Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Kính mời các bạn tham gia ghi lại kinh nghiệm tu tập và những gì mắt thấy tai nghe về sự cảm ứng nhờ hành trì giáo lý Phật.
dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Cây Long Não 1,000 Năm Xin Quy Y Cửa Phật,

Thiện Nam Tín Nữ Bốn Phương Xin Xuất Gia!
Tác giả :Trần Tâm Bình
Thực vật cũng muốn quy y hay sao?

Trong khuôn viên chùa Phổ Tế trên núi Phổ Đà thuộc tỉnh Chiết Giang, một cây Long Não sống lâu 1,089 năm đã xin quy y với Hòa Thượng Tuyên Hóa, một vị cao tăng tại Hoa Kỳ, qua trung gian một cư sĩ có thần thông.

Và cây cổ thụ đó đã được quy y vào ngày 23 tháng 10 năm 1994 tại Tu viện Trường Đê ( Long Beach ), miền nam California.

Nhìn ra biển Thái Bình Dương, chùa Trường Đê là đạo tràng Phật giáo thứ hai được Hòa Thượng thiết lập tại miền nam California , sau chùa Kim Luân ở Los Angeles .

Ngày 23 tháng 10 dương lịch 1994, thời tiết tuyệt đẹp.

Lúc 8 giờ sáng, 21 Phật tử chuẩn bị làm lễ Thế phát đã cùng với 300 Phật tử tham gia lạy Phật trước khi lễ xuất gia, và gồm có 4 nam và 17 nữ.

Họ đã từ Phần Lan (Bắc Âu), Gia Nã Đại, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Đài Loan, Hương Cảng, Tân Gia Ba, Mã Lai Á và Việt Nam, và thuộc đủ lứa tuổi từ 6 tuổi đến 72 tuổi:

- Bà Ngô, một giáo sư kỳ cựu của một trường nữ trung học nổi tiếng ở Đài Bắc, đã lái xe suốt 4 ngày đêm từ Nữu Ước đến tiểu bang California để xin xuất gia với Hòa Thượng.

- Hai em thiếu nhi, anh trai 10 tuổi và em gái 6 tuổi cũng xuất gia vào ngày ấy. Cô em đã thưa với cha mẹ từ khi mới tập nói: “Sau này con muốn thành một Sư Cô!”

Cậu anh cũng đã có phát nguyện cách đây 3 năm là muốn làm một vị Pháp sư. Cha mẹ của hai anh em nguyên quán Đài Loan, làm nghề kỹ sư điện toán và giáo sư trung học.

Họ thành khẩn ước mong con họ sớm thành Phật đạo để cứu độ chúng sanh.

- Một em bé gái Việt Nam 6 tuổi cũng theo gương bà ngoại và người anh trai 12 tuổi đã xuất gia, và đã có xin xuất gia nửa năm trước đây.

Em đã được toại nguyện hôm 23 tháng 10.

Được hỏi vì sao lại muốn đi tu khi tuổi còn nhỏ như vậy thì cô bé đã trả lời đầy tin tưởng và bằng tiếng Anh rất lưu loát là: “ Vì tôi muốn đi đến các nhà tù và thuyết pháp cho tù nhân!”

Trong dịp lễ Thế phát, Hòa Thượng Tuyên Hóa đã khuyến khích các vị Tăng, Ni mới gia nhập Tăng đoàn Phật giáo rằng:

“Trên con đường tu hành, vị Bổn sư chỉ dìu dắt đến cửa Phật, nhưng mỗi đệ tử phải tự mình tu luyện. Nếu các vị không chuyên cần và khổ công tu tập thì dù cho có lạy Đức Phật Thích Ca làm sư phụ thì cũng vô ích thôi. Tất cả các vị hãy suy nghĩ đi.

Chúng ta xuất gia với mục đích đoạn sanh tử và đạt giác ngộ. Nếu chúng ta cứ tiếp tục lơ là để phí thời giờ thì xuất gia có ích lợi gì đâu.

Hôm nay các vị xuất gia và đã đi bước đầu tiên để tiến tới cõi Phật. Tất cả các vị phải sớm hoàn thành Phật quả.”

Sau lễ Thế phát vào buổi sáng thì có lễ Thọ giới vào buổi chiều: Tam quy, Ngũ giới, Thập giới Sa Di, và Thức Xoa Ma Na Pháp Nghi Thức

Ngay trong buổi lễ, một đệ tử của Hòa Thượng là nữ cư sĩ họ Dương, pháp danh Quả Vân, đã điện thoại từ Đại lục Trung Quốc và kể chuyện có thật như sau:

“Khi thân phụ tôi và tôi đến viếng chùa Phổ Tế trên núi Phổ Đà thì có thấy một cây Long Não rất to đến mười người ôm. Cây cổ thụ đó nói với tôi rằng y muốn quy y với Hòa Thượng Tuyên Hóa.

Tôi rất ngạc nhiên và hỏi:” Đã ở tại chùa bao nhiêu năm rồi mà chưa gặp vị chân tu và chưa quy y sao? Tại sao lại muốn quy y với Sư phụ?”

Cây cổ thụ trả lời là chưa hề gặp một vị chân tu để có thể quy y, và chưa có đủ nhân duyên. Nay thì y ước mong được quy y với Sư Phụ. Tôi nói: “Được! Hãy chờ tôi xin với Sư Phụ và sẽ tin cho biết.”

Sau đó, tôi trở về phòng, rồi đi ngủ vì quá mệt. Khi tôi thức dậy thì cũng quên mất lời hứa, không kể lại cho thân phụ tôi biết mà cũng không xin với Sư Phụ.

Chiều hôm đó, chúng tôi sửa soạn đi viếng các tu viện khác nữa. Khi đi xuống cầu thang, tôi xoay mình để nói chuyện với cha tôi. Đột nhiên, tôi bị trẹo cổ, may mà không bị gãy cổ.

Tôi tự hỏi: “ Mình có làm gì sai không?” Tôi liền quay người lại thì thấy cây Long Não và hiểu ra rằng tôi đã quên lời hứa.

Ngay lúc đó, cây Long Não nói: ”Tại sao có thể cẩu thả như vậy và đã quên lời yêu cầu của tôi?” Tôi trả lời: ”Xin lỗi. Tôi hay quên. Xin đừng giân. Tôi sẽ xin với Sư Phụ ngay.”

Sau đó tôi liền thỉnh thị Sư Phụ. Sư Phụ dạy: ”Có trở thành đệ tử của tôi hay không, điều đó không quan trọng. Nhưng y phải tinh tấn tu hành Giới, Định, Huệ và dập tắt tham, sân, si.”

Tôi chuyển lời của Sư Phụ lại cho cây Long Não và nhắc thêm:

“ Hễ còn giữ Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành là Không tranh, Không tham, Không cầu, Không tư tư, Không tư lợi, Không nói dối, thì dầu cho không có duyên diện kiến Sư Phụ thì cũng là đệ tử của Sư Phụ rồi!”

Cây Long Não hứa sẽ tuân hành và còn nguyện noi gương Bồ tát Quán Thế Âm, quyết tâm phổ độ chúng sanh trong tương lai.
Ngay khi đó, tôi thấy cây Long Não biến thành một Sa Di, quỳ xuống và chắp tay, trong khi Bồ tát Quán Thế Âm thị hiện trên không trung và rưới nước trong từ trong bình lên đầu vị Sa Di.

Tôi rất xúc động và kể lại chuyện này với Sư Phụ sau khi về nhà. Sư Phụ rất quan tâm và dạy tôi tìm hiểu thêm về cây Long Não này.

Tôi được biết rằng cây cổ thụ đó tên là Nhân Năng (仁能) và được trồng vào năm 905. Tôi hỏi y về phương pháp tu hành thì y nói thường tụng Tâm Kinh và nghiên cứu giáo lý trong Kinh.

Tuy nhiên vì thiếu sự hướng dẫn của một chân sư nên đã không hoàn toàn quán triệt được đạo lý. "

Do vì nữ cư sĩ họ Dương là một phật tử thuần thành có thần lực cảm thông với các chủng loại khác nên cây Long Não đã xin quy y với Sư Phụ qua trung gian của cô. Từ nay cây cổ thụ đó sẽ được một vị minh nhãn Thiện tri thức dìu dằt.

Cô hỏi cây do đâu mà biết Sư Phụ và muốn quy y với Ngài. Cây giải thích rất giản dị là tất cả mọi loài chúng sanh đều có thể nghe Sư Phụ thuyết pháp.

Khi Ngài thuyết pháp, tất cả chúng sanh trong toàn cõi hư không Pháp giới đều có thể thấy và nghe Ngài.

Tuy nhiên, kẻ nào còn nặng nợ trần gian, còn ham danh lợi, tiền tài thì có thể nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu. Tất cả chúng sanh nào thanh tịnh tu hành thì đều thấm nhuần giáo pháp của Ngài và tăng trưởng được hạt giống Bồ đề.
Vì thế cây cổ thụ đã từng nghe Sư Phụ thuyết pháp từ lâu lắm rồi.

Trước khi buổi lễ quy y bế mạc, Hòa Thượng đã đặc biệt lưu ý mọi người đến tầm quan trọng của sự tu hành. Ngài dạy:

“Bất cứ ai, nếu thành tâm, nếu không cẩu thả, nếu không làm những việc người đời thường làm mà làm ngược lại, thì đều sẽ tiếp thọ được lợi lạc của Phật giáo.

Do đó, dù cho là xuất gia hay tại gia, các vị phải là những Phật tử chân chánh, phải khác với người thường.

Đừng bắt chước người đời, tham lam, tranh giành, mưu cầu, ích kỷ, tự tư tự lợi, từ sáng đến tối không bao giờ dứt vọng ngữ.

Đó mới là điều quan trọng! Sáu đại Tông chỉ vừa kể là bước đầu để học hỏi về đạo Phật và tương lai sau này đạt thành được Phật quả.

Đừng lãng quên! Đừng lơ là! Chúng ta phải tập chịu đựng thua thiệt và đừng lợi dụng hay lấn át người khác!”

---------
Coi thêm các mẫu chuyện tại : https://www.dharmasite.net/SoLuocTSHTTH.htm

Hình ảnh
LÊ MẪU CẦU ĐỘ.

Chùa Tây Lạc Viên trở thành một đạo tràng thanh tịnh và tín chúng ngày một thêm đông.

Để thuận theo sự tu tập của Phật tử, chùa thường cử hành pháp hội, thiết lập bài vị vãng sanh và truyền U-minh giới ( truyền giới cho người quá vãng.)

Khi Chùa chuẩn bị hành Lễ truyền U-minh giới, đệ tử quy y ngài là Lê Quả Hợp sớm đã đại diện tổ tiên ghi danh để thọ giới U-minh, nhưng lúc đó lại quên mất ghi tên mẹ ông.

Sau đó ông ta theo mọi người xuống núi trở về nhà.

Trên đường về, bỗng nhiên chân ông đau nhức dữ dội đến nổi muốn nhấc chân bước tới thêm một bước nữa cũng không được.

Nhưng khi ông quay lại để trở lên chùa thì đi được như thường, không đau đớn chi cả, mặc dầu phải leo dốc núi và ông thử vài lần đều y như thế cả. Cuối cùng ông chỉ còn cách là quầy đầu đi trở lên chùa. Vừa thấy Ngài, ông liền thuật lại đầu đuôi câu chuyện,
Ngài cười đáp:

- Có phải con đã quên thay mặt mẹ con để ghi danh thọ U-minh giới không?

Lê Quả Hợp nghe thế, lòng thầm biết ơn Ngài đã biết ra sự sơ sót của ông nên mau mắn ghi tên cho mẹ cầu thọ U-minh giới. Sau đó ông xuống núi trở về nhà được dễ dàng không hề hấn gì.

40. VỊT ĐẾN NGHE KINH.

Mùa Hè năm 1952 tại chùa Tây Lạc Viên, Ngài giảng Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn. Thính chúng tham dự lãnh hội được nhiều điều lợi lạc.

Một hôm khi Ngài giảng đến đoạn cuối của phẩm Phổ Môn, chợt có một con vịt nhỏ từ bờ giậu phía ngoài cửa chùa lẻn qua hàng rào, đủng đa, đủng đỉnh băng qua sân vườn và bước vào nằm trước cửa chánh điện.

Nó im lặng và chăm chú giống y như là một người đang nghe pháp vậy. Có người thấy vịt nằm chấn lối đi nên dùng quạt đuổi nó, vịt đi không lâu rồi trở vào, họ lại xua nó ra.

Vịt ta ỏng ảnh bỏ đi, một lát rồi lại trở vào, cứ vài lần như thế. Cuối cùng vịt ta trở vô ngừng ngay ở cửa chánh điện, kỳ này nhất định không chịu đi.

Khi biết nguyên nhân của tiếng ồn náo phía trước cửa, Ngài bảo đại chúng đừng đuổi vịt nữa rồi truyền Tam Quy cho nó trước sự ngạc nhiên của mọi người.

Khi Ngài thuyết Tam Quy xong, vịt bỗng đứng dậy lạch bạch đi thẳng vào chánh điện nhiễu vòng quanh bồ đoàn về phía phải, rồi cúi đầu nằm xuống ra dáng như đảnh lễ. Đợi mãn khóa giảng vịt ta mới rời khỏi pháp hội.

Như lời Phật thuyết, “Chúng sanh đều có Phật tánh,” câu chuyện này là một chứng minh cụ thể vậy.

41. LÒNG THÀNH THÔNG THÁNH.

Lúc Ngài từ Chùa Nam Hoa đến Hương Cảng không bao lâu thì có một nữ Phật tử thuần thành là La Quả Minh đã dẫn ba đứa con đến quy y Ngài.

Mùa Thu năm 1952, Bà La vì quá phiền muộn nên lâm bệnh nặng. Con gái bà là Hoàng Quả Tùng kể lại câu chuyện như sau:
“Mùa Thu năm Nhâm Dần, mẹ tôi không may gặp phải bao chuyện không như ý, nên mắc trọng bệnh, muôn phần thống khổ.
Bà trở nên gầy yếu xanh xao đến nổi không thể bước xuống giường.

Chúng tôi mời nhiều bác sĩ tới khám nhưng vẫn không chữa trị được. Sau một thời gian, các bác sĩ bảo rằng mạng sống của mẹ tôi chỉ còn kéo dài thêm vài đêm nữa thôi.

Nghe tin này mọi người trong nhà ai nấy đều lo âu, buồn khổ, riêng tôi càng thấy xót xa. Khi ấy tôi chỉ biết lạy cầu chư Phật, Bồ Tát gia hộ.

Một hôm tôi đang lạy xuống, bỗng có luồng ánh sáng chiếu trước mắt, rồi tôi thấy có một vị Pháp sư mặc áo cà sa, ngồi kiết già, nhìn kỹ ra thì chính là Sư Phụ tôi. Vừa kinh ngác vừa mừng rở tôi vội vàng niệm Phật.

Sau đó chẳng bao lâu sau mẹ tôi thoát khỏi cơn hôn mê, nhưng thần sắc bà vẫn chưa hẳn phục hồi. Sau đó tôi tôi chợt nhớ đến Sư phụ nên tìm người cùng tôi đến diện kiến Ngài.

Khi thấy Ngài tôi vụt khóc và thỉnh cầu Ngài cứu cho mẹ tôi. Ngài bảo tôi: Bệnh của mẹ con Ta đã biết trước rồi, con hãy mau trở về nhà chí tâm niệm Phật, Phật và Bồ Tát nhất định sẽ gia hộ cho mẹ con.

Sau khi bái tạ Sư Phụ, tôi trở về nhà và suốt đêm đó tôi đã không ngủ; y lời Ngài dạy mà chuyên tâm niệm Phật, cầu xin chư Phật cứu độ.

Sáng hôm sau, mẹ tôi cảm thấy khỏe ra rất nhiều, tinh thần cũng dần dần khôi phục. Qua sự việc này khiến tôi suy nghiệm được Phật pháp linh cảm thật không thể nghĩ bàn.”

42. MA ĐẾN CẦU GIỚI
Hồng Kông trong vài năm gần kề thường bị chấn động không an, phần vì thiên tai, phần vì nhân họa đã không ngừng phát khởi.

Truy nghiệm điều này cho chúng ta biết đây cũng chính do nghiệp báo của chúng sanh chiêu cảm mà thành.
Vì muốn cứu vãn vận kiếp này, Ngài đã mượn đạo lực của đại chúng nguyện cầu cho chúng sanh thoát khỏi ách nàn.

Thế nên nhân ngày Phật Di Đà Đản Sanh, 17 tháng 11 năm 1952, Ngài cử hành pháp hội niệm Phật bảy ngày, mỗi ngày từ 8 giờ sáng đến 7 giờ chiều. Vì Chùa nằm trên núi nên người ta phải vất vả và tốn nhiều thời giờ mới đến nơi, tuy vậy họ vẫn tới tham dự đông đảo.

Đến chiều tối ngày thứ năm của khóa Phật thất, lúc thời hương thứ sáu vừa tàn, bỗng nhiên có một con quỷ nhập vào bà Trương Quả Vũ rồi bà quỳ xuống cầu khẩn Ngài truyền Tam quy, Ngũ-giới.

Ngài chấp nhận lời thỉnh cầu, lúc truyền giới vừa xong thì bà Trương cũng vừa tỉnh lại. Những người tham gia pháp hội nức nở khen: Quỷ cũng biết cầu giới, chẳng lẽ con người không biết tu hành sao?

43. TÍN GIẢ ĐƯỢC CỨU.

Cư sĩ Lý Quả Viễn là một cảnh sát viên ở Hương Cảng, ông có cô con gái tên Lý Điệp Nghiên. Một ngày nọ, cô bé vì vô ý bị vấp ngã.

Lúc đầu cô không cảm thấy có gì khác thường nhưng qua vài ngày sau, cô phát sốt nặng, và bị đau dữ dội nơi bắp chân. Cha mẹ cô nghi nguyên nhân của bệnh này là do cô trợt té nên cấp bách đem cô đến bác sĩ chuyên sửa trật xương gân để trị liệu.

Sau khi chuẩn bệnh Bác sĩ Lý Tử Phi cho biết bệnh đau chân của cô không phải vì trật chân, mà bị mọc ung nhọt nên hành nhức nhối. Trở về nhà ông Lý lại mời thêm bác sĩ khác đến trị nhưng vẫn không có kết quả.

Sau đó bà Lý được người giới thiệu bèn cõng con đến chùa Tây Lạc Viên cầu diện kiến Ngài.

Ngài nói rõ với bà là Ngài không rành về y dược nên không có cách chữa trị. Bà Lý vẫn không nản lòng tiếp tục đến thêm hai lần nữa xin Ngài cứu giúp, Ngài vẫn một mực từ chối.

Lần thứ ba, Lý Quả Viễn cùng vợ đến Chùa quỳ lạy khẩn cầu Ngài cứu cho con họ. Ngài thấy ông bà thật thành tâm nên cùng họ cầu Phật, Bồ Tát gia hộ. Qua một tuần sau, bệnh của cô bé chợt nhiên lành hẳn và chân của cô bình phục như xưa.

Vì cảm thọ được đức hạnh của Ngài cùng oai lực hộ trì của Phật, Bồ Tát nên cả năm người trong gia đình đều xin Quy y Tam Bảo làm đệ tử Ngài.

Sau đó Ngài đã dạy họ chuyên tâm niệm Phật.
 
44. PHẬT LỰC VÔ BIÊN.

Mặc dầu Ngài đã nghiên cứu nhiều tông phái Phật giáo, cùng tham thiền thoại đầu, nhưng đối với chư đệ tử quy y Ngài, Ngài luôn dạy họ niệm “Sáu chữ Hồng-danh” :Nam mô A Di Đà Phật.

Vì pháp môn niệm Phật A Di Đà đều thích hợp cho mọi người, không kể thông minh hay ngu đần.

Điều quan trọng là hành giả thường phải xưng niệm đến nhất tâm bất loạn thì chắc chắc lúc lâm chung sẽ được vãng sanh Tây phương Cực Lạc.

Đối với người học Phật, đây là con đường tắt, dễ nhất, hữu hiệu nhất, không nghi ngờ gì cả.
Quả Thiện là đệ tử kiền thành quy y Ngài đã lâu.

Ngày nọ bà đến Chùa lễ Phật, sau khi đảnh lễ Ngài, bà khóc kể rằng chồng bà là La Khang Duệ bị bệnh lao phổi đã đến thời kỳ cuối cùng và các bác sĩ đều tuyên bố là không còn phương chước.

Nghe thế Ngài an ủi bà ta chớ quá ưu sầu, và dạy bà trở về khuyên chồng nên chí tâm niệm Phật.

Nếu thọ mạng của ông ta chưa hết, thì sẽ nương Phật lực khiến ông lành bệnh;

Còn nếu kiếp số của ông đã mãn, mà ông chân thành niệm Phật A Di Đà thì ông sẽ được vãng sanh.

Ngài còn giảng cặn kẽ cho bà đạo lý “Thiên lý nan trắc, nhân mạng vô thường” nghĩa là Trời cao thật khó đo lường, cũng như mạng sống con người rất đổi vô thường vậy.

Ông La nghe vợ thuật lại lời dạy của Ngài, ông nhận thấy rất có ý nghĩa, liền bảo bà đến cầu Ngài truyền giới Quy-y.

Sau khi quy y được ba ngày, ông mơ thấy Ngài đến nhà, đầu đội chiếc mão giống như mão của đức Điạ Tạng và đắp cà sa đỏ, cùng với nhiều vị Bồ Tát, pháp tướng trang nghiêm;

và Ngài bảo ông: “Bệnh của con sẽ khỏi, con chớ quá ưu phiền!”

Ngoài chứng bệnh lao phổi, ông La còn bị bệnh bao tử, bụng bị thủng phình trướng ra.

Chỉ riêng chứng bệnh phổi của ông đã làm cho gia đình ông điêu đứng rồi, nên ông dấu người trong nhà chứng bệnh bao tử này.
Khi thức giấc, bao tử ông tiết ra chất mặn không ngừng và mửa ra nhiều máu đọng. Kết quả là các bướu làm sưng đã được tống ra.
Sau biến cố này ông càng tin tưởng Phật pháp và tinh tấn hơn. Trong bất cứ lúc đi, đứng, nằm, ngồi, tay không rời chuỗi tràng, mỗi ngày ông niệm cả muôn ngàn danh hiệu Phật.

Do thành tâm, ông đã được cảm ứng nhiệm mầu; chỉ trong vài tháng sau, ông được bình phục mạnh khỏe và tráng kiện hơn trước. Đến lúc tái chiếu quang tuyến X, kết quả cho thấy bệnh lao phổi của ông đã hoàn toàn biến mất.

45. NGƯỜI ĐIẾC NGHE KINH.

Lúc ở Hương Cảng, Ngài có một đệ tử tại gia tên là Lưu Quả Quyên đã trên sáu mươi tuổi. Bà bị điếc nên không thể trò chuyện với ai hay cùng người bàn lời thị phi. Bà thường lần chuỗi tràng, không ngừng niệm Phật.

Lúc Ngài giảng kinh, thuyết pháp, bà tuy tuổi đã cao, nhưng mỗi tối đều leo núi đến chùa đúng 7 giờ để dự khóa giảng.
Bà không quản trời mưa hay gió, ngày ngày đều leo lên cả ba trăm bậc thang cấp đến chùa nghe kinh.

Người điếc nghe kinh thật hiếm báu vô cùng. Khi buổi giảng kết thúc khoảng 9 giờ hơn, bà lại một mình xuống núi đi trên đường mòn không một ngọn đèn soi lối. Vậy mà bà ta thành tâm, tinh tấn mỗi ngày đều đặn lên Chùa.

Mùa Hè năm 1953, Ngài giảng Kinh A Di Đà. Bà Lưu như thường lệ nhất định mỗi ngày đều sớm đến nghe Kinh.

Mồng 2 tháng 5, trước khi khai Kinh đại chúng đồng niệm: “Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát,” bỗng nhiên bà Lưu cả mừng bật nói:

“A! Các vị niệm Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát, tôi nghe rõ cả.”

Từ đó tai bà nghe được như thường. Đây chính do công đức nghe Kinh mà ra, tuy bà không cầu mà vẫn được cảm ứng.
Sau khi hết bị điếc, bà càng siêng năng niệm Phật, nhưng ma chướng lại đến; vì đôi khi để thử thách những vị tu hành nghiêm túc.

Một khi người tu nỗ lực học Phật, nghiệp báo của những tội lỗi cũ phát hiện nhanh chóng và làm cho sự tu bị trở ngại.
Nên có bài học là, “ Người Phật tử muốn thành Phật thì phải chịu sự khảo nghiệm của quỷ ma.”

Bà Lưu chợt mang bệnh kỳ lạ, mà triệu chứng của bệnh này là bà ta chỉ thích ăn.

Bà bị ám ảnh bởi thức ăn và bà ăn uống suốt ngày từ sáng cho đến tối không ngừng. Cứ khoảng hai giờ đồng hồ là bà phải ăn một bữa, trong một ngày bà ta phải ăn ít nhất là mười lần.

Nếu không ăn, bà cảm thấy càng khó chịu hơn. Các Bác sĩ Đông, Tây đều không tìm ra được nguyên nhân, lại cũng không phải trong bụng bà có sán lãi.

Vậy mà Bà đã ráng nhẫn chịu bệnh này trong hai năm.

Đến mồng 7 tháng 2 năm 1954, khi Ngài từ Đại Tự Sơn trở về Tây Lạc Viên, bà bẽn lẽn thưa:

- Sư Phụ, trong bụng con có người nói chuyện.
- Bụng bà có người nói chuyện? Vậy có phải là thai nhi đó không?
- Bạch Sư Phụ, con đã ngoài sáu mươi tuổi rồi !

- Vậy nó nói những gì?
- Sáng sớm này, con lấy bột nếp để làm bánh ăn và khi con vừa ăn được một miếng thì có tiếng trẻ nít trong bụng con nói: “Tôi không thích ăn thứ này.” Con nghe rất rõ ràng và chính xác.
- Vậy bà trả lời sao?

- Con nói: “Mi không thích món nầy vậy mi đòi ăn món nào? Ăn no là đủ rồi, còn kén chọn này nọ làm gì?” Thế rồi con không nghe nó nói chi cả.

- Nếu những đứa bé trong bụng bà đã biết nói chuyện, vậy thì bà phải mau giúp cho chúng nó ra ngoài. Tối nay khi trở về nhà (khi Hòa Thượng đi vắng, bà Lưu ở lại trông chùa) vào lúc nửa đêm, bà hãy nấu cho một tô mì nóng hổi ngon lành, rồi quỳ trước bàn thờ thắp hương cúng dường và tịnh tâm niệm Phật.

Bà trở về nhà làm y lời Ngài, trong lúc niệm Phật, mơ mơ, màng màng bà thấy có ba đứa bé bụ bẩm khả ái từ trong bụng bà thoáng đi ra, chúng tranh nhau để ăn tô mì hấp dẫn kia.

Đột nhiên có một luồng khí và bà thấy Ngài Hộ Pháp Vi Đà dùng hai tay, xách lỗ tai của ba đứa bé mà lôi đi, và bà lập tức cảm thấy trong bụng nhẹ nhàng, dễ chịu.

Từ đó bệnh đói của bà không cần thuốc mà khỏi.

Trong ba đứa nhỏ kháu khỉnh kia, hai đứa là cắc kè tinh còn đứa thứ ba là nhái tinh; tin hay không là do bạn.
Bà bị bệnh lạ lùng này là do quả báo đời trước, bà đã không tin có bệnh kỳ quái như vậy.

Thế nên đời nay trong một đêm nọ bà mơ thấy có ba đứa bé khoảng hai, ba tuổi mủm mỉm, tròn trịa tai to đầu bự rồi khởi niệm tham ái mà chiêu cảm ba con quỷ nhỏ kia nhập vào.

Do đó, việc đầu tiên của người tu đạo là phải khử trừ lòng tham ái.

46- THỊ HIỆN TRONG MỘNG.

Một hôm Ngài nhận được thơ của Pháp sư Thân Giác từ Toản Thạch Sơn, Cửu Long với nội dung như sau:

“Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 41 (1952) tôi mua được một ngôi nhà nhỏ tại Toản Thạch Sơn.

Sau khi dọn về ở được khoảng hơn một năm thì chủ đất bắt buộc tôi phải phá ngôi nhà để trả lại mảnh đất.
Thật là bất ngờ khi nhận được thơ của ông ta. Bấy giờ tôi chỉ thấy việc này thật là một thiệt hại lớn lao nên càng nghĩ tôi càng bối rối, khổ sở.

Một đêm nọ, vào lúc 11giờ, tôi đang đọc quyển Trung Quán Luận Phẩm, Quán Tứ Đế. Xem đến đoạn ‘Tất cả các pháp do duyên sanh, ta bảo đó là không. Các pháp đó cũng là giả danh, vậy đó là lý trung đạo.

Vì chưa từng có một pháp nào mà không từ nhân duyên sanh ra. Cho nên tất cả các pháp hiện hữu không phải là không.’

Tôi đã suy ngẫm đoạn văn trên nhiều lần và thâm nhập được đạo lý nên cố gắng xua đuổi mọi chấp trước phiền não, rồi ngủ thiếp đi lúc nào cũng không hay.

Sau đó tôi mơ thấy mình bị lạc trong một vùng rừng núi, bỗng nhiên cuồng phong nổi dậy, mưa bão ào ạt đổ xuống;
Lúc đó tiếng gió hú, tiếng mưa đổ cùng những tiếng sét đánh ầm ầm nghe như điếc tai.

Trong lúc kinh hoàng tôi ngưỡng đầu lên thì thấy có một vị Tăng toàn thân phóng ra một hào quang vàng tía bay từ không trung về phía tôi, và lúc đó mưa bão cũng vừa ngừng.

Tôi bèn đảnh lễ Ngài, khi vị Tăng đó bước tới gần tôi nhận ra rõ ràng chính là vị Tôn Chứng Sư, Ngài Độ Luân trong lễ thọ Đại-giới của tôi thuở xưa.

Ngài bảo tôi: ‘Chớ có ưu sầu, Thầy sẽ giúp con giải quyết mọi khó khăn. Mơ đến đây tôi chợt thức giấc.’
Không bao lâu sau tôi tìm được một khu đất khác và chuẩn bị cất một Tịnh thất nhưng lại không đủ tài chánh.

Khi ấy Ngài đang giảng kinh Địa Tạng tại Chí Liên Tịnh Uyển, nghe được việc này Ngài đã nhân đức ban cho tôi một ngàn đô la, nhờ đấy tôi hoàn tất công trình kiến lập tịnh thất tại Toản Thạch Sơn và có chỗ nương thân cho tới ngày nay.”

Tuy việc này Ngài chưa từng kể cho một ai nghe, nhưng sau đó Ngài lại nhận được lá thơ khác kể lại giấc mộng tương tợ như trên.

Có lẽ người này đặt chuyện mong được Ngài trợ giúp tài chánh nên đã bị Ngài dạy cho một bài học nên thân và từ đó không còn lá thơ thứ hai nào như vậy nữa.

47- QUẢ BÁO CUA KẸP.

Mùa hè năm 1953, cư sĩ Đổng Quả Kỳ và Pháp chủ Chí Liên Tịnh Uyển tại Toản Thạch Sơn, Cửu Long là Sư cô Khoan Huệ thỉnh Ngài đến giảng Kinh Địa Tạng. Các cư sĩ đã không quản đi xe, chuyển tàu để đến nghe Ngài thuyết giảng.

Sư cô Khoan Huệ vốn là đệ tử của Lão Hòa Thượng Hư Vân. Lúc chưa xuất gia, Sư cô làm thuê, giúp người nấu cơm, quét dọn; thế nên khó tránh việc sát sanh giết gà giết vịt...

Lần nọ, cô mua một số cua sống về định luộc cho chủ ăn, nhưng vì sơ ý nên bị cua kẹp ngón tay giữa nhứt định không nhả, khiến cô đau thấu tâm can nên cô đành cầm dao chém mạnh xuống một nhát, thân và càng cua đứt đoạn.
Cuối cùng cua là món ăn chính của buổi cơm chiều đó.

Chẳng bao lâu sau, ngón tay bị cua kẹp của cô chợt sanh ra một miếng thịt dư (giống như miếng thịt cua) khiến cô đau nhức suốt ngày đêm.
Mặc dù cô đã dùng biết bao thuốc men nhưng cũng không trị được.
Sau đó Cô theo người lên núi Phù Dung dự Lễ Thủy Sám, qua bảy ngày lễ bái miếng thịt dư chợt biến nhỏ lại, mà ngón tay cũng bớt đau nhiều.

Trong khóa giảng Kinh Địa Tạng kỳ này, Sư cô bạch Ngài đầu đuôi câu chuyện, khẩn cầu Ngài giúp Sư giải mối oan kiết.
Nghe qua Ngài liền Quy y cho cua, sau khi truyền Tam Quy, miếng thịt dư trên ngón tay của Sư Cô Khoan Huệ bổng tiêu mất, ngón tay linh hoạt như thường và tuyệt nhiên không thấy đau nhức chi.

Nhân quả báo ứng, thật không sai chạy mảy may, chỉ có khác là đến sớm hay muộn mà thôi!
Đây là một trong những câu chuyện về nhân quả hiện tiền mà chính Ngài đã chứng kiến tường tận.

Rõ ràng là như vậy chúng ta không thể không tin được. Nên hãy cố gắng thận trọng giữ giới sát sanh, nếu không thì “oan oan tương báo đến bao giờ mới dứt được?”

Nếu chúng ta đọc được tác phẩm “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” do Ngài Tuyên Hóa diễn giảng thì sẽ rõ thế nào là “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” tức chuyện lành, dữ đầu đuôi chi rồi cũng có quả báo.

48- UNG NHỌT TỰ LÀNH.

Cư sĩ Cam Quả Ngạn có một cháu gái gọi bằng bà, tên là Hoàng Tuyết Mai, vừa mới chào đời được trăm ngày thì trên đầu bé nổi lên những mụn ghẻ lở và vào mùa hè nóng bức những mụn này bị bể chảy mủ máu ra nên rất tanh hôi, người nào đến gần bé đều cũng phải bịt mũi lại.

Bệnh ghẻ càng ngày càng lan ra trầm trọng, chung quanh những mụt nhọt, tóc đều bị rụng hết nên để lộ ra những mảng sói thật khó coi.

Trong những năm đó, dù gia đình bé đã bỏ công chạy tìm bác sĩ Đông, Tây gì cũng đều không trị được bệnh của bé. Cuối cùng họ đành dùng những cách chữa bệnh theo pháp gia truyền hy vọng sẽ làm lành được các mụt nhọt nhưng rồi cũng chẳng có công hiệu gì.

Khi đứa bé được ba tuổi cha bé qua đời, còn mẹ phải đi làm thuê để nuôi con. Tiền lương mỗi tháng bà đều đổ dồn vào việc chữa trị cho bé.

Nhưng rồi bệnh trạng bé cũng vẫn thế. Mỗi lần nhìn thấy con như vậy thì bà mẹ lại đấm ngực, dậm chân than thân trách phận.

Đến lúc lên mười tuổi, mụn nhọt trên đầu bé vẫn không bớt. Một ngày nọ, nhờ duyên lành bé gặp Ngài và được Ngài truyền Quy y Tam-bảo.

Sau khi quy y, những mụt ghẻ bắt đầu khô mặt rồi tóc cũng dần mọc ra.

Hơn mười năm mang bệnh nay bỗng chốc được lành. Sau này ai nhìn đầu bé mọc tóc đầy đủ cũng đều không thể tưởng tượng ra cái tướng mạo khó coi của bé lúc trước.

49- TÙY CƠ THUYẾT PHÁP.

Mồng 10 tháng 8 năm 1954, cư sĩ Trần Thụy Xương cùng người bạn họ Kỉ đến Tây Lạc Viên bái kiến Ngài.

Ông Kỉ là bác sĩ chuyên trị bệnh trật xương, gân, lại có thể sắp nối lại những chỗ xương bị gẫy. Vì Ngài thường tùy thuận căn duyên của từng chúng sanh mà ban giáo pháp. Thế nên Ngài hỏi ông Kỉ:

-Xương người bị gẫy ông nối lại được vậy mạng người đứt đoạn ông có thể nối cho sống lại không?
- Không thể được.

- Sao lại không được? Xưa kia trong thời Tam Quốc, Quan Công bị tên độc bắn trúng tay, mạng sống rất là mỏng manh, không thể sống qua được đến một ngày nếu Huê Đà đã không giúp Quan Công nạo xương trị liệu, khiến Quan Công sống lại.
Vậy đấy có phải là sanh mạng đã được nối lại hay sao? Nhưng phương pháp nối mạng này cũng không phải là cách cứu cánh hay nhất.
Cho nên bây giờ tôi sẽ dạy ông một phương pháp nối mạng khác rốt ráo và hay hơn nhiều.

Phương pháp nối mạng là cần phải minh tâm kiến tánh, mà kết quả căn bản là sẽ chấm dứt sanh tử thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, khôi phục lại bản lai diện mục đồng Phật không khác.

Nhưng muốn minh tâm kiến tánh thì phải tham thiền chứng ngộ. Phương pháp tham thiền thật chứng ví như gà ấp trứng; mèo rình chuột.

Nghĩa là phải miên miên, mật mật tập trung tâm ý, đến khi thoạt nhiên khai ngộ thì liền chứng đắc được pháp Vô Sanh.
Phương pháp tham thiền cùng niệm Phật vốn không đồng.
Tham thiền tức tham thoại đầu, tham cho đến biển cạn non mòn, thì nhất định sẽ “liễu ám hoa minh” tức tâm mê bừng sáng.

Hành giả đã leo lên đến cùng tột của một cây cột cao ngất trời, nhưng còn có thể bước thêm một bước nữa để vào khoảng không vô tận.
Rồi trong khoảnh khắc hành giả bước vào sự sống mới, tự trong lòng bàn tay mình sẽ cầm giữ được sự sanh tử và thoát ra khỏi vòng cai quản của Diêm Vương. Đó là phương pháp kéo dài kiếp sống của tôi.

Trong thế hệ này đã có người đang áp dụng được như thế, đó là Đại lão Hòa Thượng Hư Vân nay đã ngoài một trăm mười tuổi; hiện vẫn còn tại thế, Ngài chính là vị cao Tăng am tường phương thức nối mạng này.

Nghe Ngài giảng, Bác sĩ Kỉ cảm thấy thú vị vô cùng vì đã thấu rõ tận tường chân lý. Từ đó, ông thường lui đến Tây Lạc Viên để thân cận học hỏi với Ngài.

50- ĐỒNG KẾT THIỆN DUYÊN.
Đệ tử Quy y Ngài, Trương Quả Thăng làm chủ một công ty chế tạo dược phẩm nổi tiếng ở Hồng Kông nhưng mắc phải chứng bệnh ung thư.
Ngài quán sát thấy hội đủ nhân duyên nên khuyên ông cúng dường Tăng Ni y vải cùng dược phẩm để kết duyên với Tam-bảo cầu tiêu trừ nghiệp chướng.

Nghe Ngài dạy ông Trương quyết định y lời. Sau đó Ngài bèn thông báo đến các Tòng lâm, Tự viện và Tịnh thất tại Hương Cảng, Cửu Long cho biết số mục Tu sĩ để tiện bề chuẩn bị vải, cùng thuốc men như dầu Vạn kim, Thập linh đơn, v.v...
Nhưng vì nghe lời người dèm pha nên ông Trương đã giảm bớt số lượng cúng dường như ông đã hứa.

Thay vì cúng hai mươi đồng Hồng Kông và một cây vải tốt cho mỗi vị. Nay ông chỉ cúng năm đồng và một cây vải thuộc hạng xấu. (Lúc bấy giờ ở Đại Lục vấn đề tôn giáo bị nghiêm cấm nên có một số đông Tăng Ni di tản qua Hương Cảng, nên họ rất cần giúp đở về mọi phương diện.)

Vì vậy Ngài giúp ông bổ túc vào những phần thiếu ấy.

Mồng 9 tháng 6, các phẩm vật đã được chuyển đến và phân phát tại khu Toàn Loan, gồm các Chùa Đông Phổ Đà, Trúc Lâm Thiền Viện, Lộc Dã Uyển. Hôm sau lại đến Nam Thiên Trúc, Niệm Phật Đường Đông Lâm và Hoằng Pháp Tịnh Xá.

Ngày 11 thì đến Thanh Sơn Hải Triều Viện. Riêng vùng Nguyên Lãng, Tự viện thì ít mà Tịnh thất lại nhiều nên Ngài thông báo cho quý Tăng Ni tập trung lại một địa điểm để dễ bề phân phát và cũng tiết kiệm thời giờ.
Lần cứu trợ này đã khiến nhiều người khâm phục về cách làm việc của Ngài là rất minh bạch.

Hầu như tất cả Tu sĩ ở đây đều nhận được phần cúng dường.

51- TÍN TÂM KHÓ TÌM.

Sau khi Chùa Tây Lạc Viên được thành lập, Bà cư sĩ họ La thường đến Chùa lễ Phật, Bà có một người con trai kết hôn đã lâu mà vẫn chưa có con, nên bà than thở với Ngài:” Sư phụ! Xin Ngài từ bi thương giúp mà khẩn cầu cùng chư Phật, Bồ Tát ban cho con một đứa cháu nội!”
Nghe xong Ngài chỉ mĩm cười.
Một hôm Ngài vừa từ ngoài làng trở về Chùa và đang rửa chân trong một thau nước. Ngay lúc ấy, có tiếng tiếng leng keng của phong linh (chuông gió) ngoài cửa vườn, thì ra là bà La vừa mới đến.

Khi lễ Phật xong, bà chạy đến quỳ lạy dưới chân Ngài, thút thít khóc, van lơn:
- Sư Phụ, Xin Ngài từ bi ban cho con một đứa cháu trai ạ! Gia đình con thật hiếm hoi nên con chỉ cầu có một cháu trai để nối dõi tông đường, nếu không thì con còn mặt mũi nào để nhìn thấy tổ tiên họ La! Nay con thành tâm quỳ trước Sư Phụ, chỉ cần Sư Phụ ban dạy, dù bất cứ chuyện gì con nguyện đều sẽ y theo.

(bà thầm nghĩ chắc Ngài sẽ dạy bà phát tâm đúc tượng Phật, in kinh hay tu sửa chùa chiền... thì bà sẽ rất hoan hỷ làm theo.)
- Tín tâm của Bà lớn như vậy à? Thuở xưa, người đệ tử nhất nhất tuân lời Sư phụ, dù phải hy sinh tánh mạng; vì họ xả bỏ được tất cả nên tín tâm mới kiên cố như thế, việc này thật không dễ làm đâu.
- Sư phụ! Chỉ cần có được một cháu trai, thì việc gì con cũng nghe Sư phụ cả.

- Thế thì tôi sẽ giúp bà mãn nguyện. Vậy bà có dám uống nước rửa chân trong thau này không?
- Hả???
Dẫu có nằm mơ đi chăng nữa bà La cũng không thể ngờ là Ngài lại bảo bà như thế, bà há miệng trừng mắt đứng chết trân.
Ngoài trừ người có trí huệ, không bị dính mắc bởi sáu trần như: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chớ ai mà lại dám uống nước dơ trong thau như vậy?
Sau một hồi lâu, biết bà không thế nào làm nỗi, nên Ngài tự bưng thau nước lên, vừa uống vừa nói:
- Đây là nước cam lồ đấy!
Thấy vậy bà hốt hoảng, hối hận thưa:

- Sư phụ, để con uống.
- Nếu bà sớm uống nước này thì không chừng bà sẽ có được một cháu trai trọn lòng ước mong rồi nhưng bây giờ thì đã quá muộn!
Thật là chua xót, bà La không cầm được nước mắt khóc tức tửi nói:
- Sư phụ, con có còn cơ hội nào nữa không vậy?

- Sau này ở nhà bà nên ngày ngày, thành tâm thành ý niệm Phật. Vì Phật và Bồ Tát rất linh cảm, nếu có cầu tất sẽ có ứng.
Vài năm sau đó, bà La thật đã được một cháu trai đúng như ý, bà rất đỗi vui mừng.
Chúng ta muốn thành công trong việc gì, điều cốt yếu là cần phải có tín tâm kiên cố và ý chí cương quyết không gì lay chuyển được.

Nhẫn những việc khó nhẫn, làm những việc khó làm, có như vậy thì mới “sự bán công bội” tức chỉ cần dụng một ít công mà đạt quả gấp bội.

52- TÂM BỆNH KỲ LẠ.

Văn Quả Mật là một bé trai duy nhất trong gia đình em, cũng là cháu đích tôn đời thứ Chín dòng họ Văn.

Khác hẳn với những bạn đồng lứa, cấp sách đến trường, tung tăng chạy giỡn, tham gia các trận đánh cầu, đá bóng... mà riêng em phải ở trong nhà dưỡng bệnh suốt khoảng hai năm liền từ lúc lên mười ba tuổi;
Vì theo lời bác sĩ bảo, tim em có thể ngừng đập bất cứ lúc nào nên rất nguy hiểm đến tánh mạng.

Một hôm em chợt phát hiện, người chị lớn hơn em bốn tuổi đã trốn nhà đi quy y theo Phật giáo, và còn mang về quyển sách Tiểu sử Thiền Sư Độ Luân.

Việc này chị em đã bí mật giấu kín vì gia đình em vốn là tín đồ Cơ Đốc giáo. Đọc xong quyển sách trong lòng em cảm thấy rất kính phục vị Sư trong sách nên đã yêu cầu người chị dẫn em đi gặp vị Thầy mà chị đã quy y.

Nhưng chị em cứ khước từ mãi và bảo:
Phải leo cả ba trăm bậc thềm đá mới đến Chùa Tây Lạc Viên, lúc đó bệnh tim của em chắc tái phát, chị làm sao gánh nổi trách nhiệm này.

Từ ngày đó, em âm thầm đối trước ảnh Ngài trong quyển sách mà đảnh lễ.

Ba tháng sau, một hôm em đang lễ bái trong phòng thì thấy vị Sư trong bức ảnh bước ra xoa đầu em;
vì thế em nhất quyết đến Tây Lạc Viên bái kiến vị Sư này.

Cuối cùng, chị em đã cảm động bởi lòng thành của em nên đồng ý dắt em đi.

Lạ thay! Khi lên núi em không cảm thấy đau nhức ở tim chút nào, hơi thở vẫn bình thường, không có một triệu chứng gì về bệnh tim cả.

Từ đó em thường lén nhà đến Chùa lễ Phật.
Đến lần tái khám bác sĩ đã không ngờ được là bệnh tim của em đã không còn trong thời kỳ tình trạng nguy hiểm nữa.

Dù em nghĩ học đã lâu nhưng nhờ bản tính thông minh nên khi trở lại trường thì em vẫn học vượt hẳn bạn bè.
Em tốt nghiệp trung học lúc lên mười chín tuổi.

Ngoài việc gắng sức học hành, em còn biết dụng công tu thiền và có thể nhập định bất cứ nơi đâu kể cả trong phòng vệ sinh.

Có lần tại Phật Giáo Giảng Đường, Ngài ngồi trên pháp tòa nhưng không thuyết một lời nào, mà chỉ có Quả Mật lên diễn giảng, lúc đó thính chúng kê đầu to nhỏ trong tâm tỏ ý không phục nghĩ:

Chúng ta đến nghe Ngài thuyết pháp, chớ không phải đến đây để nghe thằng bé chưa đầy mười tuổi này lên đài nói bá láp (Quả Mật có dáng người nhỏ thấp.)

Sau buổi giảng, Ngài đã dạy:

Chúng ta thường chấp vào hình tướng bên ngoài, như vừa thấy không phải là Pháp Sư thuyết pháp, không luận người đó giảng pháp đúng hay không đúng, liền sanh tâm phân biệt lập tức.

Thật ra những lời Quả Mật đã nói đều cũng là những gì tôi muốn nói, vì em đã y theo tâm tôi mà thuyết đó.

53- TRÙNG HƯNG CỔ TỰ.

Hương cảng là một thuộc địa của Anh quốc, phần lớn dân cư theo đạo Cơ Đốc nên đạo tràng Phật giáo vắng lặng ít người.
Trong thành phố chỉ có Chùa Phổ Đà ở Tuyên Loan và Chùa Bảo Liên ở Ngạng Bình trên núi Đại Tự mà thôi.

Vào năm 1953 do thời cuộc chánh trị ngày một rối loạn ở Đại Lục nên một số lớn Tăng sĩ phải lưu lạc sang Hương Cảng, vì không có nơi nương trú thích hợp nên kết quả là đạo nghiệp tu hành, thiền tập của họ trở thành chểnh mãng, định lực bị chi phối, tán thất rất nhiều.

Khi chứng kiến cảnh trạng này, Ngài nhận thấy không thể trì hoãn việc kiến hưng Phật giáo, gầy dựng Tùng lâm hầu giải quyết nạn thiếu cơ sở cho tu sĩ tu hành.

Mặc dù Ngài nhiệt tâm hết lòng hộ trì Tam Bảo nhưng Ngài đã không đủ tài nguyên để giải quyết vấn đề to lớn này.
Khi ấy ChùaTây Lạc Viên ở trong khu náo nhiệt, diện tích lại nhỏ hẹp, nên không có dư phòng cho Tăng chúng từ các nơi khác đến trú.

Đến mùa Thu năm 1953, cư sĩ Đổng Quả Kì phát đại nguyện cúng dường chư Phật tòa biệt thự hai tầng tọa lạc tại Đại Tự Sơn, Vạn Trượng Bộc.

Tòa biệt thự bằng gạch đá rất hợp cho việc kiến tu đạo tràng.

Cơ duyên đến và trùng hợp thay là bên trái của biệt thự này là Thiền viện Quốc Thanh đã bị bỏ phế từ lâu vì do quân Nhật đốt cháy trong thời kỳ Hương Cảng bị Nhật xâm chiếm, Hòa Thượng Trụ trì đã bị tử nạn trong cơn tai biến này.

Thiền viện nay chỉ còn lại vài bức tường loang lổ, chung quanh chánh điện toàn là cỏ dại mọc um tùm trông thật tiêu điều hoang vắng.

Tuy nhiên nơi đây rất tĩnh lặng vì được bao bọc bởi nhiều đồi núi nên thường vang tiếng quạ kêu, chim hót. Đường dẫn lên núi hiểm trở cheo leo vắng người qua lại, nên được yên ổn rất thuận lợi cho sự tu hành.

Ngài vui mừng khôn xiết vì được khu đất thánh này. Sau khi thương lượng và được ban chấp hành của cựu thiền viện đồng ý việc phối hợp ngôi biệt thự và Thiền viện lại để tiến hành công trình trùng kiến khu Tu viện.

Vì tài lực có hạn, nên Ngài chỉ bắt đầu sửa chữa tòa biệt thự, tạm thời làm ngôi chánh điện, sau này có một số người biết đó chính là viện cánh trái của Thiền viện Từ Hưng.

54- TRỜI NGƯỜI ĐỀU VUI.
 
 
Lễ Khánh Thành Thiền Viện Từ Hưng
Đầu mùa Xuân 1954, công trình sửa chữa nhà khách và phòng ốc của tòa biệt thự được hoàn mãn. Nhân vía Bồ Tát Chuẩn Đề ngày 16 tháng 3, Lễ KhánhThành Thiền Viện Từ Hưng và Lễ An vị Tây Phương Tam Thánh đã được cử hành.

Buổi lễ cũng nhằm để đánh dấu việc hoàn tất bên cánh trái thiền viện Từ Hưng, nên Chùa tổ chức lạy Đại Bi Sám trong ba ngày liên tiếp và dự định tối ngày 15 sẽ cử hành Đại lễ Cứu Khổ Ngạ Quỷ.
 
Bấy giờ đang lúc giao điểm giữa hai mùa Xuân Hạ, nên trời mưa tầm tả và sương mù miền núi lan tỏa khắp vùng khiến cho phong cảnh tựa hồ như đang bị một màn lụa trắng bao phủ.

Lúc đó, người ta không thể thấy được gì quá ba thước.

Vì dự bị tổ chức đại lễ ngoài trời vào ngày 16 tháng 3, nhưng đến ngày 14, 15 thời tiết vẫn xấu như vậy nên ai nấy đều lo ngại cho cuộc đại lễ sẽ bị đình chỉ, nên khi Ngài bảo các vị công quả nhà bếp chuẩn bị thức ăn cho một ngàn người, họ thưa rằng mưa dầm như vậy thì chắc không có ai đến được.

Ngài quở là họ không có đức tin và bảo cứ y lời mà lo liệu thực phẩm. Trong lúc đó mưa vẫn rơi khiến những con đường đất lại càng sình lầy, trơn trợt hơn. Đến xế chiều ngày 15 Ngài nói:

“Tốt hơn là trời nên tạnh mưa ngay để đường lộ có thời giờ khô ráo trước khi cử hành đại lễ, và ngày mai nên có chút mây che mát để không quá nóng bức cho các vị leo núi đến đây.”

Quả nhiên sau đó không lâu thì trời bổng ngưng mưa, chiều xuống mặt đường được khô rang khiến ai nấy cũng đều vui mừng hớn hở.

Hình chụp tại chùa Từ Hưng, trong hình có hào quang hình chùy Kim Cang xuất hiện

Vào sáng ngày 16, đại lễ được cử hành đúng như dự tính, nhờ những đám mây nhẹ làm giảm bớt sức nóng của ánh nắng mặt trời và những làn gió thổi mát rượi nên đã khiến cả ngàn thiện tín tấp nập tụ họp về dự lễ, dùng trai, chánh điện chật ních người, đúng như lời Ngài đã nói.

Dân địa phương tại đảo này cho biết là lễ Khai quangThiền viện lần đó đã phá kỷ lục về nhân số tham dự so với nhiều thế kỷ qua.

Nữ cư sĩ Đàm Quả Thức, sau khi tham gia đại lễ, viết bài tường thuật như sau:

“Khi lễ khánh thành Thiền viện Từ Hưng kết thúc, có khoảng một trăm Phật tử đã ở lại tham dự tiếp khóa thiền ba ngày - 17, 18 và 19. Mọi người đều dậy sớm để hành thiền trong khí trong lành yên tịnh ở miền núi nên đều cảm thấy an lạc vô cùng.
Mặc dù núi rừng tĩnh lặng, hỗ trợ mạnh mẽ cho việc tu tập thiền quán, nhưng trong một sớm một chiều, thiền sinh khó mà rủ sạch hết các vọng niệm.

Nguyên là Ngài đã dặn ban trai soạn chuẩn bị thức ăn cho khoảng một ngàn người nhưng họ đã nấu quá số dự trù vì không kinh nghiệm nên sau buổi lễ thức ăn còn dư rất nhiều; và được dùng làm bữa cho ngày mở đầu của khóa thiền.
Mặc dầu bụng đói nhưng thiền sinh vẫn ngửi ra mùi thiu của các thức ăn thượng hạng để cách đêm cộng thêm khí nóng mùa hè.
Vì Ngài rất cần kiệm không muốn phung phí bất cứ một thứ gì nên ngoài việc dạy các đệ tử khi ăn nên quán tưởng Năm Pháp Quán để tự xét xem mình có xứng đáng thọ hưởng thực phẩm này hay không?

Ngài cũng dạy những người làm việc trong bếp không nên vứt bỏ bất cứ những gì có thể ăn được... và thức ăn dư trong ngày, tuyệt đối phải dùng ngay vào ngày hôm sau vì Chùa không tủ lạnh.
Mọi người đã ngồi vào bàn ăn nhưng họ cứ nhìn vào các đĩa thức ăn rồi nhăn mặt châu mày.
Ngài thấy rõ những vọng tưởng phân biệt đang khởi lên trong tâm họ và nghĩ rằng: Họ thà chịu đói còn hơn là ăn những thức ăn này, thế thì thức ăn chắc sẽ bị đổ đi mất.

Ngài bèn ngồi vào bàn đặt sẳn cho mười người rồi bắt đầu ăn như không chuyện gì xảy ra.

Khi ăn xong đĩa thứ nhất, không chút ngần ngại, quay qua chỗ thứ hai, và cứ như thế Ngài tuần tự ăn hết hết mười đĩa một cách ngon lành.
Đa số thiền sinh cảm thấy hỗ thẹn trước hành động của Ngài nên vội vàng cầm đũa và ăn phần của mình. Nhờ vậy mà thức ăn dư của buổi lễ hôm trước miễn bị bỏ phí.”
Cư sĩ Chứng Huệ đã mô tả công việc trùng tu Thiền viện Từ Hưng như sau: “...
Mùa Xuân năm 1951, sau khi Chùa Tây Lạc Viên được kiến lập trên đỉnh Mã Sơn ở Hương Cảng, Ngài phát nguyện sẽ tạo dựng đại tùng lâm có thể quy tụ một số lớn chư Tăng về cùng nhau tu học.

Vì nguyện lực của Ngài thật rộng lớn không thể nghĩ bàn này nên sau hơn sáu năm lao nhọc ngày nay Thiền viện Từ Hưng, một đạo tràng vĩ đại đã được hoàn thành.
Trong suốt khoảng thời gian trùng sửa Thiền viện, Ngài đã quên ăn mất ngủ, mỗi sáng sớm dù sương mù, mưa dầm, gió bấc... đều đến Thiền viện tương lai lo sắp đặt vật liệu, công nhân, tiếp tế thực phẩm... không việc gì Ngài không để tâm lo.
Mặc dù lúc đó có nhóm cư sĩ luôn tận tâm hộ trì, nhưng thật khó mà thành tựu được một đạo tràng uy nghi to lớn như vậy nếu không có ý chí quyết tâm và nguyện lực của Ngài.

Ngày nay Thiền viện Từ Hưng gồm Đại Hùng Bảo Điện, nhà khách, trai đường, một tịnh thất, và một nhà bằng cây.
Bên trái là Hàng Long Thạch và bên phải là Phục Hổ Tuyền.Thiền viện được kiến trúc thật tuyệt vời với những bức tường màu trắng xen lẫn những hàng cột màu đỏ, bao quanh bởi núi non hùng vĩ.

Có thể nói là Thiền viện mượn sắc khí thiêng liêng của trời đất làm cho cảnh trí thêm phần trang nghiêm vượt hẳn cả phong cảnh thiên nhiên và không thua kém Tứ Đại hoặc Bát Tiểu danh sơn bên Lục Địa và cũng tương tự như Tu viện Nam Hoa của Ngài Lục Tổ.”
Một biến cố đã xảy ra trong thời gian tu viện được tái thiết như chúng ta hẳn biết rằng khi một đạo tràng mới được thành hình thì chắc chắn là Ma vương sẽ phẫn nộ.

Năm 1953, lúc đang tiến hành công trình tu sửa thì có một con rắn độc đầu đỏ mình xanh xuất hiện. Lần đầu các Thầy bắt nó bỏ vào thùng rồi đem đi thả ở một nơi xa đến mấy dặm.

Nhưng trước khi các Sư trở lại công trường thì mọi người đã thấy nó bò qua bò lại trên khu đất của tu viện. Họ lại bắt nó đem đi thả ở chỗ xa hơn, nhưng nó lại xuất hiện và cứ trở về Chùa nhiều lần như vậy.


Rồng vàng trên phiến đá Hàng Long
 
Có lần, họ đem con rắn đi thật xa để thả nhưng khi mở nắp thùng thì không thấy nó đâu cả.
Người thả rắn lấy làm lạ bèn trút thùng xuống và gõ nhẹ vào thùng thì thấy chỉ nửa thân mình rắn rơi ra.
Khi người này trở lại công trường thì rắn kia lại hiện nguyên thân, và bò đến trước Phật điện ngóc đầu thè lưỡi cuốn mình xoắn lại như cái lò xo.
 

Hòa Thượng bên cạnh rồng đá tại Chùa Từ Hưng

Lúc Ngài ở Mãn Châu đã có Mười Con RỒNG đến Quy y ngay dưới pháp tòa của Ngài.

Rắn thuộc giòng rồng vì vậy Ngài đã tự tay chạm khắc trên phiến đá Hàng Long ở bên trái, phía sau viện Từ Hưng thành hình một con rồng vàng nhe nanh, múa vuốt chừng như sắp sửa muốn bay.

Từ khi rồng vàng được khắc thành thì con rắn độc cũng không bao giờ trở lại nữa. Thế nên đạo đức có thể chiến thắng Ma vương và sự thành tâm lúc nào cũng được cảm ứng.

Nếu nay rắn độc đã không còn đến quấy nhiễu đạo tràng thì ma quỷ cũng có thể trở thành hộ pháp.
 

Cầu đá hình cánh cung bên trên Phục Hổ Tuyền

Phục Hổ Tuyền là một giòng suối từ trên núi chảy xiết xuống ngang phía trước Chùa và dẫn dài khoảng mấy dặm.
Vào mỗi mùa mưa, thường có những trận lụt gây nhiều trở ngại cho khách đi đường, nên ngay chỗ giòng suối băng qua con đường của khu vườn kỷ niệm Đạo Tràng Linh Sơn tức khoảng nửa con đường từ Thiền viện Từ Hưng xuống núi, Ngài đã cất một cây cầu đá hình cánh cung, và dưới cầu Ngài cho đào một cái ao để phóng sanh, đồng thời tạo môi trường thích hợp cho các sinh vật dưới nước sanh sôi phát triển.

Từ đó nguồn nước có chỗ thông nên nạn ngập lụt không còn làm khó khách bộ hành nữa.
Những công trình xây dựng như trên có thể chứng nghiệm rằng người khởi xướng trùng tu thiền viện Từ Hưng đã tiên liệu mọi việc thật chu đáo.
Ngài cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho mọi pháp môn được hành trì; đồng thời tạo duyên cho những ai có tâm đạo đều có thể quy tụ về đạo tràng này, tựa hồ như những áng mây kéo đến từ ngàn phương xa, và thành quả họ gặt hái được sẽ viết lên những trang sử sáng chói cho tiền đồ Phật giáo.

55- QUỶ MA TÙY HỶ.
Vào rằm tháng 7 năm 1954 ngày chư Phật hoan hỷ, Ngài tổ chức Đại lễ Vu Lan trong 3 ngày (13, 14, 15) tại Chùa Từ Hưng và đã có nhiều Tu sĩ cùng tín chúng tham gia đông đảo.

Khi Pháp hội Vu Lan sắp hoàn mãn thì có khoảng hơn ba mươi người như Tỳ Kheo Hằng Việt, nữ cư sĩ Quả Căn, Quả Toàn...thỉnh cầu Ngài truyền giới cho người quá vãng (giới U Minh.) nguyện cầu cho tổ tiên, thân bằng, quyến thuộc của họ được thoát khỏi khổ trầm luân trong đường địa ngục, ngã qủy. Ngài đáp ứng lời khẩn cầu của họ và lập bàn thờ tại nhà khách vào lúc 9 giờ rưỡi tối đó.

Sau khi cung thỉnh chư Hiền Thánh, Ngài lên tòa ngồi, đột nhiên từ bốn phía giới tràng lại vang lên những tiếng người nhao nháo, lúc đó khoảng 10 giờ tối; Mọi người biết rõ đó chính là tiếng của những vong linh quá cố tùy hỷ kéo đến thọ giới.
Lúc đó Pháp sư Hằng Việt đang nâng cao bài vị phụ thân quỳ trước giới đàn cũng đã thấy cha mình hiện rõ trước mặt.
Trong khi đó hai cư sĩ: Đàm Quả Chánh và Văn Quả Thù lên lầu về phòng nghỉ sớm định sáng mai sẽ xuống núi để kịp đáp chuyến tàu 7 giờ về Hương Cảng.

Hai người vừa mới đóng cửa phòng định lên giường nghỉ, họ bỗng nghe có nhiều tiếng người lao xao cùng những bước chân chạy tán loạn bên ngoài hành lang.

Thoạt đầu họ nghĩ rằng, chắc có một đoàn người vừa đến chùa và đang đi lên cầu thang để nghỉ qua đêm nên hai cô hé cửa xem thử những ai đã đến, nhưng chỉ thấy hành lang hoàn toàn vắng lặng không một bóng người.

Hết sức phân vân họ đóng cửa lại, thì tiếng ồn ào lại vang lên như trước. Lúc bấy giờ họ chợt nghĩ ra không lẽ đó là tiếng của ma quỷ đang đi, nghĩ đến đây cả hai đều sợ phát run.

Cùng lúc ấy đệ tử Ngài là Pháp sư Hằng Định đang một mình tĩnh tu trong một tịnh thất nhỏ cách chánh điện khoảng hơn một trăm thước.

Bên cạnh của thất này là con đường mòn thẳng xuống núi; vì vậy những người khi lên hoặc xuống núi đều phải đi ngang qua cửa am này.

Khoảng 10 giờ rưỡi tối, Thầy nghe rõ có tiếng chân của một đoàn người đang đi xuống núi ở ngoài cửa am.
Thầy lại nghe họ vừa đi vừa nói chuyện, thỉnh thoảng lại có người phát tiếng cười to.

Thầy thầm nghĩ:
“Ồ! chắc có một nhóm Phật tử đã lên Chùa dự lễ xong nên kéo nhau về nhà vì lúc đó trăng rằm chiếu sáng lối đi.”
Sáng hôm sau, Thầy Hằng Định và hai cô cư sĩ thuật lại những việc đã nghe thấy đêm trước cho đại chúng.
Mọi người đều cảm thấy thật linh kỳ vì hai sự việc này đều có liên quan mật thiết với nhau.

56- MA CHƯỚNG CỦA NGƯỜI TU ĐẠO.
Hồng Kông là nơi sinh hoạt về đêm, đời sống vật chất đầy cám dỗ, trụy lạc. Đã có nhiều vị xuất gia vì không đủ định lực nên khi đến Hồng Kông gặp cảnh đô thị đèn màu, náo nhiệt
liền bị tiêm nhiễm và quên mất lý do tu đạo của mình, đa số dùng việc Tụng Kinh, Bái sám mong hầu đánh đổi đồng tiền để mua cất nhà cửa.

Đúng như lòng mong mỏi của Ngài là tạo nơi thích hợp để khuyến tấn chúng Tăng cùng nhau chuyên tâm tu đạo nên Thiền viện Từ Hưng được lập thành và vào mỗi mùa Đông Ngài lại tổ chức một khóa thiền thất kéo dài mười tuần liên tiếp.

Vì Thiền viện tọa lạc trên hòn đảo Từ Sơn cách Cửu Long Hương Cảng khoảng ba giờ đường tàu, lại thêm con đường dốc mòn dẫn thẳng lên đỉnh núi mới đến nơi nên rất hiếm người qua lại.

Nhưng với những tòng xanh cùng suối thác ở đó dễ khiến người tu ngộ cảnh vạn vật chuyển biến vô thường.
Ngài có một sư điệt gọi Ngài là sư thúc, từ Đông Bắc, Trung Hoa sang Hương Cảng, tuy xuất gia mà giới luật không tinh nghiêm, tâm đạo không vững vàng nên Ngài vẫn thường khuyên răn, nhắc nhở Thầy ấy.

Có lần vị sư điệt này muốn biểu thị cho Ngài xem sự dụng công của mình nên thỉnh phép được đả thất Bát Chu.
Ngài rất vui mừng khi thấy có người phát tâm tu hành nên từ Chùa Từ Hưng khoảng nửa dặm, Ngài đặc biệt cất lên một tịnh thất riêng cho ông sư điệt tu pháp Tam muội Bát Chu trong chín mươi ngày.

Bát Chu là tiếng Phạn, dịch ra là “Phật Lập” tức Phật đứng, vì khi hành pháp môn tam muội này, ngay trong lúc nhập định, hành giả sẽ thấy được chư Phật hiện ra trước mặt.

Tông Thiên Thai còn gọi pháp tam muội Bát Chu là Thường Hành Tam Muội, có nghĩa là liên tục niệm Lục tự Di Đà, sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” không gián đoạn. Pháp tu này thật hết sức khó khăn, hành giả sẽ không ngồi, không nằm ròng rã suốt chín mươi ngày. Bên trong tịnh thất toàn nhiên không có bất cứ một đồ vật nào.

Những hậu quả mà hành giả thường gặp phải và không sao tránh khỏi như bị sự đau nhức nơi ống chân, hai bàn chân sưng vù lên, thần kinh bị căng thẳng đến cùng cực và sức lực tưởng chừng như kiệt quệ.

Mặc dầu phải trải qua những thử thách như vậy, hành giả vẫn phải tiếp tục bước đi, vì nếu bị vấp té thì coi như hỏng cả khóa tu.
Trong lúc hành trì pháp môn này nếu như hành giả, bỗng nhiên bị xây xẩm mặt mày thì có thể dừng lại và đứng yên một lát, sau đó cử động cánh tay trước, rồi tiếp tục bước trở lại.

Nếu hành trì pháp tam muội Bát Chu này một cách tinh tấn thì sẽ điều hòa được ba nghiệp thân, khẩu, ý, giúp hành giả có thể nhập định “Bát Chu Tam Muội” và sẽ thấy được chư Phật khắp mười phương. Lúc bấy giờ hành giả sẽ thấu rõ được chân tâm và đạt thành tuệ giác.

Một ngày nọ đang ngồi tĩnh tọa tại Từ Hưng Thiền Tự, Ngài chợt nghe tiếng niệm Phật của ông sư điệt vang lên như la hét, âm thanh càng lúc lại càng gấp tựa như sắp đứt hơi.

Ngài hiểu rõ sự việc nên lập tức đến mật thất thì thấy ông sư điệt vừa to tiếng niệm Phật vừa chạy vòng vòng như phát cuồng, lúc Ngài bước vào thì Thầy ấy ngã quỵ xuống, Ngài liền bảo: Phật A Di Đà đã đi rồi! Mà cũng chẳng có Phật nào đâu, đó chẳng qua là con trâu nước to tướng đó thôi!

Nguyên là lúc Ngài vừa bước vào Thất thì Thầy đó không còn thấy Đức Phật A Di Đà nữa, thay vào đó Ngài thấy có một con trâu lớn đi trước ra chiều thúc giục Thầy ấy.
Tại sao trâu nước lại có thể hiện ra thành Phật A Di Đà?

Vì Thiên ma và ngoại ma cũng có phép biến hóa, giả dạng giống y như Phật, Bồ Tát để mê hoặc người tu.
Phật với Ma chỉ khác nhau trong lằn tơ kẽ tóc, thế nên đường tu đạo, chúng ta thường gặp nhiều cảnh giới do ma hóa hiện để chướng ngại sự tiến tu của chúng ta khiến chúng ta khó mà phân biệt được chân hay giả.

Vì vậy người tu đạo nhất định phải đoạn trừ tham sân si, không tham lợi dưỡng, cũng không tham được thấy Phật, Bồ Tát.
Ngày thường phải trì giới để có một nền móng vững chắc và từ sự trì giới sẽ sanh định, có định lực thì tự biết đối phó với mọi cảnh giới, không bị cảnh giới dao động.

Trong cuốn “Khai Thị Lục” Ngài dạy chúng ta cách đối phó cảnh giới như: Bất luận dù gặp cảnh giới nào đi nữa chúng ta cũng không được sanh tâm hoan hỷ hoặc sanh tâm lo sợ nên nhớ lấy! nhớ lấy! Ngài lại bảo:

“Nếu gặp ma cảnh đến khảo nghiệm thì chúng ta cũng nên biết cách khảo nghiệm lại và suy xét kỹ xem đó có phải là cảnh giới thật hay do chúng ma giả dạng.
Vậy chúng ta phải dùng phương pháp nào đây?

Chính là niệm A Di Đà Phật không gián đoạn; niệm cho đến nhất tâm bất loạn không cho khởi lên một vọng niệm nào như vậy ma cảnh dần biến mất và cảnh giới thật sẽ hiển bày càng lúc càng rõ.

Có một số người tu thiền không hiểu phương pháp này cho nên bị tẩu hỏa nhập ma khiến tổn hao đạo nghiệp tu hành bấy lâu nay!”

Nhân vì Thầy ấy vừa mới khởi sự đả thất Bát Chu chỉ được vài ngày mà lại nôn nao tham ước được Phật A Di Đà đến gia bị nên xả mạng để truy cầu. Đây chính là điều tối kỵ của người tu.

Cũng may Thầy được một vị Thiện tri thức ở gần bên thường để tâm quán sát nên đã kịp thời chỉ chỗ sai lầm, bằng không Thầy này sớm muộn gì cũng trở thành quyến thuộc Ma Vương.

Một kiếp trước đây ông sư điệt này từng là một con bò cần mẫn kéo cày cho một Tu viện, nhờ công đức siêng năng làm việc cho Chùa nên tái sanh làm người và lại còn được xuất gia tu đạo.

Tuy nhiên phần lớn còn tập khí và bản tánh của bò từ quá khứ nên mới triệu lại một con trâu nước yêu quái có giòng giống tương quan để tiện bề quấy phá đạo nghiệp của Thầy.

Mặc dầu Thầy không bị ma nhập nhưng khóa Bát Chu thất đã không thành.
 
57- IN KINH TẠO TƯỢNG.
Kinh Phật cốt dùng hoằng dương giáo pháp là công cụ lợi sanh, Kinh điển có giá trị vô vàn ví như ngọn đuốc sáng trong đêm tối; nếu nhân gian không có Kinh Phật sẽ như trong đêm khuya dài dẳng không một ánh đèn.

Vì vậy phiên dịnh ấn hành kinh điển khiến ba giáo tạng lưu hành trên thế gian là công tác đầu tiên trong việc cứu độ chúng sanh.
Trong từng giờ từng khắc Ngài đã không quên bi nguyện hoằng pháp, lưu thông Kinh điển nên Ngài đã ấn hành PHẨM PHỔ MÔN, KINH ĐỊA TẠNG, KINH KIM CANG, KINH LĂNG NGHIÊM...ĐỂ PHÂN PHÁT KHẮP NƠI.

Ngài đã không quản ngại ra công tuyển chọn họa sĩ thiện nghệ để chính thức giao phó trách nhiệm minh họa lại Lịch sử Lão Hòa Thượng Hư Vân. Tác phẩm này đã được trình bày qua hai ngàn bức họa tuyệt tác.

Đạo đức cao vời, hạnh nguyện cao cả, sự lao tác cùng tinh lực phi thường của Hòa Thượng đã được chính tay Ngài viết qua những bài kệ tán thán, bao gồm mười ngàn chữ.
Đây là quyển Thánh nhân truyền ký “Hư Vân Lão Hòa Thượng Họa Truyện Tập” chúng ta không thể không tham khảo.
Hòa Thượng Hư Vân đã được diễn đạt như một Đạo sư gương mẫu muôn đời cho đoàn hậu học mai sau.

Ngoài việc xây cất những đạo tràng mới, Ngài tiếp tục bảo trợ việc đúc tượng Phật, Bồ Tát và các vị Hộ Pháp.

Ngài không ngại về khoản chi phí lớn để mời các điêu khắc gia, thợ giỏi để đúc tượng cùng sơn son thếp vàng làm hiện rõ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẽ đẹp tuyệt vời của đức Như Lai; thuận tạo duyên cho chúng sanh khi chiêm ngưỡng tượng Phật sẽ phát Đại tâm lập Đại nguyện, hoặc đảnh lễ hoặc quán chiếu những nét trang nghiêm vào tâm khảm để vững lòng tu trì tinh tấn.

Khi vừa đến Hồng Kông Ngài đã cho đúc tượng đức Bồ Tát Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn để xưng tán đức hạnh Bồ Tát và sự hành trì pháp Đại Bi. Bức tượng đã được tín chúng rất mực kính quý và trong những năm sau đã có nhiều Pháp sư xin mẫu để đúc thêm.

Ngoài ba tượng Ngài đã cho đúc để thờ tại Chùa Tây Lạc Viên và ba tượng khác tại Thiền viện Từ Hưng, Ngài còn cho đúc và thếp ba vị Phật Thích Ca, Dược Sư và A Di Đà cùng các tôn tượng Hộ Pháp Vi Đà, Già Lam.

Ngài còn đích thân chú tượng Đức Phật A Di Đà tại Thiền viện Chân Như, đạo tràng của Lão Hòa Thượng Hư Vân tại núi Vân Cư.
Ngài cũng đã đúc tượng Đức Lục Tổ Huệ Năng, tượng Đức Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân, và tượng Đức Phật A Di Đà tại Tu viện Chí Liên Tịnh Uyển ở Hương Cảng.

Trên bốn phía chánh điện của Vạn Phật Thành ở Mỹ Quốc là mười ngàn tượng Phật Thích Ca lớn nhỏ đều do chính tay Ngài đã đúc thành hơn mười năm qua; trong nhiều đêm không ngủ để khắc từng tượng một và còn đặt tóc của Ngài vào mỗi tượng nũa. Ngài kể lại:
- Lúc đầu mới tới Mỹ tôi tự hỏi, “Tôi đến phương Tây này để làm gì?

Nên phát đại nguyện là muốn làm một điêu khắc gia để khắc ra những vị Phật sống, Bồ Tát sống, Tổ Sư sống. và tôi còn muốn hóa toàn bộ chúng sanh trên thế giới thành ra những vị Phật sống, Bồ Tát sống và những Tổ Sư sống.”
Ngài thường nói:

“Chỉ cần giữ giới cho thanh tịnh, nghiêm túc tu hành, thuyết giảng giáo lý cho hợp lẽ đạo, bố thí vô ngã và làm lợi cho Phật pháp. nếu quý vị giữ gìn đạo hạnh, thì việc người đời bàn tán về các vị không có quan trọng vì chính các vị nhận thức được đâu là chân, đâu là giả.”

Vì vậy Ngài đã không nề gian khổ phát đại lượng tâm in kinh ấn tống, tô đắp tượng Phật, Bồ Tát khiến ngôi Tam Bảo mãi được hưng long. Đây là mục đích trọng yếu trong cuộc đời Ngài.

58- PHẬT GIÁO GIẢNG ĐƯỜNG.

Nữ cư sĩ Dư Quả Mãn trước kia thường bái viếng Ngài tại Động Quán Âm nhưng từ lúc Ngài rời khỏi động bà bặt tin tức về Ngài. Bà đã cố gắng dò hỏi tông tích của Ngài trong nhiều năm qua nhưng chẳng có kết quả gì.
Năm 1956, Quả Mãn bị gẫy xương bàn tay đến nhờ Bác sĩ đông y chữa trị, khi Bác sĩ ấy kê toa “Long Cốt” tức xương rồng làm thuốc thì Quả Mãn phản đối:

- Thưa Bác sĩ tôi không dùng thứ này được vì tôi đang ăn chay.
Bên cạnh bà là một bệnh nhân khác, đệ tử Ngài tên Diêu Quả Bạch nghe thế liền hỏi: - Thầy của bà là ai?
- Tôi chưa Quy Y nhưng tôi đã từng gặp một vị Pháp Sư đức độ, chân chánh tu hành tại núi Phù Dung, Động Quán Âm nhưng nay tìm mãi mà tôi vẫn không biết Ngài đang ở đâu?
- Vị Pháp Sư đó người ra sao?
- Ngài thường đeo chuỗi hạt trầm hương và trên ngực có một loạt sẹo khắc chữ Vạn!
- A! là Thầy của tôi đấy!

Đối đáp một hồi Quả Mãn đã vui mừng khôn xiết vì tìm ra được tăm tích Ngài. Ngay hôm sau Bà cùng với Quả Bạch đến Chùa Tây Lạc Viên;

thân bà to béo nhưng không quản mệt nhọc bước lên hơn ba trăm nấc thang nhất định bái kiến Ngài, lần này bà không bỏ qua cơ hội xin thọ Quy y và sau đó cả gia đình bà cũng Quy y Tam Bảo.
 

Hòa Thượng tại Phật Giáo Giảng Đường
Bà và một số Phật Tử khác đã đắc lực ủng hộ Ngài trong việc hoằng dương Phật pháp cùng phát tâm mua trọn tầng lầu thứ mười hai của một cao ốc tọa lạc tại Happy Valley cạnh vùng đua ngựa của trung tâm thành phố Hương Cảng để dựng đạo tràng mới, làm nơi thuận tiện cho các Phật tử tu hành.
Vì thế năm 1956 Phật Giáo Giảng Đường được thành lập.
Nơi đây Ngài giảng kinh thuyết pháp và tổ chức những sinh hoạt Phật giáo khác đã được tín chúng cùng khách viếng thăm đến đông đảo cho đến ngày nay.
Nguyên cả một bức tường của Giảng Đường gồm toàn cửa sổ nên ánh nắng chiếu sáng cả Giảng Đường.
Giảng Đường được nằm ở tầng cao nhất nên người ta có thể lên mái phẳng của cao ốc một cách dễ dàng và họ còn trồng rau, kiểng và hoa để cúng Phật.
Chính Ngài thường chuyển pháp luân qua những buổi thuyết giảng, Ngài cũng khuyến khích và huấn luyện cho chư đệ tử luân phiên diễn giảng vào mỗi cuối tuần.
Lúc những Phật tử trẻ thuần thành không đến được thì có lão cư sĩ Hồ Quả Vi đã ngoài sáu mươi tuổi cũng ra tham gia buổi giảng và còn vì đại chúng làm một bài thơ Tịnh Độ:
Diêu chỉ Tây Phương lạc nhật biên
Nhứt điều quy lộ trực như huyền
Khứ thời bất dụng xuyên hài miệt
Bộ bộ liên hoa đóa đóa sanh
Tạm dịch:
Tây Phương xa thẳm tận chân trời
Một nẻo dây đàn thẳng đến nơi
Khi đi chẳng nệ mang giày vớ
Mỗi bước hoa sen nở dưới chân.
Chúng ta chớ nên cười bà, bà chính là mẹ của Lý Quả Viễn (Xin xem bài 43- Người tin được cứu.)
Từ ngày được Quy y, bà đã chưa từng rời chuỗi tràng mà niệm Phật miên mật.
Khoảng đầu năm 1962, bà đi thăm bà con và các bạn thân mà Bà đã lâu chưa gặp lại, xong về nhà Bà an tường ra đi. Ngài từng nói:
- Biết thuyết pháp không bằng biết nghe pháp, biết nghe pháp lại không bằng biết hành trì.
Bà Hồ quả là một gương sáng đáng cho chúng ta noi theo!

 
59- “BẠCH THỦY TUYỀN TRUNG NHẤT ĐẠI THIÊN”.
Sau khi Giảng Đường được thành lập thường có nhiều người đến viếng thăm Ngài kể cả các vị Tu sĩ có tiếng.
Lần nọ có Pháp sư Nguyệt Khê để tóc dài tu hạnh đầu đà và xưa kia đã từng đốt ngón tay cúng dường Phật. Sư đến Phật Giáo Giảng Đường tham bái Ngài, Ngài bảo:
- Pháp sư, tôi có câu đối liễn này, nếu Thầy đáp được tôi sẽ xưng Thầy là Trưởng Lão chân tu, bằng không đáp được thì tôi sẽ gọi là Lão Ma Vương. Thầy nghe kỹ đây,
“Bạch thủy tuyền trung nhất đại thiên.”
Chữ thứ nhứt Bạch và chữ thứ hai Thủy hợp lại thành chữ Tuyền.
Chữ thứ tư nằm chính giữa câu cũng là chữ Trung.
Chữ thứ năm Nhất nhập với chữ thứ sáu Đại ra chữ Thiên.
Muốn đối lại câu trên, Pháp Sư này phải tìm cho ra những chữ vừa đối và vừa có cấu trúc tương tợ. Cả nửa giờ sau lão Pháp sư ấy chỉ biết lấy tay xoa đầu không đối đáp nổi. Ngài liền thuyết thêm một bài kệ giáo huấn Lão như sau:
“Bồng thủ cấu diện Lão Ma vương
Đáo xứ linh nhân thuyết đoạn trường
Phóng hạ, vật phóng hạ?”
Tạm dịch:
Đầu bù mặt bẩn Lão Ma vương,
Đến đâu đều khiến chúng than phiền.
Xả bỏ, sao không cố xả bỏ?
Không đáp được câu đối, Pháp sư Nguyệt Khê bèn chuẩn bị cáo từ, Ngài đưa ông ra tới tận của rồi nắm lấy búi tóc dài của ông kéo xuống buộc ông ta phải quỳ xuống và Ngài trừng nhìn ông nói:
- Này Lão Ma vương xem thử ông có bao nhiên thần thông để thoát khỏi trận này? Ông có tài cáng gì thì cứ trổ ra đi, mau lên, mau lên!
Tại sao Lão Pháp Sư kia phải bị trừng trị đích đáng như vầy? Bởi xưa khi vừa đến Hương Cảng, Ông ta đã tuyên bố rằng ông chính là Thầy của Hòa Thượng Hư Vân và có nhiều thần thông thâm hậu. Rất nhiều đệ tử của Ngài Hư Vân tưởng thật nên hết lòng cung kính, hộ pháp và cúng dường như vị Tổ của họ; và còn có một Đệ tử viết thơ báo tin cho Hòa Thượng là Thầy của Hòa Thượng đã đến Hồng Kông.
Ngài Hư Vân đáp:
- Tôi có nghe nói về Sư tóc dài đó... nên người đệ tử này nói là Thầy của tôi? Lão Hòa Thượng cũng không màng cải chánh: phải hay không phải là Thầy của Hòa Thượng; nhưng lá thơ này cho chúng ta thấy rõ là Phật tử ở Hồng Kông đã bị lừa to. Khi có người hỏi vặn, Pháp Sư Nguyệt Khê liền nổi nóng cho rằng:
- Lúc còn bé, Thầy các ông đã tới lạy và xin tôi cho xuất gia nhưng tôi không thâu... và đuổi đi chỗ khác, rồi thì ổng quỳ trước mặt tôi khóc ròng nước mắt nước mũi ràn rụa nhưng tôi vẫn không nhận.
Lúc bấy giờ Lão Hòa Thượng Hư Vân đã hơn trăm tuổi, là bằng chứng cụ thể cho chúng ta thấy được chuyện vô lý này do Pháp Sư Nguyệt Khê đã bịa ra. Giờ đây chúng ta thử xem ai sẽ là người có thể tiếp Lão đầu đà kia đáp câu đối của Ngài?

60- SANG MIẾN ĐIỆN TRIỀU THÁP.
Năm 1957, nhân viên Lãnh sự quán cùng Pháp quan Miến Điện là Trần Chấn Phú và Dư Trấn Đông đã đến Phật Giáo Giảng Đường thỉnh Ngài sang nước họ tham quan.
Với nhã ý hợp nhất hai tông Đại Tiểu nhằm đoàn kết lực lượng Phật Giáo trên toàn thế giới nên Ngài đáp lời và dắt Quả Mật cùng đi.
Hai Thầy Trò đã tham quan Trường Đại học Phật Giáo Pegu, triêu lễ Tháp Đại Kim và hướng dẫn hơn trăm tín đồ nhiễu tháp niệm Phật. Tại Chùa Thụy Phật, Ngài cùng chư tăng Miến Điện tọa thiền trước tượng Phật nằm nghiêng khổng lồ.
Ngài đã tuyên dương hai phái Đại Tiểu thừa là đều đồng chí hướng -Tham Thiền Học Phật.
Khi Ngài rời Miến Điện về Hương Cảng, chúng cư sĩ quỳ nơi sân bay bùi ngùi tiển chân Ngài, vì chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà họ đã cảm nhận được lòng từ bi cũng như oai đức cao dày của một vị chân tu.
Sửa lần cuối bởi dammaythongdong vào ngày 23/10/20 20:20 với 9 lần sửa.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Úc Châu hoằng pháp.


Thoáng chốc Sư phụ đã lưu lại Hồng Kông được mười năm.
Ngài tuy thân ở Hương Cảng; nhưng tâm thường nghĩ rằng, đừng nói chi Bắc Câu Lô Châu mà ngay cõi Ta Bà này cũng có nhiều nơi mà chúng sanh chưa từng nghe đến Phật Pháp nên Ngài nguyện đem hạt giống Bồ Đề gieo rắc khắp chốn.


Năm 1961 bất chấp mọi gian khổ, Ngài quyết định qua Úc Châu hoằng pháp, nơi mà Phật giáo chưa hề được gieo duyên Ngài đến Sydney và Melbourne.
Thời ấy người tin hiểu Phật Pháp tại Úc Châu rất ư là ít, nên không Chùa am Tự Viện chi.
Một Hội nhỏ sinh hoạt Phật Giáo tại Ú Châu đã thỉnh Ngài đến làm chủ lễ thuyết pháp vào ngày lễ Phật Đản do cư sĩ Lưu Tú Linh, Trường đại học Tuyết Lê phiên dịch.
Ngài lưu trú tại Úc Châu một năm, sống nhờ đi dạy Hoa Văn tại một trường Đại học Úc.

Vì cơ duyên chưa thành thục nên Ngài không thể phát triển Phật Giáo nơi đó, nhưng với oai nghi nghiêm trang cùng đức hạnh của Ngài khiến bao người Hoa, và dân bản xứ hằng cảm phục người xuất gia.

Đây cũng là dịp Ngài gieo duyên tu học Phật Pháp cho họ sau này.

Năm 1962, Ngài từ Úc Châu trở về Hương Cảng và giấy thông hành vốn đã được Lãnh Sự Mỹ chấp thuận nên vào cuối tháng ba, Sư phụ đáp phi cơ đến Hạ Uy Di, nghỉ ngơi một tuần, rồi đến Cựu Kim Sơn (San Francisco) Hoa Kỳ.

64- Nhân duyên đến Mỹ.

Vào tháng 4 năm 1958 có hai sinh viên du học tại Mỹ đã luôn nhớ lời Sư phụ giáo huấn về trách nhiệm căn bản của người Phật tử:
“Tự lợi, lợi người, hoằng pháp lợi sanh” nên khi vừa đến Thành phố Cựu Kim Sơn, California - Mỹ Quốc, họ liền thành lập Phân Hội Phật Giáo Giảng Đường (Tổng Hội chính tại Hương Cảng.) tại một đường nhỏ Waverly thuộc khu phố người Hoa.

Đàm Quả Quyền là đệ tử quy y Ngài qua thư khoảng ba mươi mấy năm trước thuật lại:

“Lúc ấy Phật Giáo Giảng Đường chỉ là một căn phòng nhỏ đơn sơ ở dưới hầm của con đường hẻm.

Ban ngày chẳng ai lui tới mà chỉ có mấy chú chuột cống tự tại chạy qua chạy lại và có điều lạ là chúng không hề xúc phạm đến hoa quả cúng trên bàn Phật một mảy may.

Khi Giảng Đường thành lập được vài tháng thì có khoảng mười mấy người tụ họp về vào mỗi tối thứ bảy, rồi số người dần gia tăng lên được vài chục.

Cuối năm đó Giảng Đường được dời về đường Pacific, địa điểm rộng rãi hơn có thể chứa được hơn trăm người. Mỗi cuối tuần Hội đều mời các học giả Hoa kiều và Tây phương tới thuyết diễn Phật Pháp.

Lúc ấy có nhiều thiện tín vì quá ngưỡng mộ Ngài và muốn Quy y Tam Bảo nên Sư phụ đã phương tiện ban cho họ Pháp danh qua thơ tín trước còn nghi thức Quy y sau này đủ duyên mới cử hành tại Mỹ.

Những hội viên khi nhận được Pháp danh mình, ai nấy đều mừng rỡ tựa hồ tái sanh và quyết tâm làm tròn bổn phận người Phật tử là hành trì câu châm ngôn: ‘Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành.’ tức không làm việc ác luôn làm các việc lành.”

Theo lời cư sĩ Quả Chánh:

“Quả Chánh nói: “Lúc đó, tại San Francisco, những người tự xưng là kẻ tôn sùng giáo lý đạo Phật có thể phân làm bốn hạng:

1) Những giáo sĩ truyền giáo đã kết hôn được Hội Phật Giáo Nhật Bản phái tới đặt cơ sở tại Mỹ Quốc;

2) Những người đầu cơ trục lợi, đề xướng Nho, Thích, Đạo—Tam Giáo đồng tôn;

3) Những nhà luận lý học với mớ kiến thức nông cạn đã làm cho Phật giáo bị hỗn tạp, trở thành phương thức “Trung Tây hợp bích”;

4) Những đạo sư Du-già (yoga) của Ấn Độ giáo đến từ xứ Ấn Độ.

Vào thời đó, muốn tìm một tu sĩ đại đức hoằng dương Chánh Pháp có thể nói là “như cầu thố giác” (như tìm sừng thỏ) vậy. Những kẻ muốn học Phật, do thiếu sự chỉ dẫn của bậc lương sư, không biết đường lối để theo, nên phần lớn đều nảy sanh tà tri tà kiến!”

Chứng kiến thảm trạng này, các hội viên Phật Giáo Giảng Đường Cựu Kim Sơn nhất trí thỉnh cầu Sư phụ sang Mỹ hoằng pháp độ sanh. Ngài từ bi hứa khả nhưng đúng vừa lúc Ngài tới Úc Châu giảng đạo, mãi đến tháng ba năm 1962, chư đệ tử tại Mỹ mới được dịp nghinh đón vị Đạo sư mà họ đã ngưỡng mộ bấy lâu.

Coi thêm các mẫu chuyện tại : https://www.dharmasite.net/SoLuocTSHTTH.htm


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Tổ Bồ Đề Đạt Ma, không quản ngại xa xôi đã đem Phật Pháp từ Ẩn Độ truyền đến Trung Hoa, là nơi Phật Pháp được phát dương quảng đại.

Hòa Thượng Tuyên Hóa đã sớm phát nguyện mang Phật Pháp sang các nước ở Âu Châu và Mỹ Châu, hầu có thể tiếp dẫn càng nhiều chúng sanh hữu duyên dong thuyền về bờ Trí Tuệ bên kia hơn nữa.

Khi Hòa Thượng ở Hoa Kỳ, Ngài phát ba đại nguyện:

1. Chú trọng luân lý đạo đức trong nền giáo dục, đề xướng việc giáo dục thiện nguyện (nghĩa vụ giáo dục).

2. Phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang các ngôn ngữ, và thành lập Học Viện Dịch Kinh.

3. Tạo thuận lợi trao đổi và đoàn kết giữa các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa; dung hợp Đại Thừa và Tiểu Thừa.

Hòa Thượng cho rằng giáo dục cũng quan trọng như hoằng pháp. Học sinh tại Vạn Phật Thánh Thành phải học thuộc lòng "Quy Luật Học Sinh" (Đệ Tử Quy) và "Tam Tự Kinh". Hòa Thượng có thể được xem như là người đầu tiên đề xướng việc giáo dục thiện nguyện tại Tây Phương. Ngài tích cực tìm những giáo sư thiện nguyện để củng cố những tiêu chuẩn cao thượng về học vấn cũng như đạo đức.

Phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang các ngôn ngữ trên thế giới chính là hạnh nguyện mà Hoà Thượng đã lập khi xuất gia. Ngài có thể được xem là vị tăng thứ ba đã phát nguyện đem kinh điển Phật Giáo chuyển dịch thành các ngôn ngữ của mọi quốc gia trên toàn thế giới, sau hai Đại Sư Huyền Trang và Giám Chân.

Hơn 130 bộ sách đã được phiên dịch sang Anh ngữ, và công việc phiên dịch sang các ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Việt, tiếng Nam Dương… cũng đang được tiến hành.

Hòa Thượng cũng nỗ lực để dung hợp các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa. Hoà Thượng từng nói rằng:

“Các truyền thống Bắc tông và Nam tông đều nhằm mục đích giúp chúng sanh phát Bồ Đề Tâm, chấm dứt sanh tử, xa lìa khổ não, đạt được an lạc. Do đó, các truyền thống Bắc tông và Nam tông của Phật Giáo nên có sự cảm thông với nhau và đoàn kết hợp nhất, xem cả hai đều là một. Đừng nên anh làm việc của anh và tôi lo chuyện của tôi, vì như thế, sức mạnh của Phật Giáo sẽ bị phân tán.”

“Bất cứ người nào tìm cách gây chia rẽ trong Phật Giáo đều không phải là đệ tử Phật. Đừng nói là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, ngay cả một thừa cũng không có! Lòng ích kỷ tự tư tự lợi, hại người lợi mình của chúng ta, và việc chỉ biết tán dương chính mình và chê bai người khác--đây chính là những nguyên nhân đưa đến chiến tranh.“

Hòa Thượng có lần đã tự trách mình về vấn đề phân chia giữa Phật Giáo Đại Thừa và Nguyên Thủy:

“Tôi cũng là một tội nhân trong Phật Giáo. Vì sao ? Bởi vì tôi chưa làm tròn trách nhiệm của mình. Tôi chưa thành công trong việc làm gần lại khoảng cách giữa các truyền thống Bắc tông và Nam tông. Nếu các truyền thống Bắc tông và Nam tông bài xích lẫn nhau, mỗi tông đều giương cờ của mình lên và chỉ dụng công trên bề mặt của sự việc, thì làm sao Phật Giáo có thể đoàn kết được ?”

Nhiều cuộc đối thoại giữa các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa và Nguyên Thủy đã diễn ra tại Vạn Phật Thánh Thành, mở ra một trang mới trong lịch sử Phật Giáo Tây Phương.

Hòa Thượng nói rằng Ngài từ một nước Á Châu xa xôi, cách cả hàng nghìn dặm, một thân một mình “đơn thương độc mã” tìm đến nước Hoa Kỳ--vùng đất xa lạ chưa có Phật Pháp—là để mang Chánh Pháp sang phương Tây. Ngày nay, Vạn Phật Thánh Thành đã trở thành một đạo tràng tối trọng yếu ở Tây Phương, và nhiều đạo tràng chi nhánh cũng đã và đang được thành lập.

Hòa Thượng đã hướng dẫn các đệ tử gồm nhiều quốc tịch khác nhau cùng nỗ lực hoằng dương Chánh Pháp, đồng thời đoàn kết các tôn giáo lại với nhau. Hòa Thượng đã bước đi trên con đường dài này với những bước chân vô cùng kiên nhẫn. Sự mong mỏi của Hòa Thượng là tất cả chúng sanh sẽ thành Phật trước Ngài. Ngài muốn giúp tất cả chúng sanh xa lìa khổ não, đạt được an lạc, tìm lại trí tuệ chân thật, đạt được tự tại, giải thoát. Trong một bài khai thị, Hòa Thượng đã nói rằng:

“Tôi chỉ là con kiến nhỏ nhoi cam lòng bò dưới chân tất cả các Phật tử. Tôi là con đường, nguyện cho tất cả chúng sanh giẫm lên mình tôi và đi từ phàm phu thẳng đến Phật quả.

Nếu bất cứ đệ tử nào của tôi bị đọa địa ngục, tôi nguyện sẽ chịu thay cho họ.

Nguyện rằng những kẻ thấy tôi hoặc nghe tiếng nói của tôi, thậm chí chỉ nghe nhắc đến tên tôi, đều sẽ nhanh chóng được thành Phật. Tôi nguyện sẽ ở lại thế giới Ta Bà này và đợi cho đến khi tất cả quý vị đều thành Phật.”

Sự cống hiến suốt cả một đời của Hòa Thượng cho Phật Giáo rộng lớn như hư không, làm sao bài viết nầy có thể mô tả đầy đủ tất cả được ?

Ngài đã để lại vô số Pháp bảo cho chúng ta, vì thế, từ nay chúng ta cần phải tinh tấn tu hành, tuân thủ Sáu Đại Tông Chỉ. Chỉ có như thế chúng ta mới không cô phụ bao khổ tâm lao nhọc của Hòa Thượng, và hy vọng Hòa Thượng sẽ nương theo nguyện lực của Ngài mà sớm trở lại để cứu độ chúng sanh!

theo https://www.dharmasite.net/thiluan.htm#8


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

• THỜI THƠ ẤU:

Vào ngày 17 tháng 03 năm Mậu Ngọ (1918), Hòa Thượng Tuyên Hóa sinh ra trong một gia đình họ Bạch, tại một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Song Thành, tỉnh Cát Lâm, Đông Bắc Trung Hoa.

Ngay khi vừa sinh ra, Ngài khó suốt ba ngày, thương cho chúng sinh trong cõi Ta bà quá nhiều khổ lụy. Năm 11 tuổi, nhân thấy một em bé chết giữa vùng sa mạc hoang vu, Ngài có phần thức tỉnh, muốn rời bỏ cuộc sống gia đình, tu đạo để giải quyết vấn đề sinh tử lớn lao.

Năm lên 12 tuổi, Ngài bắt đầu sám hối tất cả mọi lỗi lầm của mình với hai đấng sinh thành, dự tính một lòng báo đáp hiếu đạo. Ngài lạy cha mẹ mình hằng ngày. Sau đó, Ngài cảm thấy lạy cha mẹ mình chưa đủ, Ngài lạy Trời Đất, Quốc vương, Sư trưởng. Ngài vẫn thấy chưa đủ. Vì thế, dần dần Ngài lạy đến cả mọi loài chúng sanh. Ngài lạy sáng và chiều, lỗi lần hơn 380 lạy, 5 thời mỗi ngày. Ngài lạy đến cả gió, mưa, tuyết, mong rằng qua cái lạy sẽ chuyển hóa được người xấu thành người tốt; hy vọng cái lạy sẽ đem bình an đến cho thế giới tao loạn này.

Năm 15 tuổi, Ngài quy y với Lão Hòa Thượng Thường Trí ở chùa Tam Duyên. Chính thức là Phật tử đã quy y Tam Bảo.. Ngài thân cận Hòa Thượng Thường Nhân. Đến năm 17 tuổi, Ngài chỉ đến trường học hai năm rưỡi. Do Ngài đạt được tâm chuyên nhất nên đọc qua một lần liền thuộc. Nhờ vậy, Ngài thông thạo Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bách gia Chư Tử, Y học, Bốc phệ, Chiêm tinh, Vật lý, và các lĩnh vực học thuật khác của thế gian.

Vào năm 16 tuổi, Ngài đã bắt đầu giảng Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Kim Cang, Kinh A Di Đà, và giảng giải Phật Pháp cho những người không biết chữ nghe.

Năm 18 tuổi, mẹ Ngài lâm bệnh. Ngài bỏ học ở nhà chăm sóc. Vì Ngài đã biết rõ khó khăn do không được học hành chu đáo, nên Ngài thành lập một lớp học miễn phí, dạy cho hơn 30 trẻ em nghèo, từ sáng đến tối không nghỉ.

Trong những năm đi học, Ngài còn tham gia nhiều hội đoàn từ thiện, như Hội Phật Học, Hội Đạo Đức, Hội Từ Thiện, Hội khuyến khích bỏ uống rượu, bỏ hút thuốc; khuyến khích từ bỏ những thói xấu, làm việc thiện. Ngài tu tập hạnh Bồ tát, nguyện cứu độ tất cả mọi loài.

* XUẤT GIA:

Năm 19 tuổi, mẹ Ngài, Hồ Thái qua đời. Ngày 08 tháng 04 ngày Đức Phật Đản sanh, Ngài đảnh lễ Lão Hòa thượng Trí Nhân ở chùa Tam Duyên, xin thế phát xuất gia.
Được Lão Hòa thượng truyền giới Sa di, pháp danh là An Từ, pháp tự là Độ Luận. Ngài xin được y chỉ với Lão Hòa thượng Thường Nhân, trụ trì chùa Tam Duyên. Khi được Lão Hòa thượng Hư Vân truyền pháp, Ngài được ban pháp hiệu là Tuyên Hóa.

Trong suốt ba năm xuất gia, Ngài sống trong một túp ều đơn giản bên cạnh mộ mẹ Ngài. Người đời gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người con hiếu họ Bạch).

Vào ngày 19 tháng 06, kỷ niệm khánh đản Bồ tát Quán Thế Âm, Ngài phát 18 lời nguyện lớn trước Chư Phật. Cuộc đời của Ngài là sự thực hành sống động 18 lời nguyện lớn này.

“Cúi đầu đảnh lễ Chư Phật mười phương cùng Tam Tạng Pháp quá khứ, hiện tại, vị lai cùng các Hiền Thánh Tăng, duy nguyện rủ lòng chứng minh cho đệ tử pháp danh Thích An Từ, tự Độ Luận, con nay phát tâm không vì tự mình cầu phước báo cõi Trời, Người, Thanh văn, Duyên giác cho đến các quả vị Bồ tát quyền thừa, chỉ y theo tối thượng thừa phát tâm Bồ đề. Con nguyện cùng chúng sinh trong cả pháp giới cùng lúc đều đạt được quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.

1. Con nguyện vì hết thảy chư vị Bồ tát trong cùng tận hư không, khắp pháp giới, trong cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

2. Con nguyện vì hết thảy các vị Duyên giác trong cùng tận hư không, khắp pháp giới, trong cả ba đời, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

3. Con nguyện vì hết thảy các vị Thanh văn trong cùng tận hư không, khắp pháp giới, trong cả ba đời, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

4. Con nguyện vì hết thảy các loài ở cõi Trời trong tam giới, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

5. Con nguyện cho hết thảy loài người, trong mười phương thế giới, nếu như còn một người nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

6. Con nguyện cho loài người, loài Trời, hết thảy loài A tu la, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

7. Con nguyện cho hết thảy các loài súc sanh, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

8. Con nguyện cho hết thảy các loài Ngạ quỷ, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

9. Con nguyện cho hết thảy chúng sanh trong địa ngục, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

10. Con nguyện cho tất cả các loài Trời, Người, A tu la, các loài côn trùng, cho đến các linh giới như Rồng, Quỷ thần … đã từng quy y với con, nếu như còn một vị nào chưa thành tựu quả vị Phật, thì con chưa thành Chánh giác.

11. Con nguyện đem hết tất cả những phước lạc mà con đáng được hưởng, xin hồi hướng, bố thí, cúng dường cho hết thảy chúng sanh.

12. Con nguyện chọu thay hoàn toàn mọi khổ nạn chu chúng sanh trong pháp giới này.

13. Con nguyện phân thân vô số lượng để chuyển hóa hết thảy chúng sanh chưa có lòng tin với Phật Pháp, khiến họ bỏ việc ác làm việc lành, sám hối mọi tội chướng, quy y Tam Bảo, rốt ráo thành Phật.

14. Con nguyện cho hết thảy chúng sanh, khi được thấy mặt con, được nghe đến tên con, đều phát tâm Bồ đề, chóng thành Phật đạo.

15. Con nguyện hết lòng tôn kính giới luật đức Thế Tôn đã chế. Nguyện thực hành ăn một ngày một bữa vào lúc giữa trưa.

16. Con nguyện giác ngộ cho hết thảy chúng sanh hữu tình, nhiếp độ hết thảy mọi căn cơ.

17. Con nguyện tu tập để ngay đời này được ngũ nhãn ,lục thông, đến đi tự tại.

18. Con nguyện cho hết thảy những điều đã phát nguyện đều được viên mãn.

Cuối cùng:

Chúng sanh không ngằn mé, thệ nguyện độ hết thảy.
Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch.
Pháp môn không số lượng, thệ nguyện đều tu học.
Phật đạo không gì sánh bằng, thệ nguyện được viên thành.

* TRỊ TÂM BỆNH:

Hòa thượng Tuyên Hóa ngay từ thơ ấu đã có lòng nghĩa hiệp và lòng trắc ẩn. Ngài không chịu nỗi khi thấy người khác bị khổ. Vì vậy, Ngài nguyện chịu thay mọi khổ nạn cho chúng sanh.
Ngài đã cứu chữa cho vô số người bị những chứng bệnh ngặt nghèo và quái dị. Những bệnh không còn phương cứu chữa, như bệnh ôn dịch, bệnh ma ám, bệnh do nghiệp chướng …

Hòa thượng nói: “Đây chẳng phải là do tôi có một năng lực gì đặc biệt hay thần thông diệu dụng gì cả. Đây là sức gia bị của Chư Phật và Chư Bồ tát. Khi tâm nguyện chí thành, sẽ nhận được sự cảm ứng của Chư Phật, Chư Bồ tát”.

Trong khi dùng lực gia trì để chữa bệnh cho mọi người, Ngài đều giải thích cho họ hiểu ý nghĩa chủ yếu của lực gia trì: “Các con không nên chỉ biết tìm kiếm sự gia bị ở bên ngoài, mà trước hết hãy tự mình gia bị cho chính mình, rồi mới có thể gia bị cho hết thảy mọi người. Đó là ý nghĩa chân chính của việc gia bị”.

Tại sao ta không có được sự cảm ứng khi tụng kinh, trì chú, niệm Phật? Vì chúng ta không thành thực, chúng ta đã nói dối. Chú là chân ngôn. Nếu mọi người không vọng ngữ thì mọi lời nói của họ đều có công hiệu. Nếu họ gọi Trời, Trời liền cảm ứng, gọi đất, đất liền linh hiển. Hòa thượng nói:

“Tôi là một người không có khiếu nói năng, vì tôi chỉ biết nói những điều chân thực và nói những điều mà mọi người muốn nghe, đặc biệt là trong việc phá trừ mê tín. Tôi chẳng ngại bị đắc tội với người. Nếu có điều gì cần phải nói, tôi sẽ nói ở bất cứ nơi đâu mà tôi đến.

Nếu có điều gì không cần phải nói, tôi sẽ không nói. Đơn giản chỉ vì khi ta không vọng ngữ thì mọi chữ, mọi lời ta nói lên đều có một năng lực vô biên, có thể chữa lành những căn bệnh hiểm nghèo cho chúng sanh hữu tình cũng như vô tình.
Như cơn bão lẽ ra sẽ đến, nó có thể chuyển sang hướng khác. Một trận động đất lớn giả sử sẽ xảy ra, nó sẽ được ngăn chặn. Nơi bị hạn hán, nước sẽ xuất hiện.

Nơi không có mưa, sẽ có mưa. Chiến tranh và tai ương sẽ được dập tắt. Những điều xấu đang hiện hữu sẽ được làm cho biến mất, và những điều lành chưa hiện hữu sẽ được làm cho phát hiện. Bởi vì khi tâm ta chân thành đến cực điểm, sự cảm ứng tự nhiên sẽ dung thông, đáp ứng ngay tâm nguyện của mọi người.

Chân lý ở nơi đâu thì nơi đó sẽ có hết thảy các loài Rồng, Chư Thiên và các thiên thần đến để hộ trì. Chân lý ở nơi đâu thì tất cả Chư Phật, Chư Bồ tát sẽ đến nơi đó để hộ trì”.

* HOẰNG TRUYỀN CHÁNH PHÁP

Vào năm 1948, Hòa thượng sang Hồng Kông để truyền bá chánh pháp. Vào năm 1962, Ngài nhận lời cầu thỉnh sang Hoa Kỳ, nơi Ngài phát nguyện lớn hoằng truyền Phật pháp, dịch Kinh và giáo dục. Ngài còn dựng lập đạo tràng, nhận đệ tử, lập tông chỉ, đặt nền móng cơ bản cho việc truyền bá Phật pháp ở Tây phương. Hòa thượng thường nói:

“Tôi có thể không ăn một ngày, nhưng không thể bỏ phí một ngày mà không giảng giải Phật pháp”. – “Chỉ cần còn một chút hơi thở, là tôi còn giảng pháp”. – “Tôi sẽ giảng pháp, dù cho nhiều người, hoặc chỉ có ít người nghe. Dù chỉ có một người đến, tôi vẫn giảng. Dù chẳng có người nào đến, tôi cũng giảng cho quỷ thần nghe”.

Công hạnh một đời của Hòa thượng là nói và làm, tương ứng nhau khắp mọi nơi, vào mọi lúc. Đó là biểu hiện chân thật nhất của giáo pháp mà Ngài đã truyền bá.

* THÂN THUYẾT PHÁP

Ngài đã sống bên cạnh mộ của mẹ Ngài suốt ba năm. Đối với cha mẹ, Ngài là người con chí hiếu. Suốt đời, Ngài luôn kính trọng những người lớn tuổi, yêu mến trẻ thơ, và hết lòng thương xót các loài chúng sanh. Thấy nước Trung Hoa gặp nhiều tai ương trong chiến tranh, Ngài không từ bỏ nghĩa vụ công dân của một người Trung Hoa.
Suốt trong thời gian hơn 30 năm ở nước Mỹ, Ngài tự nguyện làm việc vì lợi ích của nước Mỹ, trong khi Ngài vẫn kiên quyết giữ quốc tịch Trung hoa. Ngài hoàn toàn trung thành với cả hai quốc gia.

Ngài rất đơn giản trong việc sử dụng áo quần, thực phẩm, mọi đồ dùng riêng … để tiết kiệm nguồn năng lượng cho toàn thế giới. Ngài dùng một đôi giày suốt hơn 30 năm. Ngày chẳng có nhiều quần áo. Khi ăn cơm, nếu có một hạt cơm rơi xuống nền nhà, Ngài liền nhặt lên ăn.
Khi uống nước, Ngài uống cạn sạch ly. Ngài dùng những thực phẩm đơn giản nhất, chỉ luộc chín, chẳng cần dầu và muối. Những của phước lạc riêng Ngài, Ngài đều xin hồi hướng bố thí cho tất cả chúng sanh.
Ngài chẳng có riêng tài sản gì, vì Ngài đã cúng dường cho những quỹ từ thiện.

Không bao giờ theo hình thức bên ngoài. Ngài luôn hạ mình thấp nhất và sau hết mọi người. Ngài đã bắt đầu tu tập pháp lễ lạy khi Ngài còn 12 tuổi. Ngài lạy hết thảy mọi người suốt ngày không mệt.
Sau khi đến Mỹ, Ngài còn lạy các đệ tử của Ngài. Ngài lạy cho đến khi các vị đệ tử chịu giảng dạy Phật pháp. Ngài lạy cho đến khi một số đệ tử phát nguyện thực hiện một cuộc hành hương với ba bước một lạy.

Ngài lạy cho đến khi đệ tử Ngài chịu lạy những kẻ đã phỉ báng chính Ngài.
Bất cứ khi đi đâu, Ngài đều nhường đệ tử mình đi trước. Ngài muốn đi sau rốt mọi người. Khi giảng pháp, Ngài để cho đệ tử giảng trước và Ngài là người giảng sau cùng.
Ngài còn là người nguyện cho các đệ tử thành tựu Phật đạo trước mình. Ngài nguyện mình là người cuối cùng trong pháp giới thành tựu Chánh giác.

Dung mạo, oai nghi của Ngài rất hoàn chỉnh. Trong vẻ trang nghiêm đượm tính từ hòa. Đôi mắt luôn nhìn xuống, hai tay luôn luôn chấp lại ngang ngực. Nụ cười thường tỏa rạng trên môi. Trông dáng dấp Ngài rất oai nghiêm. Khi có người tiếp xúc với Ngài, Ngài luôn nhã nhặn và từ ái.

Ngài không bao giờ muốn làm phiền đến người khác. Ngài tự giặt giũ quần áo, tự mang hành lý. Ngài không muốn ai phục vụ cho Ngài, ngay cả khi bệnh nặng phải chống gậy mà đi.

Ngay cả vào những năm cuối đời, khi Ngài phải dùng xe lăn, Ngài vẫn nài nỉ được tự mình mang túi xách trên vai hoặc ôm trong lòng khi Ngài di chuyển bằng máy bay từ Đạo tràng này sang Đạo tràng khác để giảng pháp trong tình trạng sức khỏe rất yếu. Ngài bảo: “Tôi muốn được đứng bằng đôi chân của tôi và sử dụng chính sức lực của mình. Tôi không muốn phụ thuộc vào ai cả”.

Ngài ở trong thiền định suốt cả ngày đêm. Công việc đến, Ngài liền ứng xử, giải quyết kịp thời và nhanh chóng. Xong việc, trở lại sự thanh thản thường xuyên. Ngài xử lý vô số việc trong ngày một cách tự nhiên, thoải mái. Ngài nói: “Tôi chẳng tụng Kinh chẳng trì chú. Điều đơn giản là tôi không khởi vọng tưởng”. Ngài làm việc trong trạng thái nhất tâm. Ngài tức khắc nhận ra và nhắc nhở sửa lại những lầm lẫn của thông dịch viên khi chuyển lời Ngài sang tiếng Anh.
Ngài không bao giờ bỏ quên vật gì, Ngài nhớ hết thảy tên, hoàn cảnh gia đình, tính tình, tập khí của mọi đệ tử mà không ba giờ lẫn lộn. Thậm chí Ngài còn nhớ chính xác Ngài đã đi bao nhiêu bước chân quy định trong ngày.

Trong suốt bao nhiêu năm Ngài truyền bá Chánh pháp ở Mỹ, người ta gọi Ngài là Đệ nhất Cao tăng trên thế giới, là Thượng nhân.
Trường Cao Đẳng Tế Minh ở Sơn Đông, Trung Hoa muốn đổi tên trường thành Trường Cao Đẳng Tuyên Hóa. Có vị giáo thọ đề xướng thành lập “Pháp Giới Diệu Giác Sơn Nguyên Cứu Hội” để học tập công hạnh Ngài.

Ngài bảo: “Đừng học theo tôi. Tôi chẳng có gì xứng đáng để học theo cả. Các bạn nên nghiên cứu học hỏi ở mọi người dân, đàn ông, phụ nữ, người xuất gia, giới cư sĩ, người già lão, trẻ em, người hiền lương, kẻ tai ác … hãy ghi nhận toàn bộ đời sống của họ, vì trong tương lai, nhờ những sự kiện này mà các bạn có thể giáo hóa, giúp đỡ cho mọi người. Đạo hạnh của tôi chưa đủ để cảm động đến Trời.

Đức độ của tôi chưa dủ để chuyển hóa người. Người đời thích gán cho tôi những cái tên mà tôi không muốn. Tôi chẳng phải là cao Tăng cũng chẳng phải là Thượng Nhân. Tôi chỉ là một người bình thường, thích đặt mình dưới những người khác. Tôi tự gọi mình là “Xác chết biết đi”, “Thầy tu ở gò mả”, “Con kiến bé”, “Con muỗi nhỏ”, …

Tôi thích đi sau tất cả mọi người. Mọi danh xưng đều chỉ là hư giả, không thật. Danh xưng chỉ tồn tại khi nó xứng hợp với mọi người, với mọi thời gian, mọi nơi chốn. Cái tên chẳng đáng tí nào cả, thế mà nhiều người chấp trước vào danh xưng mà nhọc thân, nhọc xác. Khi tôi còn sống cũng như sau khi chết, tôi không muốn mọi người chú ý đến tên tôi hay xây tháp kỷ niệm tôi. Tôi chẳng muốn lưu lại dấu vết gì cả. Tôi đến từ hư không, tôi trở về lại với hư không”.

* GIẢNG PHÁP BẰNG LỜI

Tại các đạo tràng chi nhánh của Hội Phật Giáo Pháp Giới, đều có những khóa giảng Kinh để giúp mọi người nhận ra chân lý. Do vậy, mỗi Đạo tràng đều có chương trình giảng Kinh hàng ngày.

“Nước sông hằng luân lưu mỗi ngày thì dòng pháp ở vạn Phật Thành cũng sẽ được giảng nói suốt ngày đêm”. Có một thời gian Hòa thượng dùng phương pháp gọi là “Pháp Quán Chiếu để phát khởi trí tuệ vốn có”. Để hướng dẫn cho tứ chúng đồng tu. Phật tử có thể đến đây để thăm hỏi Phật pháp, để tập diễn giảng và thi diễn giảng. Hòa thượng thường xuyên mở lớp “Vấn đáp song đối” để giúp cho đệ tử tự khai mở trí tuệ bản hữu.

Tuỳ theo nhân duyên, Hòa thượng thường chọn các đề tài thích hợp để giảng nói cho người đang muốn nghe. Đối với tầng lớp bình dân, Ngài giảng về việc làm tròn bổn phận, nghĩa vụ cơ bản của mình. Đối với sinh viên, học sinh Ngài giảng về hiếu hạnh, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ, ý thức về bản thân, yêu mến gia đình và nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Đối với các vị giáo thọ, các vị hiệu trưởng, Ngài giảng về pháp môn giáo dục và thiên chức của giáo dục. Đối với giới chính trị gia, Ngài nói về đạo đức, liêm khiết và lòng thương yêu dân như con đẻ của chính mình.

Khi nhận lời mời giảng pháp, hòa thượng không bao giờ ước mong được mọi người biết tiếng. Bởi vì Hòa thượng chỉ muốn hoằng pháp giáo huấn để đào tạo con người. Ngài không bao giờ chỉ đi xa để giảng pháp. Hơn thế nữa, Ngài luôn luôn đưa các đệ tử theo để học hỏi những điều hay lạ ở xứ người.
Chương trình hàng ngày của đoàn tham quan này rất nhiều chi tiết. Ngoài hai thời công phu sáng tối như thường lệ và lễ quá đường vào buổi trưa, còn có các thời lễ sám, tụng Kinh, nghe khai thị, dự lễ truyền Tam Quy, Ngũ giới cho Phật tử, dự các Pháp Hội Đại Bi, Pháp Hội Thủ Lăng Nghiêm … hoặc tiếp xúc với Phật tử.
Không để một phút giây nào lãng phí. Hòa thượng nói: “Chúng tôi chẳng phải là đoàn tham quan du lịch, cũng chẳng phải là đoàn hoằng pháp. Chúng tôi đơn giản chỉ là đoàn người đi học hỏi. Chúng tôi chưa thông thạo nhiều vấn đề, và chúng tôi chưa đủ khả năng để làm việc hoằng pháp. Chúng tôi rất hoan hỉ được theo sau mọi người, mong được học hỏi các vị Đại đức, Trưởng lão ở khắp mọi nơi”

* KIẾN LẬP ĐẠO TRÀNG

Hòa thượng từ Trung hoa đến Hồng Kông rồi từ Hồng Kông sang Hoa Kỳ. Ngài phát nguyện: “Đào tạo người, không dựng chùa”. Ngài chủ yếu là đào tạo những vị Tổ sống, những vị A la hán sống, những Bồ tát sống và những đức Phật sống. Do vậy, trải qua rất nhiều điều kiện khó khăn, Ngài sửa chữa, trùng tu lại những cơ sở có sẵn làm Đạo tràng để giảng dạy giáo pháp kịp thời cho Phật tử. Ngài chủ trương hạ thủ công phu ngay tại những Đạo tràng vô hình tướng. Các Đạo tràng chi nhánh thuộc Hội Phật Giáo Pháp Giới ở khắp nơi bên ngoài có vẻ không giống với các tự viện truyền thống của Trung Hoa, nhưng người ta có thể nhận ra bên trong là cõi Tịnh độ, một khi họ đã đến đó và thực sự phát tâm tu hành.


Ngài còn có ước nguyện: “Từ chùa nhỏ, xây dựng nên chùa lớn”, và kiến lập những Đại đạo tràng công cộng. Mỗi khi dựng lập xong một Đạo tràng, Ngài lại cúng dường cho người khác. Ngài đã từng cúng dười hai Đại đạo tràng là Vạn Phật Thánh Thành và Pháp Giới Thánh Thành, cũng như những tự viện chi nhánh thuộc Hội Phật Giáo Pháp Giới. Ngài cúng dường cho tất cả mọi chúng sanh trên thế giới. Ngài đón nhận tất cả mọi người đến để tu học, không phân biệt quốc tịch, nòi giống, tuổi tác, địa phương … không kể thân sơ, bất luận họ thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền hay Nam truyền, Ngài đều có ước nguyện hộ trì, cũng như bất cứ người nào đến Đạo tràng chân thật tu hành. Hòa thượng nói: “Chúng ta không phải là những người biến chùa thành nhà riêng. Mọi người từ mười phương đều có thể đến Đạo tràng này. Ở đây luôn chờ đợi một vị đạo cao đức trọng để làm Trụ trì. Tôi chỉ là người trông coi tạm thời. Chẳng có một Đạo tràng nào riêng thuộc về tôi cả”.

Ngài còn nói: “Phật Giáo là giáo lý về con người, giáo lý về tâm, giáo lý về chúng sanh và giáo lý về toàn thể pháp giới. Phật Giáo không phải là một pháp môn riêng biệt nào cả. Tôi cũng chẳng thuộc về một giáo phái nào cả. Thiên chúa giáo, Do thái giáo, Hồi giáo và tất cả tôn giáo khác đều có trong Phật giáo cả. Chúng ta luôn luôn chào đón mọi giáo phái khác đến Vạn Phật Thánh Thành để cử hành những nghi lễ của họ. Mọi tín đồ của mọi tôn giáo khác đều nên thực tập hạnh nguyện từ bi. Đó là nền tảng của mọi tôn giáo để cứu độ toàn thế giới. Mọi người nên giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau bắt tay làm việc để thiết lập nền tảng ban đầu cho sự thống nhất tôn giáo trên toàn cầu. Chúng sanh sẽ có một nơi để quy ngưỡng và chiến tranh sẽ kết thúc nhanh chóng”.

* THÂU NHẬN ĐỆ TỬ

Hòa thượng nói: “Vạn Phật Thánh Thành là nơi rồng rắn lẫn lộn, đủ mọi thành phần. Có người tu hành chí thiết, có người chẳng tu. Chúng ta nên tâm niệm sống trong Tứ vô lượng tâm: Từ bi hỷ xả. Đặc biệt, nên chú tâm đến những người chưa được hoàn thiện và hết sức chuyển hóa họ thành người tốt”.

* TIẾP NHẬN ĐỆ TỬ XUẤT GIA –
NHƯNG KHÔNG TỪ CHỐI MỘT CHÚNG SANH NÀO


Chánh pháp lưu hành nhờ chư Tăng, chánh đạo phải được truyền đến cho mọi người. Để cho Chánh pháp có được nền móng vững chắc ở Phương tây, ắt cần phải có những vị đã thực hành chánh đạo.

Do vậy, Hòa thượng đặt ra một yêu cầu rất nghiêm khắc cho mọi người muốn theo Ngài xuất gia tu học, là phải tốt nghiệp Cao Đẳng và tụng thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm.

Sau khi được xuất gia, phải học Kinh Thủ Lăng Nghiêm, học cách giảng kinh, thuyết pháp, học phương pháp ngồi thiền và học cách nhẫn nại, chịu đựng cực khổ.

Qua thời gian sau, Hòa thượng bắt đầu nhận mọi người xuất gia đủ mọi trình độ. Miễn là người đó có một chút thiện căn, Hòa thượng đều tiếp nhận khi họ có tâm nguệyn xuất gia.

Người già đến 90 tuổi Ngài cũng tiếp nhận, miễn là họ có sự thiết tha tu niệm.

Ngài cũng tiếp nhận trẻ em 6-7 tuổi, giúp cho thiện căn các em ngày càng tăng trưởng.

Những người tàn tật, sáu căn không đủ, Ngài cũng tiếp nhận, cũng đều tạo nhân duyên lành giúp họ vượt thoát hệ lụy cõi trần.

* ĐỘ HẾT HÀNG CƯ SĨ – NHƯNG KHÔNG TRANH ĐỆ TỬ

Khuynh hướng Phật tử thời nay là thích quy y với nhiều thầy, nên Hòa thượng dạy: “Chỉ cần quy y với một thầy là đủ rồi. Đừng quy y với thầy này rồi bỏ thầy kia. Bạn quy y với quá nhiều thầy mà không nghe lời họ dạy, thế là vô ích.
Không những việc này gây nên sự bất hòa trong hàng Pháp Sư khi họ tranh đệ tử, mà còn gây hậu quả cho những nơi có hàng Phật tử kỳ cựu sinh tâm rối loạn và nhầm lẫn. Việc này không tạo nên sinh khí mới cho Phật pháp mà ngược lại, sẽ làm cho Phật pháp trở nên hư hoại”.

Miễn là lòng người chân thành, Hòa thượng sẵn sàng truyền Tam quy, Ngũ giới ngay cả khi Ngài đang bệnh, Ngài chẳng bận tâm đến sự phiền lụy. Dù chỉ một người đến xin thọ giới, Ngài cũng sẵn sàng làm lễ truyền giới.

Có một số vị Đại đức. Cao Tăng xưa nay phát nguyện không tiếp nhận đồ chúng, ngại rằng vì bận rộn trách nhiệm dạy dỗ mà trở ngại công phu của riêng mình.
Hòa thượng không như vậy, Ngài nhận hết thảy những người có tính khí ương ngạnh, mông muội và những kẻ có căn tính rất khó điều phục. Ngài nguyện rằng, thà xả bỏ đầu, mắt, tủy, não của mình, hơn là từ chối không độ thoat những người này.

* LẬP TÔNG CHỈ

“Mọi người đến Vạn Phật Thánh Thành đều phải tuân theo một số quy định. Rồng cũng phải cuộn mình mới có thể bay lên phun mưa tùy ý. Cọp cũng phải thu mình mới có thể đón hướng gió mà vồ mồi chính xác”.

Tại Đạo Tràng Hội Phật Giáo Pháp Giới, mọi người đều phải phấn đấu thực hành ba tông chỉ và sáu nguyên tắc do Hòa thượng đề ra như một tiêu chuẩn để tu tập. Vạn Phật Thánh Thành là trung tâm của các Hội Phật Học này.

nguồn thuvienhoasen.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Khí Công và Tà Chánh


Ngày nay cả thế giới đều nói về khí công. Và sự nhiệt tình về khí công là một "ngành nghề mới". Có những kẻ xấu làm cho khí công trở thành "tà khí", bởi vì "khi người chánh thực hành tà pháp, tà pháp trở thành chánh;

khi người tà thực hành chánh pháp, chánh pháp trở thành tà." Khí công trở thành công cụ "kiếm tiền" và "phát thần thông". Bởi vì đã đi xa chánh đạo, khí công trở thành một loại quỷ công.

Hòa Thượng đã nhận định về khí công như sau:

"Khí công" là một danh xưng không phù hợp. "Khí" là không có tri giác cho nên nó căn bản không có "công", vì thế phải gọi là "thần công," 'quỷ công," "ma công", hoặc "yêu công".

“Thần công" tức là "thần nhi minh chi, tồn hồ kỳ nhân", có nghĩa là trong khi bảo trì chánh niệm, dùng tinh thần để cho thần sử dụng năng lực của mình. Do đó gọi là "thần công". Nhưng "thần công" vẫn liên hệ đến ý thức và chưa đến cảnh giới biến hóa rốt ráo; người đó vẫn còn chấp tướng.

"Thần công" là thần chi phối khí, không phải khí chi phối thần. Khi thần công đến, người đó không nhảy lên nhảy xuống hoặc chạy lung tung, cũng không nói năng bừa bãi.
Thần công tương đối hiền hòa. Khi "quỷ công" đến, người đó nhảy nhót, run rẩy, khóc cười vô lối.
Đó là một "ngũ quỷ ban vận pháp" (phép vận chuyển năm con quỷ). Mấy con quỷ được thả lỏng và nhập vào thân người, làm người đó nói năng bậy bạ, bởi vì quỷ công vốn không có định tính và định lực.

Còn "ma công" và "yêu công" thì đều chẳng biết lý lẽ, luôn kiêu ngạo và gây hại cho người, chuyên hành dâm dục, và tất cả bọn chúng là hiện thân của yêu ma quỷ quái.

Những người có "khí công" chân chánh thì không nhảy nhót, khóc lóc kêu la, cũng không tham giàu có hưởng thụ hoặc tìm cách rêu rao quảng cáo.

Hòa Thượng không phản đối khí công, chỉ khai thị rằng chúng ta cần phải có nhận thức chân chánh, cần phải có "Trạch Pháp Nhãn" (con mắt biết chọn pháp). Điều nầy nói lên rằng:

"Thần công, quỷ công, ma công, yêu công - đều gọi là khí công. Bởi có chân, có giả, có chánh, có tà, nên cần có Trạch Pháp Nhãn".

Về vấn đề có liên quan đến "ngoại đạo trong Phật Pháp" (3), đa số đoàn thể Phật Giáo không muốn công khai phân biệt tà và chánh, điều này giúp cho những kẻ "không chân chánh trong Đạo Phật và những hàng ngoại đạo" lợi dụng ngày một nhiều hơn.
Với ý xấu và xảo quyệt, họ lừa gạt tiền bạc của kẻ khác và lừa người khác phạm những hành vi dâm dục - trong khi vẫn mặc áo của Phật và ăn cơm của Phật.

Tôi sẽ nêu ra hai vị có tên tuổi, được nhiều người biết đến để làm thí dụ. Một vị là nữ ni sư đạo Sikh ở Ẩn Độ. Bà ta tự xưng là "Phật tái thế”, đã khai ngộ và đi truyền bá "Pháp môn Quán Âm--tức khắc khai ngộ, một đời giải thoát".

Hòa Thượng đã nghiêm khắc chỉ trích:

"Nhiều kẻ bị bà ta làm cho lầm lạc chỉ vì tham lam. Khi quy y Tam Bảo, bài văn trong buổi lễ có nói rất rõ ràng: 'Con thà xả bỏ thân mạng nầy, quyết không quy y với thiên ma ngoại đạo.'

Những điều bà ta nói ra đều là tà thuyết của thiên ma ngoại đạo, và tất cả đều nhằm mục đích dối gạt người; nếu quý vị tin những điều đó, quý vị thật ngu xuẩn, vô tri, và quý vị tự đào đường chui xuống địa ngục."

Thật là một lời mạnh mẽ: "Tự đào đường chui xuống địa ngục!" Hòa Thượng không nói những lời “như đúng mà lại sai” (tự thị nhi phi).
Ngài luôn luôn "chỉ thẳng tâm người", dùng lời nói bộc trực mà ngắn gọn, đích đáng (4), để có thể phá tan vô minh và mê lầm của chúng sanh.

Trong Kinh Lục Tổ (Kinh Pháp Bảo Đàn), phẩm “Cơ Duyên” có chép:

"Từ Đức Phật Oai Âm Vương về trước thì có thể được; từ Đức Phật Oai Âm Vương về sau, không Thầy mà tự ngộ thì toàn là thiên nhiên ngoại đạo."

Câu này có nghĩa là trước thời của Oai Âm Vương (vị Phật đầu tiên) thì có thể được (tự mình khai ngộ);
thế nhưng, từ sau thời của Oai Âm Vương, nếu không được một vị Thầy nào trao truyền Pháp môn và ấn chứng cho, mà lại tự mình ấn chứng cho rằng mình đã khai ngộ, thì đó đều là ngoại đạo thiên nhiên.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, phần Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối, Đức Phật có nói rằng:

"Cớ sao bọn trộm cắp kia lại mượn sắc phục của Ta, mua bán Như-Lai, lại nói rằng mọi nghiệp tạo ra đều là Phật Pháp? Chúng phỉ báng người xuất gia và xem các thầy Tỳ-Kheo đã thọ Cụ-túc Giới là hàng Tiểu-thừa. Do sự nghi ngờ và ngộ nhận mà vô lượng chúng sanh phải đọa địa ngục Vô-gián."

Hòa Thượng có làm một bài thơ thật lý thú như sau:

Hồ đồ dạy hồ đồ,

Một dạy hai chẳng hiểu,

Sư phụ đọa địa ngục,

Đệ tử cũng xuống theo.

Đây chính là những kẻ “phù Phật Pháp ngoại đạo,” giả mượn danh nghĩa Phật Giáo để đi khắp nơi kiếm tiền, phan duyên, đem Phật Pháp ra mà buôn bán đổi chác. Họ cho rằng hút thuốc, uống rượu, cờ bạc, sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ … đều là Phật Pháp, mà chẳng biết giới luật là gì cả; thế là vô lượng chúng sanh bị mê lầm, ngộ nhận, phải đọa địa ngục Vô-gián.

Còn vị kia là “Thượng Sư,” tự xưng là “Liên Sanh Hoạt Phật” (Phật Sống sanh từ hoa sen) với “thần thông quảng đại,” mà lại ăn thịt, uống rượu, và trêu ghẹo phụ nữ. Hòa Thượng đã phê phán về vị này như sau:

“Ôi thời Mạt Pháp ! Thời Ác thế !
Chúng sanh phước bạc khó điều phục.
Hiền thánh cách xa, tà kiến sâu,
Ma mạnh, Pháp yếu, nhiều ác hại.
Nghe pháp Đốn Giáo của Như Lai,
Hận chẳng phá nát như đập ngói.

(Chứng Đạo Ca)

Trong thời Mạt Pháp, tà chánh bất phân, người ta không phân biệt được tà với chánh, song quý vị chỉ cần xét xem: Người đó có còn tâm tham, tâm tranh, tâm mong cầu, tâm ích kỷ, tâm tự lợi hoặc tâm nói dối hay không?
Người đó có suốt ngày suốt đêm nói dối, lừa gạt người khác hay không? Tôi không biết người này là ai. Tôi chỉ gọi đó là một con quỷ."

Những thiên ma và ngoại đạo này đều là sự biến hiện của Ngũ Thập Ấm Ma--năm mươi loại ấm ma được giảng trong Kinh Lăng Nghiêm. Nếu người ta có thể quen thuộc với nội dung của phần Ngũ Thập Ấm Ma, thì người ta sẽ không bị lầm lạc lúc tu hành. Ví dụ, trong phần Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối (Bốn Lời Răn Dạy về Tánh Thanh Tịnh) trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy:

“Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp, sẽ có nhiều thứ yêu tà ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, âm thầm lừa dối mọi người, xưng là bậc Thiện-tri-thức, và kẻ nào cũng tự nói là đã đắc Thượng-nhân Pháp. … Họ chưa đắc mà nói đắc, chưa chứng mà nói chứng .. Hạng Nhất-điên-ca (nhất xiển đề) này làm tiêu diệt Phật chủng. "

Ở đây là nói về những kẻ ngoại đạo này. Tất cả bọn họ đều tự xưng rằng họ đã giác ngộ rồi. Chưa được bất cứ sự chứng nhận giác ngộ nào, họ lại nói rằng họ đã được chứng ngộ; chưa đắc Đạo, họ lại nói là họ đã đắc Đạo. Những người nói ra những điều dối trá (đại vọng ngữ) này đã hủy hoại hạt giống của Phật. Họ đã vĩnh viễn tự cắt đứt thiện căn của chính mình!

Ngoài ra, trong quyển trung của Kinh Phật Tạng, Đức Phật tiên đoán rằng vào thời Mạt Pháp, các ác ma sẽ dùng hình tướng Sa Môn và sẽ dạy chúng sanh thuyết tà đạo. Trong Kinh có nói rằng:

“Xá Lợi Phất! Các ác ma bây giờ ẩn trong thân của những kẻ giúp ông Điều Đạt (tức Đề Bà Đạt Đa) để phá Ta (Đức Phật), Pháp và Tăng. Bởi vì Như Lại với đại trí tuệ còn ở trên thế gian, những quỷ ma xấu xa đó không thể thành công khi làm việc đại ác. Trong tương lai, ác ma sẽ mang hình tướng Sa Môn (người xuất gia), vào Tăng Đoàn, và nói đủ loại tà thuyết, làm cho nhiều người trở thành tà nhân và nói tà pháp…”

Đức Phật tiên đoán những điều như vậy sẽ được tạo nên để phá hoại Phật Pháp và sẽ xảy ra vào thời kỳ Mạt Pháp.

Vào thời Mạt Pháp, vì phước báo của chúng sanh quá cạn cợt và trí tuệ của chúng sanh chỉ có trên bề mặt, rất nhiều “ma Tăng” sẽ “đến thế gian để cứu chúng sanh” (chuyển thế độ chúng). Giả danh là Phật Giáo, họ tuyên truyền tà pháp trên mức độ rộng lớn, đưa chúng sanh vào làm “quyến thuộc” của họ. Làm sao không đau buồn cho được! (5)

Vị cao tăng thời cận đại là Hòa Thượng Hư Vân có lần nói:

“Đây là thời Mạt Pháp. Ở đâu quý vị có thể tìm thấy bậc Thiện Tri Thức? Tốt nhất là nên đọc Kinh Lăng Nghiêm cho tới khi quý vị quen thuộc thông suốt. Đến lúc đó sự tu hành của quý vị sẽ an toàn và quý vị có cơ hội được độ thoát. Bằng cách chận đứng các tà duyên, thân tâm quý vị có thể nhập Phật tri kiến và khi được như vậy, quý vị sẽ không đi sai đường!”

Quý vị thấy chư Tổ đã nhấn mạnh như thế nào về Kinh Lăng Nghiêm! Bộ kinh này là tấm “kính chiếu yêu” để dùng cho việc tu hành, và cũng là một bộ kinh mà mọi đệ tử Phật nên dùng mồ hôi và máu của mình để hộ trì!

Để có thể phân biệt giữa Phật và ma, giữa tà và chánh, Hòa Thượng đã có lời khuyên rất rõ ràng:

“Nếu quý vị có thể ngăn ngừa, không bị dính mắc với hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, cảm thọ, và pháp; thì những ấm ma này không thể làm gì quý vị được cả. Nếu quý vị không có mảy may tham, sân, hay si, thì quý vị sẽ thắng được những ấm ma này. Nếu quý vị không có chút gì ích kỷ, tư lợi, cũng chẳng hề tranh giành, tìm cầu, thì không ma quỷ nào có thể làm gì quý vị được cả!.”

Thật ra, Phật và ma chỉ hiện hữu trong một niệm. Nếu một người không có tâm niệm tham lam, tìm cầu, ích kỷ, tư lợi và dối trá thì những loại ma quỷ này sẽ không hiển hiện. Có câu rằng:

“Khi trong nhà có quân tử, thì quân tử sẽ tìm đến,

Nếu trong nhà có tiểu nhân, thì tiểu nhân sẽ thân cận.”

Đó cũng chính là đạo lý ”vạn pháp duy tâm tạo”. Hòa Thượng có bài kệ:

“Tánh định, ma phục ngày ngày vui.

Vọng niệm không khởi chốn chốn an.

Tâm dừng niệm dứt, thật phú quý.

Đoạn hết dục niệm, thật phước điền.”

Đó là phương pháp tốt nhất để hàng phục tất cả ma quỷ!

Tôi hy vọng rằng tất cả [sinh viên] học nhân chúng ta đều có thể “ma đến, chém ma; Phật đến, chém Phật”. Tất cả các thiện pháp và tất cả các ác pháp đều hiện hữu bởi vọng tưởng của chính chúng ta. Chúng ta nên không trụ vào đâu cả (ưng vô sở trụ). Cần nên “nếu không nghĩ là mình chứng thánh thì đó là cảnh giới tốt; nếu nghĩ mình chứng thánh, thì rơi vào cảnh giới của loài ma.”

theo https://www.dharmasite.net/thiluan.htm#1e


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

TRÍCH TỪ CÁC BUỔI NÓI CHUYỆN CỦA CƯ SĨ NGỤY QUẢ THỜI
TẠI PHẬT ĐIỆN VẠN PHẬT THÁNH THÀNH
TRONG NHỮNG NGÀY 23/2/2015 VÀ 20/4/2015.


Lotus Lee chuyển dịch sang tiếng Anh.

Nguyệt San Vajra Bodhi Sea số 541, tháng Sáu, 2015, trang 40 – 43.


Tết âm lịch qua đi chưa quá lâu, vì thế, tôi muốn chia sẻ một tình tiết nhỏ đã xảy ra trong dịp Tết âm lịch nhiều năm trước. Tôi kể câu chuyện này không phải để nhắm vào ai đó, mà để thấy được quan điểm của Hòa Thượng đối với một số sự việc.

Nhân dịp Tết âm lịch năm 1987, có rất nhiều người tới Vạn Phật Thánh Thành, trai đường khá đầy người trong bữa ăn trưa đó.
Vào lúc sự việc này xảy ra, Hòa Thượng đã không ngồi ăn ở trên khán đài, mà Ngài đang đi xuống đâu đó ở phía dưới.
Do có quá nhiều người, nên không ai nhận ra rằng Ngài đang đứng ở phía gần cửa kính ra vào.

Có ai đó (phán đoán từ những gì xảy ra sau đó, thì có lẽ là một vị tỳ kheo) đã đi lên khán đài và nói mấy lời. Tiếng Hoa của vị ấy không tệ lắm, và vị ấy nói bằng tiếng Hoa “Chúc mừng năm mới, chúc phát tài!” (Cung hỷ phát tài).

Ngay khi vị ấy vừa nói những lời này, Hòa Thượng đang đứng cách khá xa, đã la lớn lên không đồng ý và bắt đầu la mắng người diễn giả đó, vị ấy không dám tiếp tục nữa và nhanh chóng rời khỏi khán đài.

Vấn đề ở đây không phải ai là người nói những lời đó, mà ý muốn nói lên kỳ vọng của Hòa Thượng đối với người tu sĩ, đặc biệt là các vị tỳ kheo, là rất cao vì họ mặc áo của Như Lai, sống trong nhà của Như Lai, ngồi trên ghế của Như Lai.

Hòa Thượng đã hết sức không đồng ý về việc các đệ tử xuất gia của Ngài trong việc cố thiết lập mối quan hệ với mọi người bằng cách nói những lời như thế.

Khi một trong những phái đoàn của chúng ta đi với Hòa Thượng tới các nước khác, những người nơi đó đã chào đón chúng tôi bằng biểu ngữ, trên đó viết những chữ “Hoằng Pháp Lợi Sanh”.

Họ cũng muốn trao tặng biểu ngữ đó cho chúng tôi.
Hầu hết mọi người có lẽ sẽ chấp nhận tấm biểu ngữ và rồi chụp ảnh với họ, nói một vài lời lịch sự, nhưng Hòa Thượng không bao giờ chấp nhận biểu ngữ đó.

Tôi không nói rằng những gì họ làm là sai, và chúng ta không có quyền chỉ trích cho dù họ đúng hay sai vì chúng ta nên tôn trọng truyền thồng và văn hóa của người khác, nhưng về cơ bản, Sư Phụ không nghĩ theo cách như vậy.

Đây là một sự việc khác. Ngay khi chúng ta phát hành báo Kim Cang Bồ Đề Hải, ấn phẩm phát hành hàng tháng của chùa Vạn Phật Thánh Thành, các công ty in ấn thường nhận các đơn đặt hàng với ít nhất là một nghìn bản.

Sau khi in một nghìn bản mỗi tháng và phân phối, chúng tôi đã còn lại một số bản và cất vào kho lưu.

Thời gian trôi qua, chúng tôi liên tục phải dành chỗ trong kho để lưu trữ báo Kim Cang Bồ Đề Hải. Trong suốt khóa lễ Quán Âm của một năm nọ, có rất nhiều người và có một người lên nói về báo Kim Cang Bồ Đề Hải rằng, “Báo Kim Cang Bồ Đề Hải là một ấn phẩm rất tốt, có tiêu chuẩn rất cao. Cái giá ba hoặc bốn đô la cho một bản là rất hợp lý”.

Đột nhiên, Hòa Thượng đi vào phòng ăn và lớn tiếng nói từ phía sau: “Liệu Vạn Phật Thánh Thành hết tiền hay sao?

Có phải tất cả quý vị đang ở trên bờ vực chết đói không mà phải quảng cáo như vậy?” Tất nhiên, người phát ngôn ấy đã không dám tiếp tục và lui về chỗ ngồi của mình.

Hòa Thượng lúc đó đứng trước mặt anh ta và mắng anh ta một lúc lâu cho tới khi Ngài biết chắc rằng người vi phạm đã học được bài học.

Có phải là Hòa Thượng luôn luôn nghiêm khắc và khắt khe như vậy không? Không phải, Ngài cũng rất thấu hiểu và hợp lý.
Một lần, có vị một vị tăng người châu Mỹ vừa cao và gầy, vị này chịu trách nhiệm lái xe đưa Hòa Thượng ra ngoài mỗi khi Ngài có việc cần đi.

Vị tăng này nói tiếng Hoa rất giỏi. Một lần, khi khi lái đến gần thành phố Saratoga, vị ấy nói với Hòa Thượng rằng xe có một số trục trặc cần phải sửa. Hòa Thượng cho phép sửa xe, và trong khi xe đang được sửa, Hòa Thượng gọi một cư sĩ để đưa Ngài đi công việc thay vị tăng đó.

Sau khi xong việc, vị cư sĩ đó đề nghị được đưa Hòa Thượng trở lại chùa Vạn Phật hoặc chùa Kim Sơn, nhưng Hòa Thượng nói, “Không, sau khi xong việc, chúng ta cần phải quay trở lại và vị tăng đó sẽ đưa ta về chùa Vạn Phật Thánh Thành.

Ta không thể để vị ấy một mình ở đây được”. Trên đường đi, Hòa Thượng nói với vị cư sĩ này rằng, thực tế, xe không bị hỏng đâu.

Tuy nhiên, vị tỳ kheo này xuất gia từ khi rất trẻ và đã không về nhà từ hồi xuất gia, vì thế mà vị ấy không gặp lại mẹ trong một thời gian dài và rất nhớ bà ấy. Vị ấy muốn dừng lại để sửa xe rồi lái xe về nhà thăm mẹ vì nhà vị ấy gần đó. Hòa Thượng đã quyết định cho thầy ấy đi mà không phát lộ kế hoạch của thầy ấy.

Vị tỳ kheo này nghĩ rằng không ai biết, nhưng ngay khi vị ấy vừa có ý nghĩ này, Hòa Thượng đã biết ý nghĩ đó.
Vào lúc vị cư sĩ này chở Hòa Thượng trở lại, vị tỳ kheo đó nói, “Chiếc xe đã được sửa xong”, và Hòa Thượng rất vui vẻ. Hòa Thượng thậm chí còn đề nghị về thăm nhà của vị tỳ kheo đó, và nói chuyện với mẹ của thầy ấy.

Quý vị có thể tưởng tượng nổi tấm lòng quảng đại của Hòa Thượng đối với vị tỳ kheo ấy lớn như thế nào khi Ngài làm như thế. Đối với hầu hết những người có thành viên trong gia đình sống đời tu sĩ, họ sẽ rất buồn và xem đó như là một sự mất mát.

Hòa Thượng biết rằng nếu Ngài nói quá nhiều với mẹ của vị tỳ kheo nọ, thì có thể bà ấy sẽ không chấp nhận, nên Ngài chỉ mỉm cười, hỏi thăm bà thế nào và nói những lời an ủi. Sau đó vị tỳ kheo này đưa Hòa Thượng trở về Vạn Phật Thánh Thành.

Sau này, khi thầy ấy kể lại những gì xảy ra trong ngày hôm đó, vị tỳ kheo này đã nhận ra rằng Hòa Thượng đã biết về kế hoạch của mình từ lâu rồi, nhưng vì sự hiếu thảo của thầy ấy mà Hòa Thượng đã để cho thầy ấy làm theo kế hoạch.
Từ những sự việc như vậy, quý vị có thể thấy được tấm lòng từ bi của Hòa Thượng.

Một câu chuyện khác về một phái đoàn của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới (DRBA) đến Đài Loan. Có một tỳ kheo ni đảm nhận công việc phiên dịch tiếng Anh cho Hòa Thượng.

Thỉnh thoảng Hòa Thượng Tuyên Hóa tìm một người phiên dịch khác để họ có thể luân phiên. Tôi cảm thấy rằng vị phiên dịch ấy làm việc rất khá; ít nhất là tôi có thể hiểu cô ấy rất rõ ràng.

Tuy nhiên, có một nữ diễn viên điện ảnh trong số thính chúng cảm thấy rằng tiếng Anh của vị phiên dịch đó chưa đủ giỏi.
Sau buổi giảng, cô diễn viên điện ảnh nọ đến gặp Hòa Thượng. Lúc đó có rất nhiều người đi theo Hòa Thượng và cô ấy chặn đường Ngài lại.

Cô ấy nói với Hòa Thượng rằng cô sẽ tình nguyện dịch cho Ngài trong suốt thời gian Ngài ở Đài Loan.
Khi nghe nói như vậy, Hòa Thượng nhìn cô ấy. Và Ngài đã nói gì? Ngài nói, “Hãy thận trọng hơn trong cuộc sống cá nhân của con”.

Và rồi Ngài rời đi. Điều mà Hòa Thượng trân quý không phải là sự phiên dịch ấy giỏi như thế nào. Việc phiên dịch hay là một điều tuyệt vời, dĩ nhiên là như vậy, nhưng Hòa Thượng cũng xem xét đến các phẩm chất khác.

Có một sự việc khác khi một nghệ sĩ Đài Loan nói với Hòa Thượng rằng cô ấy muốn xuất gia. Hòa Thượng nhìn cô ấy rồi nói, “Được rồi!”.

Nhưng sau đó, Hòa Thượng nói rằng Hòa Thượng đã biết là khi cô ấy tới đó tu, cô ấy chỉ có thể sống ở đó trong ba tháng.
Tại sao Hòa Thượng vẫn nhận cho cô xuất gia? Phải mất rất nhiều công việc chuẩn bị để cho cô ấy xuất gia và khi mọi việc làm xong rồi, thì cô ấy bỏ đi.

Vậy chẳng phải là tất cả mọi việc đã làm đều là vô nghĩa hay sao?Nhưng Hòa Thượng nói rằng không phải như vậy.
Cô ấy đã đau khổ trong rất nhiều kiếp, trong suốt những kiếp đó, cô ấy chưa bao giờ phát thiện tâm hoặc thực hành điều thiện. Thực sự không dễ dàng để cô ấy phát tâm tu hành trong kiếp này.

Hòa Thượng đã biết rằng sự phát tâm tu hành của cô ấy còn yếu và điều đó sẽ khiến cho cô ấy sớm thối chuyển.

Nếu Ngài không chấp nhận cho cô ấy gia nhập cuộc sống tu sĩ và hoàn thành lời nguyện, thì cô ấy sẽ tiếp tục đau khổ trong vô lượng kiếp tương lai nữa.

Đó là lý do tại sao Ngài chấp nhận lời thỉnh cầu của cô ấy. Điều đó không phải vì cô ấy là người tuyệt vời hay bất kỳ điều gì đặc biệt cả.

Có một câu chuyện đã diễn ra trong một tu viện khác. Có một hành giả tu hành rất có công phu về thiền. Ông ấy có thể ngồi tám tiếng đồng hồ liên tục bất động.

Đó thực sự là một điều gì đó. Trong suốt khóa thiền, ông ấy ngồi trong hai thời hương, mỗi một thời kéo dài suốt tám tiếng. Ông ấy bắt đầu vào buổi sáng sớm và ngồi cho tới trưa.

Sau đó đứng dậy đi thọ trai rồi trở lại tiếp tục ngồi thiền cho đến chiều tối. Phía trước chỗ ngồi của ông ấy là tượng Bồ Tát Quán Thế Âm mà ông ấy dùng để tập trung trong quá trình ngồi thiền.

Sau này, ông ấy gặp phải một vấn đề và không thể đến chùa của chúng ta để xin lời khuyên. Vì thế, ông ấy nhờ một người chuyển câu hỏi tới Hòa Thượng.

Một lần nọ, khi ông ấy quay trở lại sàng thiền của mình và quán tưởng tượng Bồ Tát Quán Thế Âm ở phía trước ông ta, đột nhiên, tượng Bồ tát Quán Thế Âm tăng rộng kích cỡ cho tới khi Bồ tát Quán Thế Âm choán đầy hết căn phòng.

Ngay cả móng chân của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng lớn bằng cái đầu của ông ta.
Người hành giả này quá sợ hãi, ông ta hét lên, đẩy cửa ra và chạy ra khỏi phòng. Tất nhiên, ông ta đã làm phiền mọi người xung quanh.

Ông ta không biết tại sao điều đó lại xảy ra. Khi ông ta quay trở lại để nhìn vào tượng của đức Quán Thế Âm, thì tượng vẫn như trước.
Chẳng có gì thay đổi. Ông ấy không hiểu điều gì đã xảy ra. Ông rất sợ hãi, vì thế đã nhờ người mang câu hỏi tới Hòa Thượng thay ông ta.

Khi nghe câu hỏi này, Hòa Thượng đã nói rằng, “Đó là vì sự BÁM CHẤP NGÃ TƯỚNG của ông ta!”.
Thông thường ông ta có thể kềm chế được vấn đề của mình nhờ vào định lực và sự tập trung của mình.

Tuy nhiên, một khi ông ta thư giãn cho dù một chút xíu, những vấn đề được kềm chế trước đó đã bùng phát đột ngột và ông ta không thể ngăn chặn chúng.

Ông ta chỉ nghĩ về việc quay trở lại phòng mình để thiền mà không quan tâm đến bất kỳ vấn đề gì.

Ông ta đã không nhận ra rằng có những điểm mù mà ông ta đã kềm chế và không ý thức được rằng những vấn đề đó sẽ bùng nổ ra.

Lời giải thích của Hòa Thượng là, “Đó là vì ngã tướng của ông ta quá lớn.”.

nguồn:http://vanphatthanh.org/2666-2/


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

30- TỪ BI TRỊ BỆNH.

Từ Thượng Hải, Ngài ghé Hán Khẩu trước khi tiếp tục đi Quảng Châu. Lúc bấy giờ các Chủ tàu thường cho chư Tăng đi miễn phí vì họ tin rằng sự có mặt của các vị tu hành là một điềm lành và sẽ đem lại bình an.

Trên tàu, Ngài thấy một người què đi thọt chân thật đáng thương và ngay khi gặp người này, Ngài biết rằng Ngài có thể chữa lành cho anh ta, nhưng nếu chữa cho anh ta ngay thì có thể sanh chuyện,

cho nên Ngài chờ đến ngày cuối cùng, khi tàu sắp cập bến thì trời cũng vừa hừng sáng Ngài hỏi ông:

– Sao ông đi đứng coi bộ khó khăn quá vậy?

– Ôi! tôi bị người ta vu cáo bán than chợ đen nên bị bắt giam dưới hầm đất vừa ẩm ướt vừa giá lạnh nên bị bệnh phong thấp nặng, đau thấu các khớp xương;

Hơn nữa vì chỗ giam rất chật hẹp không có chỗ đi tới đi lui được nên khi được phóng thích thì không đi được nữa và ra nông nỗi này. Nếu không có cây nạng nầy thì phải chịu thôi!

Xương của anh ta bị cong queo còn người thì xiêng lệch như một con vịt ngủ.

– Ông có muốn lành bệnh không?

– Tất nhiên là muốn rồi.
Vậy ông hãy liệng cây nạng của ông xuống biển đi.

Người què ấp úng:
-…nhưng thưa nếu không có cây nạng thì tôi làm sao đi đây?

– Tôi sẽ giúp ông, không lẽ tôi gạt ông hay sao?

Ông ta nghe lời bèn vứt cây nạng qua thành tàu. Ngài vừa xoa chân ông ta vừa tụng Chú Đại bi khoảng mười lăm phút. Xong Ngài bảo:

– Hãy đứng dậy!.
Thật là ông đã đứng lên được, Ngài tiếp:

– Bước đi!
Người què bắt đầu bước. Ngài bảo tiếp:

– Và bây giờ ông hãy chạy thử xem.
Ông ta liền chạy quanh Ngài, reo mừng khấp khởi.
Thấy sự việc này có khoảng bốn, năm mươi người trên tàu tới xúm quanh Ngài, cầu Ngài chữa bệnh cho họ.

Người này nói: Tay tôi nhức; Người kia nói: Lưng tôi đau… và đều xin Ngài chữa cho.
Ngài khôi hài hỏi:

– Các vị có sợ bị ăn đòn không?
Nói xong Ngài đấm vào tay của một người bị nhức tay thì người đó liền hết nhức.
Ngài đá nhẹ vào một người chân bị nhiễm trùng và hỏi:

– Anh cảm thấy thế nào?
– ồ! Tôi hết đau rồi. Người kia ngạc nhiên trả lời.
Mỗi người bệnh đều được chữa bằng những cái đấm đá mà họ đều cho rằng bệnh họ được lành. Sau đó hành khách lại bao quanh Ngài xin hẹn để chữa bệnh cho thân nhân và bạn hữu của họ như:

– Chị tôi ở Nam Kinh đã bị đau từ mấy năm nay, xin Ngài…..
Ngài phương tiện nói:
– Vâng, vâng…tôi sẽ cố đến…

Khi tàu ghé bến Ngài phải dùng một ngõ tắt để lên bờ.

Bởi lúc đến Thượng Hải, Lão Pháp Sư Thể Kính (truyền lệnh cho chư Tăng phải nộp tất cả tiền bạc cho Sư trước khi lên tàu đi Thượng Hải) từ chối không trả lại phần tiền cho Ngài, cho nên trên người Ngài chẳng dính lấy một xu.

và trên tàu Ngài đã được người ta cúng tám mươi ngàn quan (tiền Trung Hoa đương thời) nên đã dùng hai mươi ngàn để mua vé xe lửa đi Quảng Châu.

Tại trạm xe lửa, Ngài gặp Pháp sư Chu Nhất, Sư cũng đi Quảng Châu nhưng lại không tiền mua vé, đợi đi quá giang.
Ngài vui vẻ mua vé cho Sư rồi cùng đi.

Như thường lệ, Ngài chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Nhưng Sư Chu Nhất thì cứ đến mỗi trạm xe lửa ngừng đều muốn mua thức ăn, sau cùng Sư muốn mua cháo đắt đến mấy ngàn quan.

Ngài bèn móc hết tiền còn lại trong túi đưa cho Sư rồi nói: Thầy hãy tự giữ lấy và cũng để giảm bớt phiền phức cho tôi. Tôi cũng không muốn bị phân tâm vì nó; từ đó Ngài đã không đụng tới tiền bạc nữa.
Sửa lần cuối bởi dammaythongdong vào ngày 14/10/20 03:18 với 1 lần sửa.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

32- GIANG TÂY HOẰNG PHÁP.

Vào tháng 5 năm 1948, sau lễ truyền giới mùa Xuân tại Chùa Nam Hoa Ngài đã nhận lời mời của nhóm chuyển pháp luân là nữ Lão cư sĩ Lâm Hoàng Chú Tai đến Huyện Nam Thanh Tỉnh Giang Tây để giảng Kinh A Di Đà.

Khi ấy có hơn trăm người tham dự và do thành tâm nghe pháp nên trong pháp hội đã có nhiều sự cảm ứng không thể nghĩ bàn.

a) NGHE KINH TIÊU NGHIỆP.

Trong nhóm này, có cư sĩ Vạn Quả Lạc bị bệnh ma ám trên mười năm. Tuy có bệnh mà ông vẫn đi thường tới Chùa tu tập, nên ông chắc chắn rằng đây là một căn bệnh do ma ám.

Ông đã từng thỉnh chư Tăng, đạo sĩ, pháp sư giảng kinh thuyết pháp, ông cũng lạy Đại Bi Sám, Lương Hoàng Bảo Sám, tụng Kinh Du Già, phóng sanh, phóng âm hồn, cúng vong, thí thực cô hồn….

Tất cả công đức Phật sự ông đều làm nhưng vẫn không có hiệu quả.
Nhưng khi ông nghe giảng kinh A Di Đà, ma chướng trong người ông tự dưng biến mất và ông không bao giờ bị nó quấy rầy nữa.

b) BỆNH LIỆT ĐƯỢC KHỎI.

Một người khác trong chúng là nữ cư sĩ trẻ họ Từ tuy bán thân bất toại nhưng vẫn cố đến nghe giảng Kinh Di Đà, dần dần bệnh cô bình phục.

Lúc bấy giờ hai sự việc trên đã được lưu truyền rộng ra.
Điều này cho thấy không những niệm Phật, bái Sám trừ được ma chướng mà nghe Kinh thuyết pháp nghiệp chướng cũng được tiêu trừ.

Sau khi giảng kinh A Di Đà xong, Ngài trở về Chùa Nam Hoa. Trong tháng kế đó có một bọn cướp xông vào Chùa có ý cướp phá.
Trong đêm khuya chúng đấm cửa và la to rằng chúng là Đại diện của Chánh quyền đến vì việc quân cơ. Ngài đã không chịu mở cửa.

Nghe tiếng cướp đến những người trong Chùa vội chạy tìm chỗ trốn. Hai đệ tử của Ngài thì núp dưới gầm giường, chỉ còn Ngài đứng một mình trơ trọi và sau cùng phải mở cưả.

Bọn cướp xông vào dơ cao gậy gộc súng ống hùng hổ hỏi:

– Tại sao ông không mở cưả?

– Các ngươi là một bọn cướp, các ngươi đến đây với ý đồ cướp của, không phải để bố thí. Các ngươi nghĩ sao? Nếu các ngươi là tôi, các ngươi có mở cửa không?

Chúng liền chĩa súng vào phía Ngài rồi thét lên:

– Đem tiền ra đây mau!

Đang mặc chiếc áo rách cố hữu, Ngài điềm nhiên trả lời:

– Các ông thấy áo tôi đang mặc đây rồi nghĩ coi tôi có phải là một người giàu có không?

– Không, nhưng…

Chúng nhìn quanh rồi nói thêm:

– Nhưng Đồ đệ của ông chắc là phải có tiền.

– Nếu Thầy không một xu dính túi, hẳn là Trò phải nghèo xác nghèo xơ.

Tuy nhiên bọn cướp vẫn xông xáo lục lọi Chùa, Ngài theo chúng bén gót quở trách:

– Này, các ngươi đừng có lấy đi một thứ nào à nghen!

Sau cùng bọn cướp phải ra về tay không.
Sửa lần cuối bởi dammaythongdong vào ngày 13/10/20 21:01 với 1 lần sửa.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

27- CẦU CON ĐƯỢC MÃN NGUYỆN.


Phan Tế Thời là người giàu có ở Huyện Song Thành, hai vợ chồng đã ngoài bốn mươi mà vẫn chưa có mụn con nối nghiệp nên rất buồn rầu.

Vì ngưỡng mộ đức hạnh của Ngài nên họ tìm đến Quy y và chuyên cần học Phật pháp với Ngài.

Ông bà thường cầu nguyện trước Bồ Tát Quán Thế Âm gia bị cho họ có một đứa con để nối dõi. Ông Phan cũng thành tâm khẩn thiết cầu Ngài dìu dắt, Ngài bảo:

– “Ông phải nên làm nhiều việc lành, ông có thể bố thí phân nửa gia tài của ông không? Nếu làm được như thế ông sẽ tích tụ được nhiều công đức.
Khi nhân duyên thành thục, tôi tin chắc rằng ông sẽ được mãn nguyện.”

Nghe Ngài nói thế ông liền y lời, đem tiền của ra tu sửa chùa chiền, tạo tượng Phật, cúng dường Tam Bảo, bố thí vật thực cho các hội từ thiện, giúp người nghèo khổ không nơi nương tựa.

Một năm sau quả nhiên vợ ông sanh được một bé trai, đặt tên Thí Đức.

Đứa bé chóng lớn, thiên tánh thông minh lanh lợi.

Sau khi sanh được con trai, ông lại càng tin tưởng Phật Pháp, ngày ngày tụng kinh niệm Phật chuyên cần tu hành thiện pháp.

Nguồn: http://vanphatthanh.org/cuoc-doi-va-su- ... en-hoa/#25


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

28- THẤU SUỐT NHÂN QUẢ.


a) SÁM HỐI GIẢI NGHIỆP.

Theo lời dạy của Lão Hòa Thượng Thường Nhân, Ngài trở về Chùa Tam Duyên giúp đỡ tăng chúng xây cất Tự viện.
Tất cả vật liệu như cây cối, ngói gạch đều phải chuyên chở bằng xe, nhưng nhằm vào mùa thu hoạch, nên Chùa không thể mướn xe được.

Ngài đích thân lặn lội tìm đến nhà ông Trưởng khu Lưu Trung Cần mượn xe, tiếc thay ông Lưu từ chối rằng:
– Bạch Thầy đây là việc thiện con muốn làm lắm, nhưng ngặt vì lúc này đúng vào mùa gặt lúa, nên con không có cách chi giúp Thầy!

Khi ấy người em dâu của ông từ trong phòng bước ra thấy Ngài, bà liền cầu Ngài cứu vớt con bà, thằng bé đang bệnh nặng sắp chết.

Sau một hồi quán sát Ngài nói:

– Bà có biết vì sao con bà sắp bị chết không?
– Dạ con không biết.

– Vì bà không hiếu thảo với cha mẹ chồng, nếu bà tin lời tôi mà đến trước cha mẹ chồng quỳ lạy sám hối tội lỗi, thì mới mong cứu vãn tánh mạng đứa nhỏ.

Vì thương con nên bà đã làm y theo lời dạy, nhưng bệnh tình con bà vẫn không thuyên giảm.
Ngài bảo rằng hãy đem đứa bé đến, khi bà mang con đến, Ngài vỗ trên đầu đứa bé ba lần và đứa bé bắt đầu khóc. Bệnh của bé cũng tự nhiên phục hồi.

Ông Lưu chính mắt thấy rõ sự tình lòng rất thán phục nên chủ động chiêu tập tất cả xe cộ lớn nhỏ trong toàn khu để chở vật liệu xây cất cho Chùa luôn mấy ngày liền.

Sau đó bất luận Ngài đi đâu cũng có người tranh nhau cho mượn xe chở. Chỉ trong vòng một tháng người ta đã cho mượn đến tám trăm chiếc xe.

b) TIÊN ĐOÁN.

Chuyện Ngài Tuyên Hóa cứu sống em bé truyền ra rất mau nên Lý Thanh Sơn ở thôn Dương Gia Điềm, có một người em bị bệnh nặng bèn đến cầu Ngài cứu giúp.

Ngài Hòa thượng Tuyên Hóa đáp ứng, cùng theo về nhà ông; khi vừa vào đến cửa, Ngài liền nói với Lý Thanh Sơn:

– Ám khí trong nhà ông quá nặng, tôi không đủ khả năng để cứu giải. Vài ngày tới đây, e rằng trong nhà ông sẽ xảy ra chuyện không may.

Qua bảy ngày sau, quả nhiên Lý Thanh Sơn vì bực tức người em mà tự tử.

Chẳng bao lâu, người em của ông và người cháu gái cũng bị bệnh mà chết.

c) TIỀN CĂN.

Cùng Thôn Dương Gia Điềm có em Vương Thân mười hai tuổi bị bệnh lao đã ho ra máu và còn bị đau bụng.
Cha mẹ em tìm đến Ngài xin cứu sống con mình.

Sau khi xem đứa bé, Ngài bèn hỏi ông Vương một câu hỏi lạ lùng:
– Ông có muốn cho con ông sống không? Tôi không thể cứu con ông được, chính ông phải cứu nó.

– Tôi muốn nó sống nhưng làm cách nào mà tôi có thể cứu nó? Tôi không biết phải làm sao đây?

– Đây là phương pháp: nếu ông muốn con ông sống thì ông phải cho nó xuất gia, quy y cửa Phật. Nếu nó xuất gia, nó sẽ sống bằng không nó sẽ chết. Hai đường phải lựa một và chẳng có cách nào khác.

Cha mẹ em liền đồng ý. Chẳng bao lâu sau, em hết bệnh hẳn.

Thấy con mình mạnh khỏe trở lại, hai vợ chồng hối tiếc và không cho em đi tu, mặc dầu Ngài viết thơ ba lần khuyên họ phải giữ lời hứa.

Trong lá thơ cuối cùng Ngài cảnh tỉnh họ:

“Nếu ông bà không tức khắc cho con mình xuất gia tu đạo thì e rằng bệnh tình của em sẽ bộc phát trở lại, khi ấy khó mà trị được. “

Cha mẹ em vẫn không quan tâm đến lời nhắc nhở trong thơ.

Qua hơn một năm sau bệnh của em bỗng tái phát, cha mẹ em lo lắng, chạy chữa biết bao bác sĩ, thuốc men nhưng đều vô phương cứu chữa, mấy ngày sau em qua đời.

Dù hai ông bà có khóc lóc thảm thiết thế nào đi nữa, đứa bé cũng không sống lại.

Cả hai người lại khẩn cầu Ngài cứu sống cho đứa con họ một lần nữa, nhưng Ngài nói:

– “Cái phương pháp làm cho nó sống là của ông bà. Tôi đã cho ông bà cái phương pháp ấy. Chính ông bà đã không dùng, tôi không không thể làm gì khác hơn.”

Cha mẹ em Vương Thân thật tâm hối hận vì trước kia đã không tin lời của Ngài.

Tại sao Ngài dạy đứa trẻ xuất gia? Vì nó có cái đức tướng của một người xuất gia, và trong các kiếp trước, nó đã phát nguyện sẽ xuất gia trong mỗi kiếp sống.


dammaythongdong
Bài viết: 462
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: Những câu chuyện linh ứng, kì lạ về Hòa Thượng Tuyên Hóa- Master Hsuan Hua

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

8- TẤT CẢ ĐỀU LÀ THỬ THÁCH.

Một hôm Ngài tình cờ phát hiện ra kinh ĐỊA TẠNG Bồ Tát Bổn Nguyện, đọc qua một lần Ngài cảm kích vô cùng, biết rằng Đức ĐỊA TẠNG thật đại từ bi quan tâm đến chúng sanh như thế mà chúng sanh lại không biết.

Vì thế Ngài phát nguyện mỗi ngày quỳ trước chánh điện tụng kinh Địa Tạng.

Nền chánh điện làm bằng xi măng thô lại không có nệm quỳ, Ngài thì mặc quần vải mỏng mà quỳ trên nền cứng đó tụng kinh ĐỊA TẠNG mỗi lần tụng hai giờ, càng tụng càng hỷ lạc đến nỗi đầu gối bị sướt trầy rướm máu mà Ngài vẫn không hay.

Mỗi ngày, Ngài Tuyên Hóa cứ y giờ quỳ trước chánh điện thành tâm tụng kinh ĐỊA TẠNG.

Lần nọ, có một cư sĩ mang phẩm vật đến Chùa cúng dường, thấy Ngài quỳ tụng kinh như thế hết lòng khâm phục và tán thán Ngài với các người khác là:

– Thầy đó dụng công như vậy, như vậy… thật là tinh tấn quá mức.
Sau khi cư sĩ kia rời khỏi, mấy huynh đệ ở Chùa cùng lại mắng Ngài:

– Thầy muốn biểu diễn cố ý cho cư sĩ thấy mình là người chân tu, nhưng chẳng qua là phan duyên đó thôi!
Ngài không một lời biện giải, nhưng rõ biết tâm mình là chỉ muốn tụng kinh thôi.

Từ đó về sau, nhiều việc ồn náo, vô lý xảy ra: Trước khi Ngài tụng kinh có những người khác đến la rầy: “Ồ! chỉ giả bộ tu hành đó mà.”

Đến lúc tụng kinh xon,g họ lại giễu báng: “Ông Thầy giả bộ tu hành, tụng kinh xong rồi kìa.”

Ngày ngày đều bị dèm pha nhưng Ngài vẫn nhẫn nại không nói một lời.

Trải qua hơn một trăm ngày tụng kinh, ma chướng thật đến.

Ngày nọ, ngài vừa tụng kinh xong, có một vị đại sư huynh, không nói một lời đến tát vào mặt Ngài một cái.

Ngài thắc mắc không biết vì sao, nhưng vẫn không dám hỏi. Xong ông sư huynh quát lên rằng:

–“ Thầy là ai? Sao lười như thế trốn lánh công tác và an nhàn ở đây, người ta làm việc, còn Thầy làm bộ tụng kinh, phô trương cho người ta xem hả?

Trong chùa này Thầy làm gì có chỗ để tu? Thầy có công đức gì để tu hành ở đây?”

Từ đó, Ngài ngừng việc tụng kinh. Tu đạo thật không dễ dàng và luôn gặp chướng ngại, người dụng công tu hành có chút điểm thành tựu thì Ma sẽ đến khảo nghiệm định lực của họ.

Lúc bắt đầu tu đạo Ngài đã tu trong nghịch cảnh, nhưng Ngài chưa từng thối tâm, luôn tinh tấn tu trì trước sau như một.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Google [Bot]19 khách