hhc đã viết:Lâm Nghĩa đã viết:Bài của đạo hữu hhc có trích thư trả lời của thầy Thích Thông Lạc nói Phật A Di Đà là tưởng ?
Theo bạn, Phật A Di Đà có là tưởng không ?
Đã biết nguồn gốc ai sáng tác ra bài trả lời mà vẫn hỏi tức là thách thức, đã thách thức tức có nghiên cứu mới dám thách thức. Tôi không phải 1 vị hòa thượng tôi là 1 cư sĩ tại gia nghiên cứu phật pháp. Tôi trả lời rất thẳng thắn" TRÌNH ĐỘ TOI HKÔNG TRẢ LỜI ĐƯỢC CÂU HỎI CỰC KỲ MƠ HỒ VÀ VIỄN VÔNG CỦA BẠN" .Nếu bạn thực sự muốn tìm hiểu tôi sẽ trích dẫn 1 số bài tham khảo cho bạn tự nghiên cứu rồi tự trả lời. Sau khi tham khảo xong 1 cách kỹ càng rõ ràng, nếu có khả năng biện luận 1 cách logic, dùng sự thật để chứng minh sự thật, dùng thực tế để cứng minh thực tế, dùng chân,ý để giải thích chân lý thì hãy post câu trả lời, còn trả lời dùng những từ ngữ mơ hồ, viễn vông thì hãy để dành kiến thức đó cho bạn tôi không cần.
Hơn 2550 nay tất cả hàng trí thức , học giả đều cho rằng :" Đạo Phật Thích Ca là đạo chân
lý , sự thật nhất trong các tôn giáo " . Chân lý ở đâu ? Sự thật ở điểm nào ? Vì giáo lý Phật
giáo trải qua bao nhiêu thời đại , không gian lẫn thời gian giáo lý của Đức Bổn sư vẫn
trường tồn không phải vì sức mạnh đem quân đi tàn sát các tôn giáo khác , cũng không
phải dùng xảo thuật ,tiền bạc để kiếm thêm linh hồn Phật tử . Cái chân lý và sự thật là vì
Phật giáo đi đúng với thực tế , không huyền ảo , mơ mộng , hứa hảo huyền một nước trời
mờ ảo . Điều mà nhà Vật lý học Mỹ gốc Do Thái Albert Einstein, cha đẻ của Thuyết Tương
đối và là người được giải thưởng Nobel Vật lý về Quang Điện (Photoelectric) năm 1921 ông
đã nhận định về Phật giáo như sau:
" Nếu có một tôn giáo nào ứng phó được với các nhu cầu khoa học hiện đại thì tôn giáo đó
chính là Phật giáo. Phật giáo không cần phải duyệt xét lại hầu cập nhật hóa với những
khám phá khoa học mới đây. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để theo
khoa học, vì Phật giáo không những đã bao gồm cả khoa học mà còn vượt qua cả khoa học
nữa."
Giáo điều mà Đại Thừa rao giảng và khuyến dụ ai cũng niệm Phật để khi lâm chung được
đức Phật đón về Cực lạc. Trong kinh nói Cực lạc ở phương Tây cách cõi Ta-bà này mười
muôn ức thế giới , nhưng không biết cõi Ta bà đó nằm bao xa , ở đâu ? Cho nên nếu Phật
không đón thì không biết đường đâu mà đi , điều này chẳng khác gì God giao chìa khóa
cho Giáo Hoàng mở cửa thiên đừơng mới biết chỗ mà vào . Nhưng hỏi thì cứ chỉ ở trên trời
, xa lắm . Tội tức là do NGHIỆP quả của mình gây ra , không ai có
quyền ân xá gánh vác , thế mà Tịnh độ dám cả quyết niệm danh hiệu 35 vị Phật thì dù tội
bao nhiêu đời , bao nhiêu kiếp cũng xóa tang . Niệm A Di Đà thì lúc chết đựơc đưa về sống
tại nước Tây phương đầy cực lạc .Vì vậy đa số quần chúng Việt Nam và Phật tử thế giới vẫn còn niềm tin
Phật nhưng đó là niềm tin có quá nhiều tính chất tiêu cực ,có nhiều những tác động tiêu
cực ở ngoài vào trong khi không có những nỗ lực điều hướng ,giữ gìn niềm tin do tu trì
niệm Phật của Đại thừa mà ra . Ngoài ra còn bị pha trộn với nhiều hình thái tín ngưỡng dân
gian đầy những mê tín dị đoan do một số Tăng Ni thiếu lương tâm , trục lợi cổ xuý bất chấp
tác hại đến giáo lý Phật Thích Ca . Tin Phật, tin nhân quả đó nhưng cũng tin vào bói toán,
cầu đảo, vào sự thưởng phạt của đủ loại thần, thánh, ma, quỷ rồi cúng dường , cầu đảo
nhằm đưa đến sự van xin , đút lót Thần thánh mà chính là các Thầy thụ hưởng .
Xưa nay đạo Phật vốn là đạo của Trí Tuệ, đã và đang còn bị nhìn bởi một số đông người
như là Đạo của mê tín, dị đoan, hủ lậu do chiều hướng tụng niệm , khẩn bái mà ra , trông
chẳng khác gì đạo khác . Khi mà cuộc sống vật chất và tâm linh gặp khó khăn niềm tin
Phật của quần chúng trỗi dậy mạnh mẽ , sự trỗi dậy của nhiều hình thức tín ngưỡng dị
đoan của nhiều người khoác áo tu hành “làm ăn” ở những hình thức tín ngưỡng này
không thiếu . Thậm chí rất nhiều chùa ở hải ngọai ghi danh cầu an về bản thân , gia đạo và
kèm thêm 50 - 100 đô dâng cúng cho thầy , đây là sự thật nếu quý vị cứ đến bất cứ chùa nào
cầu an cũng như thế , chẳng thà đạo Kito ra giá đặt lễ hôn nhân 5000 $ - 10.000$ , cầu an ,
xưng tội .... có giá cả từ xưa chúng ta không bàn đến , vì họ là tôn giáo thế quyền , God là
tối thượng . Nhưng Phật giáo Ngài Thích Ca không cho phép làm như thế . Tất cả chúng
sanh cùng bình đẳng khi Phật dạy :
" Máu nào cũng có vị mặn thì khổ đau nào cũng giống nhau ."
Về đạo các tu sĩ hoằng dương Tịnh độ đi ngược đừơng Thích Ca , phổ biến , tuyên truyền
cầu nguyện và an tâm chấp nhận số phận để đựơc về Tịnh độ mà người Kito đang mắc phải
. Về đời thì gây chuyện mê tín , cầu đảo , bói tóan ,dị đoan . Cả hai mặt đã và đang dấn sâu
Phật giáo vào vũng bùn ô trược . Dù họ lý luận " Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn "
cũng không tẩy xóa đựơc tâm linh con người . Nếu Tịnh độ cho rằng khi suy nghĩ kỹ cõi Ta
Bà với tất cả niệm và định, ta sẽ thấy cõi Ta Bà này cũng đẹp lắm. Tôi nghĩ rằng cõi Tịnh
Ðộ ở Tây phương cũng chỉ đẹp bằng cõi Ta Bà này mà thôi. Tất cả những gì ta thấy ở cõi
Tịnh Ðộ thì bên này ta cũng có thể thấy được cả. Chúng ta đã từng nghe các vị tổ sư nói:
Tịnh Ðộ ở trong tâm mình"ở tâm mình có sự nhẹ nhàng, có sự cởi mở, có sự thanh thoát thì
nhìn cái gì cũng thấy là Tịnh Ðộ cả. Vậy thì cần chi phải cầu về Tây phương Tịnh độ nhỉ ?
Trong khi tâm ta lọan động lại cứ nhờ Thầy cầu nguyện cho bình an , an hay không là do ở
tâm ta quyết định lấy chứ không ai có thể giúp ta an .
Than ôi ! Đức Phật Thích Ca mẫu mực vẹn toàn đã vức bỏ tất cả để thành tựu được ngày
nay, một số Tu sĩ hành đạo lại chỉ muốn ôm giữ tất cả để phải mất tất cả thì làm sao mà
Phật Giáo thoát cảnh suy tàn ?Một giáo lý cao đẹp chứa đầy tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ, Vị
Tha, Vô Ngã… mà ngày nay, một số người con Phật càng sống, càng hành đạo thì bản ngã
như lại càng to, càng lớn, càng thích loạn ngôn và múa may trên sân khấu cuộc đời .
Những màn mang danh nghĩa đấu tranh để có danh vọng , đựơc giải Nonel hoà bình , tiếng
tăm lừng lẩy . Họ đựơc cái gì ? Phật giáo đựơc cái gì ? Xin quý Thầy lên tiếng thử xem .
Danh làm gì , vọng làm gì khi mà tài sản , vật chất , địa vị ..... Ngài Thích Ca cũng vứt bỏ
như đôi dép rách , thế mà ngay nay Thầy nào cũng ham muốn . Trong khi đó thiền định là
lắng đọng vọng tâm , chúng ta nhận ra được tâm chân thật của chính mình, đó là mục đích
của người tu Thiền. Như vậy người tu Thiền nhìn lại nội tâm mình chớ không cần hướng ra
bên ngoài, còn người tu Tịnh độ thì trông về cõi Cực lạc bên ngoài, do đó không giống
nhau. Tu Tịnh độ là đánh mất chân tâm vì tâm hoàn toàn ỷ lại và gởi vào uy lực Thần linh ,
Phật tổ , họ không còn tâm trí để nhận xét chân tâm của chính mình . Một sự ỷ lại do cầu
nguyện để đựơc gia ân , cứu vớt . Thật là buồn cười trong khi đó Tịnh độ cũng biết về
nghiệp , giảng Nghiệp quả là gì với chúng sanh . Có phải đó là hai đừơng tu hành nghịch lý
nhau . Vừa tin A Di Đà Tây phương cứu độ vừa tin nhân nào quả nấy của Như Lai thì làm
sao đây ? Mà chân lý nhân quả là giáo lý tối hậu của như lai.
Vì vấn đề cầu nguyện của Tịnh độ đã đưa đến sự hiểu nhầm đối với Tây phương gán cho
đạo Phật là yếm thế , bi quan giữa cuộc đời . Điển hình là ông ROGER-POL DROIT trong
bài "Phật giáo và hư vô chủ nghĩa " cho rằng :
Giờ thì chúng ta hoàn toàn quên lãng nỗi khiếp sợ xưa cũ này rồi. Tuy thế, ta tìm thấy
nhiều chỉ dấu khác biệt về nỗi sợ hãi đó ở các triết gia Đức – Hegel, Schelling,
Schopenhauer, Nietzsche và những người khác. Nó cũng để lại dấu vết nơi những người
Pháp, từ Cousin cho đến Renouvier, xuyên qua Quinet, Taine, và Renan. Nói chung, dù hơn
dù kém, họ đã đặt Niết bàn gần với hư vô, đã xem Phật Giáo như một thứ hư vô chủ nghĩa,
đã gắn liền Phật Giáo với chủ nghĩa yếm thế. Có thể trưng dẫn hàng trăm thí dụ. Hégel,
trong những phiên bản năm 1827 và năm 1830 của tác phẩm “Encyclopédie” (Bách khoa),
trình bày ở đoạn 87: “Hư vô, mà những người theo đạo Phật tôn làm nguyên tắc của mọi
sự, là mục đích tối hậu và cứu cánh tối hậu của mọi sự.” Trong “Lecons sur la philosophie
de la religion,” ông giải thích rằng, đối với Phật Giáo, “con người phải tự biến thành hư
vô”, thừa nhận “sự bình an vĩnh cửu của hư vô”. Tiếp đó, những triết gia xem thứ lý thuyết
được truyền giảng bởi một người mà Edgar Quinet đặt tên là “Vị Chúa vĩ đại của cái
không” (Le grand Christ du vide) là một thứ “chủ nghĩa cuồng tín hư vô”[1]. Riêng Ernest
Renan thì kết luận rằng thứ tôn giáo không thể nhận thức được này “gán cho đời sống một
mục tiêu tối cao là hư vô,” cái “bộ máy tạo khoảng trống trong tâm linh” này là chỉ dấu
rằng có sự hiện hữu của một “giáo hội của hư vô chủ nghĩa”
Về tánh Không và hư vô có thể được hiểu như là đồng nghĩa. Lý Vô Thường không phải là
giáo lý duy nhất của Đạo Phật. Vào thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch, một triết gia Hy-Lạp
Herakleitos đã nói "Tất cả đều ở trong trạng thái biến đổi" (All is in a state of flux) hay
"Mọi vật đều trôi chảy" nghĩa là vạn hữu đều bị chi phối bởi luật Vô Thường, biến đổi. Ông
Rhys Davids cho rằng :
"Không có thực tại. Chỉ có biến đổi. Tình trạng của mọi cá thể đều bất định, tạm thời và
chắc hẳn phải hủy diệt. Trong mỗi sinh cơ bao gồm những yếu tố vật chất và một chuỗi yếu
tố tâm linh liên tục. Chính sự phối hợp giữa những yếu tố này đã tạo ra cá nhân.
Mọi người, mọi vật và cả Chư Thiên vì thế cũng là tập thành, duyên hợp. Và trong mỗi cá
nhân, sự liên hệ giữa những phần tử tập thành luôn luôn thay đổi, không bao giờ tồn tại
trong hai sát na liên tiếp. Khi một cá thể vừa mới tập thành thì sự phân tán cũng đã bắt dầu.
Không có một cá thể nào không tập thành, không một tập thành nào không thay đổi, không
một thay đổi nào không dị biến, và không một dị biến nào lại không phân tán, hủy diệt, chu
trình đó không sớm thì muộn cũng phải hoàn tất" .
Và Roger-Pol Droit nói " Niết Bàn gần với hư không " như thế có đích xác không? Trước
nhất ông ta phải hiểu thế nào là Niết Bàn theo quan niệm Phật giáo , nó không thể hiểu
như một Thiên đàng trừu tượng của Kito giáo mà ông đang theo. Không riêng gì cá nhân
ông mà chính ngay những người Phật tử chúng tôi đôi khi cũng có ý nghĩ về Niết Bàn.
Cũng nhiều người hiểu Niết Bàn là cảnh tiên giới, vui đẹp có cuộc sống nhàn hạ không lo
miếng ăn , cái mặc , không cần làm việc cực nhọc , hoặc nơi đó có nhạc vui, hoa thơm, cỏ
lạ, nhiều ngọc ngà châu báu, có những ông Tiên nhàn rỗi đánh cờ, những nàng tiên xinh
đẹp ca múa, rong chơi suốt ngày, không biết thời gian là gì. Cũng không có đàn áp bất công
, sự nghèo khổ, lam lũ do việc làm , chẳng có gì bận tâm lo âu, vất vả, phiền muộn như ở
thế gian. Chỉ khi nào chết, hương linh mới có thể đến đó được nếu quyết tâm niệm A Di Đà
không ngừng nghĩ.
Thật là xa vời và ảo tưởng khi mang những hoài niệm như vậy. Đối với tôi rất đơn giản ,
chữ Niết Bàn dịch từ âm của chữ “Nirvana” có nghĩa là ra khỏi rừng mê. Niết bàn là nơi
thanh tịnh , không còn bận tâm chuyện hồng trần đầy si mê, tâm không còn chấp ngã , ngã
mạn. Tóm lại Niết bàn là giải thoát, là bất sinh, là giác ngộ, là không còn luân hồi sinh tử.
Như vậy không đợi đến sau khi chết con người mới có thể lên Niết Bạn nó ở đây : TẠI THẾ
GIAN này , khi nào tâm bạn được thanh tịnh, tuyệt đối an lạc, tự tại là bạn đang ở Niết bàn
, chỉ đơn giản thế thôi. Cho nên Roger-Pol hay các triết gia Đức – Hegel, Schelling,
Schopenhauer, Nietzsche và những người khác mang nổi sợ hải . Nó cũng để lại dấu vết nơi
những người Pháp, từ Cousin cho đến Renouvier, xuyên qua Quinet, Taine, và Renan cho
rằng :"Niết bàn gần với hư vô, đã xem Phật Giáo như một thứ hư vô chủ nghĩa, đã gắn liền
Phật Giáo với chủ nghĩa yếm thế" là hoàn toàn sai. Vì họ cứ nghĩ rằng Niết Bàn là nơi xa
vời tận đâu đâu trên chín từng mây kiểu Thiên đàng. Họ không hiểu Niết Bàn của Phật
giáo là kết quả của tâm và từ tâm mà có. Để rồi Roger-Pol đưa đến sự dẫn dụ sai lầm của
một số học giả Tây phương họ vốn quen từ đạo Chúa mà lý luận và gán cho Phật giáo cũng
như tôn giáo họ :
"Có thể trưng dẫn hàng trăm thí dụ. Hégel, trong những phiên bản năm 1827 và năm 1830
của tác phẩm “Encyclopédie” (Bách khoa), trình bày ở đoạn 87: “Hư vô, mà những người
theo đạo Phật tôn làm nguyên tắc của mọi sự, là mục đích tối hậu và cứu cánh tối hậu của
mọi sự.” Trong “Lecons sur la philosophie de la religion,” ông giải thích rằng, đối với Phật
Giáo, “con người phải tự biến thành hư vô”, thừa nhận “sự bình an vĩnh cửu của hư vô”.
Tiếp đó, những triết gia xem thứ lý thuyết được truyền giảng bởi một người mà Edgar
Quinet đặt tên là “Vị Chúa vĩ đại của cái không” (Le grand Christ du vide) là một thứ “chủ
nghĩa cuồng tín hư vô”. Riêng Ernest Renan thì kết luận rằng thứ tôn giáo không thể nhận
thức được này “gán cho đời sống một mục tiêu tối cao là hư vô,” cái “bộ máy tạo khoảng
trống trong tâm linh” này là chỉ dấu rằng có sự hiện hữu của một “giáo hội của hư vô chủ
nghĩa”
Phật giáo là TĨNH không phải ĐỘNG như những tôn giáo khác. Trong cái Tĩnh của Từ Bi
nhưng nó rất động của Đại Hùng và Đại lực khi cần chiến đấu vì hoàn cảnh bị áp bức hay
cuộc sống thì nó vùng lên đó là Động , khi bình an thì trở về Tâm nó là Tĩnh . Một tinh thần
mà Đức Phật đã dạy vì độc lập mà tiến lên "Con hãy thắp đuốc lên mà đi ". Cái tinh thần ấy
không phải là yếm thế , tiêu cực. Chính nhờ trang bị lòng quả cảm này mà hầu hết Phật
giáo nước nào dù bị trị rồi thời gian vẫn đứng dậy quật khởi dành độc lập tự tồn như Việt
Nam ta.
Đối với Nietzche thì tố cáo :
Phật Giáo là nỗi “hoài vọng về hư vô”, là “sự phủ nhận tính minh triết của bi kịch”[1]. Ông
thống trách sự “suy nhược ý chí” dẫn đến chỗ trốn chạy đau khổ, do đó, không cam chịu
mà cũng không yêu thương đời sống, và đặc biệt phê phán niết bàn, tức là cái “hư vô đông
phương,”
thì quả là quá đáng. Tôi tin rằng Nietzche , Hégel hay ai đó chưa chắc đã đọc và hiểu hết
giáo lý Phật giáo. Ngay như những Tỳ kheo , Phật tử trí thức tu trì và khảo sát kinh Phật
như Việt Nam cũng đã là khó vượt ra khỏi phạm trù từ chữ Hán , Pali qua nghĩa chữ Quốc
ngữ.
Phật Giáo chẳng khác gì là một “phủ nhận toàn diện thế giới” như Nietzche phán đoán.
Nếu như thế thì sau khi đạt đến giác ngộ cao nhất Đức Phật Thích Ca đã không rao giảng
giáo lý giải thoát 49 năm cho nhân loại , để ngày nay chúng ta thừa hưởng một gia tài giáo
lý siêu việt như là một chân lý bất biến mà ngay cả khoa học cố gắng soi rọi , bới móc , tìm
tòi vẫn không tìm được một nghịch lý nào của Phật giáo. Đến độ nhà bác học nổi tiếng nhất
thời đại người Anh Albert Eistein phải ca ngợi :
“Nếu có một tôn giáo nào có thể đối mặt được với những nhu cầu khoa học hiện đại thì đó
chính là Phật giáo”.
Từ sự không thấu đạt được sự thâm sâu giáo lý cho đến bị mắc cạn , nghèo nàn khi khảo
sát kinh điển thiếu hiểu biết ngôn từ , nên Garcia Ayuso người Tây Ban Nha công bố một
tập sách nhỏ nhan đề :
“Cõi niết bàn Phật Giáo và những tương quan của nó với các hệ thống triết học khác” (Le
nirvana bouddhiste et ses relations avec d’autres systèmes philosophiques) – tức là các hệ
thống tư tưởng của Schopenauer và của von Hartmann. Ông viết “Đạo đức và siêu hình của
Thích Ca quá nghèo nàn và các lý thuyết của ông ta là quá lạt lẽo và nói chung, quá thiếu
nền tảng đến nỗi sự truyền bá giáo lý mạnh mẽ của ông ta chỉ có thể thực hiện được ở nơi
các dân tộc đã suy đồi.”
Sự thật bối rối về tư tưởng do Phật Giáo gây ra tại Âu Châu thế kỷ thứ 19, thì hư vô chủ
nghĩa hóa ra là sợi chỉ dẫn đường đáng tin cậy vào thời điểm ấy . Họ cố gắng xoay quanh
vấn đề hư vô và những ý nghĩa khác nhau của nó đã hình thành nên cơn mộng dữ mà Phật
Giáo đóng vai trò trung tâm đã qua đi . Ngày nay ở thế kỹ 21 này Phật giáo đã ăn sâu và đi
vào tận sân sau của Âu Mỹ như là một hào quang sáng ngời , cháy sáng , tĩnh thức nhiều
tâm hồn các học thức , trí giả Tây phương. Có thể có những lúc họ đọc kinh của Đại Thừa
như Pháp Hoa , Sám hối , cầu nguyện..... làm đầu óc họ liên tưởng đến một cái gì bi quan ,
yếm thế và an phận của Phật giáo. Ngày nay hệ thống thông tin điện tử bao trùm đã khai
sáng cho họ qua các kinh điển A Hàm , Trung bộ..... những bộ kinh lớn từ Nguyên Thũy
giữ đúng lời Đức Phật giảng dạy , từ đó họ đã nhận thức , so sánh đâu là sự thật , đâu là
chân lý từ Thích Ca.