MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Mời mọi người cùng nhau đem đạo vào đời, thảo luận chia sẻ học hỏi kinh nghiệm tu tập và áp dụng Phật pháp vào đời sống hằng ngày

Điều hành viên: Thanh Tịnh Lưu Ly, binh

Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 9. PHƯƠNG PHÁP BỐ GIÁO
Phú Lâu Na thuyết pháp đệ nhất là một nhà truyền giáo vĩ đại, khéo sử dụng những phương pháp thí giáo của đức Phật như: phương tiện thuyết pháp, tùy bệnh cho thuốc, xem căn cơ dạy dỗ, sự lý viên dung. Có thể nói Tôn giả đã được môn tam muội thuyết pháp của đức Phật.

Tôn giả biết rằng thuyết pháp là hoàn toàn vì chúng sanh chớ không phải vì mình, nói pháp là để cho chúng sanh nghe chớ không để cho mình nghe. Đạo lý cao sâu nhiệm mầu chỉ có số ít người lãnh hội, ở trước đại chúng Tôn giả chỉ nói những đạo lý đơn sơ dễ tiếp nhận.

Gặp hạng người nào nên nói giáo pháp nào, đó là sở trường của Phú Lâu Na.

Khi Tôn giả gặp thầy thuốc, liền nói:

- Các ông làm thầy thuốc có thể tạm trị lành những bệnh khổ về thân, còn căn bệnh lớn tham, sân, si trong tâm người các ông có phương chi trị liệu chăng?

- Tôn giả! Y sĩ chỉ có thể trị bệnh đau đầu, đau bụng, đau chân, không trị được bệnh khổ trong tâm. Ngài có biện pháp gì không?

- Có! Phú Lâu Na khẳng định. Giáo pháp của đức Phật như giọt nước cam lồ có thể rửa sạch cấu uế trong tâm chúng sanh. Giới, định, huệ tam học như liều thuốc vạn linh, có thể trị lành tâm bệnh tham, sân, si.

Gặp thầy thuốc thì nói như vậy, còn gặp quan chức, Phú Lâu Na lại hỏi:

- Các ông làm quan, có thể trị tội phạm nhưng các ông có cách gì trị người vô tội chăng?

- Tuy là quốc pháp, nhưng cũng chẳng thể trị phạt người vô tội.

- Ngoài quốc pháp các ông và tất cả dân chúng nên phụng hành Phật pháp. Đạo lý của Ngũ giới, Thập thiện, pháp tắc nhân quả luân hồi, nếu ai giữ đúng sẽ không hề phạm tội.

Phú Lâu Na khéo thuyết pháp như thế, không kể là y sĩ, quan chức đều theo đó mà quy y Tam bảo, tín ngưỡng đức Phật.

Một hôm, Phú Lâu Na đi ngang thôn xóm nọ, gặp mấy người nông phu đang làm ruộng, bèn hỏi:

- Các ông làm ruộng, trồng những thứ lúa để nuôi thân, tôi sẽ dạy các ông phương pháp canh tác ruộng phước để nuôi dưỡng huệ mạng, chịu không?

Nông dân đều hỏi:

- Cày ruộng phước nuôi huệ mạng thì phải làm sao?

- Tin Phật, phụng sự Tam bảo, cung kính với Sa môn, chăm sóc người bệnh, nhiệt tâm đối với những việc từ thiện lợi ích chung, hiếu thuận với cha mẹ, với làng xóm nên ẩn điều xấu phô điều lành, đừng sát hại vô độ. Đó là cách tốt nhất để canh tác phước điền.

Hết thảy nông dân đều chắp tay thưa hỏi, xin lãnh thọ lời dạy của Tôn giả.

Phú Lâu Na không có nơi chốn cố định, thuyết giáo cũng không có phương pháp cố định, khi thì diễn thuyết công khai giữa quần chúng, khi thì đến từng gia đình để phỏng vấn, có khi ngâm vịnh tán ca đức Phật, lúc lại hiện thần thông khiến người phát tâm. Vì vậy giáo pháp của đức Phật rất dễ được chúng sanh lãnh thọ.
  • 10. THUYẾT PHÁP CHO VUA TẦN BÀ SA LA
Nói về Phú Lâu Na từng vận thần thông. Đó là khi vua Tần Bà Sa La bị A Xà Thế nhốt trong ngục, đức Thế Tôn sai Phú Lâu Na và Mục Kiền Liên bay vào trong ngục thất thuyết pháp và trao giới Bát quan trai cho nhà vua.

Tần Bà Sa La là vua nước Ma Kiệt Đà. Trong các vị vua đương thời, nhà vua là người quy y Phật đầu tiên. Về sau vì Đề Bà Đạt Đa xúi giục, thái tử A Xà Thế đem vua nhốt vào ngục tối không cho ăn uống, A Xà Thế bèn lên kế vị.

Nhà vua ở trong ngục bị thái tử cấm chỉ không cho người mang thức ăn. Đối với đứa con ngỗ nghịch ấy, nhà vua cũng cam tâm tự an ủi rằng: Đây là do nhân duyên quá khứ. Càng chịu nguy ách khốn khổ, nhà vua càng nhớ lời Phật dạy: Trời đất, trăng sao, núi Tu Di, biển lớn còn không thể trường tồn, có thành ắt có hoại, có thịnh thì có suy, hợp thì phải tan, sống rồi sẽ chết, hết sướng đến khổ, vui phải có buồn. Trên thế gian chẳng có niềm vui nào vĩnh cửu, chỉ có khổ là miên man không cùng tận.

Tuy nhà vua nghĩ như vậy nhưng cũng không thể hoàn toàn buông bỏ, nghĩ tới mạng sống ngày mai thật là lo âu.

Phú Lâu Na và Mục Kiền Liên bay qua mấy từng ngục phong tỏa, tối om, đen kịt, không khí nặng nề như mồ chôn tử thi, đến phòng giam Tần Bà Sa La. Phú Lâu Na ngồi kế bên nhà vua nói nhỏ:

- Đại vương! Tôi vâng lời Phật đến đây. Phật dạy tôi nói với đại vương rằng: "Sắc thân này là do nghiệp lực chiêu cảm, rốt cuộc đều chịu khổ báo. Nghiệp quả nên để nó kết liễu. Người tu đạo cần yếu là có thể tiêu diệt nghiệp báo, được giải thoát. Người bị giam trong ngục, bị trói buộc mất tự do. Thật ra, người chưa vào ngục mà bị tiền tài, danh lợi, sắc đẹp vây khốn thì cũng giống người đang ở tù. Thế giới Ta Bà đều là một thứ ngục lớn, không kể ngồi tù hay không ngồi tù đều không thoát chết, cho nên cái chết chẳng phải là điều đáng kinh hãi, đang lúc còn sống mà đã hứa hẹn chắc chắn với tử vong, điều đáng sợ là khi chết mà không có chỗ trở về tốt đẹp. Phật dạy, xưng niệm thánh hiệu Phật A Di Đà, phát nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây, đó mới là một cõi nước an lành tự do giải thoát".

Vua Tần Bà Sa La nghe Tôn giả nói xong trong lòng rất an ổn, thấy được ánh sáng của vấn đề chết sống. Và sau đó nhà vua an tịnh vãng sanh.

Phú Lâu Na đối với việc cứu độ chúng sanh khổ nạn không ai bì kịp, thật là khéo thuyết pháp.
  • 11. TINH THẦN BỐ GIÁO
Phú Lâu Na thuyết pháp độ sanh không cầu sự cung kính, không mong dễ dàng, những nơi khó giáo hóa đến đâu, hẻo lánh đến đâu, Tôn giả cũng nhiệt tâm, mong muốn đến đó truyền bá Phật pháp.

Một hôm, sau mùa an cư, Phú Lâu Na nghĩ đến việc đi hoằng hóa, bèn đến thưa đức Phật:

- Bạch Thế Tôn! Xin Ngài từ bi cho phép con đến nước Du Lô Na bố giáo!

Đức Phật nghe nói rất hoan hỷ. Nhưng đức Phật là một nhà truyền giáo vĩ đại, Ngài biết chuyện ấy không phải dễ, chỉ cần đến một nơi như nước Du Lô Na sẽ biết sự thật, Thế Tôn nói:

- Phú Lâu Na! Việc giáo hóa chúng sanh lợi mình, lợi người, ta rất vui hứa cho chí nguyện của ông. Ông đi giáo hóa các nơi ta đều yên lòng. Nhưng ta bảo ông, bố giáo không nhất định phải đi đến nước Du Lô Na. Tốt nhất ông nên chọn nơi nào khác rồi sẽ ra đi.

- Vì cớ sao? Thưa Thế Tôn! Hễ nơi nào có chúng sanh đáng độ, chẳng phải đều có thể đến đó dạy dỗ ư?

Đức Phật giải thích:

- Phú Lâu Na! Du Lô Na là một nước nhỏ hẻo lánh, không có đường giao thông thuận tiện, giáo hóa chẳng được như ý. Dân chúng tánh tình rất hung bạo, đánh chửi thành thói quen, người nước ngoài đến đó dễ bị mất mạng. Hôm nay ông muốn đến nước đó chẳng lẽ ông không sợ nguy hiểm sao?

Nghe Phật nói như vậy, Phú Lâu Na chỉ mỉm cười, biểu lộ chí nguyện cương quyết của mình:

- Thưa Thế Tôn! Ngài từ bi thương tưởng chúng đệ tử, con không thể dùng lời diễn tả mối cảm kích. Con vì cảm động ân ấy mà hoan hỷ nguyện đem thân nhỏ mọn này phụng hiến cho đức Phật, phụng hiến chánh pháp và tất cả chúng sanh. Chính vì Du Lô Na là một nước biên địa hoang dã, trước đây chưa người nào phát tâm giáo hóa, nên con mới nghĩ rằng không đến đó không xong. Đến đó, con cũng biết có tất cả nguy hiểm theo bên mình, nhưng vì muốn tuyên dương chánh pháp thì sự an nguy của một cá nhân bé nhỏ của con không phải là vấn đề cần yếu. Cúi xin đức Thế Tôn từ bi hứa khả, dùng từ quang nhiếp hộ con, cho phép con đi khai mở một cõi Tịnh độ nhân gian.

Trên gương mặt đức Thế Tôn lộ vẻ an tường rất mực từ bi, Ngài vui thích tinh thần vì pháp quên mình của Phú Lâu Na. Nhưng đức Thế Tôn nhìn hàng đệ tử tả hữu đông nhiều, họ cần phải cụ bị tinh thần của một nhà truyền giáo, nên thân thiết hỏi Phú Lâu Na:

- Phú Lâu Na! Ông nói đúng, làm đệ tử ta bố giáo là việc tu hành trọng yếu thứ nhất, nhưng ta hỏi ông, ông đến nước Du Lô Na, nếu như họ không chấp nhận ông mà lớn tiếng chửi mắng, ông mới làm sao?

- Bạch Thế Tôn! Họ mắng chửi con, con vẫn thấy họ còn tốt vì họ cũng chưa lỗ mãng đến nỗi dùng roi gậy đánh đập con.

- Nếu như họ dùng nắm tay, gạch ngói, roi gậy đánh đập ông?

- Con vẫn thấy họ còn tốt, chưa đến nỗi đâm chém con.

- Nếu như họ dùng dao búa như thế?

- Con cũng cho họ rất tốt, họ cũng còn tình người chưa đến nỗi giết con chết.

- Nếu như họ giết ông chết?

- Như thế con lại cảm ơn họ, đã giết sắc thân của con, hỗ trợ cho đạo nghiệp của con, giúp con mau vào Niết bàn, giúp con đem sanh mạng báo đáp ân đức của Thế Tôn. Điều ấy đối với con tuy không có trở ngại, chỉ sợ di hại ảnh hưởng không tốt cho họ thôi.

Đức Phật rất hoan hỷ, khen ngợi Tôn giả:

- Phú Lâu Na! Ông không hổ là đệ tử thứ thiệt. Tu đạo, bố giáo, nhẫn nhục, tâm cảnh của ông rất bình an. Chúng ta sẽ đưa ông lên đường.

Phú Lâu Na được Phật khuyến khích rất cảm động, tâm bố giáo bất thối chuyển càng tăng cường mạnh mẽ. Tôn giả đảnh lễ Phật xong, thẳng đến nước Du Lô Na giữa những tiếng hoan nghinh đưa tiễn của chúng Tỳ kheo.
  • 12. PHẬT SỰ TẠI NƯỚC DU LÔ NA
Phú Lâu Na cáo biệt đức Phật và Tăng đoàn, riêng một mình đi về hướng Đông Bắc, nước Du Lô Na, bước chân mải miết rồi cũng đến nơi.

Nước Du Lô Na đất xấu dân nghèo, chỗ nào không núi cao thì cũng nước sâu, toàn quốc đã không có đô thị phồn hoa, lại rất ít có xóm làng đông đúc, nhân dân chỉ sinh sống bằng nghề săn bắn, ăn lông ở lỗ.

Khi Tôn giả mới đến, chẳng vội giáo hóa thuyết pháp ngay. Trước đó Tôn giả đã học xong ngôn ngữ địa phương Du Lô Na và trong công tác truyền giáo, ngoài ngôn ngữ ra còn phải chuẩn bị nhiều điều kiện.

Nhân dân Du Lô Na đối với tiếng nói của tôn giả không thấy cách biệt, nhưng mọi người thấy Ngài đắp y mang bát đều nhìn với cặp mắt kỳ quái. Tôn giả biết rằng tại một địa phương văn hóa lạc hậu như thế, nếu không dùng phương tiện thì khó mà khai phát lòng tin cho họ. Ngài cũng biết lúc này mà nói chân lý đàm huyền luận diệu thì chẳng có ma nào nghe, chủ yếu trước tiên là phải cải thiện nếp sống của dân chúng. Hoằng pháp không ra ngoài sinh hoạt của thế gian. Do đó, tạm thời ngài không cho biết thân phận Sa môn của mình, chỉ như một ông thầy thuốc mỗi ngày lo thăm bệnh và khán hộ người bịnh.

Phú Lâu Na có nhiều phương thuốc trị bịnh rất đơn giản, không kể xóm làng xa xôi, cho đến phải trèo đèo, vượt suối, hễ nghe tiếng bệnh nhân rên rỉ, Ngài liền lập tức đến nơi không kể ngày đêm, không kể đầu non, cuối biển. Người bệnh thấy ngài như thấy vị cứu tinh, bệnh nặng đến đâu cũng tiêu nhiên qua khỏi.

Phú Lâu Na lại có tư cách một nhà giáo dục, dạy họ học hành chữ nghĩa rành rẽ. Ban ngày dạy cho cách trồng trọt kịp thời tiết, những phương pháp trị gia, chiều đến nhóm họp mọi người lại giảng dạy về đạo lý nhân quả báo ứng của Ngũ giới, Thập thiện. Chẳng bao lâu, dân nước Du Lô Na đều quy y Phật, và tại đây, Tôn giả thâu phục năm trăm đệ tử, thành lập năm trăm ngôi tinh xá.
  • 13. ĐIỀU KIỆN CỦA MỘT NHÀ BỐ GIÁO
Phú Lâu Na theo sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, thường ghi khắc trong tâm lời dạy của đức Phật về mười đức phải có trong công tác bố giáo. Đó là:
  • Khéo biết pháp nghĩa.
    Có thể giảng thuyết.
    Không sợ sệt trước đám đông.
    Biện tài vô ngại.
    Nhiều phương tiện khéo.
    Tùy theo pháp mà ban bố.
    Đầy đủ oai nghi.
    Dũng mãnh tinh tấn.
    Thân tâm không mệt mỏi.
    Thành tựu oai lực.
Tôn giả tuy thân đi hoằng hóa mọi nơi nhưng tâm luôn luôn ở bên Phật. Mỗi lúc gặp ngày Thánh đản của Phật, hoặc Thế Tôn mở đại hội giảng kinh, dù ở xa ngàn dặm, Tôn giả cũng về bên tòa dự thính pháp âm và thăm viếng thưa hỏi Thế Tôn.

Ngày nọ, Thế Tôn trên pháp tòa nhìn xuống thấy Phú Lâu Na đang cùng chúng đảnh lễ, Ngài mỉm cười hỏi:

- Phú Lâu Na! Ông về đấy ư! Đại chúng đều lo lắng cho ông! Ông hóa độ chúng sanh tại nước Du Lô Na thành công chăng? Ông giúp ta tuyên dương chân lý, tinh thần bố giáo, thể chất thanh khiết đều hoàn toàn. Về phương diện tinh thần, ông đã xác định lòng tin vững chắc nơi Tam bảo, ông đã tu dưỡng đầy đủ từ bi, trầm tĩnh, tài trí, dũng cảm, về mặt thể chất ông đã rèn luyện thân thể khỏe mạnh, phẩm hạnh, phong độ, âm thanh, biện tài đều hoàn bị. Phú Lâu Na, ta rất an lòng khi ông đến Du Lô Na bố giáo.

Đức Phật ngưng một chút, lại bảo đại chúng:

- Các Tỳ kheo! Trong hàng đệ tử ta, được như Phú Lâu Na mới xứng đáng với danh xưng Thuyết Pháp Đệ Nhất, các ông nên noi gương Phú Lâu Na.

Các vị Tỳ kheo nghe Phật dạy, đều quay về phía Phú Lâu Na vấn tấn, đảnh lễ, khen ngợi, chúc mừng. Phú Lâu Na một mặt cảm thấy e ngại, một mặt lại được cổ động tinh thần.
  • 14. KHÁNG NGHỊ VỚI ĐẠI CA DIẾP
Thời gian như nước chảy vô tình, năm tháng theo vô thường luân lưu chuyển biến, xuân hoa thu nguyệt, hạ nóng, đông lạnh, ngày qua ngày, năm qua năm, ứng hóa thân của Thế Tôn trên thế giới Ta Bà dần dần già nua. Đến năm ngài tám mươi tuổi bèn nhập diệt tại thành Câu Thi Na.

Các đệ tử đều rất bi ai, Phú Lâu Na đi giáo hóa phương xa, nghe tin Phật Niết bàn, bèn vội vàng dẫn đệ tử về thành Câu Thi Na thọ tang. Về đến nơi, kim thân Thế Tôn đã trà tỳ. Phú Lâu Na ngoài mối thương tâm ấy, còn rất quan tâm đến giáo pháp của Phật, Tôn giả biết rằng giáo pháp chính là Pháp thân Phật.

Biết được các Thượng tọa Tỳ kheo do ngài Đại Ca Diếp lãnh đạo, đã chủ xướng cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất tại Kỳ Xà Quật. Sáng sớm hôm sau, Phú Lâu Na vội đến tham dự. Lúc ấy cuộc kiết tập đã gần xong, Đại Ca Diếp thấy Phú Lâu Na đến rất vui mừng nói:

- Tôn giả! Ngài đến rất đúng lúc. Chúng tôi kết tập giáo pháp của Phật gần xong, đang chờ ý kiến của ngài.

Phú Lâu Na lắng nghe tỉ mỉ phần kết tập và đáp:

- Thưa chư tôn giả! Các vị kết tập giáo pháp như thế này khiến mọi người cảm phục! Về nội dung toàn bộ tôi không có bàn bạc gì thêm. Nhưng về phần Luật tạng, liên hệ đến tám pháp ẩm thực đều dẫn ra để cấm ngăn, tôi khó mà đồng ý, vì điều ấy trái với bản ý của Phật.

Hiện tại các vị cấm tám việc như: Chứa thức ăn trong phòng, nấu nướng trong tự viện, tự nấu, tự lấy thức ăn, từ chỗ khác đem thức ăn về, ăn các thứ trái cây, ăn những vật thực sản xuất từ hồ ao. Cấm tám điều ấy thật là rất bất tiện cho các nhà tu trong tăng đoàn. Gặp lúc lúa bắp khan hiếm, gặp thời đói khổ, khi đi xin không được thức ăn, Phật đều cho phép tám việc trên.

Ngài Đại Ca Diếp là vị trưởng lão oai quyền trong chúng, từ trước chưa ai dám đưa ra ý kiến khác biệt với ngài, tuy trong tâm họ cũng có đôi chút không vui nhưng ngoài mặt vẫn mặc nhiên. Phú Lâu Na cũng là vị trưởng lão cao đức nên mới đưa ra điều này. Đại Ca Diếp nghe xong, nghiêm túc đáp rằng:

- Điều đó đúng, đức Thế Tôn cho phép làm tám việc ấy, nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt mới hứa khả thôi.

Cả hai Tôn giả đều biện luận cho ý mình, rốt cuộc không giải quyết được là nên cấm hay không nên cấm.

Cuối cùng Phú Lâu Na nhượng bộ nói:

- Đã không có biện pháp khác, thì từ đây tôi chỉ giữ y theo những điều tự thân nghe Phật nói, theo sự lãnh ngộ của tôi.

Phú Lâu Na nói xong, lại lên đường tiếp tục hành trình hoằng pháp.

Phú Lâu Na nhập Niết bàn lúc nào, và ở đâu? Chuyện đó không có tài liệu khảo cứu, chúng ta chỉ biết rằng, sau khi Phật nhập diệt Phú Lâu Na vẫn nhiệt tâm đi giáo hóa khắp nơi. Xem cuộc kháng nghị của Tôn giả với ngài Đại Ca Diếp, chúng ta thấy Đại Ca Diếp cố giữ đúng y pháp, còn Phú Lâu Na thì đứng về phương diện tự do.

Tôn giả Phú Lâu Na luôn luôn lưu tâm đến Phật pháp, luôn luôn vì đại chúng mưu cầu hạnh phúc. Ở thời ma cường pháp nhược này, chúng ta tìm đâu ra một tinh thần và nhiệt tình bố giáo như Tôn giả?

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

TÔN GIẢ ƯU BA LY
TRÌ GIỚI ĐỆ NHẤT
  • 1. XUẤT THÂN TỪ GIAI CẤP THỦ ĐÀ LA
Tôn giả Ưu Ba Ly được liệt kê trong số mười vị đại đệ tử của Phật, đối với giai cấp nghiêm khắc của xã hội Ấn Độ, không phải là chuyện dễ.

Ưu Ba Ly xuất thân từ dòng hạ tiện Thủ đà la, số mạng định sẵn là chỉ có làm nô bộc cho người. Ở cổ Ấn Độ, người sanh trong dòng Thủ đà la, ngay từ khi mới lọt lòng đã bị sự kỳ thị, bị xem như đồ phẩn uế không đáng nhìn tới.

Người Thủ đà la, nếu gặp hàng Bà la môn hay Sát đế lợi trên đường đi, phải quỳ xuống bên đường nhường lối, nếu lén nhìn sẽ bị móc mắt, còn nếu lý luận với hai hạng trên, thì sẽ bị cắt lưỡi. Thật đáng thương cho Ưu Ba Ly đã sanh ra trong dòng Thủ đà la nên phải chịu một kiếp sống bi thảm như vậy.

Tuổi thơ của Ưu Ba Ly được niềm an ủi duy nhất là tình thương của cha mẹ, lòng thương con thì dù ở giai cấp nào cũng chẳng kể mức độ cách biệt.

Từ nhỏ Ưu Ba Ly đã không được hưởng quyền lợi về học vấn. Người của dòng Thủ đà la mà muốn học tập pháp điển Mã nổ của Bà la môn, là một vọng tưởng hão huyền.

Đến khi lớn khôn, cha mẹ Ưu Ba Ly nghĩ đến việc chọn cho con mình một nghề nghiệp để nuôi thân. Lúc ấy, những nghề như thương buôn hoặc công chức thì không cho phép người Thủ đà la tham dự. Hơn nữa, đã không được học hỏi mà đi làm công chức hoặc thương buôn làm sao được. Cha mẹ chàng đã biết con đường tương lai của con mình chỉ có chọn lựa trong các nghề nông dân, lao lực, nô lệ, chọn lấy một nghề để sinh nhai cho qua một kiếp tủi hèn.

Ban đầu, song thân chàng định cho chàng học nghề làm ruộng, nhưng sau nghĩ đến việc ruộng nương thiệt tân khổ, người cày cuốc cần phải có sức lực, mà Ưu Ba Ly bẩm chất vốn ốm yếu làm nghề đó sợ sống không lâu. Sau nữa, họ lại định cho chàng học nghề đánh xe, nhưng nghĩ lại dù làm kẻ chăn ngựa hay người đánh xe phải đi sớm về tối, bôn ba lao lực, nên lại thôi. Lòng của người làm cha mẹ muốn chọn cho Ưu Ba Ly một nghề thích hợp thiệt cũng lắm phen do dự.

Làm nô lệ cho người cần nhất là chọn được chủ nhân tử tế. Muốn vậy phải có nghề nghiệp chuyên môn. Và sau khi thương lượng đắn đo, họ bèn cho Ưu Ba Ly học nghề hớt tóc.

Ưu Ba Ly là một cậu bé học nghề rất dễ dạy, tánh tình khiêm tốn và có thói quen vâng lời, học các kỹ thuật hớt tóc, chải bới, chẳng bao lâu Ưu Ba Ly đã học thành thạo các kiểu cách thời trang, mọi thứ cắt tỉa, thủ thuật nghề nghiệp.

Ra nghề, song thân Ưu Ba Ly lại tìm người giới thiệu cho con, và Ưu Ba Ly được nhận vào vương cung Ca Tỳ La để hớt tóc trang điểm cho các vương tôn công tử.

Tuy chỉ là một người thợ hớt tóc, nhưng tâm tánh của Ưu Ba Ly rất thuần lương, trung hậu. Rốt cuộc chàng được sự tín nhiệm của các vương tử, cho ở luôn tại hoàng cung để cắt tóc cho các tiểu vương tử. Các ông hoàng nhỏ như Bạt Đề, A Na Luật đều rất thích chàng thợ cạo Ưu Ba Ly. Bởi vì với lối cắt nhanh gọn, khéo léo, nhẹ nhàng không làm đau đầu, Ưu Ba Ly được mọi người ưa chuộng, và chàng cũng hết lòng kính trọng các vương tử.
  • 2. CẠO TÓC CHO ĐỨC PHẬT
Vào khoảng gần hai mươi tuổi, Ưu Ba Ly đã là một người thợ hớt tóc lành nghề. Lúc ấy đức Phật thành đạo được ba năm, ngài đã trở về cố hương Ca Tỳ La. Đến ngày cạo tóc, mọi người bèn giới thiệu Ưu Ba Ly.

"Cạo tóc cho đức Phật!" Ưu Ba Ly nghe tin ấy rất lo sợ hoang mang. Chàng nghĩ đến đức Phật là bậc Đại giác, có ba mươi hai tướng tốt, nhất định đầu tóc của ngài không giống người thường. Ưu Ba Ly nghĩ đến đó đã e ngại, rủi như lỡ tay xúc phạm đến đức Thế Tôn thì làm sao. Chàng trở về nhà nói hết tâm sự với mẹ. Vốn xuất thân từ dòng Thủ đà la đã mang nặng lòng tự ti từ lúc nhỏ, đức Thế Tôn là hàng vương tử thành Phật, chính chàng còn không dám nhìn đến gót chân của ngài, làm sao dám cạo tóc?

Mẫu thân bèn an ủi Ưu Ba Ly, khuyên con đừng sợ, nghe đồn rằng đức Phật rất từ bi, thường thuyết pháp cho mọi người nghèo khổ. Đức Phật chắc chắn không có thành kiến như người đời, chắc chắn sẽ không khinh thị người Thủ đà la. Tuy nghe mẹ nói như vậy, nhưng Ưu Ba Ly vẫn không yên tâm. Mẹ chàng bèn bảo ngày mai bà sẽ cùng đi với Ưu Ba Ly đến chỗ Phật.

Thật cũng lạ đời, đã rành rẽ kỹ thuật hớt tóc mà khi đi làm phải có mẹ theo tiếp một bên. Qua câu chuyện này, chúng ta cũng thấy được cá tánh của Ưu Ba Ly.

Hôm sau, bà mẹ dẫn Ưu Ba Ly trước tiên đến bái kiến đức Phật và sau mới bảo cạo tóc cho Thế Tôn.

Ưu Ba Ly cẩn thận, chú ý từng chút, chậm rãi làm việc. Mẹ chàng đứng một bên theo dõi, một lúc sau bà quỳ trước mặt đức Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Kỹ thuật cạo tóc của Ưu Ba Ly ra sao?

Đức Phật chú ý nhìn Ưu Ba Ly một lúc rồi mới đáp:

- Thân thể rất cong.

Đại khái là do Ưu Ba Ly đối với Phật cung kính nên cúi khom lưng mà cạo tóc, không dám ngẩng lên. Chàng nghe Phật nói lại tập trung tâm ý, theo truyền thuyết thì lúc ấy chàng đã tấn nhập Sơ thiền. Một lúc sau, mẹ chàng lại quỳ xuống thưa:

- Kính bạch Thế Tôn! Lúc này Ưu Ba Ly cạo tóc thế nào?

Đức Phật lại đáp:

- Lúc này thân thể rất ngay thẳng.

Ưu Ba Ly nghe Phật nói, lại chẳng dám khởi vọng tưởng ngừng nghỉ, nhất tâm nhất ý và lúc đó chàng lại được công phu nhập Nhị thiền.

Chẳng bao lâu, mẹ chàng lại cung kính hỏi thăm:

- Kính bạch Thế Tôn! Bây giờ Ưu Ba Ly cạo tóc ra sao?

- Hơi thở vào quá thô! Đức Phật đáp.

Ưu Ba Ly nghe nói liền tập trung tâm ý vào hơi thở, theo truyền thuyết, lúc đó chàng đã nhập đệ Tam thiền.

Sau cùng, mẹ chàng lại hỏi:

- Kính bạch Thế Tôn! Hiện tại Ưu Ba Ly cạo tóc thế nào?

- Hơi thở ra quá thô!

Lúc ấy, Ưu Ba Ly chẳng khởi một niệm, quên luôn con dao cạo trong tay, và theo truyền thuyết lúc đó chàng đã vào đệ Tứ thiền.

Đức Phật liền gọi vị Tỳ kheo đứng gần:

- Ông đến lấy con dao trong tay của Ưu Ba Ly ra, chú ấy đã nhập Tứ thiền, không còn tưởng niệm gì cả, và cần một người đỡ dùm chú bé đừng cho té xuống đất.

Theo ký sự này, chúng ta có thể biết Ưu Ba Ly đã chú tâm đến mức nào trong công tác, mỗi lần nghe lời chỉ dạy của Phật đều sửa đổi thật đúng. Với bản chất ưa suy tư và tánh tình nghiêm túc, nên trong cuộc sống được nhiều người giúp đỡ, và ngay bản thân mình đã không để cho người dèm chê hoặc phê bình một lời. Do đó, về sau Ưu Ba Ly được tôn xưng là Trì giới bậc nhất, không phải không có lý do.
  • 3. XUẤT GIA TRƯỚC LÀM SƯ HUYNH
Đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ, khắp rưới mưa pháp trong hoàng cung. Những hạt giống Bồ đề đã gặp duyên nẩy mầm tăng trưởng. Các vương tử dòng họ Thích nghe đức Thế Tôn thuyết pháp nhiều người phát tâm xuất gia theo Phật.

Trong số ấy có nhiều người được phụ mẫu cho phép, cũng có người phụ mẫu không tán thành, các hoàng thân này cùng hẹn nhau lén trốn đi, đến rừng Ni Câu Đà tìm đức Phật, xuất gia rồi sẽ báo tin cho hoàng gia biết sau.

Trong số bảy vương tử ấy có mặt Bạt Đề, A Nan và A Na Luật. Muốn xuất gia phải cạo bỏ râu tóc, các hoàng thân bắt buộc phải mang theo Ưu Ba Ly. Trong khu rừng gần kề tịnh xá của Phật, dưới bóng cây rừng, khi Ưu Ba Ly cạo tóc cho vương tử Bạt Đề đã tuôn rơi từng giọt nước mắt. A Na Luật thấy thế mới dùng quyền vương gia mà trách hỏi Ưu Ba Ly:

- Ngươi thấy chúng ta xuất gia, đáng lý phải vui vẻ, tại sao lại khóc?

Ưu Ba Ly sợ sệt đáp:

- Thưa vương tử! Xin ngài khoan thứ cho sự vô lễ của kẻ tiện dân. Vì vương tử Bạt Đề đã đối xử với hạ dân rất tử tế, hôm nay, ngài đã xuất gia với các vương tử, xuất gia rồi kẻ hèn này không còn được gặp lại, nghĩ đến đó hạ dân không cầm được nước mắt. Xin vương tử đừng trách mắng.

A Na Luật nghe xong, thông cảm và an ủi Ưu Ba Ly:

- Ngươi đừng lo lắng, chúng ta sẽ giúp đỡ cho ngươi sinh sống.

Và quay sang các vương tử, A Na Luật nói:

- Này các vương huynh vương đệ! Ưu Ba Ly hầu hạ chúng ta cũng khá lâu, y rất siêng năng, trung thành. Hôm nay chúng ta đi xuất gia, nên an bài cho cuộc sống của y. Chúng ta hãy gói tất cả những đồ trang sức trên thân mình lại và cho Ưu Ba Ly. Chúng ta xuất gia rồi đâu cần dùng mấy thứ này.

Các vương tử đều tán thành ý kiến của A Na Luật. Mỗi người đều cởi y phục gấm vóc và đồ trang sức châu báu tặng cho Ưu Ba Ly, và bảo trở về thành Ca Tỳ La, còn họ lại đi tìm Phật.

Các vương tử đi rồi, Ưu Ba Ly định quay về nhưng lúc ấy hốt nhiên đổi ý: "Bây giờ mà ta đem những thứ châu báu này về thành thuật lại, thì lão vương và hoàng gia đại thần nhất định sẽ gán cho ta tội a tòng theo các vương tử, đưa đi xuất gia, tội đáng chết, ta khó mà toàn mạng. Các vương tử tôn quý như thế mà còn bỏ vinh hoa của thế gian để đi xuất gia, còn kẻ hạ tiện như ta thì có lưu luyến cái gì trên cuộc đời này? Hay là ta cũng đi tìm Phật xin theo tu luôn!"

Nghĩ xong Ưu Ba Ly bèn quyết định, như thỏi sắt bị nam châm thu hút, không chút do dự đem bọc đồ trân bảo treo lên nhánh cây, để mặc ai đi ngang có thấy được lấy xài, còn mình đi về hướng đức Phật.

Đi một đỗi, lại nghĩ đến thân phận hạ tiện của mình, trong lòng Ưu Ba Ly nổi lên niềm bi ai tủi hổ, chàng ngồi bên đường khóc lóc, tự nhủ:

- Ta làm gì có tư cách được xuất gia? Các vị ấy là vương tử, còn ta chỉ là thân nô bộc, làm sao dám sánh ngang hàng xuất gia với vương tôn?

Chàng than thở oán trách thế gian không công bình, giận cho số phận mình không may, vừa buồn vừa khóc như vậy, thì bỗng nghe bên tai có người hỏi:

- Có chuyện gì mà anh khóc lóc buồn thảm như vậy?

Ưu Ba Ly ngó lên, thấy tôn giả Xá Lợi Phất, vội chùi nước mắt, quỳ xuống thưa:

- Bạch Tôn giả! Ngài là đại đệ tử của đức Phật, khi ngài theo Phật về hoàng cung con có được biết ngài. Xin thỉnh ý ngài. Một người dòng dõi Thủ đà la như con không biết có được theo Phật xuất gia làm đệ tử hay không? Con đã mạo muội vọng tưởng như vậy, thật quá quắc, xin Tôn giả từ bi chỉ bảo.

Xá Lợi Phất hỏi lại:

- Anh tên gì?

- Con tên Ưu Ba Ly.

Tôn giả bèn nhớ lại khi trước, chú thợ cạo của đức Phật đã nhập Tứ thiền lúc ấy, chính là người này. Tôn giả liền nói:

- Giáo pháp của đức Thế Tôn rất tự do, bình đẳng. Không kể người trí hay người ngu, không chia nghề nghiệp sang hèn, chỉ cần có khả năng giữ gìn giới luật, là ai ai cũng có thể làm đệ tử Phật, ai cũng có thể xuất gia, ai cũng có thể chứng quả Chánh giác Vô thượng. Anh hãy theo ta, đức Thế Tôn nhất định sẽ rất hoan hỷ thâu nhận anh làm đệ tử xuất gia.

Ưu Ba Ly nghe nói, mừng rỡ quá đỗi, bèn theo sau tôn giả Xá Lợi Phất về bái kiến đức Phật. Đức Phật cũng hoan hỷ làm lễ thế độ cho Ưu Ba Ly và trao luôn cụ túc giới. "Nước trăm sông đều chảy về biển cả, bốn chủng tánh xuất gia, đồng một họ Thích", đó là tinh thần của đức Phật quy định trên pháp chế, hôm nay đã thực hiện thành sự thật qua việc Ưu Ba Ly xuất gia.

Đức Phật dạy Ưu Ba Ly:

- Ông rất có thiện căn. Ta biết ông sau này nhất định sẽ tuyên dương chánh pháp của ta. Trước khi ông đến đây, các vương tử đã đến xin ta làm lễ thế độ.

Tuy ta đã thâu nhận họ làm đệ tử nhưng phải gia hạn cho họ tu tập trong bảy ngày, đợi họ quên được tập khí vương tử rồi, chỉ còn một việc là đệ tử của ta thôi, ta sẽ làm lễ cho họ. Lúc ấy họ sẽ dùng lễ độ để ra mắt ông.

Ưu Ba Ly cảm động đến rơi lệ. Tuy ngày trước đã có dịp cạo tóc cho đức Phật, nhưng không ngờ đức từ bi của ngài cao rộng như thế. Thầy tự nguyện từ đây trở đi sẽ làm một đệ tử tín thành, sẽ luôn luôn theo Phật học tập.

Bảy ngày sau, đức Phật cho gọi Bạt Đề, A Na Luật... bảy vị vương tử ra mắt đại chúng. Ở giữa đông đảo huynh đệ, họ bất ngờ khi nhìn thấy thầy Tỳ kheo Ưu Ba Ly, các vương tử đều ngạc nhiên quái lạ, đều do dự không biết phải gọi Ưu Ba Ly như thế nào mới đúng. Đức Phật nghiêm nghị bảo:

- Các ông do dự điều gì? Trong pháp xuất gia học đạo việc trước nhất là phải hàng phục tâm kiêu mạn. Ta đã cho Ưu Ba Ly xuất gia trước, thọ giới trước, các ông phải đảnh lễ thầy ấy chứ còn sao nữa?

Bạt Đề, A Na Luật... nghe Phật dạy, đều khiêm tốn cúi đầu làm lễ Ưu Ba Ly, ngay lúc ấy họ cảm thấy tín tâm xuất gia càng thêm mạnh mẽ. Ngược lại, Ưu Ba Ly cảm thấy lúng túng không an. Phật bảo thầy:

- Ông cũng nên dùng lễ huynh trưởng mà đối với các ông ấy.

Ưu Ba Ly hết cả e ngại, cảm động quá chỉ còn biết đảnh lễ đức Phật.

Một người bị xem là kẻ nô lệ hạ tiện, đối với những người xuất gia sau, là những vương tử mình đã từng phục dịch, ở trong Phật pháp lại được lãnh thọ sự đối đãi ngang hàng, đó là việc chưa từng có ở trong một xã hội nặng nề về giai cấp như Ấn Độ.

Việc Ưu Ba Ly xuất gia khiến cho pháp chế của đức Phật dần dần thực hiện. Trong tăng đoàn không có sự phân chia chủng tộc. Về sau Ưu Ba Ly được thành tựu, thật không cô phụ ân huệ của Phật.
  • 4. MỘT ĐOẠN BỔN SANH
Mùa hạ trong năm Ưu Ba Ly xuất gia, đang khi chúng tăng cử hành lễ an cư, Ưu Ba Ly đã tinh tấn tu đạo và khai ngộ. Do đó, Tôn giả đã thành một bậc thượng thủ trong Tăng đoàn, được sự cung kính của hai chúng tại gia, xuất gia. Việc ấy cũng làm nhiều người kinh ngạc. Một người dòng Thủ đà la thấp hèn mà căn cơ mẫn nhuệ đến như vậy, đó không những làm rạng rỡ cho dòng Thủ đà la, mà cũng làm vẻ vang cho tinh thần bình đẳng của Phật giáo.

Nhân dịp này, đức Phật đặc biệt nói đến một đoạn bổn sanh của Ưu Ba Ly.

Về thời quá khứ có hai người bạn đều sanh trong gia đình bần cùng, tuy vậy cả hai đều không quên làm việc thiện, bố thí cúng dường. Do nhân duyên công đức ấy về sau họ tái sanh, một người làm quốc vương tên là Phạm Đức, một người sanh trong một gia đình Bà la môn cao quý, tên là Ưu Bà Gia. Ưu Bà Gia kết hôn với một cô nương đẹp mỹ miều, rất mực yêu dấu. Một hôm, nhân lúc Ưu Bà Gia tỏ thái độ lịch sự thân mật với một vài thiếu nữ, bị phu nhân bắt gặp và nàng không bằng lòng chút nào. Nàng hờn giận Ưu Bà Gia, nằm khóc lóc ba, bốn hôm rồi sau đó chẳng thèm nói chuyện với chàng, suốt ngày cứ lầm lì im lặng.

Cô vợ trẻ đa nghi dữ quá khiến Ưu Bà Gia chẳng biết làm cách nào, chỉ biết rầu rĩ mà thôi. Cho đến một hôm, mùa xuân đã qua, sắp sang hè, cô vợ yêu bấy lâu không nói chuyện, bỗng nhiên nay bảo chàng:

- Bữa nay chàng hãy đi ra phố mua ít hoa tươi về trang hoàng trong phòng chúng ta nhé!

Chàng trượng phu đa tình nghe được vợ nói mấy lời rất mừng vui, lập tức ra chợ tìm hoa tươi. Mua xong về giữa đường gặp lúc giữa trưa nóng bức, nhưng tâm tình chàng rất cao hứng vì được giảng hòa với vợ, nên chàng vừa đi vừa lớn tiếng hát vang.

Lúc ấy, vua Phạm Đức đang ở trong cung, nhà vua lên lầu quan sát phong cảnh thấy Ưu Bà Gia đi ngang qua cung vua. Tiếng ca bay đến tai vua Phạm Đức. Nhà vua nghe hát rất lấy làm lạ, nghĩ thầm: "Nhìn cách phục sức của chàng ta thì thuộc dòng Bà la môn, nhằm lúc trời nóng đổ lửa như thế này mà bỗng nhiên ca hát ngoài đường, nhất định chàng ta phải là một người lạc quan lắm". Nhà vua nổi tánh hiếu kỳ, sai người cho gọi Ưu Bà Gia đến hỏi chuyện. Hai người đàm đạo giây lâu, nhà vua rất vừa ý, phong cho Ưu Bà Gia một chức quan to trong triều, và từ đó rất sủng ái Ưu Bà Gia.

Ưu Bà Gia được vua Phạm Đức tín nhiệm, uy quyền càng ngày càng lớn. Cho đến về sau nhân dân chỉ biết có Ưu Bà Gia mà không biết có vua Phạm Đức. Ưu Bà Gia không biết đủ. Một hôm, nhân vua Phạm Đức ngủ say, chàng khởi ý định hành thích vua đoạt ngôi. Đang lúc nuôi âm mưu soán đoạt, bỗng chàng giật mình tỉnh ngộ, cảm thấy lòng tham muốn về danh lợi quyền tước thật đáng ghê sợ. Chàng đem hết tâm niệm ác độc của mình thuật lại cho vua Phạm Đức nghe, nhà vua lại càng khen ngợi lòng trung thực của chàng. Sau đó, Ưu Bà Gia nguyện từ bỏ địa vị sám hối xuất gia, tu hành không bao lâu liền được thần thông.

Lúc ấy, trong hoàng cung có một người thợ cạo tên Hằng Già Ba La nghe vua Phạm Đức khen ngợi chí xuất gia của Ưu Bà Gia, ban đầu sanh tâm tùy hỷ, và cũng phát nguyện xuất gia làm đệ tử Ưu Bà Gia, một lòng tu đạo rồi cũng đắc thần thông như thầy.

Hai thầy trò Ưu Bà Gia đều trở thành bậc Thánh, có thần thông ngang nhau. Một hôm, vua Phạm Đức lên núi cúng dường Ưu Bà Gia, vua đảnh lễ thầy rồi lại nghĩ thầm: "Đối với bậc thánh không nên so đo về chỗ xuất thân của quá khứ", bèn tự mình làm gương, hướng về thầy Hằng Già Ba La đảnh lễ, và bảo cả trăm quan đại thần tùy tùng cùng đảnh lễ Hằng Già Ba La. Thầy tuy xuất thân hạ tiện, do oai lực của pháp mà khiến ngay cả nhà vua cũng quỳ lạy.

Trên đây tuy chỉ là một đoạn sự tích của Phật ngày xưa, nhưng pháp vốn vĩnh cửu bất biến, ở trong Phật pháp không kể là xuất thân từ hạng nào, đều không thành vấn đề, người đã khai ngộ đều được mọi người tôn trọng, mà chứng ngộ thì không phân chia giai cấp.

Đức Thế Tôn kể xong câu chuyện, trân trọng bảo đại chúng:

- Ưu Bà Gia thuở ấy chính là thân ta, chàng thợ cạo Hằng Già Ba La nay chính là Ưu Ba Ly vậy!

Một đoạn cố sự đơn giản như thế, nhưng nếu nghiền ngẫm kỹ, chúng ta sẽ thấy nó hàm chứa biết bao ý chỉ. Vì tham quyền mà sanh tâm sát hại. Trong thời kỳ tu nhân của đức Phật đã từng nuôi dưỡng ý niệm đó. Ưu Ba Ly là dòng Thủ đà la, hiện tại được khai ngộ chứng quả, làm bậc thượng thủ trong chúng, được mọi người tôn trọng, chuyện ấy cũng không phải lần đầu, mà cũng đã có nguyên nhân trong quá khứ.

Đức Thế Tôn nói pháp rồi, khiến tất cả lòng nghi ngờ trong chúng đối với Ưu Ba Ly hoàn toàn tiêu tan.
  • 5. TAO NGỘ TRÊN ĐƯỜNG HOẰNG HÓA
Sau khi chứng ngộ, với bản tánh cẩn thận gò bó, rất chú trọng tứ oai nghi hằng ngày đối với giới điều đức Phật chế ra, Tôn giả đều nhất nhất tuân thủ, không hề hủy phạm, các bậc Tỳ kheo đồng học đều tôn xưng là bậc Trì giới đệ nhất.

Về vấn đề này, nếu là người tu chân chánh thì đối với bậc trưởng lão nghiêm trì giới luật đương nhiên rất cung kính, hoan hỷ cúng dường. Còn người nào không tuân quy củ, không nghiêm trì giới hạnh sẽ không ưa người trì giới, đó cũng là chuyện tự nhiên.

Do đó, trong Tăng đoàn có số người không ưa Ưu Ba Ly, thậm chí còn phê bình nữa là khác.

Một bậc Tỳ kheo giữ giới lúc cư trú tại viện, sẽ có những tín đồ cung kính đến quỳ trước phòng tỏ bày niềm tin, nhưng khi đi ra ngoài hóa đạo không nhất định sẽ được sự hoan nghinh của tăng và tục.

Một hôm, tôn giả Ưu Ba Ly cùng một nhóm các Tỳ kheo trì giới như pháp đi du hóa các nơi. Các vị xiển dương, đề cao tinh thần trì giới, thường thường cử hành các pháp sám hối khi Yết ma cử tội, Yết ma diệt tẫn, Yết ma y chỉ, Yết ma quở trách... thì rất hoan hỷ tiếp đón Tôn giả. Và trái lại, có một số Tỳ kheo, khi nghe tin Ưu Ba Ly đến chẳng vui chút nào. Họ bàn soạn với nhau:

- Bữa nay Tỳ kheo trì giới Ưu Ba Ly đến đây. Lão ấy mà tới nhất định sẽ có chuyện dạy dỗ chúng ta chuyện gì nên làm, chuyện gì không được làm, làm tăng thêm lòng nghi hối cho chúng ta. Chúng ta nên tìm cách cản trở lão ấy, đừng cho ghé đây.

- Lão ta mà đến thì mình đóng cửa lại, đem tọa cụ treo ngoài cửa đừng thèm hỏi han gì lão.

- Cần gì. Hễ lão vừa tới thì ta bỏ đi nơi khác.

Ưu Ba Ly vẫn thường gặp những tình cảnh như thế nên trong lòng hối hận không muốn đi ra ngoài hoằng pháp, nhưng đức Phật lại thường cổ động Tôn giả.

Cho nên một hôm, bà ni Thâu La Nan Đà tự nhiên đến mắng ngay tôn giả Ưu Ba Ly:

- Ông không phải là người chân tu, chuyên môn ưa gây sóng gây gió. Tại sao ông cứ theo hỏi đức Thế Tôn: Đây là hai bộ tăng trì, kia là một bộ tăng trì, chuyện này nên làm, chuyện kia không nên làm... khiến cho cuộc sống chúng tôi tăng thêm khổ sở rối rắm!

Gặp những cảnh như vậy, Ưu Ba Ly chỉ một bề nhẫn nhục, không trả lời đi lại. Một vị Tỳ kheo giữ giới nghiêm minh thì người chân chánh tu đạo sẽ rất hoan nghinh, còn kẻ tu giả dối thì chẳng ưa chút nào.

Đức Phật rất lưu tâm đến Tôn giả. Mỗi khi gặp các Tỳ kheo đi hoằng hóa các nơi trở về, ngài đều thăm hỏi:

- Các ông có gặp Tỳ kheo Ưu Ba Ly không?

- Bạch Thế Tôn! Con có gặp, tôn giả đang giáo hóa nơi đó, nơi đó.

- Tại nơi ông ấy đi ngang, mọi người có cung kính cúng dường không?

- Bạch Thế Tôn! Có những địa phương chẳng đủ lễ với Tôn giả. Đồ chúng tại gia thì không biết Tôn giả là bậc trì giới, còn Tỳ kheo xuất gia thì không muốn gặp Tôn giả, thậm chí còn có Tỳ kheo ni nổi sân mắng chửi nữa!

- Như thế là làm sao? Đức Phật hoài nghi hỏi.

Tỳ kheo kia thật tình thưa:

- Tại vì mọi người thấy rằng sống chung với một vị Tỳ kheo trì giới thật là bất tiện!

Đức Phật nghe xong không vui, liền triệu tập các Tỳ kheo, dạy bảo giới rất đáng tôn quý, người trì giới như một ngọn đèn sáng, người có phẩm hạnh đoan chánh, thân tâm thanh tịnh tự nhiên ưa chỗ sán lạng. Còn những ai ưa làm điều quấy quá ám muội mới không ưa ánh sáng, thích chỗ hắc ám.

Đức Phật cho người mời các Tỳ kheo vô lễ với Ưu Ba Ly và Tỳ kheo ni sân hận nhục mạ Ưu Ba Ly đến. Ngài hỏi:

- Các ông cự tuyệt Ưu Ba Ly, tránh mặt không gặp và sân si ác khẩu mắng chửi ông ấy, thiệt có như vậy chăng?

Những người này không dám nói dối với Phật, chỉ biết thừa nhận:

- Bạch Thế Tôn! Dạ phải, chúng con quả thật có vô lễ với Tôn giả ấy.

Đức Phật nghiêm nghị quở trách:

- Các ông thật ngu si! Không cung kính Tỳ kheo trì giới thì còn ai đáng cung kính hơn? Giới là thầy của các ông. Giới ở nơi nào pháp ở nơi đó. Giới còn là pháp còn. Các ông không cung kính Tỳ kheo trì giới chứng tỏ các ông có ý đồ phi pháp!

Vì ái hộ cho Ưu Ba Ly, đức Thế Tôn quở trách nặng nề các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni kia. Như thế đủ biết Tôn giả Ưu Ba Ly đã có địa vị trọng yếu đến đâu.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 6. NGƯỜI DẸP TRANH CÃI
Trong Tăng đoàn, người y pháp tu hành chứng quả rất nhiều, mà người phạm giới cũng không ít, như Tỳ kheo Ca Lưu Đà Di, Đề Đà... trong Tỳ kheo ni thì có Tu Ma, Bà Phả, Thâu La Nan Đà... đều hay phạm giới. Hạnh ác của họ, danh đồn ác của họ thường làm Phật phiền lòng, ngài thường khuyên mọi người nên lấy Tôn giả Ưu Ba Ly làm mô phạm.

Tăng đoàn vốn thanh tịnh và hòa hợp. Nhưng các Tỳ kheo tánh xấu khó sửa đổi cũng có lúc khởi gây kình phi pháp, thầy không nhường tôi, tôi chẳng nhường thầy. Đôi bên hiềm khích làm ảnh hưởng đến sự tu hành của đại chúng và ảnh hưởng đến thanh danh của Tăng đoàn. Mỗi khi ở nơi nào có Tỳ kheo, hoặc Tỳ kheo ni khởi sự tranh cãi, thì đức Phật cần phải cử một vị trưởng lão thượng tọa đến đó giải hòa phân xử. Chọn một người có đủ tư cách ấy, không phải là bậc danh cao đức trọng, chỉ cần yếu là có thể phân minh phải trái, có tài cầm cân công bình là được. Mỗi khi có sự tranh cãi xảy ra ở đâu, đức Phật đều sai Tôn giả Ưu Ba Ly đến trước phân xử. Việc gây gổ ở nước Câu Diệm Di, ở nước Sa Kỳ, Ưu Ba Ly đã từng làm sứ giả hòa bình, như nắng xuân ôn hòa chiếu đến nơi nào thì những khối băng giá ngưng đọng đều tự nhiên chảy ra.

Ưu Ba Ly thường theo Phật, thường xuyên ở tại thành Xá Vệ. Các Tỳ kheo nơi đây rất hòa hợp, vì thường được thân cận với đức Thế Tôn. Một thầy, một đạo như sữa hòa với nước, từ xưa đến nay không hề xảy ra những việc không vui hòa, mè đậu lộn lạo. Ưu Ba Ly hiểu ý Phật, mỗi khi vâng lời Phật đi dàn xếp việc cãi vã, Tôn giả thường có một nguyên tắc "Nơi nào gây gổ chấm dứt ngay nơi ấy". Tôn giả không đem việc gây ở chỗ này đi nói lại chỗ kia, không đem kể xấu người khởi gây cho người khác nghe. Nơi nào thị phi nơi ấy biết. Tôn giả không ưa khai thác rộng việc bất hòa, đã mở những gút mắc của tranh cãi thì không cho lưu dấu vết.

Với tư cách hòa chúng như vậy, thật không hổ là bậc trì giới, là thượng thủ trong Tăng đoàn.

Một hôm, đang trong mùa an cư, đức Phật sai Tôn giả đến nước Sa Kỳ dẹp một nhóm gây nhau, Ưu Ba Ly từ chối không đi, đức Phật hỏi:

- Vì sao ông không đi?

Ưu Ba Ly biết câu chuyện này không có Phật giải hòa không xong, nhưng Tôn giả không tiện yêu cầu, chỉ mượn cớ thoái thác:

- Bạch Thế Tôn! Cái y Tăng già lê của con quá dày, nếu như đi đường gặp mưa ướt không khô, mà mang thêm một y nữa thì không hợp pháp, xin đức Thế Tôn từ bi, phen này đừng sai con đi được không?

Phật nghe xong, suy nghĩ giây lâu. Ngài muốn Ưu Ba Ly đi hóa giải, nên lại hỏi:

- Ông đi phen này mấy hôm trở về?

- Bạch Thế Tôn! Nếu như con phải đi, thì từ Xá Vệ đến nước Sa Kỳ mất hai ngày, ở lại đó hai ngày, trở về cũng mất hai ngày, một chuyến đi về cũng mất sáu ngày.

Đức Phật gật đầu nói:

- Từ nay về sau, trong thời gian an cư, Tỳ kheo giữ trong người hai cái y, được phép trong vòng sáu ngày không phạm.

Vì muốn Ưu Ba Ly đi điều tra việc gây gổ mà đức Phật đã sửa đổi giới điều, chẳng phải là đem pháp luật chìu theo người, mà vì Ưu Ba Ly đã có địa vị trọng yếu như thế nào đối với Phật pháp!

Đức Phật sai Ưu Ba Ly đi điều tra chuyện gây gổ, dẹp tranh cãi, đối với các Tỳ kheo ưa gây, Phật cũng thường bảo Ưu Ba Ly làm pháp Yết ma sám hối cho họ. Trước khi cử hành pháp Yết ma, Tôn giả trịnh trọng bảo mọi người:

- Thưa chư vị Đại đức! Tôi vâng lời Phật, vì các ông hay gây gổ làm các pháp Yết ma, trị tẫn các ông. Lúc ấy, xin các ông đừng sợ hãi, đừng khởi niệm không vui.

Có một số Tỳ kheo nghe tiếng nói uy nghiêm của Ưu Ba Ly đã không dám ở lại nơi đó, đã đi rồi cũng không dám tranh cãi, chẳng dám để cho vị chấp pháp như núi là Ưu Ba Ly làm pháp Yết ma. Do đó, môi trường gây gổ dần dần biến mất. Thật Tôn giả là vị trưởng lão hòa bình khéo dứt gây gổ.
  • 7. HỎI PHẬT VỀ GIỚI
Tôn giả Ưu Ba Ly có địa vị trọng yếu như thế và được tôn xưng là Trì Giới Đệ Nhất, là vì tất cả những vấn đề quan hệ đến giới pháp, Tôn giả thường đến đức Thế Tôn thưa hỏi đối thoại luận bàn, điều ấy có thể thấy ghi lại trong Luật tạng. Vì đó là những mẩu chuyện rời, hoặc là những giới điều khô khan, chúng tôi khó lòng dùng lối viết chuyện diễn tả vào đây. Hiện tại chỉ có thể sưu tập một hai việc, thuật ra đây đủ để biết những việc khác.

Trong chủng tộc Thích Ca thành Ca Tỳ La Vệ, toàn quốc đã quy định luật lệ chung, nếu là người phụ nữ dòng họ Thích, không được kết hôn với người khác ngoài họ Thích. Nếu bất tuân sẽ trị tội nặng.

Lúc ấy có cô gái Hắc Ly Xa dòng họ Thích, tuổi đang thanh xuân, trong lúc mặt hoa dáng nguyệt tròn đầy lại bất hạnh chồng chết sớm, khiến một đời xuân trẻ gặp cảnh cô quả thiệt khó chịu được cảnh sớm tối tịch mịch. Ít lâu sau có một thanh niên thuộc họ khác đến cầu hôn, Hắc Ly Xa đã thuận lòng ưng chịu, nhưng gặp tên em chồng cản trở, muốn chiếm chị dâu làm vợ mình.

Tên này phẩm hạnh không ra gì, nhằm lúc Hắc Ly Xa gặp niềm vui mới, nàng đôi ba phen cự tuyệt không chịu đáp ứng, khiến hắn ta nổi giận thề rằng:

- Mi đã có tình riêng, ta sẽ giết mi cho xem.

Hắn bèn bỏ thuốc mê vào trong rượu khiến Hắc Ly Xa uống nhằm say bất tỉnh. Hắn đánh đập cô thương tích cùng mình và lên quan báo cáo.

- Cô này là vợ tôi, tư thông với người khác họ.

Khi Hắc Ly Xa tỉnh dậy, có miệng không lời, đã mang tội như vậy ắt là bị xử tử. Cô bèn thừa dịp người gác hơ hỏng, chạy trốn đến thành Xá Vệ và theo các Tỳ kheo ni trong thành xuất gia.

Quan quân thành Ca Tỳ La truy nã cô gái khắp nơi không thấy tung tích. Sau nghe tình báo cho biết Hắc Ly Xa hiện đào tẩu ở nước Xá Vệ, họ bèn tức tốc biên thư cho vua Ba Tư Nặc.

"Nước chúng tôi có một nữ tội phạm đã mang tội quốc pháp. Nghe tin cô ta đang đào tỵ ở quý quốc, chúng tôi mong rằng quý quốc giao trả nữ tội phạm ấy lại cho nước chúng tôi. Sau này, nếu có tội phạm của quý quốc trốn sang nước chúng tôi, chúng tôi cũng sẽ giao lại quý quốc xử lý".

Vua Ba Tư Nặc xem thư xong hỏi các quan:

- Hắc Ly Xa thiệt có trốn đến nước ta chăng?

Các quan thưa:

- Khải bẩm đại vương! Hắc Ly Xa quả thật đang trốn tại nước ta, nhưng cô ấy đã theo các Tỳ kheo ni xuất gia. Đại vương đã ban lệnh từ trước nếu ai phạm đến các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni sẽ bị tội nặng. Hiện tại, cô ta đã xuất gia thì đâu có ai dám làm gì được. Xin thỉnh ý đại vương phải dùng biện pháp gì đây?

Vua Ba Tư Nặc suy nghĩ đôi ba phen, rồi biên thư phúc đáp:

"Hắc Ly Xa quả thật có trốn ở nước tôi, nhưng hiện nay đã xuất gia, không thể truy tội. Nếu như việc khác sẽ xin như lời của quý quốc".

Vua quan dòng Thích Ca nhận được hồi âm ấy, đều bừng bừng tức giận. Có một nữ tội nhân mà không trừng trị được thì quốc pháp dùng vào đâu?

Vì một nữ phạm nhân xuất gia khiến cho hai nước gây mầm hiềm khích, Tôn giả Ưu Ba Ly biết được việc ấy, bèn đến hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người đã phạm quốc pháp, chúng ta có thể thâu nạp cho xuất gia không?

- Này Ưu Ba Ly! Quốc pháp hợp lý hay không hợp lý đó là việc của chánh phủ và dân chúng, nếu như đã phạm tội khi chưa được tuyên bố ân xá, tăng đoàn không được làm phép xuất gia!

Vị Tỳ kheo ni thâu nhận Hắc Ly Xa bị đức Thế Tôn quở trách một phen. Điều đó không phải Phật thiếu lòng từ, không cứu tội nhân, nhưng vì tăng đoàn thanh tịnh phạm giới luật thì bị diệt tẫn, còn phạm phép nước phải chịu luật nước xử trị. Phật pháp không thể che chở cho tội nhân. Vì muốn kiện toàn tăng đoàn, để cho giới pháp không xúc phạm quốc pháp, Tôn giả Ưu Ba Ly đã bàn luận vấn đề này với Phật.

Ưu Ba Ly lại có khi thưa hỏi với đức Phật về một vấn đề lý thú:

- Bạch Thế Tôn! Tỳ kheo và Tỳ kheo ni có thể làm mai mối cho nam nữ không?

Đức Phật trả lời:

- Này Ưu Ba Ly! Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đem tâm tình người nam ngỏ với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, cho đến giới thiệu giao bôi một lần, sẽ phạm giới luật, cần phải hối quá.

- Như vậy thì, bạch Thế Tôn! Các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni trong tăng đoàn đối với việc hôn lễ của tín đồ tại gia, phải nên có thái độ thế nào mới đúng?

- Không nên lưu tâm lắm, nếu là hợp pháp, thì có thể đối trước Tam bảo làm lễ chứng minh cho họ.

Giới là ý nghĩa phòng phi chỉ ác, vốn là khuôn phép cho thân tâm, mà vấn đề nam nữ rất dễ gây rắc rối, dễ đem lại phiền não bất an, Tôn giả Ưu Ba Ly trì giới đệ nhất đã thưa thỉnh đức Phật việc này. Trong giới luật đã liên quan đến việc hạn chế tương giao nam nữ rất nhiều.
  • 8. PHÉP THĂM NUÔI BỆNH NHÂN
Đối với bệnh nhân thế nào? Ưu Ba Ly đã một phen xin đức Phật giảng giải tỉ mỉ về vấn đề này.

Khi có bệnh, tuy đang đau ốm nhưng phải thế nào mới hợp giới pháp? Khi thăm nuôi bệnh, phải chăm nom thế nào mới hợp pháp? Ưu Ba Ly rất quan tâm đến việc này.

Có lúc, Tôn giả theo sau đức Thế Tôn, thấy một vị Tỳ kheo bệnh nằm nơi ô uế không thể tự ngồi dậy, lại một lần khác Tôn giả thấy một Tỳ kheo bệnh nằm bên đường đi, các Tỳ kheo khác thấy rõ ràng nhưng vì đức Phật chưa chế giới khán bệnh nên thầy chỉ nhiễu quanh người bệnh rồi bỏ đi, không chăm nom. Lại có những Tỳ kheo khi mang bệnh cho rằng không cần trì giới nên tự ý buông lung. Vì những chuyện như vậy, Tôn giả bèn đưa vấn đề ra thỉnh vấn đức Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như có đại đức Tỳ kheo bệnh, thì nên chăm sóc như thế nào?

- Này Ưu Ba Ly! Khi có Tỳ kheo đại đức bệnh, không nên để nằm tại phòng thất nhỏ hẹp, nên để nằm ở phòng chính thoáng khí sáng sủa phía ngoài. Đệ tử của vị ấy nên thường hầu hạ hai bên, quét dọn trong phòng, cắm hoa đốt hương, tùy thời theo dõi hơi thở của thầy. Nếu các tỳ kheo đồng học đến thăm, nên rót nước mời trà. Nếu khách hỏi điều gì, người bệnh muốn đáp nhưng sức yếu không có tinh thần giảng giải, thị giả nên trả lời thay. Khi hỏi thăm an ủi nên tùy thuận thuyết pháp, vì người bệnh phục vụ mọi thứ, cung cấp đầy đủ những điều cần yếu của người bệnh về ăn uống, thuốc men. Nếu có tín chúng tại gia đến thăm bệnh, nên mời ngồi ở sau người bệnh, và vì họ thuyết pháp, nếu có cúng dường nên niệm Phật chú nguyện tiếp thọ. Nếu người bệnh muốn đại, tiểu tiện, người thăm bệnh nên lè lẹ lui ra. Trong phòng trừ người thị giả nuôi bệnh, ngoài cửa phòng cũng cần có người, không nên để người đột nhập.

Này Ưu Ba Ly! Tỳ kheo đại đức bệnh nên theo như trên mà khán bệnh.

- Bạch Thế Tôn! Tỳ kheo tiểu đức khi bệnh, chúng con đến chăm sóc thăm nom như thế nào?

- Này Ưu Ba Ly! Tỳ kheo nhỏ nếu đau ốm, không nên để nằm nơi phòng chính, đừng để hơi bệnh ô uế bay đến các phòng khác. Sư trưởng hoặc đệ tử của người đó đều nên đến chăm sóc. Nếu như không có đệ tử hay sư trưởng, các vị đồng trụ xứ nên cử người khán bệnh, đôi ba người thay phiên nhau chăm sóc. Bệnh nhân nếu cần thuốc men ăn uống, người khán bệnh nên cung cấp đầy đủ, nếu không có đầy đủ thuốc và vật thực thì đại chúng nên cấp cho, như đại chúng cũng không có, nên lấy những y bát đáng giá của người bệnh mà đổi lấy thuốc men, vật thực. Nếu như người bệnh tiếc rẻ không muốn đổi, nên bạch với vị trưởng lão đại đức mềm mỏng thuyết pháp để người bệnh vui lòng xả bỏ vật chất, rồi sau mới đem đổi. Nếu không có cách gì đổi chác, đại chúng nên đi xin về nuôi người bệnh. Nếu không xin được thì lựa thức ăn thượng vị của chúng tăng đem cho, hoặc tăng chúng không có, người khán bệnh nên đem theo hai bát vào làng xóm khất thực, lựa thức ăn ngon cho người bệnh. Này Ưu Ba Ly! Khi chăm sóc bệnh cho Tỳ kheo nhỏ nên làm như thế.

Những vấn đề liên quan đến Tỳ kheo có bệnh, cách ăn uống, thuốc thang quy định thế nào, cho đến sau khi bệnh nhân viên tịch xử lý những vật còn lại, Tôn giả Ưu Ba Ly đều thưa hỏi Phật. Tôn giả đã lưu tâm tỉ mỉ đến người bệnh, chúng ta thấy rõ tinh thần từ bi vì người của Tôn giả, và đó cũng là tinh thần trì giới.

Một vị Tỳ kheo xuất gia, cắt ái từ thân, xa cách làng xóm gia đình, gia nhập tăng đoàn, mà lúc đau bệnh nếu không ai săn sóc sẽ rất khổ sở. Nhưng từ khi Ưu Ba Ly thưa hỏi đức Phật về cách khán bệnh thì quy củ ổn định, khi bệnh không còn bất ổn nữa. Trong tám phước điền thì khán bệnh là phước điền đệ nhất, nào là sư phụ, sư huynh, sư đệ, đệ tử đều chăm lo cho bệnh nhân. Qua câu chuyện giữa đức Phật và Ưu Ba Ly, chúng ta thấy vấn đề ấy rất quan trọng đối với tăng chúng.
  • 9. PHÁ VÀ HÒA HỢP TĂNG
Ưu Ba Ly đứng trên lập trường trì giới, nên thường không quan tâm đến vấn đề pháp chế, vấn đề nam nữ, vấn đề lão bệnh, nhưng Tôn giả quan tâm nhất là vấn đề phá tăng và hòa tăng.

Trong tăng đoàn lục hòa, hòa hợp về giới luật mới có thể đồng sống chung, cho nên một vị Tỳ kheo trì giới đặc biệt để ý đến vấn đề tăng đoàn hòa hợp.

Một hôm, Phật ở tại thành Xá Vệ, Ưu Ba Ly nghĩ đến vấn đề đoàn kết của chúng tăng, Tôn giả bèn đến chỗ của đức Phật, cúi đầu đảnh lễ và thưa hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Con xin hỏi về thế nào là phá hòa hợp tăng?

- Này Ưu Ba Ly! Đức Phật ngừng một chút rồi mới nói: Nếu có vị Tỳ kheo hiểu nghĩa lý sâu xa đúng pháp đúng luật, thì các đệ tử của vị ấy dù tại gia hay xuất gia đều phải lễ bái, cung kính, tùy thuận theo lời chỉ dạy của vị ấy. Nếu có người khinh thị, đàm tiếu, chê bai, hủy báng đó là phá hòa hợp tăng. Nếu các tín đồ tại gia, đối với chư tăng phân chia nhân ngã, hoặc khiêu khích gây mầm chia rẽ trong tăng đoàn, hoặc làm nhiều chuyện rối rắm, gọi đó là phá hòa hợp tăng. Hoặc như quan quân chính quyền cố dùng quyền thế mà can thiệp vào nội bộ tự viện, xua đuổi tăng ni, gọi là phá hòa hợp tăng.

- Bạch Thế Tôn! Người phá hòa hợp tăng bị tội ra sao?

- Ưu Ba Ly! Tội phá hòa hợp tăng phải đọa địa ngục, chịu khổ trong một kiếp.

Ưu Ba Ly lại hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là hòa hợp tăng?

- Này Ưu Ba Ly! Lễ bái cung kính tùy thuận theo vị Tỳ kheo như pháp, như luật, và có thể phát tâm hỗ trợ chúng tăng, khen ngợi chúng tăng, thì gọi là hòa hợp tăng.

- Như vậy thì người hòa hợp tăng được những công đức gì?

- Công đức của người ấy được sanh lên cõi trời thọ hưởng khoái lạc trong một kiếp.

Công và tội của hòa tăng và phá tăng, không phải Ưu Ba Ly không biết, nhưng Tôn giả muốn chính kim khẩu Phật nói ra điều đó để tăng thêm sự quan trọng và sức mạnh. Tôn giả vốn là một người khiêm tốn, giữ luật, rành rẽ nghĩa lý, tác phong của Tôn giả, thái độ của Tôn giả khiến chúng ta phát khởi lòng kỉnh ái vô lượng.
  • 10. KẾT TẬP TẠNG LUẬT
Bình thường Tôn giả Ưu Ba Ly xử lý những rắc rối trong tăng đoàn, thường làm pháp Yết ma sám hối cho các Tỳ kheo phạm giới, thường luận bàn với đức Phật về những chỗ vi tế trong giới luật. Lâu dần, Tôn giả thành một bậc danh cao đức trọng, về phương diện giới luật, Tôn giả có đầy đủ quyền hạn. Đức Phật tuyên bố Tôn giả là người Trì giới đệ nhất, và các vị Tỳ kheo trong tăng đoàn cũng công nhận như vậy.

Có các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, nếu không hiểu một vài điểm trong giới luật, không tiện thưa hỏi Phật, thảy đều thỉnh giáo với Ưu Ba Ly. Tôn giả như một cổ đại hồng chung trầm mặc, bình thường ít nói, nhưng gặp việc cũng phát ra ảnh hưởng lớn.

Một đời của Ưu Ba Ly, vì Tôn giả là vị Tỳ kheo trì giới, rất ít giao thiệp với kẻ thế tục, không có những hoạt động ngoài xã hội. Giới luật được thành lập vì tăng đoàn nên sanh hoạt của Ưu Ba Ly xưa nay không rời khỏi tăng đoàn. Những ký sự liên quan đến Tôn giả, chúng ta cũng chỉ có thể giới hạn trong tăng đoàn.

Khi đức Phật nhập Niết Bàn, Tôn giả cũng xấp xỉ bảy mươi tuổi. Các vị đại đệ tử vân tập trong hang Tất Bát La, do Đại Ca Diếp làm thủ tọa, đã đề cử A Nan kết tập tạng Kinh, Ưu Ba Ly kết tập tạng Luật, nhưng đang khi đại chúng cung thỉnh, Tôn giả đã khiêm tốn từ chối:

- Tôi không dám đảm nhận trách nhiệm lớn lao, xin chư vị hãy mời trưởng lão khác.

Tôn giả Đại Ca Diếp ủng hộ Ưu Ba Ly, thấy từ chối, bèn nói:

- Tôn giả Ưu Ba Ly! Xin đừng khách sáo. Tuy hôm nay ngồi tại tòa có năm trăm người đều là Tỳ kheo trưởng lão, nhưng ngay từ ban đầu, đức Thế Tôn đã thọ ký Tôn giả thành tựu được mười bốn pháp, trừ đức Phật ra, trong tăng đoàn ngài là người trì giới đệ nhất, tạng Luật hiện tại do Tôn giả tụng ra đấy!

Ưu Ba Ly nhận lời, và trước tiên đưa ra nhiều nguyên tắc, yêu cầu đại chúng cùng tuân theo, rồi sau mới tụng luật.

Khi Tôn giả lên tòa, mỗi mỗi điều luật đều nói rõ giới này Phật nói lúc nào, ở đâu, nói với người nào, do nguyên nhân gì mà chế giới, và phạm giới ấy có tội, không tội ra sao. Các vị trưởng lão tham gia cuộc kết tập, đối với sự ghi nhớ tỉ mỉ của Tôn giả đều khâm phục sát đất.

Một vị xuất thân từ dòng hạ tiện, lại có địa vị cao tột như thế trong tăng đoàn, thiệt chẳng phải là điều ngẫu nhiên. Sau hết, vì Tôn giả đã chủ trì buổi kết tập Thánh điển Luật tạng, một trong ba tạng, nên được hưởng thọ sự kính ngưỡng bái phục của muôn đời sau, khiến cho các dân tộc khổ nạn thêm tín tâm mạnh mẽ, khiến cho ánh sáng bình đẳng của Phật giáo đã chiếu sáng ngàn vạn đời cho tất cả chúng sanh.

- HẾT -
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.30 khách