Re: Chia Sẽ Kinh Nghiệm Tu Tập
Đã gửi: 30/07/10 04:16
Chủ đề này rất có ý nghĩa, hôm nay tôi muốn xin đưa ra một ít kinh nghiệm tu tập để quý vị xem xét thử?
Để tu tập có hiệu quả thật rất khó, Kinh sách dạy rất nhiều có thể nói là vô bờ bến, Nhưng điều chánh yếu mà Đức Phật dạy chính Tứ Diệu Đế. Trong đó đế cuối cùng tức là Bát Chánh Đạo đây là con đường mà bất cứ A La Hán, Chư Bồ Tát, Chư Vị Phật đều phải thông suốt và phải đi qua để đạt được các thánh quả. Nếu không hiểu và thực hành con đường này thị vị đó không thể nào được xem là vị sư chân chánh và khó để đạt được cứu cánh giải thoát.
Thấy nhiều nhất các bậc A La Hán đều đọc kệ lên để nói lên điều đó, ví dụ Vị A La Hán kisagotami (Kisagotami- Bà Mẹ Khổ Đau - Hòa Thượng Piyadassi)
‘Hoan hỷ thay! Ta đã dấn bước
Trải qua con đường Thánh Thiện, Bát Chánh Đạo
Thẳng tiến đến trạng thái cao siêu.
Ta đã chứng ngộ Niết Bàn, và nhìn vào
Gương sáng của Giáo Pháp thiêng liêng.
Ta, chí đến ta, vết thương đau khổ cũng được hàn gắn,
Đã đặt xuống gánh nặng, nhiệm vụ đã viên mãn hoàn thành,
Tâm ta đã hoàn toàn giải thoát,
Ta, sư cô Kisagotami, đã tuyên ngôn điều này!’
Đó chính là Con Đường Bát Chánh Đạo. Còn Đức Phật thực tập toàn mãn thập độ Ba La Mật "Bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, trí tuệ, kiên định, từ tâm, xuất ly, chân thật và xả", trãi qua vô lượng số kiếp mới trở thành 1 vị Phật Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Còn theo hòa thượng tiến sĩ Dhammananda có nói thực tập ba hạnh đó: Bố Thí - Trì Giới (5 giới căn bản) - Thiền Đinh (Niệm Phật), đối với một con người bình thường.
Còn quyết định Xuất Gia, đây là chí quyết thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử (đạt Niết Bàn), ly xả gia đình, trở thành thầy tu hay sư ni, lúc đó ràng buột sẽ không còn và thực hành những Bát Chánh Đạo toàn diện và Thiện Định Minh Sát và Vắng Lặng (Niệm Phật) để đạt quả A La Hán. Tôi nghĩ đây là điều khó khăn và rất kiên trì để đối phó lại tất cả những Tập Quán Nghiệp (Tính tình hãy bản chất ta đã có và nghiệp đã gây tạo) mà ta đã gieo trước đây, như Đức Phật ngồi Thiền Định từ canh mấy đến canh mấy để loại bỏ và nhổ tận gốc rễ. Tôi nghĩ do Đức Phật đã là Bồ Tát trong nhiều kiếp rồi nên tuệ căn Ngài rất siêu phàm, thấy rõ nhất qua duyên nghiệp trong đời sống lúc nhỏ như đạt trạng thái thiền, có bản chất từ bi, hay trầm tư, gặp được 4 cảnh Sanh Lão Bệnh Tử, thử thách 6 năm hành xác trên đường tìm giác ngộ.... Vì thế xuất gia là con đường để dẫn đến Niết Bàn (duy chỉ có xuất gia và kiến thức và lối tu chân chánh)
Còn nếu chúng ta có chọn lựa sống trong cuộc đời vô thường và đau khổ này mà muốn đạt giác ngộ, Tôi dám nói chắc một điều là không thể nào đạt được giải thoát dù cho có cố hành trì Thiền Minh Sát và vắng lặng đến cách nào, phương cách tồn tại trong thời Đức Phật tại thế (Hay Niệm Phật). Bời vì chúng ta còn sự ràng buột và khó nhổ sạch gốc rễ tham ái khi không có môi trường, đây là lý do vì sau Đức Phật chỉ dạy và thu nhận tín đồ (nhưng Ngài không bao giờ có ý quản lý hay điều hành tăng đoàn khi xưa, Ngài độc lai độc giảng, chỉ là người hướng dẫn chỉ dạy con đường, Ngài không có dính dáng hay mắc xích ràng buột với bất cứ điều gì dù là đệ tử thân cận nhất A Nan Đa). Nếu ai dám chắc làm được thì người đó có thể vượt hơn Đức Phật nữa, vì 2500 thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ vợ con và quyền lực, danh vọng đứa con yêu để trở thành 1 Thầy tu khuất thực (Ta nên hiểu Thân Phận Thái tử Tất Đạt Đa không có liên qua gì đến Đức Phật sau khi Ngài đạt giác ngộ, đó chỉ là một bản thể riêng biệt với Ngài và chỉ được chấp nhận khi Ngài chưa đạt giác ngộ).
Về chuyện Niệm Phật và Thiền Định không khác chi hết, vẫn một đòi hỏi là "tịch tịnh hiện tiền" - Dhammanand, hay trạng thái không lay động của các các tầng thánh như tôi có trích trong diễn đàn này, dù niệm Phật nhiều đến đâu đi nữa, chúng ta chỉ đạt được phước báu, có được Thiện duyên trong vòng luân hồi mà thôi, vì Đức Phật Di Đà không phải là người đại diện đứng ra cứu rỗi và kháng cự lại luật nhân quả (Nghiệp), Đức Phật dạy rất rõ ràng không ai có thể cứu rỗi người khác được ngoại trừ chính bản thân họ chọn lựa, đấy nói lên tự do bản thân và lệ thuộc chỉ riêng bản thân mình, Và Đức Phật dạy nghiệp chỉ có khi ta có tác ý, có tác ý sẽ có nghiệp, mà có nghiệp thì vòng luân hồi tiếp tục chuyển bánh do bàn đạp là Vô Minh và Tham Ái (chính 2 điều này chính là Nghiệp).
Câu chuyện có thật nói rất rõ ràng về việc Niệm Phật không khác chi Thiền Định.
Một người phụ nữ và chồng cùng buôn bán làm ăn nhưng thất bại cứ mãi xảy ra. Sau hai lần mưu sinh cuối cùng, lần thứ nhất họ vẫn chịu số phận là thất bại vì làm ăn lỗ lã, lần thứ hai họ quyết định mở một cửa hàng thuốc để mưu sinh nhưng kết quả vẫn không thay đổi. Người chồng quyết chí lên núi tu hành, người vợ ở lại nhà tu trong sự thanh tịnh tâm thần. Hằng ngày bà niệm danh hiệu Di Đà nhất tâm không xao lãng, sau khi dùng cơm bà tắm rửa sạch sẽ và quỳ trước bàn thờ tụng câu Lục Tự. Bà niệm Phật liên tục dường như là suốt ngày từ sáng cho đến tối trong những thời gian rãnh kể cả khi làm việc. Mỗi khi con cháu đến thăm bà và kể cho bà nghe về chuyện của đời sống thường nhật nhưng bà đều từ chối, Bà không còn điều ràng buột nào hay quan tâm đến bất cứ gì ngoài cuộc sống. Sau quá trình không ngừng nghỉ và kiên định của bốn mươi mấy năm, ngày cuối cùng bỗng nhiên trên nóc nhà tỏa sáng luồng hào quang rực rỡ. Người con bên sông trông thấy cứ tưởng cháy nhà liền chạy vội cả về nhà mẹ, thì bà đã viên tịch để trở về đất Phật, thoát khỏi cảnh khổ của luân hồi và phiền não của thế gian mãi mãi.
Câu chuyện này chỉ rõ việc Niệm Phật sẽ đạt được cứu cánh khi Gốc Rễ Tham Ái đã bị nhổ sạch hoàn toàn. (Câu chuyện tôi thấy rằng Bà đã có căn duyên nhiều kiếp, đến kiếp đó là kiếp cuối và duyên đủ nên Bà đạt được quả vị)
Tôi không dám chắc mình sẽ đạt được thành quả gì vì thế tôi chỉ hướng đến một đời sống cao thượng và trong sạch, sống thì Trì Giới - Thiền Định + Niệm Phật, cố gắng lau dần những nhơ bẩn trong mình.
Có thể thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm cũng rất tốt
Từ: trạng thái thương yêu không có vị kỷ và phân biệt (Kẻ thù hay người thân)
Bi: Xót thương đến chúng sanh đau khổ, phấn đấu làm việc tốt để giảm bớt đau khổ đó.
Hỷ: Trạng thái hoan hỷ vui vẻ mọi điều với chính mình và kẻ khác. Vui khi người khác có niềm vui (Đây tôi nghĩ là đức tính rất khó và cần rất nhiều cố gắng bằng tập suy tư và pháp triển ngầm bản tính tốt)
Xả; trạng thái quân mình, tương đương trung dung trong nho giáo. Sống cuộc đời ở trung đạo, căn bằng không quá sung sướng hay khổ cực để diệt trừ đi tham lam.
Để tu tập có hiệu quả thật rất khó, Kinh sách dạy rất nhiều có thể nói là vô bờ bến, Nhưng điều chánh yếu mà Đức Phật dạy chính Tứ Diệu Đế. Trong đó đế cuối cùng tức là Bát Chánh Đạo đây là con đường mà bất cứ A La Hán, Chư Bồ Tát, Chư Vị Phật đều phải thông suốt và phải đi qua để đạt được các thánh quả. Nếu không hiểu và thực hành con đường này thị vị đó không thể nào được xem là vị sư chân chánh và khó để đạt được cứu cánh giải thoát.
Thấy nhiều nhất các bậc A La Hán đều đọc kệ lên để nói lên điều đó, ví dụ Vị A La Hán kisagotami (Kisagotami- Bà Mẹ Khổ Đau - Hòa Thượng Piyadassi)
‘Hoan hỷ thay! Ta đã dấn bước
Trải qua con đường Thánh Thiện, Bát Chánh Đạo
Thẳng tiến đến trạng thái cao siêu.
Ta đã chứng ngộ Niết Bàn, và nhìn vào
Gương sáng của Giáo Pháp thiêng liêng.
Ta, chí đến ta, vết thương đau khổ cũng được hàn gắn,
Đã đặt xuống gánh nặng, nhiệm vụ đã viên mãn hoàn thành,
Tâm ta đã hoàn toàn giải thoát,
Ta, sư cô Kisagotami, đã tuyên ngôn điều này!’
Đó chính là Con Đường Bát Chánh Đạo. Còn Đức Phật thực tập toàn mãn thập độ Ba La Mật "Bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, trí tuệ, kiên định, từ tâm, xuất ly, chân thật và xả", trãi qua vô lượng số kiếp mới trở thành 1 vị Phật Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Còn theo hòa thượng tiến sĩ Dhammananda có nói thực tập ba hạnh đó: Bố Thí - Trì Giới (5 giới căn bản) - Thiền Đinh (Niệm Phật), đối với một con người bình thường.
Còn quyết định Xuất Gia, đây là chí quyết thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử (đạt Niết Bàn), ly xả gia đình, trở thành thầy tu hay sư ni, lúc đó ràng buột sẽ không còn và thực hành những Bát Chánh Đạo toàn diện và Thiện Định Minh Sát và Vắng Lặng (Niệm Phật) để đạt quả A La Hán. Tôi nghĩ đây là điều khó khăn và rất kiên trì để đối phó lại tất cả những Tập Quán Nghiệp (Tính tình hãy bản chất ta đã có và nghiệp đã gây tạo) mà ta đã gieo trước đây, như Đức Phật ngồi Thiền Định từ canh mấy đến canh mấy để loại bỏ và nhổ tận gốc rễ. Tôi nghĩ do Đức Phật đã là Bồ Tát trong nhiều kiếp rồi nên tuệ căn Ngài rất siêu phàm, thấy rõ nhất qua duyên nghiệp trong đời sống lúc nhỏ như đạt trạng thái thiền, có bản chất từ bi, hay trầm tư, gặp được 4 cảnh Sanh Lão Bệnh Tử, thử thách 6 năm hành xác trên đường tìm giác ngộ.... Vì thế xuất gia là con đường để dẫn đến Niết Bàn (duy chỉ có xuất gia và kiến thức và lối tu chân chánh)
Còn nếu chúng ta có chọn lựa sống trong cuộc đời vô thường và đau khổ này mà muốn đạt giác ngộ, Tôi dám nói chắc một điều là không thể nào đạt được giải thoát dù cho có cố hành trì Thiền Minh Sát và vắng lặng đến cách nào, phương cách tồn tại trong thời Đức Phật tại thế (Hay Niệm Phật). Bời vì chúng ta còn sự ràng buột và khó nhổ sạch gốc rễ tham ái khi không có môi trường, đây là lý do vì sau Đức Phật chỉ dạy và thu nhận tín đồ (nhưng Ngài không bao giờ có ý quản lý hay điều hành tăng đoàn khi xưa, Ngài độc lai độc giảng, chỉ là người hướng dẫn chỉ dạy con đường, Ngài không có dính dáng hay mắc xích ràng buột với bất cứ điều gì dù là đệ tử thân cận nhất A Nan Đa). Nếu ai dám chắc làm được thì người đó có thể vượt hơn Đức Phật nữa, vì 2500 thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ vợ con và quyền lực, danh vọng đứa con yêu để trở thành 1 Thầy tu khuất thực (Ta nên hiểu Thân Phận Thái tử Tất Đạt Đa không có liên qua gì đến Đức Phật sau khi Ngài đạt giác ngộ, đó chỉ là một bản thể riêng biệt với Ngài và chỉ được chấp nhận khi Ngài chưa đạt giác ngộ).
Về chuyện Niệm Phật và Thiền Định không khác chi hết, vẫn một đòi hỏi là "tịch tịnh hiện tiền" - Dhammanand, hay trạng thái không lay động của các các tầng thánh như tôi có trích trong diễn đàn này, dù niệm Phật nhiều đến đâu đi nữa, chúng ta chỉ đạt được phước báu, có được Thiện duyên trong vòng luân hồi mà thôi, vì Đức Phật Di Đà không phải là người đại diện đứng ra cứu rỗi và kháng cự lại luật nhân quả (Nghiệp), Đức Phật dạy rất rõ ràng không ai có thể cứu rỗi người khác được ngoại trừ chính bản thân họ chọn lựa, đấy nói lên tự do bản thân và lệ thuộc chỉ riêng bản thân mình, Và Đức Phật dạy nghiệp chỉ có khi ta có tác ý, có tác ý sẽ có nghiệp, mà có nghiệp thì vòng luân hồi tiếp tục chuyển bánh do bàn đạp là Vô Minh và Tham Ái (chính 2 điều này chính là Nghiệp).
Câu chuyện có thật nói rất rõ ràng về việc Niệm Phật không khác chi Thiền Định.
Một người phụ nữ và chồng cùng buôn bán làm ăn nhưng thất bại cứ mãi xảy ra. Sau hai lần mưu sinh cuối cùng, lần thứ nhất họ vẫn chịu số phận là thất bại vì làm ăn lỗ lã, lần thứ hai họ quyết định mở một cửa hàng thuốc để mưu sinh nhưng kết quả vẫn không thay đổi. Người chồng quyết chí lên núi tu hành, người vợ ở lại nhà tu trong sự thanh tịnh tâm thần. Hằng ngày bà niệm danh hiệu Di Đà nhất tâm không xao lãng, sau khi dùng cơm bà tắm rửa sạch sẽ và quỳ trước bàn thờ tụng câu Lục Tự. Bà niệm Phật liên tục dường như là suốt ngày từ sáng cho đến tối trong những thời gian rãnh kể cả khi làm việc. Mỗi khi con cháu đến thăm bà và kể cho bà nghe về chuyện của đời sống thường nhật nhưng bà đều từ chối, Bà không còn điều ràng buột nào hay quan tâm đến bất cứ gì ngoài cuộc sống. Sau quá trình không ngừng nghỉ và kiên định của bốn mươi mấy năm, ngày cuối cùng bỗng nhiên trên nóc nhà tỏa sáng luồng hào quang rực rỡ. Người con bên sông trông thấy cứ tưởng cháy nhà liền chạy vội cả về nhà mẹ, thì bà đã viên tịch để trở về đất Phật, thoát khỏi cảnh khổ của luân hồi và phiền não của thế gian mãi mãi.
Câu chuyện này chỉ rõ việc Niệm Phật sẽ đạt được cứu cánh khi Gốc Rễ Tham Ái đã bị nhổ sạch hoàn toàn. (Câu chuyện tôi thấy rằng Bà đã có căn duyên nhiều kiếp, đến kiếp đó là kiếp cuối và duyên đủ nên Bà đạt được quả vị)
Tôi không dám chắc mình sẽ đạt được thành quả gì vì thế tôi chỉ hướng đến một đời sống cao thượng và trong sạch, sống thì Trì Giới - Thiền Định + Niệm Phật, cố gắng lau dần những nhơ bẩn trong mình.
Có thể thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm cũng rất tốt
Từ: trạng thái thương yêu không có vị kỷ và phân biệt (Kẻ thù hay người thân)
Bi: Xót thương đến chúng sanh đau khổ, phấn đấu làm việc tốt để giảm bớt đau khổ đó.
Hỷ: Trạng thái hoan hỷ vui vẻ mọi điều với chính mình và kẻ khác. Vui khi người khác có niềm vui (Đây tôi nghĩ là đức tính rất khó và cần rất nhiều cố gắng bằng tập suy tư và pháp triển ngầm bản tính tốt)
Xả; trạng thái quân mình, tương đương trung dung trong nho giáo. Sống cuộc đời ở trung đạo, căn bằng không quá sung sướng hay khổ cực để diệt trừ đi tham lam.