng quyền tự do dân chủ, đề xướng những phương thức mới mẻ để giải quyết những vấn đề trong xã hội, để khiến quốc gia hòa bình, thịnh trị an lạc.

Sáng ngày 28 tháng 4 năm 1992, thành viên của T.H.P.G.P.G tham dự nhiều chương trình sinh hoạt đặc biệt tại phủ tổng thống.

Lãnh tụ lưỡng viện quốc hội được dẫn đầu bởi ông Robert Dole của tiểu bang Kansas, tham nghị viên, lãnh tụ đa đảng, cùng tham nghị viên Robert Michel, thỉnh mời đại chúng dùng điểm tâm tại phòng ăn quốc hội. Giáo sư Ronald Epstein và bác sĩ Randy Lum đại diện

T.H.P.G.P.G tham dự buổi điểm tâm. Tham nghị viên Dole lại tổ chức buổi yến tiệc tại thư viện cũ của Tham nghị đoàn.

Thầy Hằng Lai và cư sĩ Hồ Công Hạo cùng một nhóm khoảng ba mươi vị lãnh tụ quốc hội đồng đàm luận, và chụp hình chung với các tham nghị viên.

Sư cô Hằng Quý, nữ cư sĩ Hoàng Khả Thái, bác sĩ Hoàng Minh Lục và cư sĩ nữ Rosaline đồng dự buổi cơm trưa với ông bà cựu phó tổng thống Dan Quayle và Marilyn tại phủ phó tổng thống, trên đài thiên văn của hải quân. Thầy Hằng Thật, cư sĩ nữ Hồ Quả Tương, cư sĩ nam Quả Cần, và Hoàng Quả Lâm thăm viếng tòa Bạch-ốc.

Ngày mười chín tháng năm, Ngài giảng pháp cho học sinh trường trung học Lowell tại chùa Kim Sơn.

Mồng bốn tháng bảy, ông Lâm Dương Cảng viện trưởng Ty Pháp Viện, Trung Hoa Dân Quốc, cùng vợ viếng thăm Vạn Phật Thánh Thành, và bàn thảo các vấn đề giáo dục Trung-MỸ với viện trưởng trường đại học Phật Giáo Pháp Giới.

Họ cũng viếng thăm viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế, bái kiến và cùng Ngài đàm luận về tương lai Trung Quốc, hiện tình nước MỸ, và phương châm trị nước, v.v...

Ngày hai mươi chín tháng bảy, ông Lương Thúc Nhung cố vấn tổng thống Đài Loan, và là cựu viện trưởng Viện Lập Pháp, đến bái kiến Ngài. Ngày hai mươi tám tháng tám, ông Trịnh Vạn Trân tổng lãnh sự sứ quán Trung Hoa Đại Lục tại Cựu Kim Sơn đến bái kiến Ngài.

Ngài bảo ông ta rằng trong tương lai ước nguyện sẽ làm nhịp cầu thống nhất Trung Quốc. Tháng tám, pháp hội Thủy Lục Không do chư pháp sư Đài Loan và Đại Lục hợp tác chủ trì.

Ngày mười sáu tháng chín, Kỳ Truyền Tam Đàn Đại Giới lần thứ bảy được tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành.

Ngày hai mươi ba tháng mười, ông Edwin Derwiski, phó chủ tịch hội đồng ủng hộ tổng thống Bush tái cử, đến bái kiến Ngài.

Trong cuộc họp báo, Ngài kiến nghị rằng nếu cựu tổng thống Bush không nhận tiền lương, làm gương cho các nhà lãnh đạo nước MỸ sau này thì nhất định sẽ tái đắc cử.

Trải qua bao năm truyền bá Phật pháp tại tây phương, dẫu chưa chính thức là công dân MỸ, nhưng sự lo lắng và ưu tư của Ngài về đất nước và nhân dân MỸ không bao giờ giảm sút.

Ngài nhận thấy rằng hành động và cử chỉ của những người lãnh đạo quốc gia có sức ảnh hưởng đến quần chúng rất lớn lao.

Có câu: Bất cứ việc gì người trên làm, kẻ dưới đều gắng sức hành theo.

Đây là lý do mà Ngài mong muốn và cổ vũ những nhà lãnh đạo phải có đủ nhân phẩm đạo đức, và nêu gương lãnh đạo chân chính cho nhân dân.

Bằng cách này, chiều hướng xấu xa băng hoại của xã hội có thể được chuyển đổi, và nhân dân được hưởng thanh bình, hạnh phúc ấm no.

Khi CỰU TỔNG THỐNG BUSH RA ỨNG CỬ LÀM TỔNG THỐNG NHIỆM KỲ THỨ HAI VÀO NĂM 1992, nhân dịp một nhân viên văn phòng trợ lý liên lạc công cộng tại tòa nhà Bạch Ốc đến tiếp kiến Ngài tại trung tâm Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế ở Burlingame, Ngài nói: Nếu tổng thống Bush không nhận lương, Tôi dám bảo đảm là ông ta sẽ thắng cử tổng thống.

Sau này, Ngài cũng viết một lá thơ, gởi đến cựu tổng thống Bush, lập lại lời đề nghị của mình:

Thơ trình tổng thống Bush tường lãm:

I. Tôi viết thơ này gởi đến Ông, khi nước MỸ đang chuyển mình qua một trang sử mới: Thiên tai hoạn nạn như bão lụt động đất, và nhân họa như bịnh AIDS cùng bạo động, đang xảy ra khắp nơi trong nước. Tôi thành khẩn bàn bạc cùng kiến nghị đến với Ông trong thời điểm tranh cử tổng thống năm nay.

Một lần nữa, tôi hy vọng rằng Ông sẽ sẵn sàng cố gắng hy sinh công sức để phục vụ cho nhân dân, như từng đã làm trong quá khứ.

Thưa Ông Tổng Thống! Chỉ người có đức hạnh mới có đủ tiêu chuẩn để lãnh đạo nước MỸ. Do nhân dân tuyển cử, tất cả vấn đề trong và ngoài nước đều quy về trách nhiệm cho tổng thống. Trong thời điểm này, đối với Ông, việc tái thắng cử phải cần có dũng khí khác thường, nghĩa là phải bằng một sự hy sinh lớn lao với một phương pháp mới.

Tôi có một phương pháp sẽ khiến cho dân chúng hiểu rõ tài năng lãnh đạo của Ông. Tôi không sợ rằng Ông sẽ trách cứ vì những lời chân thật này. Tôi đề nghị Ông làm những việc mà những tổng thống thiển kiến khó hành được, tức là làm tổng thống mà không nhận lương bổng hay quà cáp, chỉ tình nguyện phục vụ cho quốc dân.

Nếu Ông thông báo cho nhân dân MỸ biết là Ông sẽ không nhận lương bổng, chỉ tình nguyện đem tài đức để phục vụ quốc gia, thì tôi dám bảo đảm là nhất định Ông sẽ tái thắng cử tổng thống trong nhiệm kỳ bốn năm sắp tới. Ngoài ra, từ chối nhận lương bổng, Ông sẽ thâu phục được lòng dân mà không cần phần thưởng riêng tư.

Đó là tinh thần đạo đức của tổng thống Thomas Jefferson, cha đẻ của nền dân chủ, người lãnh đạo dân tộc vượt qua những khó khăn trong buổi đầu lập quốc.

Ngọn gió vô tư lợi của Ông sẽ lan tràn khắp nơi trên thế giới. Những nhà lãnh đạo trên toàn thế giới sẽ dẹp trừ tâm tham và noi theo gương đạo đức và dũng khí của Ông.

Một vị chính khách ra ứng cử tổng thống vì muốn đảm nhận trách nhiệm phục vụ dân tộc với tinh thần vô vị lợi sẽ được dân chúng tôn sùng mãi mãi. Một vị tổng thống không nhận lương bổng hiển nhiên sẽ làm gương vô úy cho các nghị viên lưỡng viện của quốc hội, cùng các cấp đơn vị chánh phủ.

Thế giới chỉ được lợi lạc khi có những nhà lãnh đạo anh hùng như thế. Do đó, tôi dám khuyên rằng Ông chớ lo lắng vì những chướng ngại cá nhân trong nhiệm kỳ tổng thống bốn năm sắp tới. Nhờ tâm vô tư lợi của Ông, nhân dân MỸ sẽ cảm động và nhất định sẽ tái tuyển cử Ông làm tổng thống.

Thái độ chân tâm thành ý, vì nước, vì dân, vì chánh nghĩa, và vì trách nhiệm sẽ khiến Ông hưởng lợi ích suốt đời.

II. Trong lá thư này, tôi cũng muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của nền giáo dục trong một quốc gia dân chủ. Xin Ông hãy quan tâm về việc trọng yếu này.

Học sinh và học đường là nguồn phúc lợi của đất nước. Đầu tư hay cung ứng đầy đủ cho nền giáo dục và huấn nghệ phải đứng hàng đầu của quốc gia. Một quốc gia đầu tư về kiến thức của nhân dân sẽ đào luyện dân chúng có được những quyết định hợp lý hợp tình và hợp nhân tánh. Việc đầu tư của chánh phủ vào nền giáo dục sẽ được đền đáp bằng sự hỗ trợ của dân chúng về nền pháp trị dân chủ, hòa bình trong hằng ngày.

Quốc dân được giáo dục kỸ càng thì họ sẽ phân biệt rõ ràng những việc đúng sai, và khiến cho quốc gia hòa bình. Đây là cách bảo vệ quốc gia hay nhất. Nếu được như thế thì những vũ khí cùng binh lực tinh nhuệ thật không cần thiết.

Ngược lại, nếu trẻ em không được giáo dục đàng hoàng, luôn có tâm ngỗ nghịch, không nhận ra giá trị tình thương của các nhà lãnh đạo thì chúng sẽ không xem trọng nền tự do dân chủ cùng bảo vệ duy trì hiến pháp. Hỏa tiển lớn nhất hay phi cơ bay nhanh nhất thật sẽ vô dụng, vì kẻ địch nguy hiểm nhất là con cái chúng ta, những kẻ bị kém trí huệ và thiếu kiến thức.

Thưa Ông Tổng Thống! Đại diện cho nhân dân MỸ, tôi viết lá thơ trong thời điểm quyết liệt của cuộc bầu cử tổng thống, với niềm hy vọng là Ông sẽ giữ vững địa vị chánh đáng của một vị chèo lái con thuyền quốc gia. Tôi chẳng hề ngại rằng Ông sẽ cho lời kiến nghị này không thật tế hay lời nói quá thẳng thừng. Tuy nhiên, nếu chấp thuận ý kiến này thì nhất định Ông sẽ tái thắng cử tổng thống. Tôi không hề muốn cầu danh hay cầu lợi vì những lời kiến nghị này.

Tôi chỉ muốn bầu cử một vị tổng thống tài đức nhất cho quốc gia này. Nếu Ông chấp nhận những lời kiến nghị trên thì nhân dân MỸ sẽ được lợi lạc vô cùng. Nếu Ông không chấp nhận thì tôi cũng hoàn thành trách nhiệm của mình.

Chúng sanh trong thế giới mê mờ

Tài, sắc, danh, ăn, ngủ bao quanh

Người trí xả được năm món dục

Vượt hơn người, bậc thánh minh quân.

Trong lá thơ này, Ngài đưa ra kiến nghị lạ lùng: Tổng thống không nhận lương bổng, và khuyến khích cựu tổng thống Bush lãnh đạo nước MỸ bằng đức hạnh.

Năm 1988, khi ông Bush ra ứng cử tổng thống lần đầu tiên, Ngài đã từng khuyến khích ông ta phải nên làm một vị tổng thống không tranh, không tham, không cầu, không tự lợi, không ích kỶ, không nói láo.

Năm 1992, vào lúc cựu tổng thống Bush ra tái ứng cử tổng thống, nền kinh tế nước MỸ đang bị đình trệ, và sự tín nhiệm của tổng thống đang đi xuống. Trong hoàn cảnh đó, nếu theo lời kiến nghị của Ngài thì tổng thống Bush mới biểu hiện rõ quyết tâm thành ý phục vụ nhân dân.

Đương thời, vì nền hòa bình và phúc lợi của nước MỸ và thế giới, Ngài ra thông cáo cho bốn chúng đệ tử tại chùa Vạn Phật Thành cùng các ngôi chùa chi nhánh, mỗi ngày tụng chú Đại Bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, cùng lễ Phật, bái sám.

Thể theo lời dạy, bốn chúng đệ tử của Ngài tụng chú Đại Bi mỗi tối từ ngày 30 tháng chín đến mồng 4 tháng mười một năm 1992, tức sau ngày tổng tuyển cử.

Vào ngày 23 tháng mười, 1992, Ông EDWIN DERWINSKY, phó chủ tịch hội đồng tổng tuyển cử của tổng thống Bush, được giáo sư Tsu, chủ tịch của hội đồng tuyển cử MỸ-Á, hướng dẫn đến diện kiến Ngài và mở cuộc hội thảo tại trung tâm Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế.

Trong buổi hội thảo, Ngài nhấn mạnh lại rằng nếu tổng thống Bush không nhận lương bổng, thì nhất định Ông sẽ tái thắng cử. Tuy nhiên, từ lúc đó, cựu tổng thống Bush vẫn chưa quyết định, nên việc tái thắng cử thật là một vấn đề khó khăn.

Ngài cũng bảo rằng dẫu trường hợp nào, các Phật tử cũng phải cầu nguyện cho mối phúc lợi của nhân dân và cho nền hòa bình của thế giới. Tiếc thay, cựu tổng thống Bush và những nhân viên của ông ta cuối cùng quyết định bỏ qua lời kiến nghị của Ngài.
Vì vậy, như Ngài đã tiên đoán, cựu tổng thống Bush bị thất cử.

Đương thời, nước MỸ gặp phải rất nhiều vấn đề khó khăn. Bên cạnh thiên tai hoạn nạn, những vấn đề như xì ke ma túy lan tràn khắp nơi trong toàn quốc.

Nạn trộm cướp và bạo loạn tăng gia. Nạn thất nghiệp cũng lên cao. Những triệu chứng trên biểu thị phước đức của đại cường quốc này đang giảm dần.

Ông A. C. BudHarrison, cựu thị trưởng thành phố Burlingame đã từng viếng thăm Ngài nhiều lần.

Theo sự quan sát của ông ta, nhiều người Á Châu vốn là công dân tốt ở bổn quốc, nhưng khi qua MỸ lại thay đổi tánh tình.

Ngài cũng nhấn mạnh về hệ thống trợ cấp an sinh xã hội không được phân phối đồng đều, và chỉ khuyến khích người dân làm biếng thêm; theo quan điểm của Ngài thì do nhân dân ai cũng có thể giữ súng đạn, khiến việc trị an trong xã hội rất khó khăn. Lại nữa, tình dục được dạy công khai tại bậc tiểu học. Tại cấp trung học, học sinh biết hút thuốc phiện, cho đến giết người, đốt nhà.

Trong đại học, lắm khi sinh viên ngủ và tắm chung với nhau. Nếu như thế, làm sao họ trở thành công dân tốt được? Lại nữa, những luật lệ ở nước này thật rất phóng túng tự do.

Vì vậy, nên giáo dục tại nước MỸ thật sự bị suy đồi.

Theo Ngài nhận thấy, những việc tệ hại xảy ra trong nước đều phát xuất từ nền giáo dục băng hoại: Hiện nay, lúc còn nhỏ tuổi mà học sinh không chịu theo luật lệ thì tương lai chúng sẽ không màng đến luật pháp. Đây là điều thật rất nguy hiểm.

Những đứa trẻ giết người, không theo luật lệ, v.v... thật ra không phải là những đứa trẻ xấu xa, mà chỉ vì không dạy dỗ chúng đúng đắn. Đó là lỗi của người lớn.

Tháng giêng năm 1992, khi được mời đến tòa nhà trắng để tham dự buổi yến tiệc, Ngài đàm luận với bộ trưởng bộ giáo dục về hiện trạng suy đồi trầm trọng của nền giáo dục ở MỸ, và nhấn mạnh về nền giáo dục luân lý đạo đức.

Tại MỸ, vừa hoằng dương Phật pháp, Ngài vừa cống hiến công sức cho nền giáo dục. Mục đích của Ngài là bồi dưỡng thế hệ trẻ với tinh thần không ích kỶ, không tự lợi, để nỗ lực cứu vãn nền văn hóa nước nhà.

Trong những bài giảng dạy, Ngài thường khuyến khích các đệ tử hãy cùng nhau nỗ lực giải quyết những vấn đề nan giải trong hiện tại ở MỸ.

Ví dụ, xì ke ma túy là một vấn đề nghiêm trọng nhất trong hiện thời. Ma túy không những làm lãng phí tiền bạc, lại còn làm hư hoại thân thể trí óc của con người, và là nguyên nhân chính của các tội ác.

Vì vậy, trong những pháp hội giảng kinh, Ngài thường nhắc nhở tín chúng thính giả, lúc trở về nhà, hãy kêu gọi thân quyến đừng để con cái hút thuốc phiện, mà phải khuyến khích chúng hỗ trợ và phục vụ nền hòa bình cùng phúc lợi của quốc gia, nhân loại. Đây là trách nhiệm chung của mọi người.

Một vấn đề lớn ở xã hội MỸ ngày một gia tăng là đồng tính luyến ái. Có những buổi diễn hành đồng tính luyến ái hằng năm nhằm tạo ảnh hưởng đến luật pháp, để được mọi thành phần trong xã hội công nhận.

Không nỡ ngồi nhìn những hiện tượng đi ngược lại thiên địa tạo hóa ngày càng phát triển rộng rãi, trong những bài thuyết giảng, Ngài thường nhắc nhở các đệ tử phải nhận chân sự nghiêm trọng của vấn đề này.

Mỗi lần được các chánh khách chính phủ MỸ đến cầu lời cố vấn, Ngài thường nhấn mạnh: Riêng âm không thể sanh. Riêng dương không thể trưởng dưỡng. Đồng tính luyến ái khiến diệt chủng, vong quốc. Vì vậy phải khuyến khích họ sửa đổi tánh tình, chớ nên dung túng.

Đối với người xuất gia, vì trên cầu Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh, nên tu hành với hành vi cao cả để mang lại hạnh phúc cho loài người. Đồng tính luyến ái không hướng lên tìm cầu sự tịnh hóa tâm linh mà chỉ hướng xuống tình dục trầm luân, khiến phát sanh nhiều vấn đề nghiêm trọng.

Tuy biết rõ đồng tính luyến ái ngày càng lan rộng, nhưng vì lương tri Ngài vẫn phải đánh tiếng về vấn đề này, hầu mong họ sớm thức tỉnh trân trọng bảo tồn Phật tánh, không thể tiếp tục tạo nghiệp thọ báo.

Trong bao năm hoằng pháp tại MỸ, đi đến đâu Ngài cũng phát dương sáu đại tông chỉ rộng rãi. Tuy có người nhận rõ những tông chỉ này rất quý, nhưng vì xã hội MỸ vốn chạy theo chủ nghĩa vật chất, nên khó mà thực hành.

Ngài thường bảo rằng phải hành những gì khó hành, phải nhẫn những gì khó nhẫn.

Phải làm những gì không thể làm được. Phải như ngọn đèn cầy đứng vững trước gió mưa giông bão. Phải như vàng ròng chịu đựng nung nấu trui rèn.

Hội Phước Lợi Xã Hội thuộc viện Phật Giáo Cư Sĩ và bộ An Dưỡng tại Thượng Hải ở Trung Quốc tuyên dương Ngài: “VỊ CAO TĂNG BẬC NHẤT TOÀN CẦU.”

Ngài phủ nhận lời tán thán đó.

Mồng tám tháng mười một, thể theo lời thỉnh mời của trường đại học University of California at Los Angeles, Ngài đến đó giảng thuyết về chủ đề: Đạo Phật hiện tại. Đạo đức luân lý và giáo dục.

Ngày mười lăm tháng mười một, để cứu vãn nền giáo dục suy đồi, Ngài tuyên bố rằng ngày hai mươi bảy tháng mười một là ngày Chúc Thọ Người Già.

Ngày hai mươi tháng chạp, lễ Chúc Thọ Người Già trên bảy mươi tuổi được cử hành đầu tiên tại Los Angeles. Chùa Phước Huệ tại MỸ Nồng ở Đài Loan được cúng dường cho Ngài.
Ngài thành lập hội Pháp Giới Căn Bản Văn Hóa Giáo Dục tại Đài Loan.

*Năm 1993, từ mồng ba đến mười tám tháng giêng, thể theo lời thỉnh mời của tín chúng Đài Loan, Ngài qua đó chủ trì pháp hội Lăng Nghiêm, Đại Bi và truyền tam quy y, năm giới cấm cho các cư sĩ. Khi ấy, có ba mươi tám người phát tâm xuất gia.

Một Pháp Sư từ Trung Hoa đại lục qua chủ trì thiền thất, cải đổi gia phong ăn một ngày một buổi, đắp tăng y của Vạn Phật Thánh Thành. Thiền thất kết thúc, gia phong được phục hồi trở lại.

Ngày mười bốn tháng ba, một ứng cử viên nghị sĩ tiểu bang California cùng bốn người khác đến viếng thăm Ngài tại Vạn Phật Thánh Thành và trao đổi quan điểm về giáo dục cùng chính trị.

Mồng bốn tháng tư, lễ Lương Hoàng Bảo Sám được cử hành vào dịp khai quang chánh điện chùa Trường Đê, Long Beach ở Los Angeles. Các đệ tử cũng làm lễ chúc thọ Ngài. Ngài giảng kinh Chí Công Thiền Sư Thuyết Nhân Quả.

Ngày ba mươi tháng tư, ông Hác Bách Thôn, cựu viện trưởng viện Hành Pháp của Đài Loan, viếng thăm Ngài.

Ngày mười sáu tháng năm, đoàn đại biểu Vạn Phật Thánh Thành tham dự đại lễ Phật Đản được tổ chức tại đại học Berkeley.

Mồng chín tháng sáu, ông BudHarrison, thị trưởng thành phố Burlingame viếng thăm Ngài và trao đổi quan điểm về giáo dục cùng chính trị.

Từ mồng sáu đến ngày mười sáu tháng mười một, Ngài hướng dẫn phái đoàn hoằng pháp qua vùng đông bắc MỸ, thuyết pháp tại Newyork, Rochester, và các nơi khác. Ngày ba mươi tháng mười một, ông BudHarrison, thị trưởng thành phố Burlingame cùng bà phu nhân đến viếng thăm Ngài lần thứ hai.

Nhân dịp đó, Ngài nói rằng tám đức tánh của con người: Hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sĩlà liều thuốc thần để cứu thế gian.

Ngày mười bảy tháng mười hai, cô Edith Chen, nữ sĩ dương cầm quốc tế đến viếng thăm Ngài. Tại Sacramento, Ngài thành lập Pháp Giới Thánh Thành. Tịnh xá Viên Thông ở Đông Chí, Đài Loan được cúng dường cho Ngài.

*Năm 1994, ngày hai mươi sáu tháng giêng, Ngài mời ông Trần Lập Phu, cố vấn tổng thống Đài Loan, đến thuyết trình tại Vạn Phật Thánh Thành.

Tháng giêng, các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đồng tổ chức lễ Chúc Thọ Người Già lần thứ hai. Ngài chỉ định rằng chủ nhật đầu tháng mười một mỗi năm sẽ là ngày Chúc Thọ Người Già.

Tháng hai, học sinh trung học Bồi Đức thắng cuộc thi về Thể Chế Chánh Trị của nước MỸ trong vùng quận nhất của tiểu bang California. Ngày hai mươi bảy tháng hai, Ngài chủ trì lễ khai quang hội Bồ Đề tại San Jose.

Mồng năm tháng ba, Ngài thuyết giảng cho hội Thanh Niên Phật Giáo Trung Quốc trường đại học Berkeley tại Vạn Phật Thánh Thành.

Ngày hai mươi bảy tháng ba, thị trưởng thành phố Burlingame và chủ tịch hội đồng quản lý thị trấn Mendocino tham dự lễ vía Bồ Tát Quán Âm. Ngài thuyết giảng về đề mục: Hỗ trợ để giúp thế giới ngày một trong sáng.

Mồng chín tháng tư, nhận lời mời của liên hội Phật học đại học University at Los Angeles, University of California at Irvine, California Polytechnic Institute, Ngài thuyết giảng về đề tài: Phật Giáo và Tâm Lý Học.

Ngày hai mươi tháng tư, thể theo lời mời của đại học Berkeley, Ngài đến tham dự lễ nghinh tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma. Từ ngày mười bảy đến ngày hai mươi ba tháng tư, Pháp Giới Thánh Thành cử hành lễ Lương Hoàng Bảo Sám. Vào ngày hai mươi bốn, các đệ tử tổ chức lễ chúc thọ cho Ngài.

Ngày hai mươi tám tháng năm, văn phòng Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và viện Phiên Dịch Kinh Điển Quốc Tế cử hành lễ khai quang. Ngày hai mươi chín tháng năm, Pháp Giới Thánh Thành cử hành lễ khai quang.

Tháng năm và tháng sáu, các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới lần đầu tiên tổ chức lễ Nhi Đồng.

Ngày hai mươi ba tháng mười, thọ thần cây cổ thụ với 1989 tuổi ở núi Phổ Đà tỉnh Triết Giang tại Trung Quốc thỉnh cầu quy y với Ngài. Ngài thành lập viện Nghiên Cứu Học Thuật Các Tôn Giáo Thế Giới trong vùng đại học Berkeley. Tại Long Beach, Ngài thành lập chùa Phước Lộc Thọ. Chùa Kim Phong tại Seattle dời về địa chỉ mới.

*Năm 1995, mồng mười tháng giêng, thầy Hằng Thật đại diện Ngài, nhận lời mời của ông PETE WILSON, cựu thống đốc tiểu bang California, tham dự lễ tái nhiệm cử chức thống đốc. Lần đầu tiên trong lịch sử nước MỸ, tăng sĩ Phật giáo được thỉnh mời, đọc lời khai mạc lễ nhậm chức thống đốc.

Tại San Jose, Ngài thành lập chùa Kim Thánh.

Mồng bảy tháng sáu, Ngài viên tịch tại Los Angeles, MỸ quốc.
Một ngọn đèn sáng trên thế gian đã tắt.

Y theo lời di huấn của Ngài, bốn chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới đồng cử hành pháp hội tụng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, và niệm Phật trong vòng bốn mươi chín ngày.
Ngày mười hai tháng sáu, lễ nhập quan được cử hành tại chùa Trường Đê,

Long Beach. Ngày mười sáu tháng sáu, kim quan Ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành. Từ ngày hai mươi sáu đến ngày hai mươi tám tháng bảy, Vạn Phật Thánh Thành cử hành đại lễ Truy Ân và Trà Tỳ đại lão hòa thượng Tuyên Hóa.

Mắt Trời Trí Huệ Chợt Sa; Thế Nhân Đồng Thương Tiếc.

(Phụ chú:

Ngài dạy đại chúng:

Ai ai cũng có lúc đến rồi phải đi, chớ quá buồn

khổ, hãy giữ tâm như thường ngày. Hãy phát

tâm dụng công tu hành.

Tôi từ hư không đến và trở về với hư không.)

DỊCH GIẢ: THÍCH HẰNG ĐẠT


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

MƯA PHÁP ĐÈN TÂM CHIẾU CỔ KIM
(phần 24)

BÀI NÓI CHUYỆN CỦA HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA VÀO THÁNG 12, 1974 TẠI TẠI SÀI GÒN, VIỆT NAM
NHÂN CHUYẾN VIẾNG THĂM CHÂU Á TỪ MÙA ĐÔNG 1974 ĐẾN MÙA XUÂN 1975
Trích dịch từ Nguyệt San Vajra Bodhi Sea, số tháng 6, 2007, trang 22-23
(Shramanerika Jin Jing dịch sang Anh ngữ)

Mãi đến năm 1962 tôi mới có đủ nhân duyên đến nước Mỹ với hy vọng mang đạo Phật đến với người phương Tây. Vào lúc đó, chỉ có vài người Mỹ quyết định xuất gia làm Tỳ kheo. Kể từ năm 1968 đến nay, chúng tôi bắt đầu công việc phiên dịch Kinh Phật.

Chúng tôi đã làm việc cực lực trong nhiều năm. Chúng tôi đã làm việc đó rất trung thực và vì vậy chỉ có một số ít người biết chùa Kim Sơn làm công việc dịch Kinh. Bây giờ có nhiều người phương Tây đã thật sự xuất gia. Có lẽ Kinh do các vị này phiên dịch thì chính xác hơn.

Trong quá khứ, Kinh cũng được dịch, có thể do một linh mục theo đạo Cơ đốc giáo hay một mục sư Tin Lành, hoặc do một học giả hay một vị giáo sư đại học phiên dịch ra. Họ dịch các Kinh Phật như là người bên ngoài đạo Phật. Kết quả là tính chính xác trong các tác phẩm dịch của họ thì không bảo đảm. Nhiều lần họ chỉ hiểu một vài thuật ngữ và phạm nhiều lỗi khi phiên dịch.

Ví dụ một giáo sư đại học đã dịch từ lưỡng túc trong Kinh Pháp Hoa ra là “hai chân” thay vì phải dịch là “đầy đủ phước huệ”. Phần phiên dịch của ông ta đã làm cho câu “quy y lưỡng túc tôn” ra thành “quy y vị Phật có hai chân”.

Tại sao ông ta không dịch luôn là “quy y với vị Phật có hai tay” hay “quy y với vị Phật có cái đầu” cho rồi? Ý nghĩa khác xa một trời một vực!

Tôi tin tất cả các vị đã biết lịch sử của đạo Phật ở Trung Hoa. Trong quá khứ Pháp sư Huyền Trang và Pháp sư Cưu La Ma Thập đã phiên dịch Kinh điển trong một tự viện thuộc triều đình nhà vua, nơi đó đã có ít nhất 800 người cùng tham gia công tác phiên dịch.

Lúc nhiều nhất, có đến hơn 3.000 người tham gia vào công việc phiên dịch vĩ đại và thiêng liêng này. Vì đó là cố gắng của một tập thể nên Tam tạng gồm 12 bộ Kinh điển do đức Phật thuyết đã được phiên dịch hoàn chỉnh.

Tam tạng gồm có Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Kinh tạng bao gồm bất cứ điều gì do chính đức Phật thuyết ra trong khi Luật tạng bao gồm giới luật. Luận tạng là tất cả các bản luận giải về Kinh điển.

Một vị giáo sư đại học có lần đã dịch chữ Tam Tạng có nghĩa gốc là Ba Kho Tàng hay Ba nhà kho chứa đựng các lời dạy của đức Phật ra thành “ba điều được dấu kín” (Ghi chú của dịch giả bản Anh ngữ: chữ Tạng trong tiếng Trung Hoa vừa có thể là một động từ, lúc đó được phát âm là Tàng, có nghĩa là “giấu kín” hay “che giấu”.)

Ông ta cho rằng “Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng cần phải được che giấu không để cho mọi người biết”. Quý vị có nghĩ đó là một sai lầm không?

Phần dịch này do một vị giáo sư đại học thời nay dịch. Ông ta cũng giải thích về 12 bộ kinh điển (Thập Nhị Bộ Kinh: Mười hai chủng loại Kinh điển) trong Tam tạng Kinh điển như sau:

Kinh Pháp Hoa là một bộ. Kinh Kim Cang là một bộ. Kinh A Di Đà lại là một bộ khác v.v… Bằng cách này, ông ta hình thành nên 12 bộ kinh điển. Cách làm này lại là một sai lầm nữa.

Đó là lý do tại sao khi phiên dịch Kinh điển ở Trung Hoa, có đến hàng trăm, hàng ngàn người cùng sử dụng nhãn quan và trí tuệ của mình để quán chiếu nghĩa các câu Kinh.

Sau đó, họ cùng quyết định nhan đề hoặc nghĩa của kinh và sau đó không sửa đổi nữa. Tuy nhiên, dịch giả chẳng hạn như các vị giáo sư đại học, các linh mục hay các mục sư Cơ đốc giáo chỉ sử dụng có cặp mắt, cái đầu của riêng mình khi phiên dịch Kinh.

Về căn bản họ cũng phiên dịch Kinh, tuy nhiên, họ lại dịch theo ý của họ. Thỉnh thoảng, “cái đầu” sẽ được họ dịch là “cái chân”, còn “cánh tay” lại được họ dịch là “cái chân”;

lỗi khi phiên dịch là điều không thể tránh khỏi.

Do vậy, khi tham gia công việc phiên dịch, chúng ta nên đoàn kết mọi người lại cùng hợp tác làm việc. Khi một quốc gia phiên dịch Kinh ra ngôn ngữ của chính nước đó, nhiều người nên tham gia vào công việc này để công việc dịch này không còn bị phụ thuộc vào khả năng của chỉ một người.

Nếu mỗi quốc gia đều quan tâm và muốn dịch Kinh Phật ra ngôn ngữ của nước họ, tôi hy vọng chúng ta có thể tổ chức và dịch kinh ra nhiều thứ tiếng. Đó là hy vọng của tôi đối với nền Phật học hiện tại – tự chúng ta đứng ra tổ chức phiên dịch kinh.

Chúng ta là những Phật tử nên gánh vác việc truyền bá đạo Phật mà không nên tự mình hạn hẹn trong phạm vi nhỏ hẹp của đất nước mình. Chúng ta nên đoàn kết lại thành một, không phân chia tông, phái hay thậm chí không phân chia Bắc tông hay Nam tông.

Chúng ta là toàn thể, chứ không chỉ là một bộ phận riêng lẻ. Chúng ta nên gách vác trách nhiệm của mình đối với đạo Phật. Đừng tự cho rằng mình không quan trọng. Mọi người nên phát nguyện làm cho chánh Pháp tồn tại trên thế gian này mãi mãi và Pháp Phật sẽ không bao giờ bị suy tàn.

Thời kỳ Mạt Pháp nghĩa là gì? Thời kỳ Mạt Pháp do con người tạo ra. Nếu quý vị nghĩ đó là thời kỳ Mạt Pháp thì đó là thời kỳ Mạt Pháp. Nếu quý vị thực hành Chánh Pháp thì Chánh Pháp sẽ hưng thịnh. Tất cả điều đó tùy thuộc vào mỗi cá nhân chúng ta, không phải tùy thuộc vào Pháp.

Pháp vô phân biệt là mạt hay hưng thịnh. Quý vị không nên tự mình không biết xấu hổ bào chữa rằng: “Phật pháp đâu có dính dáng gì đến tôi!”. Vì chúng ta là Phật tử, chúng ta nên làm mọi thứ vì đạo Phật. Bất cứ điều gì cần làm, chúng ta nên làm đến cùng.

Mọi người nên có trách nhiệm và đó là một trách nhiệm thiêng liêng, một trách nhiệm vĩ đại, một trách nhiệm vô giá. Mỗi Phật tử chúng ta nên tiến lên thay vì lùi bước, nên hy sinh vì đạo Phật. Đó mới là điều vô giá thật sự.

Tôi muốn chỉ cho quý vị biết một quyển kinh mà chúng ta phải học. Kinh này là tấm gương chiếu yêu, một chày đập nát yêu ma và là thanh gươm chém loài ma quỷ. Đó là Kinh Lăng Nghiêm giúp chúng khai mở trí tuệ. Tuy nhiên, kinh này đã bị các học giả khắp thế giới phản bác.

Tại sao? Họ tuyên bố rằng Kinh Lăng Nghiêm là ngụy tạo và không đáng tin cậy. Thế tại sao chúng ta lại phải nghiên cứu kinh này mặc dù họ bảo kinh này không đáng tin cậy?
Bởi vì kinh này chứa đựng những điểm vô giá đáng cho chúng ta học tập. Kinh này chỉ ra các tà tri tà kiến mà các tà giáo và ngoại đạo rõ ràng diễn giải không đúng với Phật pháp. Vì vậy, đó là lý do tại sao kinh này là tấm gương chiếu yêu, chày đập nát yêu ma và là thanh gươm chém ma quỷ.

Nếu mỗi người chúng ta hiểu rõ Kinh Lăng Nghiêm, thì bọn thiên ma và ngoại đạo sẽ tự nhiên biến mất và chiến tranh trên thế giới sẽ giảm bớt. Hơn nữa, tất cả nhân loại sẽ lại được hòa bình trở lại. Do vậy, kinh này là trọng yếu nhất.

Quý vị nên biết điều đó không thật sự dễ đâu. Nhiều học giả ngày nay không muốn bỏ các thói quen cố hữu của họ.

Họ hút thuốc, uống rượu và chính họ tham gia vào việc hành lạc trong khi đồng thời họ lại chạy đuổi theo những phẩm vị cao trong đạo Phật, và hy vọng có thể thành Phật. Họ xem thường người xuất gia và phê bình những vị tăng ni kém học thức.

Đó là kinh nghiệm mà tôi có được. Có thể trường hợp này không có ở Việt Nam, nhưng ở Mỹ điều này xảy ra rất nhiều. Vị giáo sư này am hiểu Phật học, còn vị giáo sư kia đã khai ngộ.

Một lần tôi đã hỏi họ, “Ngài khai ngộ cái gì? Có phải là khai ngộ của bò hay chó? Dĩ nhiên ngài đã đạt được sự khai ngộ của một loài súc vật.”

Đó là cách tôi đã quở trách họ và họ không trả lời. Chúng ta nên học Kinh Lăng Nghiêm, cùng nhau nghiên cứu tỉ mỉ và hiều thấu nó. Đây là một vấn đề hệ trọng nhất.

Tại sao chúng ta nên nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm? Vào thời Mạt pháp, Kinh Lăng Nghiêm sẽ là bộ kinh Phật đầu tiên bị biến mất.

Tại sao kinh này biến mất? Đó là vị sự chỉ trích của các học giả, thậm chí người xuất gia cũng sẽ không còn tin vào bộ kinh này nữa.

Họ sẽ nói: “Giáo sư tên gì đó nói rằng kinh này không chính thực. Thế học kinh này để làm gì?”

Vì thái độ này, kinh này sẽ biến mất khỏi thế gian này. Đó là kinh đầu tiên biến mất.
Chúng ta người xuất gia và Phật tử tại gia nên bảo vệ kinh này để không bị mất đi. Chừng nào Kinh Lăng Nghiêm còn, loài yêu ma sẽ còn lẫn trốn.

NGAY KHI KINH LĂNG NGHIÊM BIẾN MẤT, TẤT CẢ THIÊN MA VÀ NGOẠI ĐẠO SẼ XUẤT HIỆN! Mọi người nên thấu hiểu điểm này.

Ở Trung Hoa, có một vị Đại Sư tên là Trí Giả (Wise One). Vị này khi vừa nghe đến tên của Kinh Lăng Nghiêm đã bắt đầu hướng về xứ Ấn Độ lễ lạy.

Ngài đã lễ lạy như vậy suốt 18 năm trời hy vọng có thể nhìn thấy quyển kinh này, nhưng cuối cùng ngài vẫn không bao giờ nhìn thấy kinh này. Đó là điều đáng tiếc trong cuộc đời ngài! Bây giờ chúng ta gặp được kinh này, chúng ta phải nổ lực truyền bá sao cho kinh này chiếu sáng khắp Pháp giới. Chúng ta nên thông minh hơn là ngu đần. Chúng ta nên hoằng dương đạo Phật khắp toàn cầu.

Tuy nhiên chúng ta vẫn cần phải hồi quang phản chiếu. Chúng ta cũng nên luôn luôn nhận ra lỗi lầm của chính mình, chứ đừng lo “giặt dùm áo người”.

Đừng có cư xử giống như một cái máy giặt đồ.

Bất kỳ vết dơ nào trên người khác, chúng ta nhận ra chúng đầu tiên. Tôi có vài lời rất hiệu nghiệm muốn nói cho quý vị nghe. Nó không phải là một bài chú, nhưng rất linh nghiệm như một bài chú vậy.

Đó là cái gì? Tất cả các Phật tử nên hồi quang phản chiếu. Chúng ta nên nhìn lại chính mình và nhận ra sự thật rằng trong quá khứ chúng ta đã từng là những đệ tử không chân thật của Phật Thích Ca Mâu Ni và đã không nghe theo lời dạy bảo của Ngài.

Chúng ta nên “chân thật nhận ra lỗi lầm của chính mình và không nên bình phẩm lỗi lầm của kẻ khác”. Chúng ta phải nhận ra lỗi của chính chúng ta; không được phê phán lỗi kẻ khác và không được xoi mói vào các vấn đề của kẻ khác.

Vì theo giới luật, nếu quý vị bình phẩm về lỗi của tứ chúng, quý vị đã phạm giới. Vì vậy, đừng có đeo mắt kính đỏ rồi thấy người khác màu đỏ qua lăng kính của mình. Khi quý vị mang mắt kính xanh, quý vị nhìn thấy người khác màu xanh.

Tóm lại, nhìn lỗi người mà không nhìn lỗi của chính mình là hành động giống như của một máy chụp hình, máy chỉ có thể chụp ảnh của người khác. Là một máy chụp hình, quý vị không thể quay ánh sáng lại và chiếu vào chính quý vị.

Dầu quý vị là người xuất gia hay người tại gia: không nên là một máy chụp hình. Quý vị cần phải hiểu chính mình và không phê bình lỗi của người khác.

Quý vị nên nghĩ rằng “lỗi người cũng là lỗi mình”. Tôi thấy anh ta như là chính tôi vậy, làm thế nào tôi có thể nói xấu về các lỗi lầm của người ấy được? Nếu quý vị có thái độ như vậy, quý vị sẽ không phê bình các lỗi của anh ta.

Điều này được gọi là “đồng thể đại bi”. Chúng ta nên nhìn thấy mọi người đều bình đẳng; “nhìn thấy người và ta như nhau là đại bi chân thật”.

Có câu nói: “Đại bi không duyên, Đại từ cùng thể” (Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi: Đại bi với kẻ không có duyên với mình, đại từ xem tất cả đồng thể với mình).

Nếu quý vị nghĩ được như vậy, quý vị hoàn toàn là một đệ tử chân thật của Phật Thích Ca Mâu Ni và sẽ thành Phật trong tương lai. Nếu quý vị có thái độ này mà không thể thành Phật, tôi sẵn sàng bị đọa vào địa ngục mãi mãi.

Tôi vẫn còn vài điều muốn nói nữa nhưng thôi hãy dừng ở đây. Nếu quý vị còn muốn nghe tôi nói nữa, có thể quý vị sẽ lại nghe tôi nói trong giấc mơ của quý vị.

Tôi sẽ lại kết Pháp duyên với quý vị tại Trung tâm Phật giáo vào lúc 8 giờ 30 phút sáng mai. Từ 4 giờ cho đến 6 giờ chiều, tôi sẽ gặp quý vị tại chùa Xá Lợi.
Ai trong quý vị muốn nghe tôi nói chuyện trong giấc mơ thì có thể đến đó.
Hình ảnh

Nguồn: https://vanphatthanh.org/phap-vu-tam-da ... -co-kim-2/
Sửa lần cuối bởi dammaythongdong vào ngày 15/10/20 05:58 với 1 lần sửa.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

HT. TUYÊN HÓA KHI HOẰNG PHÁP TẠI VIỆT NAM
Từ ngày 20 tháng 11 năm 1974 đến 12 tháng 1 năm 1975 Hòa Thượng Tuyên Hóa lãnh đạo cuộc hoằng pháp qua Đông Nam Á đến các nước như Hương Cảng, Ấn Độ, Tân Gia Ba, Việt Nam, Đài Loan…

Dưới đây là sơ lược bài thuyết giảng của Hoà Thượng tại Việt Nam:
“Trước khi buổi giảng bắt đầu, các vị làm ơn cho tôi xin vài điều nhé! Nghe tới đây, chắc có người thầm nghĩ: Tông chỉ của Hòa Thượng là:

“Dù lạnh đến chết, cũng không phan duyên

Dù đói đến chết, cũng không xin xỏ.

Nghèo khổ đến chết, cũng không cầu cạnh.”

Tại sao bây giờ mới đến Việt Nam mà Hòa Thượng lại xin nầy xin nọ; Vậy có phải là mâu thuẩn với những tông chỉ trên không?

Không phải đâu! Điều tôi xin đây khác với những gì các vị đang nghĩ, vì tôi không xin tiền hay phẩm vật chi cả. Vậy tôi muốn xin gì đây?"
Tôi chỉ muốn xin cái gốc phiền não của các vị thôi, làm ơn gom hết cho tôi. Tôi có thêm nhiều phiền não chừng nào thì càng tốt chừng nấy, còn các vị thì nên giảm bớt phiền não đi.
Một khi các vị trút bỏ những ưu phiền cùng ba độc tham sân si thì sau này tự nhiên các vị sẽ phát sanh đầy đủ giới định huệ. Đó chính là điều đặc biệt mà hôm nay tôi nhắc nhở đến cùng các vị.

Các vị nên tận dụng năng lực sẳn có của mình mà không nên gò bó trong khuôn khổ hạn hẹp như những hạt bụi li ti.

Vì tâm các vị vốn có công năng bao trùm tận hư không pháp giới, nó có thể to đến nổi chẳng vật gì mà chẳng dung chứa được; mặt khác nó cũng nhỏ đến nổi không thể đựng được vật gì.
Với tâm diệu dụng, các vị nên mở tâm mình rộng khắp không gian, thâm nhập cùng cả hằng sa thế giới. Một khi tâm hòa đồng cùng pháp giới thì các vị có thể hóa độ chúng sanh.

Ngược lại nếu chúng ta không biết dụng tâm thì sẽ thấy đây là Việt Nam, đó là Nhật Bản, hay nọ là Trung Hoa, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan… hoặc lãnh thổ này nhỏ, quốc gia kia to…

Nếu như vầy thì chúng ta không thể nào cứu độ chúng sanh ở thế giới này.

Là Phật tử chúng ta nên xem xét tất cả pháp giới quốc độ như chính ngôi nhà chung đồng một thể tánh với mình. Đừng tạo nên những ranh giới cách biệt giữa ta và chúng sanh.

Cho dù các vị thuộc phái Bắc Tông hay Nam Tông nên phá bỏ những ranh giới phân biệt này để cùng nỗ lực hoằng truyền Phật pháp khắp mọi nơi, hòa hợp thành một Hội Phật Giáo Thế Giới.

Không nên hạn cuộc vào quốc gia nhỏ bé của mình mà phải mở rộng tầm nhìn xa khắp cả hoàn cầu.

Đời nay khoa học thật hiện đại đã làm sáng tỏ nhiều điều nên không còn những tư tưởng suy đoán mập mờ cũ xưa.

Mỗi người chúng ta phải mở toang những cánh cửa sổ tâm hồn mình để thông hiểu thật đúng về sự hòa hợp này như: ‘Giúp đỡ người cũng chính là giúp chúng ta; chăm sóc người chính như chăm sóc bản thân ta.’

Chúng ta phải có phương pháp hợp nhất tất cả Phật tử thành một thể, lập một Hội Đoàn không phân biệt giữa các tông phái, đồng thời phá tan những quan niệm tu biệt lập.

Đừng vướng mắc vào hình thức hay thành kiến về Đại hoặc Tiểu Thừa vì Đạo Phật vốn đồng một thể. Chúng ta không những nhận riêng mình là một phần tử mà ngay cả những người không tin Phật cũng đồng một thể này.

Như lời Đức Phật Thích Ca: ‘Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có thể thành Phật nhưng chỉ vì vọng chấp mà không thành Chánh Giác.’
Một lần nữa tôi xin nhắc lời Phật dạy: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và đều có thể thành Phật có nghĩa là: Đối với người tin haykhông tin Phật đi nữa thì Phật tánh của họ vẫn không bị mai một.

Chỉ vì hiện tại họ chưa phát lòng tin nhưng tương lai họ sẽ tin và nếu tương lai họ không tin thì những kiếp sau đó họ cũng sẽ tin, rồi cũng có một ngày họ sẽ tin Phật.

Tôi xin nhấn mạnh điểm chủ yếu là chúng ta là nên nhớ điều phục mình đừng cho đến gần những biên giới phân chia tức là đừng cô lập trong giáo lý Phật.

Một khi khái niệm về Ngã và Chúng sanh hoàn toàn không còn thì những ranh giới phân biệt cũng không tồn tại.”Quả thật vậy, chúng ta vì dính mắc, phân biệt:
Tôi là người Tàu, anh là người Việt, người Thái, Miến Điện, Nhật Bản, Ấn Độ, hoặc Tích Lan…nên tâm không thể mở rộng được.
Nếu chúng ta không bỏ những chấp trước như thế tức không phụng hành lời Đức Bổn Sư Thích Ca. Phật pháp sẽ được hoằng hóa khắp nơi nếu chúng ta không còn những chấp trước này và lúc đó tâm chúng ta sẽ quảng khai trùm khắp pháp giới.

Đồng thời chúng ta cũng cần phải phá tan những ranh giới, vì Phật pháp bao la không giới hạn, nếu chúng vướng mắc vào đây thì không phải là Phật pháp.
Cư sĩ Quả Dụ đã theo Ngài trong suốt cuộc hoằng pháp, và ông ghi lại như sau:

“Thượng Nhân đi đến đâu là nơi đó đều có sự cảm ứng đặc biệt, thật khó mà tin được. Bất luận dù ở đâu, khi chúng tôi đến cũng đều thấy trong giảng đường đầy nghẹt người.

Tôi nhớ lúc tại Sài Gòn khi Sư phụ đối trước cả ngàn người thuyết pháp và cứ mỗi ba phút Ngài phải ngưng lại vì những tiếng hoan hô, vỗ tay ầm ỷ của thính giả. Khởi đầu Ngài giảng bằng tiếng Hoa, kế đến được phiên dịch tiếng Việt.

Giống như trong những trận bóng rổ gay go, tiếng thính chúng reo hò, hồ hởi, phấn khởi vang rền cả hội trường.

Điều làm cho tôi cảm động nhất là lúc đó Sư phụ giống như máy phát năng lực, với khí lực sung mãn; không hề mỏi mệt dù đã gian lao trải qua một cuộc hành trình dài Ngài vẫn thuyết pháp không ngừng.

Không những vậy mà Ngài còn phải tiếp đãi những đoàn người không ngớt ào đến vây quanh chờ đợi, giáo cầu Ngài giúp đở.

Sư phụ tâm quyết một lòng quảng độ chúng sanh dù phải hao mòn thân thể, rơi xương máu cũng không hề ngưng nghỉ.”
Hình ảnh
Hòa Thượng cùng vợ chồng cư sĩ Quả Ngộ (tháng 11, 1974)

Ngài trở về Mỹ vào đầu tháng giêng năm 1975.

Ngày 17 tháng 1, Ngài bảo một đệ tử gởi điện tín về Việt Nam cho cư sĩ Phương Quả Ngộ với nội dung: “NẾU NHƯ CÁC VIỆC ĐÃ THU XẾP XONG, TA HY VỌNG VỢ CHỒNG CON HÃY ĐẾN MỸ SỚM MỘT CHÚT. MONG SẼ CÓ NGÀY TÁI NGỘ. KIM SƠN TỰ.”

Khi nhận được điện tín, Quả Ngộ linh tính như có điều không lành, nên bèn điện thoại thỉnh vấn lý do tại sao Ngài muốn vợ chồng bà sớm qua Mỹ.

Nhưng Sư phụ chỉ nói: “Không có gì!”

Cuối cùng Quả Ngộ đã vâng lời Ngài và đến Mỹ vào ngày 10 tháng 3 năm 1975.
Chồng bà còn bận công việc làm ăn nên tạm tới Hồng Kông, lúc bấy giờ là thuộc địa Anh.

Đến ngày 17 tháng 4 năm 1975, ông nghĩ nước Việt cũng chưa có động tĩnh gì bèn gởi điện tín hỏi vợ có muốn về Sài Gòn không?

Như thường lệ, Quả Ngộ lại thỉnh giáo Sư phụ, Sư phụ nói: “Con đợi ba tuần lễ sau rồi hãy quyết định.”

Nhưng chỉ đến hai tuần sau thì Sài Gòn tiếp quản. Kể từ đó Quả Ngộ thường lưu ngụ ở Mỹ nhiều hơn các nước khác. (Quả Ngộ là một thương gia thường du hành hầu như khắp thế giới.)
Hình ảnh
Hình chụp lúc ký giấy tờ tạo mãi VPTT năm 1976 (bà Phương Quả Ngộ đứng ngoài cùng bên trái)
Thượng Nhân đã ái hộ và cứu trợ dân Việt thật tận tình.

Ngài đã thành lập Trung Tâm Cứu Trợ Người Tỵ Nạn Đông Nam Á tại Vạn Phật Thánh Thành từ năm 1980 đến 1986.

Đồng thời được Chánh quyền Mỹ chấp thuận nên tại đấy đã mở lớp huấn luyện nghề nghiệp, cùng lớp dạy Anh Ngữ cho người tỵ nạn hầu giúp họ sớm thích ứng trong cuộc sống mới nơi đất Mỹ.

Suốt trong những năm đầu mới thành lập Tổng Hội Pháp Giới Phật giáo, Quả Ngộ đã nhiệt tâm đóng góp công sức, hộ trì Tam Bảo.

Bà đã không chút quản ngại đời sống đạm bạc, quy củ của nhà Chùa mà thường lưu lại để phụ giúp biên thảo, kiểm duyệt trong việc kết tập những bài thuyết giảng của Sư phụ.

Ngoài ra bà còn khuyến khích và huấn luyện cho các vị thanh thiếu niên Mỹ đang học tập phiên dịch Kinh điển về những từ ngữ Phật học hay những thành ngữ Trung Hoa.





Chú thích của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ:

– Bà Phương Quả Ngộ được Hòa Thượng đánh điện bảo phải thu xếp rời khỏi nước Việt Nam vào tháng 1 năm 1975 và được nhắc đến trong bài Khai Thị Biện Pháp Chấm Dứt Chiến Tranh Hay Nhất, BĐH số 62.

Nội dung bức điện tín ngày 25 tháng 1, 1975:
Hình ảnh

http://www.drbachinese.org/vbs/1_100/vbs60-62/news.html

– Bà cư sĩ Phương Quả Ngộ đã từ trần vào ngày 19 tháng 2 năm 1997 tại Singapore. Các con trai cùng cháu nội đã về đầy đủ bên bà lúc bà lâm chung.
Nguồn: http://vanphatthanh.org/hoang-phap-tai-viet-nam/


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

BẠCH SƠN VÀ HẮC THỦY DƯỠNG DỤC NHÂN TÀI HIẾM CÓ
Nguyên tác: 白山黑水育奇英 – Bạch Sơn Hắc Thủy Dục Kỳ Anh

Phiên Bản mới của Hội Đồng Xuất Bản Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa. Phiên dịch sang Anh Ngữ bởi Trịnh Cảnh Lâm (Genglin Zhen) và các cộng sự.

Từ báo Bồ Đề Kim Cang Hải số 564 http://www.drbachinese.org/vbs/publish/ ... 64p016.pdf

87.TẠM CƯ TẠI CHÙA CHÁNH GIÁC

Sau một cơn gió bão kinh hoàng, Hòa Thượng cùng Pháp sư Thể Kính và một nhóm người đồng hành đã đến bờ Thượng Hải bình an. Họ lên đường đi Hồ Bắc đến tạm cư tại Chùa Chánh Giác Thiền Tự (1).
Tại đây, Hòa Thượng che dấu tông tích, khiêm nhường lau chùi nhà vệ sinh, gánh nước từ giếng lên, làm vườn, gác cổng và chăm sóc nhang đèn nơi chánh điện.
Trong giai đoạn tu hành khổ cực, công phu thiền định của Ngài đã được tăng tiến.

Hòa Thượng kể lại:

Người chân chánh tu Đạo thì dù ở đâu cũng không nên tham lam mưu tính hưởng thụ, cũng không mong người ta sẽ chuẩn bị đồ ăn ngon hay chỗ ngủ tiện nghi cho mình.
Quý vị không thể có những ý tưởng như vậy. Không nên khi người ta đối xử tốt với mình thì rất vui, nhưng nếu không được đón tiếp nồng hậu thì sẽ tức giận.
Người tu hành có ý nghĩ như vậy là đang gieo hạt giống đọa lạc. Người ta cúng dường không phải để lo cung dưỡng cho cái sắc thân của chúng ta mà là để nuôi dưỡng cái pháp thân huệ mạng của chúng ta. Nếu quý vị có đủ ăn và có chỗ ở như vậy là đủ lắm rồi.

Để tôi nói cho quý vị biết, khi tôi đi ra ngoài, tôi không hy vọng kẻ khác đối xử tốt với tôi và tôi cũng không đi quanh xã giao quan hệ với ai.
Không ai biết tên tôi, tôi đến từ đâu hay sẽ đi về nơi nào. Tôi tự làm việc của mình, tôi không muốn ai chú ý về mình và tôi cũng không kết bạn với ai.

Do đó khi đi đâu, tôi thường ngồi thiền ở chỗ không ai chú ý đến tôi. Tôi lúc nào cũng một mình cô độc, đạm bạc.

Khí hậu ở Hồ Bắc rất lạnh rét và thỉnh thoảng lại có tuyết rơi. Nhưng ngày và đêm tôi ngồi thiền trên băng ghế bên cạnh cánh cửa, cũng chẳng có lấy một cái mền.

Trên thực tế tôi hầu như không có chi cả, trên người chỉ một bộ áo quần thôi. Người ta hỏi, “Ồi chao, ông không thấy lạnh sao”?

Tôi trả lời như kẻ khờ, “Ai bị lạnh?”. Họ lại hỏi tiếp, “Ông không lạnh à”?
Tôi đáp, “Ai lạnh”. Họ nói, “Ôi chao, chúng tôi chịu không nổi, chúng tôi không thể tu khổ hạnh được như ông”.

Vào thời điểm đó thân tâm tôi thường thanh tịnh, không có chút lo nghĩ. Hằng ngày tôi ngửi được mùi hương lạ. Mùi hương này rất là đặc biệt, khác hẳng với tất cả loài mùi hương khác trên đời.

Nhưng dù có hương thơm ngào ngạt như thế nào, tôi cũng chẳng quan tâm đến.

Cho dù không quan tâm nhưng tôi vẩn biết là có mùi hương lạ này. Rất có thể mùi hương kia là của các vị thiên thần trên cõi trời thương hại cho vị tỳ kheo đang lạnh rét này.

Khi còn ở Mãn Châu tôi thường có những cảnh giới như vậy, và khi tôi đến Hồ Bắc lại cũng có nữa. Tại sao lại có loại cảnh giới đặc biệt như thế? Tôi nghĩ là do cảm ứng từ việc tu khổ hạnh của tôi.
Tại vì tôi tu hành tinh tấn, tất cả chư Phật và Bồ tát đều rất hoan hỷ, lại có các thiên nữ từ cỏi trời đến rải hoa. Cho dù vậy, tôi cũng không chấp trước vào việc đó.

Thời đó mọi người chằng để ý đến, xem tôi như là kẻ vô dụng. Họ không thể ngờ là kẻ vô dụng này đến Mỹ.
Có thể có người thắc mắc :

“Ông không cảm thấy cô đơn khi mà không có bạn bè? Ông không muốn có bạn à?” Không, hoàn toàn không phải vậy.
Tôi đối xử kính trọng với mọi người: người già, người trẻ, các bậc trưởng lão xuất gia lâu năm và những kẻ mới xuất gia.

Tôi đều đảnh lể với tất cả mọi người nhưng tôi không hề thốt ra một lời, giống như tôi là một kẻ khờ không hiểu biết gì cả. Nếu họ hỏi về trời, tôi sẽ trả lời bằng cách nói về đất.

Nếu họ hỏi về người nào đó, tôi sẽ nói về tôi. Nếu họ hỏi “Ông có biết người đó không?” Cho dù là tôi biết người đó, tôi không hé môi nói một lời. Nếu tôi không biết nhân vật đó thì tôi cũng không nói một lời.”

Vì tôn kính mọi người nên tôi đã để cho họ sai bảo. Ngay cả khi một sa di trẻ bảo tôi làm chuyện gì, tôi cũng làm. Nếu có ai sai tôi đi hái rau, tôi đi hái rau và rồi về đem rau rửa cho sạch. Tôi được giao nhiệm vụ gác cổng nhưng tôi cũng làm vườn, hái rau, gánh nước.

Bình thường là có khoảng 20 đến 30 người và tôi đi lấy nước cho tất cả. Ngoài ra tôi còn dọn dẹp phòng vệ sinh. Ở Trung Hoa thời đó đâu không có bồn vệ sinh dội nước – nên mùi rất “thơm”!

Lúc đó tôi nhìn thấy mấy con dòi bọ trong hố cầu, “Quý vị làm sao mà phải vào đây? À, ngày xưa tất cả quý vị là những kẻ rất đố kỵ chướng ngại người khác.
Lại ích kỷ và truy cầu tự lợi cho riêng mình, chỉ muốn ăn ngon và không muốn làm công quả trong chùa. Vì vậy nên bây giờ các cậu thành dòi bọ sống trong phân và được ăn mấy thứ “ngon” này!

Cho nên tôi nói với tất cả quý vị là không được đố kỵ ganh tỵ. Tánh đố kỵ ganh ghét rất nguy hiểm. Nếu quý vị có lòng đố kỵ ganh tỵ thì chắc chắn quý vị sẽ đọa xuống lổ cầu tiêu.

Năm kế đó có lể truyền giới tại núi Phổ Đà nên tôi đã hỏi vị trưởng lảo có chòm râu đưa lại tiền để tôi đi thọ giới.

Ông ấy không đưa lại một xu và nói: “Ta không có tiền và chú không được đi! Chú có thể đến chùa Quy Nguyên ở Hán Dương để thọ giới, cũng giống nhau thôi. Chú không cần đi núi Phổ Đà”.

Tôi đáp, “Mục đích tôi là đi Phổ Đà Sơn để thọ giới! Nếu tôi không đi thì lời nguyện tôi sẽ không thành.”
Ông ta nói “Ta không cần biết”. Ông ta cũng không trả tiền lại cho tôi nên tôi đã ra đi.

theo https://vanphatthanh.org/bach-son-va-ha ... i-hiem-co/


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

SAI MỘT CHÚT THÌ TU TẬP KHÔNG CÓ CẢM ỨNG


“Trích dịch từ bài giảng KINH HOA NGHIÊM của HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA,
Phẩm Phẩm Thăng Tu Di Sơn Ðảnh”

Nhiều người tu tập đã nhiều năm, nhưng vẫn chưa thành tựu được nhiều.
Tại sao vậy? Đó là bởi vì lúc chúng ta lạy Phật, chúng ta không làm như mình đang lạy Phật, và khi chúng ta niệm danh hiệu Phật, thì chúng ta không như đang niệm Phật.

Hành động của chúng ta luôn bị chút ô nhiễm. Ví dụ như khi chúng ta đang tụng kinh, chúng ta không nên bị chi phối bởi bất cứ những gì xảy ra chung quanh mình. Nếu có tiếng gõ cửa, chúng ta không nên quay lại nhìn để xem ai đến.
Hoặc chúng ta cũng không nên nhìn coi là ai đang bước xuống lầu. Làm như vậy là đã bị chuyển bởi âm thanh.

Chính vì chúng ta chưa bỏ được những thói quen xấu này nên chúng ta không được một sự cảm ứng nào khi tụng kinh. Nếu tiếng chuông cửa reo lên, người giữ cửa sẽ lo chuyện đó. Những người đang tụng kinh không cần phải để ý đến chuyện mở cửa.

Khi niệm danh hiệu Phật, quý vị phải tập trung tâm trí. Cho dù có bất cứ âm thanh gì chung quanh mình, quý vị đều không nên để ý nghe. Quý vị chỉ nên nhận biết được âm thanh của tiếng niệm danh hiệu Phật mà thôi.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quý vị giống như là một khúc gỗ vô tri vô giác hoặc là đống đất không biết gì cả. Mặc dù quý vị nhận biết, quý vị chỉ nên để ý đến âm thanh niệm hồng danh Phật, và đừng bận tâm đến những việc không phải của quý vị.

Khi quý vị lạy Phật, quý vị cũng phải tập trung tâm trí và phải rất thành tâm. Phật đang ở trước mặt của quý vị; quý vị không nên nghĩ rằng việc lễ lạy có thể làm qua loa, hay nghĩ đó chỉ là một nghi lễ. Hoàn toàn không phải như vậy.

Khi đầu quý vị cúi xuống chạm tấm đệm khi lễ lạy, quý vị không nên quay đầu qua một bên để nhìn những người khác.

Quý vị không nên nhìn bên trái hay bên phải, bởi vì như vậy là thiếu sự tôn kính đối với Phật. Mỗi một người trong quý vị nên suy nghĩ thật kỹ: khi quý vị lạy Phật, quý vị vẫn chưa chịu buông bỏ xuống hết mà cứ nhìn quanh thì quý vị đang lạy vị Phật nào?

Khi quý vị đang tụng kinh hoặc niệm danh hiệu Phật, nếu quý vị không cần đi vệ sinh thì, quý vị không cần phải đi nhà vệ sinh để nhìn quanh.

Nếu quý vị thật sự cần đi nhà vệ sinh thì không sao, nhưng quý vị không nên cố tình đi nhà vệ sinh khi không cần thiết phải đi, hoặc vô trong nhà bếp để nói chuyện. Những lỗi lầm này sẽ cản trở sự thành tựu trong việc tu tập của quý vị.

Khi quý vị nỗ lực tu hành, đầu óc quý vị không nên bị phân tán. Quý vị nên có chút định lực. Nếu quý vị có được định lực rồi, thì trí tuệ sẽ phát sinh.

Nhưng nếu quý vị thiếu định lực, thì trí tuệ sẽ không hiển lộ. Điều này rất là quan trọng. Chúng ta không thể phạm những sai lầm nhỏ nhặt nhất. Như có câu:

“Sai một ly, đi một dặm (*)”

Nếu quý vị chỉ sai một chút xíu thì sự tu tập của quý vị sẽ không có cảm ứng gì. Dù quý vị tu tập Pháp gì, quý vị đều cần phải nhẫn nại.

Chú thích của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ VPTT:

(*) Nguyên văn Hoa ngữ: 差之絲毫, 謬之千理 –sai chi ti hào, mậu chi thiên lý


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

NGÀI ĐỂ LẠI DI SẢN QUÝ BÁU CHO NGƯỜI TÂY PHƯƠNG

Suốt cuộc đời, Ngài luôn khiêm cung, vô ngã, và tận tụy rãi lòng đại bi đến tất cả chúng sanh.
Ngài hành đạo không nghỉ ngơi, chỉ muốn dẹp trừ màng vô minh, mê si đang che lấp bản tánh chân thật của chúng sanh. Ngài luôn hành đạo vì hòa bình nhân loại, tôn giáo, quốc gia, thế giới.

Mặc dầu chú trọng vào việc phát triển Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, sự cống hiến và công đức truyền bá Phật giáo qua tây phương của Ngài được tóm tắt như sau:
Phật giáo đã có mặt ở Trung Hoa trước khi ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, tổ sư Thiền tông, từ Ấn Ðộ sang.

Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều mê mờ về giáo nghĩa chân chánh của Phật pháp, không thể phân biệt gì là chân thật hay giả dối, gì là hời hợt hay thâm sâu.

Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma thắp lên ngọn đuốc trí huệ, làm sáng tỏ chân nghĩa của Phật pháp, bằng cách dạy họ tự mình rõ tâm thấy tánh (minh tâm kiến tánh), chứng được quả vị Bồ Ðề.

Ðại lão hòa thượng Tuyên Hóa qua tây phương sau khi Phật giáo được truyền sang đây khoảng một trăm năm. Lúc đó, có rất nhiều người thích nghiên cứu học hỏi Phật pháp, nhưng cũng rất mù mờ với những hiểu biết sai lầm.

Vì vậy, nhận thấy rằng chỉ khi nào tăng đoàn Phật giáo được thanh tịnh và vững mạnh thì Phật giáo tại quốc gia đó mới được hưng thịnh, nên Ngài trùng hưng cải cách chế độ của tăng đoàn, chú trọng việc giữ gìn giới luật tinh nghiêm của hai chúng đệ tử xuất gia và tại gia.

Nhận biết bản tánh người Mỹ rất thích thực tế, và nhờ tiếp thừa tinh thần của tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, Ngài đề xướng thực hành thiền định tinh tấn, để họ có thể trực tiếp tự chứng ngộ giáo nghĩa chân chánh của Phật giáo.

Vì có một số người nhận thức sai lầm về Phật giáo, Ngài giảng giải kinh điển Phật giáo bằng phương pháp đơn giản dễ hiểu, và chỉ rõ sự liên hệ mật thiết giữa chân nghĩa kinh điển cùng việc tu tập thực hành trong đời sống hằng ngày.

Sau đó, lại phiên dịch những lời chú giải ra Anh ngữ để giúp các độc giả tây phương tiện việc nghiên cứu học hỏi.

Cuối cùng, Ngài quyết định chọn lựa Tây Phương là nơi thực hành giáo hóa, tức dùng sự hành trì chân thật của mình mà hóa độ họ trong đời sống hằng ngày, hầu chỉ rõ chân nghĩa Phật giáo.

Nhờ phương thức này, vô số người tây phương vô cùng cảm động tri ân và thực hành theo những điều Ngài đã giảng dạy.

Thật sự Ngài đã gieo mầm mống Bồ Ðề vào trong tâm thức của họ vậy.
----

4/ KHÔNG PHÂN BIỆT TÔN GIÁO

Ngài bảo rằng đối với Phật giáo, người ta thường dán nhãn hiệu cho là giáo lý rất hạn hẹp. Ngài thường nhấn mạnh rằng giáo lý Phật giáo là dùng để giáo hóa chúng sanh.

Ngài cũng phê bình sự phân chia trong Phật giáo, vì đó là điềm báo hiệu thời mạt pháp.

Thêm nữa, Ngài nhắc nhở mọi người đừng nên quá chấp trước vào sự phân biệt giữa tôn giáo, mạch phái.
Ngài chủ trương các tôn giáo phải hỗ tương, học hỏi những điều hay lẽ phải và bổ khuyết lẫn nhau.

Ðể thực hành thiết thực, Ngài mời hồng y thiên chúa giáo Vu Bình tại Ðài Loan đến Vạn Phật Thánh Thành, thành lập và làm chủ nhiệm trung tâm nghiên cứu tôn giáo thế giới.

Ngài đề nghị rằng hồng y Vu Bình sẽ là người Phật tử giữa những người Thiên Chúa giáo, còn Ngài sẽ là người Thiên Chúa giáo giữa những người Phật tử.

Chẳng may, hồng y Vu Bình qua đời đột ngột, làm đình chỉ việc thành lập trung tâm đó.

Sau này, vào năm 1994, viện Nghiên Cứu Tôn Giáo Thế Giới được thành lập tại Berkeley.

Năm 1987, Ngài chỉ đạo trường đại học Pháp Giới tổ chức hội thảo tôn giáo Quốc Tế tại Vạn Phật Thánh Thành.

Trong năm 1987, Ngài cũng diễn giảng tại khóa hội thảo Phật Giáo-Cơ Ðốc Giáo Quốc Tế lần thứ ba tại Berkeley.

Có lần, Ngài được thỉnh mời đọc bài điếu văn tại giáo đường Từ Ân (Grace Cathedral) ở vùng Cựu Kim Sơn.

Năm 1989, Ngài được hội Quaker thỉnh mời đến Pendle Hill, Pennsylvania, để thuyết pháp định kỳ tại trung tâm tu học đó.

Năm 1992, Ngài là quý khách chủ trì pháp hội hằng năm của nhóm Vedata Society.

Ðáng kể thêm là tình đạo chân thành giữa Ngài và cha John Rogers, giáo sĩ trường đại học Humbolt State University, rất mật thiết.

theo :https://vanphatthanh.org/thuong-nhan-tu ... phuong/#22


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Nhân Duyên Của Tôi Với Hòa Thượng Tuyên Hóa

Bài viết của bà Rosaline Kang viết tại Singapore ngày 21 tháng 11, 2008,
đăng trên báo Vajra Bodhi Sea số tháng 4, 2009 trang 36-37

Vào năm 1978, Hòa Thượng Tuyên Hóa lần đầu tiên đến Kuala Lumpur, Mã Lai Á và cũng vào dịp đó tôi quy y với Ngài. Lúc đó tôi chỉ ở độ tuổi 30 và nói về cuộc sống vật chất thì quá tốt không thể nào tốt hơn được nữa.

Tôi kết hôn với một giám đốc quản trị ngân hàng và sống một cuộc sống xa hoa. Nếu cần làm bất cứ việc gì, tôi chỉ việc goị điện thoại cho cô thư ký của chồng tôi và mọi việc sẽ đâu vào đấy.

Tôi dành thời gian đi làm đẹp với những kiểu thời trang mới nhất và giao du với giới thượng lưu của xã hội Kuala Lumpur. Chúng tôi luôn có tiệc tùng để tham dự hằng đêm và mỗi bữa đều được thưởng thức những món ăn ngon nhất.

Cuộc đời tôi lúc đó chỉ quan tâm đến “năm chất độc” là tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống và ngủ nghỉ, những giá trị và sự vật giả tạo mà tôi đã từng cho là thật.

Một ngày kia thế giới của tôi sụp đổ khi tôi phát hiện chồng mình phản bội lời thề chung thủy. Tôi đã cố gắng bằng mọi cách để cứu vãn cuộc hôn nhân nhưng cũng vô ích.

Khi tôi gặp Hòa Thượng vào năm 1978, tôi thổ lộ vấn đề của mình với Ngài và Ngài khuyên tôi nên đi theo con đường Phật pháp và cứ coi như mình là người đã “xuất gia”.

Vì đang tìm kiếm một cuộc sống có ý nghĩa hơn cho mình, tôi cân nhắc kỹ lưỡng lời khuyên của Hòa thượng và nghĩ đến Ngài như một vị thiện tri thức của tôi. Cũng từ dạo đó, tôi bắt đằu cuộc hành trình cuả mình bằng từng bước một hướng đến con đường cao quý này.

Vào năm 1988, Hòa Thượng và phái đoàn của Ngài đã nghỉ lại bốn đêm tại chung cư của tôi ở Singapore. Chính sau chuyến đi đó, tôi quyết định trở thành người ăn chay trường. Thoạt đầu đó là quyết định rất khó khăn vì tôi biết mình sẽ nhớ đến những thức ăn mà tôi ưa thích.

Tuy nhiên, tôi tự hỏi bản thân mình “Làm sao mình là một người đệ tử tốt nếu ngay cả hy sinh một việc nhỏ như thế mà mình không thể làm được?”

Tôi đến một ngôi chùa điạ phương và tham dự lễ Sám Tam Thiên Phật trong 3 ngày, và tôi thành tâm cầu nguyện với chư Phật và Bồ Tát giúp cho tôi đạt được mục đích này.

Trong khoảng thời gian đó, có những người bạn khuyên tôi không nên ăn chay trường. Một người bạn bảo rằng bà ngoại cô ấy cũng đã cố ăn chay nhưng cuối cùng bà ấy đã bị ho nhiều tháng vì ăn như vậy cơ thể bị hàn (mát) quá.

Một người bạn khác cũng đã khuyên cản tôi bằng cách nói rằng nếu tôi ăn chay trường thì sẽ không còn ai đưa cô ấy và những người bạn khác thưởng thức các món ăn ngon khi họ đến thăm viếng Singapore.

Tuy nhiên tôi cũng không biêt là có những người bạn khác đã cá với nhau là tôi chỉ ăn chay được trong vài tháng mà thôi. Thế rồi họ thật ngạc nhiên khi tôi không chỉ ăn chay trong 3 tháng mà tôi còn trở thành người ăn chay trong suốt 20 năm trời kể từ năm 1988. Tôi rất quyết tâm và không bao giờ bị cám dỗ khi thấy người khác ăn thịt.

Nhưng điều tốt đẹp nhất là tôi không hề bị ho hay đau ốm gì cả. Chẳng những vậy, bệnh thiếu máu của tôi trong nhiều năm qua đã được chữa trị từ khi tôi ăn chay trường.

Tôi nhận ra trong cuộc đời này không có gì là không thể làm nếu mình hạ quyết tâm và đặc biệt là nếu mình thành tâm với ý nguyện của mình thì Phật Bồ Tát sẽ từ bi giúp đỡ và hướng dẫn .

Vào năm 1993, tôi đã sẵn sàng thọ Ngũ Giới sau lễ sinh nhật của Hòa Thượng ở chùa Long Beach. Một vài năm sau, tôi ước mong được thọ Bồ Tát Giới. Lúc đó sư cô Hằng Lương trong một chuyến viếng thăm chùa Kim Ngạn (Gold Coast) đã cho biết là chùa Vạn Phật sẽ tổ chức lễ truyền Bồ Tát Giới vào năm 2000.

Tôi thật vui sướng và nộp đơn xin tham gia ngay lập tức. Khi tôi đến Vạn Phật Thánh Thành, tôi gặp Thầy Hằng Luật, vị sư trụ trì, và Thầy cho hay tôi là người nộp đơn đầu tiên. Kể từ ấy, tôi không còn hối tiếc gì cả. Sau những năm tháng đó, bây giờ tôi mới nhận ra mình thật may mắn khi có thể phân biệt được cái gì là giả và cái gì là thật.

Thấm thoát đã 24 năm kể từ khi chồng tôi ra đi với cuộc sống mới và tôi thì sống một cuộc sống rất đơn giản. Tôi nhớ đến lời của Hòa Thượng và đã tự xem mình như một kẻ “xuất gia”.

Dù đang sống ở đâu, tại Singapore hay Gold Coast, tôi luôn có một gian phòng nhỏ trang nghiêm bằng các tượng Phật và tôi vẫn luôn xem đó như là ngôi chùa riêng của mình.

Đã từ lâu,tôi không còn xem Tivi nữa. Ngoài việc kinh kệ mỗi sáng và mỗi chiều, hằng ngày tôi đều niệm danh hiệu Phật A Di Đà 20,000 lần. Tôi sống cuộc đời phù hợp với Phật Pháp và tìm thấy niềm vui khi nghe thuyết pháp và thích được ở một mình.

Hiện giờ tôi rất hạnh phúc vì tôi đã tìm được Phật Pháp và đang cố gắng hoàn thành ước nguyện của mình, đó là vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc vào cuối cuộc đời. Đây cũng là cách tốt nhất để đền đáp lại tấm lòng từ bi và sự diù dắt của chư Phật, chư Bồ Tát và của Hòa Thượng.

Không may mắn nào bằng được gặp một vị Sư Phụ vĩ đại như Hòa Thượng Tuyên Hóa. Tôi luôn biết ơn Ngài vì chính nhờ gặp Ngài mà cuộc đời của tôi đã thay đổi. Ngài thật sự là một vị thiện tri thức.

--
Ghi chú của Ban Phiên Dịch Việt Ngữ:

Bà Rosaline Kang là người đã xây dựng và cúng dường Tu Viện Pháp Giới Kim Ngạn tại Úc cho Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới.

Xin xem thêm bài Yêu Cầu Mối Dời Đi Nơi Khác là lá thư bà Rosaline Kang gởi đến quý Thầy Cô tại Vạn Phật Thánh Thành được đăng trên báo Vajra Bodhi Sea số tháng 11, 2008 của Chùa http://www.drbachinese.org/vbs/publish/ ... 62p048.pdf


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

nguồn:
http://blog.udn.com/hedy7103/6294052?fb ... XW-yA0XBcc
hào quang xuất hiện trong lễ trà tỳ hòa thượng Tuyên Hóa:
Hình ảnh
Hình ảnh
Hình ảnh
Hình ảnh
Hình ảnh
Hình ảnh
Hình ảnh
Hình ảnh
Hình ảnh


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA KHAI THỊ VỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI VÀ NGUỒN GỐC CỦA CÁC BỆNH AIDS, VIÊM PHỔI.


Mỗi chúng ta nên: "nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân." Mình phải mỗi ngày tiến bộ; mỗi ngày mình phải khá hơn ngày trước. Nếu không mình sẽ lãng phí đời người. Hãy tụng chú Ðại Bi và chú Thủ Lăng Nghiêm.

Chú Ðại Bi có thể chữa lành mọi bệnh.
Cho nên nói rằng: " Ðại Bi Thần Chú Thông Thiên Ðịa."

Khi mình niệm Chú Ðại Bi, Lăng Nghiêm tất cả các cõi trời, các từng địa ngục đều lắng nghe; càng niệm càng có linh cảm.
Tuy vậy, nhưng mình phải niệm một cách đều đặn, hằng thường, không thể là " hôm nay hoa sen, ngày mai thì hoa mẫu đơn," hôm nay tụng bài này, ngày mai niệm bài khác, không chuyên nhất. Có câu rằng: " Chuyên nhất thì linh cảm; tản mạn: chẳng thành chi."

Tôi nhớ khi lúc tôi còn ở Mãn Châu, có một làng nọ có dịch truyền nhiễm. Hàng chục người chết mỗi ngày, cho nên sau 10 ngày hàng trăm người đã chết.

Trong một gia đình 11 người, có 13 người chết trong 3 ngày. Làm sao mà có 13 người chết trong một gia đình 11 người? Là vì có hai người, một người bà con và một người bạn đến thăm gia đình ấy nên lây bệnh, không biết rằng họ cũng sẽ chết cùng với những người khác. Thật là một trận dịch kinh khiếp.

Lúc bấy giờ, tôi dẫn theo bốn cậu bé 11 hoặc 12 tuổi đến làng đó để tụng Chú Ðại Bi cứu giúp. Sau khi chúng tôi đi nhiễu xung quang làng, trì tụng 108 biến Chú Ðại Bi, bệnh dịch biến mất một cách kỳ bí. Do đó, tôi biết rằng cảm ứng của Chú Ðại Bi thì không thể nghĩ bàn.

Bây giờ chúng ta đang ở trong thời kỳ Mạt Pháp. Thời Mạt Pháp là gì? Là thời mà giáo pháp gần tàn và sắp biến mất. Ít người thật sự tin Phật, và người Phật tử còn phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Phỉ báng Tam Bảo thì làm sao gọi là tin Phật? Phải gọi là "tin ma." Vì tin nơi ma quỷ, họ pháp hoại Phật Pháp.

Và vì vậy, đủ thứ hiện tượng ma quái xuất hiện trên thế giới, hoăïc là thiên tai, nhân họa, hay là lan tràn bệnh dịch. Thiên tai như lụt lội, hạn hán, nạn châu chấu phá mùa màng .v.v...

Nhân họa như những vụ rớt máy bay, xe lửa trật đường rầy, đụng xe... Những tai ách này xảy ra hầu như không lý do rõ rệt nào, và gây nhiều thiệt hại nhân mạng và khủng khoảng khác. Rồi còn động đất xảy ra nơi nơi, thật đáng khiếp sợ. Nhưng con người chỉ biết sợ hãi khi tai họa xảy đến. Họ không tìm căn nguyên của những tai họa ấy.Thiên tai không phải Thiên có tai họa. Chính nhân loại chịu tai họa.

Nhân họa là do chính con người chúng ta gây ra. Những vụ động đất xảy ra vì con người ưa chiến tranh, ưa sân hận và giết vô số người khác. "Quý vị có muốn chết không? Quý vị có thích giết người không? Tốt lắm, vậy chúng ta cùng chết," cho nên đất động. Những tai họa ấy đều là những hiện tượng ma quái.

A-ha! Tại sao chúng ta không chịu quán chiếu để tìm ra căn nguyên của những tai họa này? Xin nói với quý vị rằng tất cả những thiên tai, nhân họa: những trận động đất, máy bay rơi, xe lửa lật, tàu chìm, đụng xe, tất cả đều là do tâm con người tạo ra. Vì tâm con người đã mất hết bản chất người, đạo đức đã suy đồi, cho nên những hiện tượng bất thường ấy mới xảy đến.

Ðiều kinh khiếp nhất trong thế giới loài người hiện nay là đồng tính luyến ái.

Ðồng tính luyến ái là một hành vi nghịch lại sinh lý của trời đất, đi ngược lại sự tạo hóa của âm dương, và vi phạm quốc pháp.

Hành vi này sẽ làm cho vong quốc, diệt chủng. Nếu quốc gia tiêu vong, thì không còn là quốc gia nữa, và nhân loại cũng từ đó mà đoạn diệt. Dù những kẻ đồng tính luyến ái có mê cuồng nhau đến độ nào chăng nữa, họ không thể sinh sản được, cho nên hạt giống của nhân loại sẽ mất đi.

Muốn trồng bắp thì phải có hột bắp. Muốn trồng dưa thì phải có hột giống dưa. Muốn trồng đậu thì phải có hột giống đậu. Chẳng những bắp và đậu có hạt giống, bất luận cái gì cũng có hạt giống. Loài người cũng có hạt giống người. Nếu "hạt giống người" bị tiêu hoại, thì nhân loại sẽ diệt mất.

Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Ðạo;
Biên Âm Biên Dương Chi Vị Tật.
(Một Âm hợp với một Dương thì gọi là Ðạo;
Chỉ riêng Âm hay riêng Dương thì gọi là thiên lệch).

Giờ đây thì kẻ đồng tính luyến ái đã bị trời trừng phạt, nhưng họ vẫn chưa thức tỉnh. Sự trừng phạt này ra sao? Rằng, hễ họ làm việc luyến ái, thì họa tới ngay.

Vì rằng Dương (nam tính hay là nguyên lý tích cực) thì khắc Dương, và Âm (nữ tính hay là nguyên lý tiêu cực) thì khắc Âm. Hãy nhìn cục nam châm: nó có một đầu Âm và một đầu Dương.

Cần có một đầu âm và một đầu dương để hai đầu có thể hút lẫn nhau. Nếu cả hai đầu đều âm, hai đầu không thể hút nhau. Từ nơi ví dụ trên ta có thể suy ra rằng lý Âm Dương thì hỗ tương, không thể bỏ một trong hai tánh ấy.

Kinh Dịch dạy rằng:

"Một Âm hợp với một Dương thì gọi là Ðạo; riêng Âm hay đơn độc Dương thì gọi là bệnh, là thiên lệch." Khi Âm Dương hòa hợp, thì đó là Ðạo. Khi Âm, Dương không hòa hợp thì sự bất quân bình, bệnh tật tất xảy ra. Do vậy, đồng tính luyến ái sản sinh ra bệnh AIDS.

Có người nói bệnh AIDS phát nguyên từ Châu Phi, nhưng Châu Phi không phải là nguồn gốc của bệnh AIDS. Nguồn gốc của bệnh AIDS là đồng tính luyến ái. Khi những người đồng tính luyến ái bị bệnh này, họ không có thuốc chữa, và không có cách nào chữa khỏi. Các bác sĩ đều bó tay, vô phương y liệu.

Hiện nay vẫn còn có người nghiên cứu AIDS và cố tìm phương thức chữa bệnh này. Ô hô! Thật giống như biết rằng không thể làm mà vẫn cố làm. Họ cưỡng chữa bệnh này, chẳng những đã thất bại, lại còn tạo ra một thứ AIDS khác, đó là bệnh viêm phổi. Bệnh viêm phổi này lại còn ghê gớm hơn bệnh AIDS nữa.

Bởi vì bệnh mới này có thể truyền nhiễm qua cái bắt tay. Người bệnh chỉ mở miệng ra nói, là có thể truyền bệnh qua người khác. Trong năm vừa qua không những bệnh nhân không thể lành mà ngay các bác sĩ và y tá, gần hai chục ngàn người chết vì bệnh này. Chẳng có cách nào trốn thoát, ngay cả mang khẩu trang hay mặt nạ! Chỉ cần da thịt chạm nhau, là bệnh được lan truyền. Vi trùng bệnh có thể lây qua không khí.

Loại bệnh này còn lại nguy hại hơn bom nguyên tử hay cả bom khinh-khí. Cho nên nó là một tai họa không khác bệnh dịch. Bây giờ thì bệnh dịch này đã phát tác, và chẳng những người nam bị mắc bệnh, mà cả người nữ cũng bệnh.

Và không những cả nam lẫn nữ đều mắc bệnh, ngay cả trẻ sơ sinh cũng mắc chứng bệnh viêm phổ và bệnh AIDS này. Quý vị hãy nhìn xem! Có phải thật là kinh khiếp không?

Giờ đây, trên khắp thế giới, nếu chúng ta đếm số người mắc bệnh AIDS và chứng sưng phổi mới này, con số không phải là nhỏ, vì rằng một số thai nhi đã bị nhiễm vi khuẩn bệnh sưng phổi này ngay khi còn trong bào thai. Cho nên khắp thế giới, giờ cuối cùng của con người đã điểm.

Cái gọi là những ngày cuối cùng của nhân loại có nghĩa là tất cả sẽ bị tiêu diệt và biến mất. Hơn phân nữa dân số thế giới đang bị nhiễm vi khuẩn bệnh này. Khi nó phát tác, nó sẽ giống như trận Ðại Hồng Thủy mà không một ai có thể ngăn chặn.
Nhân loại phải làm gì khi đối diện với tai ương này?

Chúng ta phải chí thành, khẩn thiết trì tụng trì Chú Ðại Bi. Ðức Phật dạy rằng: Chú Ðại Bi có thể chữa lành tám vạn bốn nghìn tật bệnh trên thế gian. Tám vạn bốn nghìn chứng bệnh thì bao hàm cả AIDS và bệnh sưng/viêm phổi.

Chúng ta phải sanh lòng thành khẩn xem việc tụng chú quan trọng như việc ăn cơm, cần thiết như việc mặc áo, không thể thiếu sót như việc ngủ nghỉ.

Mình phải làm thế nào để Chú Ðại Bi trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày của mình. Ðược vậy, bệnh AIDS sẽ sợ, bệnh sưng phổi cũng ngán, nhưng cần yếu là ta phải hết sức thành khẩn.

Hơn phân nửa nhân loại sẽ bị hủy diệt, và những người sống sót là những người biết tu Ðạo, những người chân thật tu hành, những người biết niệm Phật, những người biết tụng Kinh, trì thần chú và những người ăn chay – đó là những người có thể sống còn.

Không phải tôi cố ý nói điều này để hù dọa quý vị. Ðã đến lúc tôi không thể không lớn tiếng: thời đại này không phải là thời đại hòa bình, đây là một thời đại vô cùng nguy ngập.

Tôi không thể không thống thiết lớn tiếng với các vị rằng: sáng dậy không chắc gì ta yên đặng đến tối; vì rằng tai họa này đến trong khoảng khắc không ai có thể ngờ.

Ngày 14 tháng 8, năm 1992, Cố Lão Hòa Thượng TUYÊN HÓA khai thị tại Vạn Phật Thánh Thành về hai chứng bệnh vô phương cứu chữa, bệnh AIDS, một loại bệnh chỉ nghe tiếng đã khiến người ta kinh khiếp, và một chứng bệnh mới càng kinh khiếp hơn, đó là bệnh Tân Viêm Phế, chứng sưng phổi loại mới.

XIN THƯỜNG NIỆM A DI ĐÀ PHẬT _()_

Ghi chú: bệnh viêm phổi loại mới là bệnh viêm phổi Virus Corona (COVID-19) đã xuất hiện từ cuối năm 2019.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

TU HÀNH


Tác giả :Hòa thượng Tuyên Hóa



Tu Đạo là cần phải “quay trở lại”. Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu -- xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.


Đối với ma đừng khởi tâm thù nghịch. Hãy xem chúng như các bậc Thiện tri thức trợ Đạo cho mình.


Từ vô lượng kiếp đến nay, hết đời này sang đời khác, mỗi người tạo bao nghiệp không đồng, nên vọng tưởng cũng không đồng. Nghiệp nặng thì vọng tưởng nhiều, nghiệp nhẹ thì vọng tưởng ít.


Người tu hành phải vì cắt đứt dòng sanh tử luân hồi, vì độ chúng sanh, chứ không vì cầu cảm ứng mà tu Đạo.


Người tu Đạo phải luôn luôn hồi quang phản chiếu, không nên hướng ngoại truy cầu. Tìm cầu bên ngoài không thể có được, quay về tự tánh thì đầy đủ cả.


Đối với kẻ mới phát tâm tu, điều chướng ngại nhất khi dụng công là lòng tham đắm sắc dục giữa nam và nữ. Đây là vấn đề căn bản nhất.


Người tu Đạo nên chú ý! Chớ gieo duyên nhiễm ô với người khác. Sợi dây trói buộc bất tịnh này sẽ làm chúng ta đọa lạc.


Hiện tại chúng ta may mắn có được thân người. Nếu không biết dùng thân người để tu hành, thì đợi đến khi nào mới tu? Chỉ e đến lúc mất thân này rồi, dẫu có muốn tu hành thì đã quá trễ!


Học Phật Pháp, điều thiết yếu là phải chân thật. Mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ đều phải chân thật.


Ở chùa, chúng ta phải biết tiết kiệm mọi vật dụng. Rằng:
“Thương tiếc vật của chùa

Như bảo vệ tròng con mắt”.



Không thương, không ghét là Trung Đạo.
Tu Đạo là tu đạo gì? Tức là tu theo Trung Đạo -- với ai cũng phải đối xử bình đẳng, lấy lòng từ bi làm căn bản, và khi hành sự phải cẩn thận, chớ đi lạc vào lưới rọ tình ái.



Chẳng hề có đạo lý “ngày nay tu Đạo, ngày mai thành Phật”. Mới cuốc một nhát đâu thể có giếng nước ngay được. Tu hành là đem khối sắt mài thành cây kim, công đủ tự nhiên sẽ thành tựu.


Việc đầu tiên khi học mật chú là phải chánh tâm thành ý. Nếu tâm không chân chánh thì khi học, mật chú nào cũng thành tà. Tâm nếu chân chánh thì học mật chú mới được cảm ứng.


Vô minh có hai đồng lõa. Hai đồng lõa ấy là gì? Tức là tham ăn và tham sắc dục. Cả hai việc này trợ giúp vô minh tạo vô số nghiệp xấu.


Có câu rằng:
“Khi muốn làm người tốt thì nghiệp báo hiện,

Khi muốn thành Phật thì ma đến thử thách.”



Nếu không muốn trở thành người tốt thì nghiệp báo không tìm đến. Càng quyết chí làm người tốt bao nhiêu thì nghiệp báo càng đến tới tấp bấy nhiêu, đòi mình thanh toán nợ nần cho minh bạch.



Phật và ma chỉ khác nhau ở một tâm niệm -- Phật thì có tâm từ bi, còn ma thì có tâm tranh hơn thua.


Người thực sự biết cách tu hành thì nhất cử nhất động cũng đều là tu cả.


Người tu Đạo không nên đi khắp nơi quảng cáo sự tu hành của mình. Ai thường quảng cáo sự tu hành của mình thì nhất định sẽ đọa lạc vào đường ma.


Người tu Đạo ở bất cứ nơi nào cũng đều phải che dấu và tẩy xóa tông tích, đừng nên để lộ diện.


Tâm của chúng ta thường trú tại những nơi khác chứ không trú tại trong tâm mình. “Trú tại những nơi khác” nghĩa là có thân mà không có tâm.


Giảng kinh thuyết Pháp là tu Huệ. Ngồi Thiền là tu Định. Không nói lời tạp nhạp là tu Giới.


“Phiền não tức Bồ Đề.” Nếu biết dùng thì phiền não tức là Bồ Đề. Nếu không biết dùng thì Bồ Đề biến thành phiền não.


Tu Đạo cần phải tập dại khờ. Càng “dại khờ” bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. “Dại khờ” cho đến mức cái gì cũng không biết cả thì vọng tưởng sẽ không còn.


Vô minh có nghĩa là không hiểu rõ. Gốc rễ của vô minh là ái dục.


Mục đích chủ yếu của tu hành là cắt đứt dòng sanh tử, chứ không phải cầu cảm ứng.


Tu hành thì cần phải giữ mình cho trong sạch, như giữ đôi mắt không để dính một hột cát vào vậy.


Cờ bạc thì tạo nghiệp nặng. Bố thí thì tích lũy công đức. Ngồi Thiền thì trừ ngu si, sanh trí tuệ.


Người tu hành nên cẩn thận lời nói nơi chỗ đông người và canh giữ tâm khi ngồi một mình. Lúc giữa đại chúng đừng nên nói nhiều. Khi riêng một mình nên đề phòng tâm ích kỷ và vọng tưởng. Như thế thì chẳng bao lâu sẽ được chuyên nhất, thấy rõ tâm mình.


Thọ khổ thì dứt khổ.
Hưởng phước thì hết phước.



Người chân chánh tu Đạo phải xem xét mọi hành vi, cử động của chính mình. Đi, đứng, nằm, ngồi, chớ rời chánh niệm. Đừng như cái gương -- chỉ biết soi mặt người mà không tự soi lại mặt thật của mình.


Nếu còn chấp trước thì đó là tâm người thường. Nếu không chấp trước, đó là tâm Đạo.


Nếu muốn không chết, phải sống như người đã chết -- tức là phải giữ mình đừng tham lam, sân hận, si mê.


Người học Đạo nhất định phải phát nguyện. Nguyện lực có khả năng thôi thúc chính mình tiến tu theo Chánh Đạo, không lạc đường tà. Nhưng phát nguyện mà không hành thì giống như cây có hoa mà không đơm trái, thật vô ích!


Dùng lưỡi để thuyết Pháp thì tích tụ công đức. Cũng dùng lưỡi nhưng lại nói lời thị phi thì tạo nghiệp tội. Thay vì thuyết Pháp mà lại nói những lời vô nghĩa, thị phi là tạo một vạn hai ngàn nghiệp tội.


Người tu Đạo đối với kẻ trong người ngoài, già, trẻ, lớn, nhỏ, kẻ sang người hèn, đều thường dùng tâm Từ Bi Hỷ Xả, thì tự nhiên sẽ nẩy sanh cảm ứng.


Tu Đạo là tu chân thành và thiết tha. Nên có câu: “Tâm thành thì linh ứng”.


Chúng ta sống trên thế gian này, luôn luôn phải làm việc lành. Mỗi hơi thở, sức lực đều phải hành thiện tích đức. Trong hiện đời, chớ nên dựa vào thiện căn đời trước mình đã trồng mà tận hưởng hết phước báo.


Phật có thể chuyển hóa tất cả chúng sanh thành Pháp khí, nên có câu: “Mượn cái giả để tu việc chân thật. Túi da hôi thối này chỉ là căn nhà tạm bợ.” Chúng ta trú tại căn nhà này để tu Đạo, nghĩa là mượn “ngôi nhà” sắc thân giả tạm để tu thành Pháp thân chân thật.


Nếu tâm tham lam tràn trề, không biết đủ, thì tương lai sẽ bị đọa lạc vào địa ngục. Nếu tâm sân hận quá nhiều, từ sáng đến tối luôn giận dữ, thì sẽ trở thành ngạ quỷ. Nếu tâm ngu si nặng nề, chỉ làm những việc ngu xuẩn thì sẽ biến thành thú vật.


Khuyết điểm lớn nhất của chúng sanh là si ái – ngày đêm sống trong si ái, không thể xả bỏ được. Nếu chuyển được tâm háo sắc thành tâm tu học Phật pháp, từng giờ từng phút không quên lãng việc tu học, thì sẽ mau chóng thành Phật.


Người chân chánh khai ngộ thì không bao giờ nói mình đã khai ngộ. Bậc thánh nhân xuất thế tuyệt đối không tiết lộ chân tướng. Phàm những kẻ tự xưng là Phật, là Bồ Tát, đều là tà ma.


Người có đức hạnh không phải do nơi địa vị hay tuổi tác, mà trong những hành vi kín đáo im lặng, tự nhiên hiển lộ phẩm cách đặc thù của họ, khiến người khác đều kính nể. Phẩm cách đặc thù này không khiến cho kẻ khác sợ hãi, vì nếu sợ hãi thì họ sẽ lánh xa.


Mọi người đều có ba thằng giặc phiền não: đó là tham lam, sân hận, si mê. Chúng ta không cần phải diệt trừ chúng mà hãy chuyển hóa chúng thành những hạt giống Bồ Đề.

nguồn: http://ngocbao.org/


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Hòa thượng Tuyên Hóa giảng

Đến thời đại mạt pháp “pháp nhược ma cường", thế lực của Ma vương mỗi ngày một lớn mạnh, trong khi thế lực của chánh đạo thì mỗi ngày một thu nhỏ. Phật giáo xưa nay không nói đến từ “thế lực", mà "thế lực”ở đây ngụ ý chỉ uy đức.
Hễ khi nào phước báo của chúng sinh lớn thì "pháp cường ma nhược", còn phước báo của chúng sinh nhỏ thì "pháp nhược ma cường" — một sự tương phản cân xứng.

Trích dịch từ bài giảng của Hòa Thượng Tuyên Hóa trong tạp chí TRÍ TUỆ CHI NGUYÊN


Hiện tại, sinh mạng của nhân loại trên toàn thế giới cũng giống như núi trứng gà xếp chồng, nếu trong đó có một trứng bị đập vỡ, thì toàn bộ núi trứng sẽ sụp đổ vỡ tan nát ra. Sinh mạng của con người cũng nguy hiểm đáng sợ như vậy. Chính vì lý do đó, bao trùm trên khắp thế giới này, ở đâu cũng có đầy dẫy những con ma, cháu ma, vua ma, dân ma... Nếu nói chân lý thì chẳng ai nghe, nhưng tà thuyết thì không biết bao nhiêu người sẽ tin. Hoặc như khi có người tuyên giảng về chân lý, đạo đức, tuy có người đến nghe, nhưng vẫn có phần miễn cưỡng và không thật sự lắng nghe lắm. Nhưng ngược lại, nếu có đoàn xiếc, ca múa nhạc, hay đi xem phim, khiêu vũ... thì người người đều tranh nhau đến một cách thích thú lạ thường. Từ đó, chúng ta nhận thấy rằng: “Lòng người ngày nay đa số bại hoại, không thuần hậu bằng người xưa”. Đây là một thứ biểu hiện của Ma vương, nó đã dùng thế lực và thần thông để nhiễu loạn thế giới loài người.Yêu quái lớn nhất hiện nay là máy vi tính cũng như mạng lưới Internet. Sau khi vật này được phát minh đến đỉnh cao, con người xem như trở thành "vô dụng" vì không còn vận động gì nữa. Bấy giờ, con người chẳng biết dùng để làm gì nữa, vì việc gì cũng tìm đến nó. Dưới hệ thống điện toán của nó, cái “điện” của con người trở nên tê dại không còn cảm giác. Nếu cứ kéo dài như vậy đến một ngày nào đó, con người sẽ trở nên yếu ớt bại hoại, không phấn chấn, sống say chết mộng, việc gì cũng không sáng suốt. Đây không phải quái vật thì là gì? Đây chính là một loại pháp thuật do quỷ trí của ma đã tưởng tượng ra.

Loại yêu quái thứ hai đang xuất hiện ở đời chính là phim ảnh. Sản phẩm này khiến con người mê hoặc đến nổi đen trắng bất phân, thị phi chẳng rõ, sự lý bất minh. Qua phim ảnh, những thiếu niên đã bị đầu độc một cách điên đảo mê hoặc. Từ những đầu óc trong trắng, chúng đã biết thế nào là giết người, phóng hỏa, trộm cắp, hiếp dâm, uống thuốc độc... Những thứ này đều bị ảnh hưởng từ phim ảnh vậy. Do đó, điện toán và phim ảnh là hai loại quái vật khổng lồ. Tuy nhiên, hầu như mọi người đều không nhận thức rõ rằng nó là quái vật, mà ngược lại còn cho nó là bảo bối, đã bỏ ra không biết bao nhiêu là những khoản tiền lớn để mua sắm và đầu tư chúng.

Lại còn có một loại quái vật nữa là tên lửa, vệ tinh. Những thứ này có thể bắn lên trời, rồi thả xuống những thứ vũ khí giết người, như là đạn nguyên tử, đạn khinh khí, tia tử quang... Những cái danh từ như "vũ khí hạt nhân", "ánh sáng chết", "vũ khí hủy diệt"… này, chỉ mới nghe là đã thấy rợn người. Một khi địa cầu đã bị bao trùm bởi ánh sáng chết, thì sớm muộn gì con người trên thế giới này cũng phải chịu sự tác động của ánh sáng chết cả. Đây đều là vũ khí hơi độc do Ma vương phát minh ra, với mục đích khiến nhân loại sớm tuyệt diệt. Mặt khác, nó còn dùng các phương pháp để tăng thêm sự hung tợn cho quái vật, như là phóng ra các loại khí độc, làm ô nhiễm các loại động thực vật, khiến con người khi trúng phải những thứ mê hồn này, thì đông tây nam bắc, bốn phương tám hướng không thể phân biệt sáng suốt nữa. Đây đều là lực lượng phá hoại của yêu ma.


Bên cạnh đó, có một loại ma đến từ những hành tinh bên ngoài vì muốn huỷ diệt thế giới này. Vì vậy, nó thường xuyên tập trung vào các thủ đoạn để tiêu diệt loài người. Bọn chúng phun ra một loại khí độc; nếu phun lên ngũ cốc, con người ăn vào liền trúng độc; nếu phun lên các loại gia súc, con người ăn trúng thịt đó cũng trúng độc; phun lên các loại cá, ba ba và thủy hải sản nói chung, con người ăn vào cũng bị trúng độc, sinh ung thư mà chết. Nó lại còn xuất hiện trên đồ dùng hằng ngày của con người, ướp tẩm lên đó những thứ thuốc độc ngầm. Nói đơn cử như giấy vệ sinh, tại nơi sản xuất giấy, nó rưới lên một thứ nước hoa, có thể hại con người mang các chứng bệnh nặng, như sinh ung thư đường ruột và trăm thứ bệnh hiểm cùng phát. Trước đây, người ta không dùng giấy vệ sinh có nước hoa, thì cái loại quái bệnh này đâu có nhiều như thế !

Hiện tại, có một chất độc hết sức nghiêm trọng đó chính là "tiền" mà con người không thể nào bỏ đi được. Ma vương đã rưới lên tiền giấy một loại độc khí, mà người ta hễ sờ đến là là mắc ngay chứng bệnh tham. Cái gì cũng muốn cho thật nhiều; bất kể đó là cái ăn, cái mặc, hay sự đi đứng,… nhu cầu tiền bạc đòi hỏi càng lúc càng cao. Nói chung là người ta muốn dùng hết mọi phương pháp để kiếm tiền, đến nỗi đã phát bệnh bên trong não bộ - một cái bệnh ung thư tham tiền. Loại độc này quả thật không có thuốc chữa.


Nếu con người biết hạn chế dục vọng, không tham lam, không tranh đoạt, không mong cầu, không tự tư tự lợi, không dối trá, không ích kỷ… thì họ sẽ không trúng phải chất độc của tiền bạc. Lại nữa, nếu không ăn thịt, thì chất độc của các loại thịt không thể xâm nhập cơ thể. Vì chỉ có ăn chay với các thứ rau, cải... là những thực vật tự nhiên, trong bản thân nó đã sẵn có những chất có thể giải độc. Do đó, có thể nói, ăn rau cải thật sự là một bảo chứng tốt nhất cho sự kiện khang trường thọ.

Sau khi thảo luận vấn đề này, các vị hãy tự mình thử nghĩ lại xem mình có mấy thứ tâm bệnh này hay không? Nếu có, hãy mau chóng sửa đổi, không nên trở lại tham lam, tranh cầu, tự tư tự lợi và dối trá. Nếu các vị trừ bỏ các loại tâm bệnh này, các vị sẽ không bị trúng độc. Và một điều rất khẩn yếu nữa là hãy quét sạch những rác rưỡi của chính mình, như căm hận, thù oán, phiền muộn, tức giận, buồn chán... Ai còn một tí những thứ này, tức là chưa thu dọn cho sạch sẽ rác rưởi. Tự tánh của các vị nếu đã sạch sẽ, an tịnh, thì không còn căm hận người, không thù oán người, không phiền muộn người, không tức giận người, không buồn chán người.


Được như vậy, trong thời đại mạt pháp này, có thể nhờ cái ánh sáng của các vị mà thế giới này được chống đỡ nhiều phần. Thế giới này sớm muộn gì cũng sẽ bị hủy hoại, nhưng nếu có thêm những con người chân chánh biết từng ngày sửa đổi chính mình, thì thế giới sẽ có thêm một phần chánh khí, giảm bớt một phần tà khí; tăng một phần đạo đức, giảm một phần yêu ma. Các vị đừng nghĩ là tôi nói chơi rồi để lời nói của tôi như gió thoảng bên tai. Đây là một vấn đề hết sức trọng yếu, nó có quan hệ rất mật thiết với thực tiễn đời sống hiện nay.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Hình ảnh

Hình ảnh


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.23 khách