Cảm ơn Thầy langtu đã đem đến bài CÓ - KHÔNG thật là hay. Con thành tâm đảnh lễ
Thầy có nêu 1 số vấn đề con xin được trả lời theo thiển ý của mình, xin được Thầy hướng dẫn chỉ dạy thêm !
- Vấn đề 1+1=2 thì con đã trả lời rồi. Nó chỉ đúng trong HQC Toán Thập Phân, không đúng trong Hệ Boole, Nhi Phân, La Mã... Nghĩa là nó chỉ tương đối và phù hợp với HQC mà nó đang được khảo sát. Cho nên nó không phải là Chân Lý.langtu đã viết: Tôi ví dụ 3 sự thật : 1+1=2, là con người ai cũng phải chết, nhiệt độ luôn chuyển từ vật có nhiệt lượng cao sang vật có nhiệt lượng thấp.
- Con người ai cũng chết. Thế nào là chết ? Ở đây chúng ta phải đinh nghĩa cho chữ chết, nghĩa là phải xác lập HQC cho nó thì mới luận tiếp được. Chết có phải là hết ? Rõ ràng là không phải. Chết là hết thì câu nói trên mới có nghĩa, còn chết không phải là hết thì câu đó...
Như vậy : Con người ai cũng chết chỉ có nghĩa tương đối, hàm chỉ cho sự chấm dứt cái Sắc thân, ngủ uẩn,... Không phải là tuyệt đối, như vậy càng không phải chân lý. Đó là con nói về chữ chết còn chưa nói về chữ con người. Thế nào là con người ? Con người có thể thành Thánh, thành Phật không ? Nếu có thể thì Thánh, Phật... có chết không ? Lý luận kỹ thêm chỗ này nữa thì câu trên... (có người con nói chưa sanh lấy gì chết )
Như vậy, mọi câu chữ, mọi khái niệm đều phải được định nghĩa và quy định rõ HQC cho nó. Nếu không sẽ gây ngộ nhận và hiểu lầm cho nhiều đối tượng, người đọc khác nhau (lúc đó họ không thể đặt mình vào HQC người nói được, người nói cần định rõ HQC cho nó ). Khi đã định rõ như vậy rồi thì nó cũng bị ràng buộc vào HQC đang được khảo sát, không phải là Chân Lý (ở đây con dùng từ "Chân lý" chứ không phải từ "Chân Lý tuyệt đối đúng", vì Chân Lý là 1 Sự Thật Khách Quan, không thể gán thêm thuộc tính "đúng, sai, tương đối, tuyệt đối..." cho Chân Lý. Đó chỉ là những thuộc tính chúng ta gán thêm vào cho 1 đối tượng, 1 sự việc hiện tượng... để khảo sát và mô phỏng...Lúc đó phải "định nghĩa, xác lập HQC..." cho những thuộc tính đó và nó bị ràng buộc vào HQC khảo sát, không còn Khách Quan nữa).
- nhiệt độ luôn chuyển từ vật có nhiệt lượng cao sang vật có nhiệt lượng thấp.
Ở đây có 4 từ "nhiệt độ, vật, cao, thấp" cần định nghĩa rõ để khảo sát.
Vật : là chỉ cho các sự vật hiện tượng khí lỏng, rắn mà có thể mắt thấy tai nghe. (con tạm định nghĩa như vậy cho đơn giản).
Nhiệt độ, nhiệt lượng : sự dao động của các phân tử vật chất, không có phân tử vật chất nào không dao động. Nghĩa là không có vật chất nào không có nhiệt độ.
Cao, thấp : Đây là thuộc tính đi kèm theo "nhiệt lượng của vật". Sau khi đã xác lập rõ nghĩa vật và nhiệt lượng thì mới có thế gán thêm thuộc tính "cao, thấp" này vào. Vật có phân tử dao động nhanh thì nhiệt lượng cao, vật có phân tử dao động chậm thì nhiệt lượng thấp. Và trong điều kiện bình thường, xu hướng của mọi vật là chuyển từ nhiệt lượng cao sang nhiệt lượng thấp (nghĩa là chuyển từ trạng thái dao động cao sang trạng thái dao động thấp hơn). Như vậy :
nhiệt độ luôn chuyển từ vật có nhiệt lượng cao sang vật có nhiệt lượng thấp. là chưa chuẩn xác và rõ nghĩa.
- "từ vật có nhiệt lượng cao sang vật có nhiệt lượng thấp" người đọc sẽ hiểu là có vật này nhiệt lượng cao truyền sangvật khác có nhiệt lượng thấp hơn. Ở đây có "vật này, vật khác" là 2 vật khác nhau. Như vậy người đọc sẽ ngộ nhận. Trong thực tế không chỉ như vậy. Thực tế, cùng 1 vật nó cũng có thể chuyển từ nhiệt lượng cao sang nhiệt lượng thấp. Ví dụ : có 1 ly nước nóng lúc mới rót thì còn rất nóng, nhưng để khoảng 15-20 phút thì nó nước trong ly sẽ nguội bớt. Nghĩa là "cùng 1 khối nước trong ly" đã chuyển từ nhiệt lượng cao sang nhiệt lượng thấp.
- "luôn" :cũng chưa chuẩn xác. "Luôn" nghĩa là luôn luôn như vậy trong mọi trường hợp, mọi HQC. Nhưng thực tế không phải như vậy. Nếu như vậy thì không ai có thể tạo ra "hồ quang điện, môi trường Plasma, hạt gia tốc trong các máy gia tốc...". Đó đều là các hiện tượng đưa vật từ nhiệt lượng thấp lên nhiệt lương cao để tạo môi trường "ion, plasma, hạt gia tốc cao..." nghiên cưu trong các công trình Khoa Học hiện đại. Cho nên con chỉ dùng từ "có xu hướng" sẽ chuẩn xác hơn là "luôn", không gây hiểu nhầm cho người đọc. Không "luôn" nghĩa là bị ràng buộc tương đối, không phải Chân Lý.
Như vậy, HQC nghĩa là gì ? HQC gồm có 2 : phần "khái niệm" và phần "quy luật ràng buộc". Nghĩa là để xác lập 1 HQC, chúng ta cần quy ước định nghĩa với nhau về 1 đối tượng cụ thể nào đó. VD: khái niệm số 1 trong Toán học, khái niệm "vật" trong Vật Lý tự nhiên,... Và "luật ràng buộc" giữa các đối tượng đó. Vd : 1,2,3,4...
là các số nguyên trong hệ Thập Phân trong đó số đứng liền sau bằng số đứng trước + thêm 1 đơn vị (chữ in đâm chính là luật ràng buộc các đối tượng đã được đinh nghĩa). Hay như "vật có xu hướng chuyển từ nhiệt lương cao sang nhiệt lượng thấp" (có xu hướng là luật ràng buộc trong HQC đang khảo sát).
Như vậy xét toàn bộ quá trình hình thành HQC đã khảo sát mọi sự vật hiện tượng, mọi lý luận...chúng ta đều "dựa vào" khái niệm quy ước và luật ràng buộc của các khai niệm đó. Như vậy mà tất cả chúng đều tương đối và có thay đổi được (không phải Chân Lý). Vd: Không - Thời gian là 1 hệ tương đối ràng buộc nhau, không thể tách rời (đây thuộc HQC thuyết tương đối của Einstein áp dụng trong Vật Lý hiện đại), nhưng khi tách nó ra Không gian, thời gian độc lập (giữ nguyên khái niệm, thay đổi "luật ràng buộc") thì mọi sự vật hiện tượng khảo sát trở về HQC cơ học cổ điển của Newton. Như vậy muốn khảo sát các sự vật hiện trong HQC nào thì phải sử dụng "khái niệm" và "luật ràng buộc" thuộc HQC đó để khảo sát :
10 m/s + 20 m/s = 30 m/s (khảo chuyển động viên bi thuộc HQC cơ học cổ điển Newton)
0.5 c + 0.7 c = 1.2 c (áp dụng logic kiểu 1+1=2 cho HQC này thì ... , lúc này phải áp dụng phép chuyển đổi vectơ thuộc HQC Không-Thời gian của Einstein mới được )
Tương như vậy cho các hiện tượng "plasma, ion, gia tốc hạt...". Các nhà Vật Lý đã áp dụng quy luật khuếch linh động nhiệt lượng của vật chất (nghĩa là không biệt lập cố định, không phải luôn chuyển từ cao xuống thấp, mà có thể chuyển từ cao xuống thấp cũng như có thể đưa từ thấp cao). Các nhà Vật Lý đã tác động vào "luật ràng buộc" của Hệ và thay đổi toàn Hệ. Nghĩa là họ dùng các máy móc, phương tiện để đưa nhiệt lượng vật từ thấp lên cao và không cho nhiệt lượng đó khuếch tán đi đâu khác (với HQC này các nhà Vật Lý đã có thể tạo các môi trường phi tự nhiên để khảo sát các hiện tượng đặc biệt).
Trên đây là con khái niệm, định nghĩa rõ ràng về HQC và phương cách áp dụng, chuyển đổi nó trong 1 số trường hợp thực tế. Vài dòng đơn giản không thể nói hết phạm trù to lớn này. Mong các Sư Thầy, Sư Cô... xem xét và bổ khuyết dùm cho con !!!
Còn vấn đề : "tin và không tin (duy lý, chứng minh)". thì con cũng từng trả lời trong những bài trước
Có ai tu Phật mà không lạy Phật không ? Tu theo Phật mà không lạy Phật thì không phải đệ tử Phật. Còn như chúng ta có lạy Phật, thì cái mà chúng ta lạy là cái gì ? Cục tượng, cục đất, cục đồng...có phải Phật không ? Thế mà chúng ta vẫn lạy để làm gì ?... Ấy gọi là tin. Dù là người duy lý hay không duy lý đểu phải giống nhau ở điểm này trong Phật Đạo.3 trường hợp NGỘ ĐƯỢC CHÂN LÝ :
1. Loại người duy vật/duy lý (sử dụng cái giả) ---> tiếp nhận cái giả ---> sàn lọc, thuần thục cái giả ---> xả luôn cái giả ( ngộ ra sự thật = ”tâm”, như ví dụ trong nhà cúp điện). Trường hợp này, giai đoạn cuối là khó nhất, loại người này tri thức và lý lẻ rất vững cho nên “chấp ý” rất mạnh (khó mà xả được). Nhưng nếu họ “biết” họ đang đứng trên “cái nền” giả thì có thể xả được.
2. Loại người duy tâm ( che tai bịt mắt, thật giả không màn ) ---> luôn chú tâm hành trì Chánh Pháp ---> nếu không “chấp” phước đức sẽ tăng trưởng ---> khai ngộ được trí huệ ( ngộ được lẻ thật = “tâm” mà không phải dùng “tai, mắt, trí, não…”, hay còn gọi là “trực giác”.
3. Loại hỗn hợp giữa duy vật + duy tâm (có những điều họ chỉ “thuần tin” và cũng có những điều họ phải có câu trả lời = “lý lẻ”) : loại này cũng sẽ trài qua “cơ chế” lãnh hội Pháp như trên ---> cho đến khi ngộ được chân lý = “tâm”.
Con dùng chữ “người duy lý & duy tâm” là có tính tương đối bởi vì người duy lý cũng phải "tin" vào những điều mình cho là đúng, mới tạo thành “hệ tri thức” của người ấy. Như vậy, cái “tin” ấy là bằng gì ? Có phải cũng = “tâm” ? Cho nên 2 khái niệm đó là tương đối để phân biệt với nhau. Nghĩa là 1 bên thì phải phản biện lý giải rồi mới “tin”, 1 bên thì “tin” luôn khỏi bàn cãi
Cuối cùng, theo 3 quá trình trên thì nếu đi đúng, những loại người đó vẫn đồng quy tại 1 điểm ( ngộ chân lý = “tâm”) dù rằng con đường của họ là hoàn toàn khác nhau.
Con cảm ơn Thầy langtu ! Con thật sư may mắn và hữu duyên khi gặp được Thầy trên diễn đàn. Bài CÓ - KHÔNG CÓ thầy luận tuyệt hay, cảm ơn Thầy !! Con đang chờ phần tiếp theo của Thầy. Mong Thầy thật nhiều sức khỏe và đem lại thật nhiều điều vi diệu cho diễn đàn. Công đức thật to lớn. Thiện tai...Thiện tai...
Mong các Sư Thầy, Sư Cô...thân tâm thường an lạc, giác tuệ luôn sáng ngời.
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật !!!