Mèn ơi bài Kinh Căn bản đó đâu có dể hiểu, phải nói là khó nhất trong 152 kinh Trung bộ thì đúng hơn. Có thể nói sự liên quan của kinh này đến Kinh Kim Cang bát nhã là kinh nói về sự chứng ngộ của một kẻ phàm phu và bậc thánh.
Gọi là kinh căn bản bởi vì nó là căn bản của nguồn gốc sanh tử luân hồi, do chấp 24 đối tượng như đất nước gió lửa... (nói 24 đối tượng cũng là nói hẹp chứ đã chấp rồi thì đụng cái gì cũng chấp) mà phát sanh ra 84,000 phiền não, phiền não tuy nhiều nhưng nói hẹp 10 căn bản phiền não (1.tham 2. sân 3. si 4. nghi 5. thân kiến 6. biên kiến 7 kiến thủ kiến 8. kiến thủ kiến 9. giới cấm thủ kiến và 10. tà kiến)
Nội dung bài kinh nói về bốn cái thấy của bốn hạn người:
sư Chánh Minh tóm lượt bài kinh ấy như sau:
Kẻ phàm phu vì không thân cận bậc thánh, lại do tưởng tượng từ 24 vấn đề, nên từ đó sanh khởi thân kiến. Gốc rễ của thân kiến chính là ái, mạn và tà kiến.
Bậc Thánh hữu học, không còn tưởng sai biệt, đối với 24 vấn đề trên các ngài tuy chưa thông suốt nhưng tâm không còn tưởng sai biệt dẫn dắt khiến phải rơi vào thân kiến.
Bậc Thánh A la Hán đã thông suốt 24 vấn đề trên, các Ngài không còn bị tưởng chi phối. đã nhìn thấy đúng thực tướng pháp, các ngài đa đoạn tận ái, mạn do tưởng tạo ra.
Đấng Như Lai, ngoài sự nhận thức đúng như vị Thánh A la hán, Ngài còn biết rõ trọn vẹn 24 vấn đề trên sanh lên do nhân gì? Và chúng sẽ diệt mất do nhân gì, chúng hiện bày có những hình thức như thế nào?.... Đức Thế Tôn liễu tri tất cả như thế đó.
Hiểu về cái nhìn của bốn hạng người theo các bản chú sớ cũng không đồng (hay nói một cách khác là thuật ngữ dịch thuật chưa thống nhất ai hiểu cách nào thì dịch cách đó) đây là cái nhìn của ngài Bohhi một học giả thâm hiểu rất sâu về giáo lý nguyên thủy:
Kinh này triển khai bốn phần chính giải thích mô hình nhận thức của bốn hạng người, mỗi hạng liên hệ với hai mươi bốn đối tượng nhận thức có thể xảy ra. Bốn hạng người là 'phàm phu' thiếu hiểu biết về Dhamma và vì thế nhiều lần khuất phục trước trò chơi của ngã thức; bậc 'hữu học' đã thấy qua sự sai lạc của ngã tưởng và đang tu tập để diệt hoàn toàn tưởng này; bậc A la hán hoặc bậc thánh toàn hảo là hạng đã thành tựu sự giải thoát khỏi các ách phược của ngã chấp thủ; và 'Như Lai', Đấng giác ngộ là người tiên khởi giáo pháp mà ngài đã khám phá qua sự chứng ngộ không cần trợ giúp bên ngoài. Những hạng người này và mô hình nhận thức của mỗi hạng sẽ được thảo luận đầy đủ hơn dưới đây.
đây là cách lý giải về tại sao gọi là kinh căn bổn của sư Chanh Minh
Gọi là Căn bản (mūla) vì rằng từ một gốc rễ của Tưởng (sañña) đã nảy sinh nhiều luận thuyết cũng như nhiều quan niệm.
Do không nhận thức được những bản chất thật của các Pháp, lại do Tưởng chi phối, Tưởng tạo ra những nét sai biệt từ gốc nên dẫn đến một chướng ngại tiên khởi cho sự giải thoát. Chướng ngại ấy, Đức Phật gọi là Thân kiến (kāyadiṭṭhi), muốn tiến sâu vào vùng giải thoát, "hàng rào cản" ban đầu là thân kiến cần phải phá tan. Nhưng muốn phá được chúng cần phải đào sâu tận gốc rễ.
Hy vọng với phần trích đoạn này sẽ giúp bạn có khái niệm tại sao gọi là kinh căn bản. Cách nói của Zelda cũng là một cách lý giải về các pháp môn, không cái nào gọi là căn bản cả. Mà pháp nào cũng quan trongj và căn bản. Nhưng vấn đề ở chỗ là hợp căn cơ nếu hợp cơ thì pháp pháp đều diệu nếu không hợp cơ thì cũng chịu thôi.